Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bồi DƯỠNG NĂNG lực CÔNG tác của đội NGŨ cán bộ CHỦ CHỐT cấp xã ở TỈNH bạc LIÊU HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.34 KB, 109 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Ban chấp hành Trung ương

BCHTW

Cán bộ chủ chốt cấp xã

CBCCCX

Chủ nghĩa tư bản

CNTB

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH-HĐH

Đảng Cộng Sản Việt Nam

ĐCSVN

Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

ĐTNCS Hồ Chí Minh

Tỉnh Bạc Liêu



TBL

Ủy ban nhân dân

UBND

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

UB.MTTQVN

Xã hội Chủ nghĩa

XHCN

3


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

5

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CÔNG
TÁC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP
XÃ Ở TỈNH BẠC LIÊU


13

1.1

Năng lực công tác và một số vấn đề về bồi duỡng
năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
xã ở tỉnh Bạc Liêu

13

1.2

Thực trạng và một số kinh nghiệm bồi dưỡng,
năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
xã ở tỉnh Bạc Liêu

46

Chương2

YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG
CƯỜNG BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CÔNG TÁC
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ
Ở TỈNH BẠC LIÊU HIỆN NAY

62

2.1


Sự phát triển của tình hình nhiệm vụ và yêu cầu
bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay

62

2.2

Những giải pháp tăng cường bồi dưỡng năng lực
công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
tỉnh Bạc Liêu hiện nay

68

KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

92

PHỤ LỤC

97

4


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành công của Cách mạng gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ ta, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng. Chính vì vậy việc bồi dưỡng năng lực công tác cho cán bộ là
công việc gốc của Đảng ta.
Cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là một cấp trong hệ thống
hành chính bốn cấp của Nhà nước Việt Nam, là nền tảng của hệ thống chính trị.
Cấp xã giữ vị trí vai trò hết sức quan trọng, là nơi trực tiếp thực hiện đường lối,
chính sách, pháp luật và nhiệm vụ của cấp trên giao, là cấp chính quyền trực tiếp
chăm lo đến đời sống của nhân dân, là cầu nối giữa Nhà nước với nhân dân. Đội
ngũ CBCCCX tỉnh Bạc Liêu có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc
quán triệt, cụ thể hóa và triển khai tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quyết
định của cấp ủy, Ủy ban nhân dân cấp trên; trực tiếp củng cố, tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng với quần chúng ở cơ sở; xây dựng cấp ủy, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở xã, vững mạnh toàn diện…
Nhận thức rõ điều đó, trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy
tỉnh Bạc Liêu mà trực tiếp thường xuyên là các huyện ủy, thành ủy, công tác bồi
dưỡng năng lực công tác của đội ngũ CBCCCX đã quán triệt sâu sắc đường lối,
quan điểm của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của các cấp, vận dụng đúng đắn, sáng
tạo, phù hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ của từng cơ sở. Nhờ đó đã góp
phần nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực và hiệu quả
công tác từng bước đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
Tuy nhiên, công tác bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ CBCCCX
trong những năm qua vẫn còn những hạn chế bất cập, cả trong nhận thức, trong
lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Một số cấp ủy, cán bộ chủ trì chưa nhận
thức đầy đủ, đúng đắn về vị trí, vai trò của đội ngũ CBCCCX và mục tiêu, nội
dung, biện pháp bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ CBCCCX; lúng túng
trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện, dẫn đến trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý
của đội ngũ CBCCCX còn nhiều mặt hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu thực

hiện chức trách nhiệm vụ được giao.

5


Hiện nay, trước yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn tỉnh Bạc
Liêu có bước phát triển mới, đặt ra yêu cầu cao phải xây dựng hệ thống chính trị
cấp xã vững mạnh. Tình hình đó đã và đang trực tiếp đặt ra yêu cầu ngày càng
cao đối với công tác bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ CBCCCX tỉnh
Bạc Liêu.
Từ những lý do trên tác giả lựa chọn vấn đề: “Bồi dưỡng năng lực công
tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay” làm đề tài
luận văn khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng và chính quyền Nhà
nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, đồng thời mang tính
cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề cán bộ nói chung và bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán
bộ nói riêng trong những năm qua đã được nhiều nhà lãnh đạo, các cấp ủy Đảng
và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau;
liên quan trực tiếp tới đề tài gồm các nhóm công trình tiêu biểu sau đây:
* Nhóm các công trình về xây dựng đội ngũ cán bộ
PGS,TS Nguyễn Phú Trọng “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước”, đề tài khoa học cấp nhà nước giai đoạn 1996-2000, mã số KHXH05.03.
Cuốn sách đã làm rõ những vấn đề lý luận và phương pháp luận về nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Trên cơ
sở đó đưa ra những quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng cả hiện tại và tương lai; luận giải những

yêu cầu về chất lượng đội ngũ cán bộ trong hoàn cảnh mới của đất nước và thời
đại. Về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tác giả chỉ rõ phải căn cứ vào tiêu
chuẩn cán bộ, chất lượng, hiệu quả công việc thực tế, có tính đến môi trường và
điều kiện công tác, mức độ tín nhiệm của quần chúng trong cơ quan và nhân dân
nơi cán bộ sinh sống; trách nhiệm xây dựng đội ngũ cán bộ cấp ủy tổ chức Đảng
và các tổ chức trong hệ thống chính trị.

6


PGS,TS Trần Xuân Sầm, “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh
đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới” , đề tài khoa học cấp Nhà nước
giai đọan 1991-1995, mã số KX-05,11.
Nguyễn Mậu Dựng, “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng bộ các
cấp ở Tây Nguyên hiện nay”, Luận án tiến sĩ lịch sử (1996), Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
Nguyễn Hồng Tân, “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
quận ở thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH”, Luận Văn thạc
sĩ lịch sử (2000), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
TS. Nguyễn Văn Sáu, “Nâng cao tổ chức họat động thực tiễn của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện ở phía Bắc nước ta trong tình hình hiện nay”, đề tài
khoa học cấp bộ, năm 2001.
Nguyễn Thái Sơn, “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh vùng
đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước”, luận án
tiến sĩ lịch sử (2002), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Nguyễn Quốc Tuấn, “Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện Nghị quyết
đảng đối với cán bộ chủ chốt cấp huyện ở đồng bằng sông Cửu Long” Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2004.
Vũ Văn Hiền: “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp
ứng yêu cầu của quá trình CNH,HĐH đất nước”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005.

Phạm Văn Dũng, “7 nhóm giải pháp nâng cao chất lượng công tác cán
bộ ở Tiền Giang”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5/2012.
Vũ Thị Thủy, “Những khó khăn, bất cập và giải pháp xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở” Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5/2013.
Lê Đình Chếch: “Về nhà nước xã hội chủ nghĩa và công tác cán bộ chính
quyền cấp xã ở Hải Hưng”, Luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội, 1994.
Nguyễn Thị Hải: “Về đổi mới tổ chức và họat động của chính quyền cấp
xã ở Thái Bình trong điều kiện cải cách nền hành chính nhà nước”, Hà Nội,
2001.
Thạc sĩ Phạm Đức Thắng: “Mấy suy nghĩ về việc củng cố tổ chức Đảng
và chính quyền cấp xã hiện nay”, Thông tin Chính trị học, số8, 2001.

7


Phạm Công Khâm, “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nông thôn
đồng bằng sông Cửu Long”, Luận án tiến sĩ Lịch sử, H.2002
Tiến sĩ Nguyễn Văn Sáu và giáo sư Hồ Văn Thông chủ biên: “Thực hiện
quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã nước ta hiện nay”, Học viện
chính trị Quốc gia Hồ Chi Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
Phạm Thúy Vân, “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở thành
phố Cần Thơ hiện nay – thực trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sĩ Khoa học
2005.
Võ Công Khôi, “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị
trấn trong giai đọan hiện nay” Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 3-2005.
Nguyễn Duy Hùng: “Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây dựng đội
ngũ nữ cán bộ phường hiện nay”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2007.
Nguyễn Thái Hòa, “Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer ở cơ
sở xã, phường, thị trấn khu vực Tây Nam Bộ” Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2011.

Phúc Sơn (2012), “Giải pháp xây dựng đội ngũ cấp xã đạt chuẩn”, Tạp
chí xây dựng Đảng số 5/2012.
Trần Duy Hưng (2012), “Trẻ hóa đội ngũ cán bộ cấp xã tại Nam Định”,
Tạp chí xây dựng Đảng, số 5/2012.
Vũ Thị Thủy (2013), “Những khó khăn bất cập và giải pháp xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở” Tạp chí xây dựng Đảng, số 5/2013.
Mỗi công trình khoa học, mỗi đề tài, luận văn, luận án tiếp cận nghiên cứu
từ nhiều góc độ khác nhau, đã tập trung nghiên cứu, luận giải làm sáng tỏ những
vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ theo từng phạm
vi, cấp độ nghiên cứu; đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Các công trình nghiên cứu
đều cho rằng để nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ phải tiến hành
toàn diện, đồng bộ nhiều nội dung, vận dụng nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng
khác nhau, phải tiến hành thường xuyên, liên tục, có nề nếp, đổi mới nội dung,
chương trình, hình thức, phương pháp đào tạo bồi dưỡng; phát huy tốt vai trò
của các tổ chức, các lực lượng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; kết hợp chặt chẽ
giữa đào tạo, bồi dưỡng tại trường với đào tạo bồi dưỡng tại cơ quan, đơn vị và

8


tự bồi dưỡng của cán bộ, đồng thời thực hiện tốt các công tác chính sách đối với
đội ngũ cán bộ.
*Nhóm các công trình về bồi dưỡng cán bộ
Nguyễn Đăng Quế (2013), “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở ở Tây
Nguyên”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9/2013.
Nguyễn Quốc Minh “ Bồi dưỡng năng lực công tác Đảng, công tác chính
trị của đội ngũ chính trị viên ở Binh đoàn Tây Nguyên hiện nay”, Luận án thạc
sĩ xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, Hà Nội 2008
Bùi Thanh Cao “ Bồi dưỡng năng lực thực hành công tác tư tưởng cho

học viên đào tạo chính trị viên đại đội ở Học viện chính trị quân sự hiện nay”,
Luận án thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, Hà Nội 2008
Trần Xuân Kỳ “ Bồi dưỡng năng lực tiến hành công tác tư tưởng cho học
viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường sỹ quan lục quan 1 hiện
nay”, Luận án thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, Hà Nội 2009
Nguyễn Văn Tượng “ Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học cho học
viên đào tạo giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở nhà trường quân đội hiện
nay”, Luận án thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, Hà Nội 2010
Lê Bá Thiệu “ Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh cho chức sắc
chức việc tôn giáo trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn hiện nay”, Luận án
thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, Hà Nội 2011
Lê Minh Hoàng “ Bồi dưỡng nhân tố chính trị tinh thần cho cán bộ,
chiến sĩ của sư đoàn phòng không Hà Nội đáp ứng yêu cầu chiến tranh công
nghệ cao hiện nay” Luận án thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước,
Hà Nội 2012
Vũ Văn Khải “ Bồi dưỡng phương pháp tiến hành công tác Đảng, công
tác chính trị cho học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường sĩ
quan lục quân 1 hiện nay” Luận án thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền Nhà
nước, Hà Nội 2013
Lê Tất Lam “ Bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ
cấp uỷ viên thuộc đảng bộ khoa giáo viên ở Trường sỹ quan lục quân 2 hiện
nay” Luận án thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, Hà Nội 2013

9


Nguyễn Trung Kiên “ Bồi dưỡng năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết
của đội ngũ cán bộ chủ trì cấp phân đội ở binh đoàn Quyết thắng hiện nay”
Luận án thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, Hà Nội 2013
Trần Sinh Huy “Bồi dưỡng năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ ở

phòng chính trị các sư đoàn bộ binh Quân đội Nhân dân Việt Nam giai đọan
hiện nay”. Luận án tiến sĩ chính trị học, Học viện Chính trị Hà Nội , 2013
Đỗ Minh Cương, “Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ”, Tạp chí xây
dựng Đảng, số 9/2013.
Đặng Hoài Thiêm “ Bồi dưỡng năng lực xây dựng Đảng của đội ngũ bí
thư chi bộ các đơn vị quản lí học viên ở Học viện Hậu cần hiện nay” Luận án
thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, Hà Nội 2014
Trần Minh Tùng “ Bồi dưỡng phong cách lãnh đạo của đội ngũ bí thư
đảng uỷ cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay” Luận án thạc sĩ xây dựng Đảng và
chính quyền Nhà nước, Hà Nội 2014
Những công trình trên ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đã đề cập khá
sâu sắc về vai trò của năng lực và bồi dưỡng năng lực cán bộ nói chung. Đó là
những tài liệu có giá trị để tác giả nghiên cứu kế thừa trong giải quyết các vấn
đề nghiên cứu của đề tài. Song do mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi
nghiên cứu của mỗi công trình khác nhau, nên những công trình trên chưa đề
cập đến việc bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
tỉnh Bạc Liêu một cách cơ bản, có hệ thống với tính chất của một đề tài khoa
học độc lập.
Vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề nghiên cứu “ Bồi dưỡng năng lực công
tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay”, không trùng
lặp với các công trình khoa học đã được nghiệm thu, công bố trong những năm
gần đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn và đề xuất
những giải pháp tăng cường bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

10



- Làm rõ những vấn đề cơ bản về năng lực công tác và bồi dưỡng năng
lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã tỉnh Bạc Liêu.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh
Bạc Liêu.
- Đề xuất những giải pháp tăng cường, bồi dưỡng năng lực công tác của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Bồi dưỡng năng lực công tác của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã thuộc
6/7 huyện, thành phố ở tỉnh Bạc Liêu, các số liệu, tư liệu điều tra, khảo sát từ
năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài.
* Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở hệ thống các quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam, về cán bộ và công tác bồi dưỡng cán bộ.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn hoạt động bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ CBCCCX ở
tỉnh Bạc Liêu hiện nay; các báo cáo tổng kết của tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh
Bạc Liêu; Thành ủy, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Bạc Liêu, ủy ban
nhân dân các huyện ở tỉnh Bạc Liêu, những tư liệu, số liệu điều tra; khảo sát của
tác giả ở các xã thuộc tỉnh Bạc Liêu.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, luận văn sử

dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên
ngành, trong đó coi trọng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử,
điều tra khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài

11


Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
Tỉnh ủy, thành ủy, Đảng ủy xã, Ủy ban nhân dân xã; các Đoàn thể chính trị xã
hội các cấp trong bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
xã ở tỉnh Bạc Liêu.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và học
tập về công tác cán bộ, công tác xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị
cơ sở ở các trung tâm bồi dưỡng cán bộ cấp huyện, thành phố Bạc Liêu và
trường đào tạo cán bộ của tỉnh Bạc Liêu.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết lụân, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.

12


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CÔNG TÁC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP XÃ Ở TỈNH BẠC LIÊU
1.1. Năng lực công tác và những vấn đề cơ bản về bồi dưỡng năng lực
công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu
1.1.1. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã và năng lực công tác của đội ngũ

cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu
* Khái quát về cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu
Tỉnh Bạc Liêu được thành lập ngày 20 tháng 12 năm 1899, là một tỉnh
thuộc duyên hải vùng đồng bằng sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà Mau,
miền đất cực Nam của Việt Nam. Phía Bắc giáp với Hậu Giang, phía đông và
đông bắc giáp với Sóc Trăng, phía Tây Nam giáp với Cà mau, phía Tây Bắc
giáp với Kiên Giang, phía Đông Nam giáp với biển Đông. Diện tích đất tự nhiên
của tỉnh là 2. 570km2, chiếm 0, 8% diện tích cả nước và đứng thứ 7 trong khu
vực đồng bằng sông Cửu Long. Bạc Liêu có địa hình khá bằng phẳng chủ yếu là
đồng bằng, sông rạch và kênh đào chằng chịt. Bạc Liêu nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới gió mùa, thời tiết chia thành hai mua rõ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng
4, tháng 5 đến tháng 10, tháng 11 và mùa khô bắt đầu tháng 10, tháng 11 năm
trước đến tháng 4, tháng 5 năm sau. Nhiệt độ thấp nhất trong năm là 21 0C, cao
nhất là 360C. Bạc Liêu thuộc hệ sinh thái rừng ngập mặn, chủ yếu là rừng tràm,
chà là, giá, cóc. . . Bên dưới là thảm thực vật gồm cỏ và các loại dây leo. Rừng
Bạc Liêu có 104 loài thực vật, 10 loài thú nhỏ, 8 loài bò sát
Bạc Liêu có tài nguyên biển khá dồi dào với chiều dài bờ biển 56km, diện
tích vùng biển là 4 vạn km 2, động vật biển gồm 661 loài cá, trong đó nhiều loại
có giá trị cao, trữ lượng lớn (800 ngàn tấn), có thể đánh bắt 100 tấn mỗi năm…
Bờ biển thấp và bằng phẳng rất thích hợp để phát triển nghề làm muối, trồng
trọt, nuôi trồng thủy hải sản. Hàng năm, sự bồi lấn biển ở Bạc Liêu ngày một
tăng. Đây là điều kiện lý tưởng cho phát triển thêm quỹ đất, đồng thời là yếu tố
quan trọng để phát triển kinh tế biển. Thế mạnh du lịch của Bạc Liêu là du lịch
sinh thái, du lịch biển với những cảnh quan thiên nhiên độc đáo như vườn chim,
vườn nhãn…đồng thời với những di tích lịch sử - văn hóa như: tháp cổ Vĩnh

13


Hưng, đồng lịch sử Ngọc Nạng, đền thờ chủ tịch HCM, nhà lưu niệm cố nhạc sĩ

Cao Văn Lầu, hệ thống đình, chùa…sự hấp dẫn của du lịch Bạc Liêu còn ở
những nét độc đáo trong ẩm thực, trang phục, lễ hội
Với những lợi thế về thiên nhiên, Bạc Liêu có nhiều tiềm năng để phát
triển kinh tế biển và nông nghiệp, dịch vụ tổng hợp và du lịch
Dân số Bạc Liêu (tính đến năm 2011) là 873.300 người, mật độ dân cư
trung bình là 354 người/km 2. Trong đó, dân số sống ở thành thị đạt 234.700
người
Dân số ở nông thôn đạt 638.600 người. Phần lớn đồng bào trong tỉnh là
người Việt, người Khơ me chiếm 4, 7%,người Hoa chiếm 3, 3% và người Chăm.
Đồng bào trong tỉnh chủ yếu theo các tôn giáo: Phật giáo, Thiên Chúa giáo
Về hành chính:Qua nhiều lần chia tách sát nhập, hiện nay tỉnh Bạc Liêu 7
đơn vị hành chính cấp huyện, 63 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó gồm 10
phường, 53 xã; 3/7 đơn vị hành chính cấp huyện có đường bờ biển
- Xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu
Xã, phường, thị trấn tỉnh Bạc Liêu là đơn vị hành chính lãnh thổ cấp cơ
sở, ở đó có những cộng đồng dân cư liên kết với nhau trong sinh hoạt vật chất và
tinh thần trên địa bàn cố định; có hệ thống tổ chức hành chính ổn định hoạt động
theo Hiến pháp và pháp luật. Trong xã bao gồm các làng, xóm, thôn, bản, ấp,
buôn; phường chia thành khóm, tổ dân phố; thị trấn chia thành ấp.
Các xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu có các đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, về chính trị
Xã, phường, thị trấn (cấp xã) tỉnh Bạc Liêu là đơn vị hành chính cuối
cùng trong hệ thống hành chính Nhà nước, là nơi trực tiếp thực hiện mọi nhiệm
vụ cụ thể về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng – an ninh.
Đồng thời, cũng là nơi khai thác hiệu quả mọi tiềm năng phục vụ cho xây dựng
và củng cố nền quốc phòng toàn dân, gắn thế trận quốc phòng toàn dân với thế
trận an ninh nhân dân. Cấp xã luôn giữ vai trò quyết định trong việc đưa mọi
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống
Hiện nay, hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu được tổ chức rộng
khắp, khá chặt chẽ, hoạt động ngày càng có hiệu lực, hiệu quả. Đứng đầu cấp xã

là chủ tịch UBND cấp xã do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu ra. Hội đồng nhân

14


dân cấp xã được cử tri cấp xã bầu ra 5 năm một lần, theo nguyên tắc phổ thông
đầu phiếu, dân chủ, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Bên cạnh Chủ tịch, có phó Chủ
tịch phụ trách một số việc được giao. Bộ máy làm việc của cấp xã gồm có các
ban: Ban chỉ huy quân sự, Công an, tư pháp, tài chính, thương binh – xã hội, văn
hóa…với các trưởng, phó ban và một số nhân viên. Cán bộ, công chức cấp xã
hưởng lương theo chế độ bằng cấp và ngạch bậc do Nhà nước quy định. Ngoài
bộ máy chính quyền còn có các tổ chức đoàn thể, xã hội đặt dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của Đảng ủy như: Đoàn Thanh niên cộng sản HCM, Hội nông dân, Hội
phụ nữ, Hội cựu chiến binh, vv,…
Hệ thống chính trị cấp xã có trách nhiệm:Tổ chức và vận động nhân dân
thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước ở cơ sở;
tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; huy
động mọi khả năng ở cơ sở địa phương phát triển kinh tế, xã hội và giữ vững ổn
định chính trị - xã hội để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Những năm gần đây, hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu không
ngừng được xây dựng, củng cố và đã hoàn thành khá tốt những chức năng,
nhiệm vụ được xác định trong các văn bản pháp lý. Song quá trình hoạt động
còn gặp không ít khó khăn, về cơ bản cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu vẫn còn nghèo nàn,
lạc hậu, đời sống kinh tế và dân chí vẫn còn thấp; chức năng, nhiệm vụ, phương
thức hoạt động của một số tổ chức trong hệ thống chính trị ở một số cơ sở chưa
rõ ràng; không tổ chức tập hợp được nhân dân, còn để xảy ra tham nhũng tiêu
cực làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, trình độ đội ngũ cán
bộ, công chức còn thấp chưa tương xứng với yêu cầu thực hiện chức trách,
nhiệm vụ

Thứ hai, về kinh tế - văn hóa – xã hội
Do điều kiện địa lý tự nhiên và tổ chức hành chính, hiện nay cấp xã ở tỉnh
Bạc Liêu hình thành 3 vùng rõ rệt: xã vùng duyên hải, xã vùng đồng bằng (thuần
nông) và phường thị trấn. Theo đó, việc sản xuất, phát triển kinh tế ở các xã,
phường, thị trấn không thuần nhất. Các xã vùng duyên hải chủ yếu làm kinh tế
biển, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản, làm muối, trồng rừng, dịch vụ du lịch
sinh thái,…các xã đồng bằng phát triển kinh tế chủ yếu trồng lúa, cây trái…Các

15


phường thị trấn chủ yếu là kinh tế chế biến, kinh doanh dịch vụ và nghề thủ
công.
Trong sự nghiệp đổi mới kinh tế ở các xã, phường, thị trấn tỉnh Bạc liêu
phát triển khá mạnh về số lượng, quy mô, song chủ yếu vẫn là loại hình kinh tế
sản xuất nhỏ, hộ gia đình, dịch vụ và nghề thủ công, chưa chuyển mạnh sang cơ
chế thị trường; kinh tế - xã hội giữa các xã, phường, thị trấn ở thành phố, thị xã
còn có sự chênh lệch lớn với các xã vùng sâu, vùng xa.
Về xã hội, cấp xã là địa bàn cư trú của một bộ phận nhân dân, có tính kết
cấu bền vững trong sinh hoạt cộng đồng, dòng họ, phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, tâm thức khá đồng nhất. Song về mặt lịch sự, vùng đất Bạc Liêu hình
thành trên 200 năm. Do điều kiện đất đai và cấu tạo dân cư buổi đầu, Bạc Liêu
không giống các tỉnh miền Trung, miền Bắc. Dân cư không hình thành từ các
“ lũy tre làng”, “cha truyền con nối”. Dân cư Bạc Liêu đa số là dân “xiêu tán”
nghèo khổ “tha hương cầu thực” Họ định cư rải rác trên những gò đất cao, trên
các bờ sông. Người Kinh, Hoa, Khmer ở đan xen nhau, luôn tương trợ, đoàn kết
khi hoạn nạn, chân thành cởi mở, thích “làm ăn lớn”, phong cách ứng xử người
dân Bạc Liêu mang tính cách nông dân thôn dã chất phát, bộc trực.
Những năm gần đây đời sống văn hóa tinh thần của các xã, phường, thị
trấn có sự cải thiện, phát triển rõ rệt. Đến nay các xã, phường, thị trấn đã hoàn

thành phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ. Đời sống văn hóa ở cấp xã từng
bước được nâng cao, văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc được giữ
gìn, phát huy. Các dịch bệnh cơ bản được ngăn chặn, đẩy lùi, việc khám chữa
bệnh cho người nghèo, đồng bào dân tộc được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, chất lượng giáo dục và đào tạo ở các xã phường, thị trấn còn
thấp, công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào ở các xã vùng sâu, vùng xa còn
nhiều khó khăn, ở một số xã, bản sắc tốt đẹp trong văn hóa của các dân tộc đang
bị mai một. Một số tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng phát triển
Thứ ba, về quốc phòng – an ninh
Tiềm lực và thế lực quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ở các xã,
phường, thị trấn trong tỉnh được củng cố tăng cường, tình hình an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội ở cơ sở cơ bản ổn định nhưng chưa thực hiện vững chắc.
Hiện nay, ý thức trách nhiệm, tình hình hiểu biết và nhận thức về nghĩa vụ của

16


mỗi công dân đối với nhiệm vụ bảo về Tổ Quốc được nâng lên. Cơ chế quản lý
công tác quốc phòng, an ninh ở cấp xã đã được vận dụng sáng tạo và ngày càng
phát huy hiệu lực. Lực lượng dân quân tự vệ và an ninh cơ sở thường xuyên
được củng cố kiện toàn. Hệ thống làng xã, (khu phố) và cụm chiến đấu được
hình thành, từng bước được xây dựng vững chắc. Công tác tuyển chọn và gọi
công dân nhập ngũ, quản lý, huấn luyện lực lượng dự bị động viên đã được thực
hiện có nền nếp. Các xã, phường, thị trấn đã thực hiện ngày càng tốt việc quản
lý các đối tượng, ngăn ngừa tệ nạn xã hội, giải quyết có hiệu quả các điểm
nóng…Tuy nhiên, việc xây dựng, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính
trị trật tự an toàn xã hội ở địa phương chưa thực sự vững chắc. Ý thức quốc
phòng và sự hiểu biết của nhân dân về kẻ thù còn hạn chế, kiến thức quân sự
chưa được phổ cập rộng rãi trong nhân dân. Công tác quản lý sử dụng, huấn
luyện lực lượng dân quân tự vệ ở một số cơ sở chưa tốt, chất lượng chính trị

chưa bảo đảm
* Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã tỉnh Bạc Liêu
Quan niệm về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã tỉnh Bạc Liêu.
Cán bộ: Theo luật cán bộ, công chức năm 2008 “Cán bộ là công dân Việt
Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước, tổ chức chính trị xã hội
ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp
tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện) trong biên chế và hưởng lương theo ngân sách Nhà nước”. Cán bộ xã,
phường, thị trấn là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ
trong thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, bí thư, phó bí thư đảng
ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị xã hội. Cán bộ cấp xã bao gồm cả cán bộ,
công chức được luân chuyển, điều động về cấp xã. Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã
hội, quy mô, đặc điểm của địa phương, chính phủ quy định cụ thể số lượng cán bộ, công
chức cấp xã.
Cán bộ chủ chốt: Theo từ điển công tác Đảng, công tác chính trị Quân đội
nhân dân Việt Nam. “cán bộ chủ chốt, gọi chung là những người đứng đầu, giữ
các cương vị chỉ huy, lãnh đạo, quản lý một tổ chức, một đơn vị, một phong
trào, được bổ nhiệm hoặc do dân chủ bầu cử, được bố trí trong các cấp, các

17


ngành, các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang, các
tỉnh, thành từ Trung ương đến cơ sở”.
Đội ngũ cán bộ, theo Tổng cục chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ quân
đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đọan cách mạng mới, Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, H.2006, Tr.6 đã xác định: “Đội ngũ cán bộ là tập hợp những
người cán bộ thành một lực lượng có số lượng, cơ cấu, chất lượng (nghề nghiệp,
trình độ, thâm niên công tác, giới tính …) tương ứng với yêu cầu nhiệm vụ

chính trị, chức năng của một tổ chức, một lĩnh vực họat động”
Theo đó có thể quan niệm: Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bạc
Liêu là một bộ phận đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước, đó là những công dân
Việt Nam được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh trong
biên chế theo nhiệm kỳ của các tổ chức thuộc hệ thống chính trị cấp xã, đó là
những người đứng đầu giữ vai trò nòng cốt có tác động, ảnh hưởng đến lãnh
đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành họat động của tổ chức và được hưởng lương từ
ngân sách nhà nước.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có các chức vụ: Bí thư, phó bí thư đảng
ủy, Chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân
dân; chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh; chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ; chủ tịch Hội nông dân (áp dụng đối
với xã, phường, thị trấn có họat động nông, lâm, ngư nghiệp và có tổ chức Hội
Nông dân Việt Nam); chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có đặc trưng cơ bản: Họ là người có vị trí
quan trọng của các tổ chức, các lực lượng ở cơ sở địa phương trong việc xác
định phương hướng, mục tiêu, phương pháp công tác; đề ra các quyết định và tổ
chức thực hiện các quyết định của cấp mình hoặc cấp trên giao; kiểm tra, giám
sát kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc. Trong một chừng mực
nhất định, họ là người quyết định thành công hay thất bại của phong trào cách
mạng ở cơ sở.
* Tiêu chuẩn chung đối với cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu
Căn cứ vào Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004
về tiêu chuẩn đối với cán bộ công chức xã, phường, thị trấn, căn cứ vào tiêu

18


chuẩn cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Cán bộ chủ
chốt cấp xã phải đáp ứng những tiêu chuẩn sau đây:

1. Có tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội có năng lực tổ chức vận động nhân dân thực hiện có kết quả
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ở địa phương
2. Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, công tâm thạo việc, tận tụy với
dân không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức kỷ
luật trong công tác. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân,
được nhân dân tín nhiệm
3. Có trình độ hiểu biết lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước, có trình độ học vấn, chuyên môn, đủ
năng lực và sức khỏe để làm việc hiệu quả đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao
* Chức trách, nhiệm vụ, tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ chủ chốt cấp
xã ở tỉnh Bạc Liêu
- Đối với Bí thư, phó bí thư Đảng ủy, chi ủy thường trực đảng ủy xã,
phường, thị trấn.
Chức trách:Là cán bộ chuyên trách công tác Đảng ở Đảng bộ,chi bộ (nơi
chưa thành lập Đảng bộ) Xã, phường, thị trấn có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo
hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ, cùng tập thể
đảng ủy, chi ủy lãnh đạo toàn diện đối với hệ thống chính trị ở cơ sở trong việc
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Nhiệm vụ của Bí thư
Nắm vững cương lĩnh Điều lệ Đảng và đường lối chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết và chỉ thị của cấp trên và chức
năng, nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ cấp mình, nắm vững nhiệm vụ trọng tâm,
giải quyết có hiệu quả công việc đột xuất, nắm chắc và sát tình hình đảng bộ, tổ
chức Đảng trực thuộc và nhân dân trên địa bàn, chịu trách nhiệm chủ yếu về các
mặt công tác của đảng bộ.
Chủ trì các cuộc học của Ban chấp hành, Ban thường vụ và chỉ đạo việc
chuẩn bị xây dựng nghị quyết của Đảng bộ, của Ban chấp hành, Ban thường vụ
và tổ chức chỉ đạo thực hiện thắng lợi các nghị quyết đó.


19


Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động
và giữ vai trò trung tâm đoàn kết giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện đối với các
tổ chức trong hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn.
Lãnh đạo kiểm tra việc tổ chức, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của cấp
trên, của đảng bộ, của Ban chấp hành và Ban thường vụ Đảng ủy.
Nhiệm vụ của phó bí thư, thường trực Đảng ủy
Giúp Bí thư Đảng bộ chuẩn bị nội dung các cuộc họp và dự thảo Nghị
quyết của Ban chấp hành, Ban thường vụ về các mặt công tác của Đảng bộ.
Tổ chức việc thông tin tình hình và chủ trương của Ban chấp hành, Ban
thường vụ cho các ủy viên Ban chấp hành và tổ chức đảng trực thuộc.
Tổ chức kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên,
của Ban chấp hành, Ban thường vụ.
Tiêu chuẩn cụ thể
Tuổi đời không quá 45 khi tham gia giữ chức vụ lần đầu
Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông
Lý luận chính trị: Có trình độ trung cấp chính trị trở lên
Chuyên môn, nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng và đô thị có trình độ trung
cấp chuyên môn trở lên, ở khu vực miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn (tương đương trình độ sơ cấp trở lên), nếu tham gia giữ chức vụ lần
đầu phải có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên. Đã qua bồi dưỡng nghiệp vụ
công tác xây dựng Đảng, nghiệp vụ quản lý hành chính Nhà nước, nghiệp vụ
quản lý kinh tế.
Đối với chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Đoàn Thanh
niên Cộng Sản HCM, Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ, chủ tịch Hội nông dân, chủ
tịch Hội cựu chiến binh.
Chức trách: là cán bộ chuyên trách đứng đầu UB. MTTQVN và các đoàn

thể chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn, chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của điều lệ của tổ chức đoàn
thể, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước
Nhiệm vụ:
Chuẩn bị nội dung, triệu tập và chủ trì các kỳ họp của tổ chức mình

20


Cùng tập thể Ban thường trực (UBMTTQ) Ban thường trực (4 tổ chức
đoàn thể) xây dựng chương trình kế hoạch công tác, hướng dẫn hoạt động đối
với Ban công tác Mặt trận, các chi hội đoàn thể ở thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố
Phối hợp với chính quyền, các đoàn thể cùng cấp vận động, hướng dẫn
cán bộ, đoàn viên, hội viên tổ chức mình, các tầng lớp nhân dân tham gia thực
hiện các chương trình kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, hiệp thương bầu cử
xây dựng chính quyền, thực hiện quy chế dân chủ tại xã, phường, thị trấn và các
phong trào thi đua của tổ chức mình theo chương trình, nghị quyết của tổ chức
chính trị - xã hội cấp trên tương ứng đề ra.
Tổ chức chỉ đạo việc học tập chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và pháp luật Nhà nước, các chủ trương nghị quyết đối với đoàn viên, hội viên
của tổ chức mình.
Chỉ đạo việc lập kế hoạch kinh phí, chấp hành, quyết toán kinh phí hoạt
động và các quyết định việc phân bổ kinh phí hoạt động do Nhà nước cấp đối
với tổ chức mình.
Tham mưu với cấp ủy Đảng ở xã, phường, thị trấn trong việc xây dựng
đội ngũ cán bộ của tổ chức mình.
Bám sát hoạt động các phong trào, định kỳ tổ chức kiểm tra, đánh giá và
báo cáo với cấp ủy cùng cấp và các tổ chức đoàn thể cấp trên về hoạt động của
tổ chức mình.
Chỉ đạo việc xây dựng quy chế hoạt động của Ban thường vụ, Ban chấp

hành cấp cơ sở tổ chức mình, chỉ đạo hoạt động của Ban thường vụ, Ban chấp
hành đảm bảo theo đúng quy chế đã xây dựng.
Tiêu chuẩn cụ thể
Các tiêu chuẩn ( do các đoàn thể chính trị - xã hội quy định) của cán bộ
chuyên trách thuộc UB. MTTQVN và các đoàn thể chính trị - xã hội được giữ
nguyên trong nhiệm kỳ hiện tại. Các tiêu chuẩn quy định này được áp dụng kể
từ đầu nhiệm kỳ tới của từng tổ chức đoàn thể.
Tuổi đời:
Chủ tịch UBMTTQVN không quá 60 tuổi đối với nam, không quá 55 tuổi
đối với nữ khi tham gia giữ chức vụ lần đầu.

21


Bí thư đoàn TNCS HCM không quá 30 tuổi khi tham gia giữ chức vụ
công tác.
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội nông dân, không quá 55 tuổi
đối với nam, không quá 50 tuổi đối với nữ khi tham giữ chức vụ lần đầu.
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh không quá 65 tuổi khi tham gia công tác.
Học vấn: có trình độ tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên ở khu vực đồng
bằng, tốt nghiệp tiểu học trở lên ở khu vực miền núi.
Lý luận chính trị: Có trình độ sơ cấp và tương đương trở lên.
Chuyên môn nghiệp vụ: Đã được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ lĩnh vực công tác mà cán bộ đang đảm nhận tương đương trình độ sơ cấp trở
lên.
Đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân
Chức trách: Là cán bộ chuyên trách của Hội đồng nhân dân xã, phường,
thị trấn, chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo Tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của Hội đồng nhân dân cấp xã, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn.

Nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng nhân dân
Triệu tập, chủ tọa các kỳ họp của Hội đồng nhân dân, phối hợp với
UBND trong việc chuẩn bị kỳ họp Hội đồng nhân dân; chủ trì trong việc tham
gia xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Giám sát, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng
nhân dân.
Tổ chức tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra việc giải quyết các kiến nghị, khiếu
nại, tố cáo của nhân dân.
Giữ mối liên hệ với đại biểu Hội đồng nhân dân, phối hợp công tác với
UB.MTTQVN cùng cấp, thông báo hoạt động của Hội đồng nhân dân với
UB.MTTQVN.
Báo cáo hoạt động của Hội đồng nhân dân lên Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân cấp huyện.
Chủ trì và phối hợp với UBND trong việc quyết định đưa ra và bãi nhiệm
đại biểu Hội đồng nhân dân theo đề nghị của UBMTTQVN cùng cấp.
Nhiệm vụ của Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân

22


Căn cứ vào nhiệm vụ của chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó chủ tịch Hội
đồng nhân dân tổ chức thực hiện các nhiệm vụ do Chủ tịch Hội đồng nhân dân
phân công cụ thể và thay mặt Chủ tịch Hội đồng nhân dân giải quyết công việc
khi chủ tịch Hội đồng nhân dân vắng mặt.
Tiêu chuẩn đối với Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân
Tuổi đời của Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân do chủ tịch
UBND cấp tỉnh quy định phù hợp với tình hình đặc điểm của địa phương nhưng
tuổi tham gia lần đầu phải bảo đảm làm việc ít nhất hai nhiệm kỳ.
Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông.
Lý luận chính trị: Có trình độ trung cấp lý luận chính trị đối với khu vực

đồng bằng, khu vực miền núi phải được bồi dưỡng lý luận chính trị tương đương
trình độ sơ cấp trở lên.
Chuyên môn nghiệp vụ: Có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên đối với
khu vực đồng bằng.Với khu vực miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn tương đương trình độ sơ cấp trở lên. Ngành chuyên môn phù hợp
với đặc điểm kinh tế - xã hội của từng loại đơn vị hành chính xã, phường, thị
trấn. Đã qua lớp bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước.
Nghiệp vụ quản lý kinh tế, kiến thức và kỹ năng hoạt động đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã.
Đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Chức trách: Là cán bộ chuyên trách lãnh đạo UBND cấp xã, chịu trách
nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động của UBND và hoạt động quản lý
Nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng đã được
phân công trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Nhiệm vụ của chủ tịch Ủy ban nhân dân
Lãnh đạo phân công công tác của UBND, các thành viên UBND, công tác
chuyên môn thuộc UBND cấp xã gồm:
Tổ chức chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra đối với công tác chuyên môn thuộc
UBND trong việc thực hiện chính sách, pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp
trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân và các quyết định của UBND xã,
phường, thị trấn.

23


Quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch UBND
cấp xã, tham gia quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền tập thể UBND.
Áp dụng các biện pháp cải tiến lề lối làm việc, quản lý và điều hành bộ
máy hành chính ở xã, phường, thị trấn hoạt động có hiệu quả.
Ngăn ngừa và đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong cán bộ, công

chức nhà nước và trong bộ máy chính quyền địa phương cấp xã, tiếp dân, xét,
giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật,
giải quyết và trả lời các kiến nghị của UB.MTTQVN và các đoàn thể nhân dân ở
xã, phường, thị trấn.
Trực tiếp quản lý, chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật.
Tổ chức quản lý, điều hành hoạt động của trưởng, phó thôn, tổ dân phố
theo quy định của pháp luật.
Báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và UBND cấp trên
Triệu tập và chủ tọa phiên họp của UBND xã, phường, thị trấn.
Thực hiện việc bố trí sử dụng, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức cơ
sở theo sự phân cấp quản lý.
Đình chỉ hoặc bãi bỏ quy định trái pháp luật của trưởng thôn và tổ dân
phố.
Nhiệm vụ của Phó chủ tịch UBND.
Tổ chức quản lý, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ theo khối công việc (khối
kinh tế - tài chính, khối văn hóa – xã hội…) của UBND do chủ tịch UBND phân
công và những công việc do chủ tịch UBND ủy nhiệm khi chủ tịch UBND đi
vắng
Tiêu chuẩn đối với Chủ tịch và Phó chủ tịch UBND
Tuổi đời: Tuổi đời của Chủ tịch UBND và Phó chủ tịch UBND do Chủ
tịch UBND cấp tỉnh quy định phù hợp với tình hình đặc điểm của địa phương
nhưng tuổi tham gia lần đầu phải bảo đảm làm việc ít nhất hai nhiệm kỳ.
Học vấn: có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông.
Chính trị: Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên đối với khu vực
đồng bằng; khu vực miền núi phải được bồi dưỡng lý luận chính trị tương đương
trình độ sơ cấp trở lên.

24



Chuyên môn, nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng, có trình độ trung cấp
chuyên môn trở lên, với miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn
(tương đương trình độ sơ cấp trở lên), nếu giữ chức vụ lần đầu phải có trình độ
trung cấp chuyên môn trở lên. Ngành chuyên môn phải phù hợp với đặc điểm
kinh tế - xã hội của từng loại hình đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. Đã
được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý hành chính Nhà nước, quản lý kinh tế.
* Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là lực lượng nòng cốt quán triệt
và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật Nhà nước, chủ trương, nghị quyết của cấp ủy, chính quyền các cấp.
Đảng tổ chức thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với toàn bộ xã hội
không chỉ thông qua hệ thống tổ chức Đảng, tổ chức chính quyền, các đoàn thể
chính trị - xã hội, mà còn thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã chính là người trực tiếp tiếp thu ý kiến của nhân dân, trực tiếp
đóng góp vào các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh
ở cơ sở; tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền lãnh đạo, quản lý điều
hành mọi mặt ở địa phương. Đồng thời, họ cũng là lực lượng trực tiếp quán triệt
vận dụng và tổ chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng; pháp luật của
Nhà nước, nghị quyết chỉ thị của tỉnh ủy, thành ủy, huyện ủy và ủy ban nhân dân
huyện, thành phố ở cơ sở. Với ý nghĩa ấy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã giữ vai
trò quyết định đối với việc quán triệt, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước ở cơ sở.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là những người trực tiếp góp
phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh toàn diện.
Cán bộ chủ chốt cấp xã là những người đứng đầu các tổ chức trong hệ
thống chính trị cơ sở. Vì vậy, phẩm chất, năng lực của họ có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với việc xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở
vững mạnh toàn diện. Là người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ
sở, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã trực tiếp nghiên cứu sọan thảo và tham gia

vào các quyết định của cấp ủy, ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân, mặt trận và
ban chấp hành của các tổ chức chính trị - xã hội. Trực tiếp quản lý, điều hành

25


họat động của các tổ chức và kiểm tra quá trình triển khai tổ chức thực hiện các
chủ trương, nghị quyết, kế hoạch, nhiệm vụ do cấp ủy, chính quyền mặt trận và
đoàn thể chính trị - xã hội đã đề ra; trực tiếp xây dựng nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, chi bộ và hiệu lực quản lý của ủy ban nhân dân;
đoàn kết, quy tụ, phát huy sức mạnh của các tổ chức, các lực lượng thực hiện
thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của cấp ủy, chính quyền địa phương. Với
cương vị là người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, ý thức trách nhiệm cao đối với công việc; có kiến thức
và năng lực tổ chức thực tiễn, lối sống lành mạnh, có khả năng đoàn kết, phong
cách dân chủ, tập thể, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, được cán bộ đảng viên,
nhân dân tín nhiệm, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã sẽ là tấm gương sáng cho
cán bộ đảng viên, nhân dân ở cơ sở học tập. Với ý nghĩa ấy, đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã là nhân tố chủ yếu xây dựng bộ máy đảng, chính quyền và đoàn thể
chính trị - xã hội ở cơ sở vững mạnh toàn diện.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu có vai trò quan
trọng, góp phần củng cố tăng cường mối quan hệ Đảng, Nhà nước và nhân dân
ở cơ sở.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã khi thực hiện chức trách nhiệm vụ của
mình, hàng ngày, hàng giờ phải trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, phải giải quyết
nhiều vấn đề phát sinh trong cộng đồng dân cư và trong thực hiện các chính sách
của Đảng và Nhà nước đúng theo quy định. Đồng thời, phải đối mặt với các thế
lực và các phần tử xấu lợi dụng các vấn đề về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn
giáo chống phá ta từ cơ sở; Lập trường chính trị vững vàng, phương pháp, tác
phong khoa học, tỉ mỉ, thái độ giao tiếp cần mẫn, dịu dàng, khiêm tốn trong ứng

xử của họ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm, niềm tin của các tầng lớp nhân dân
đối với Đảng, với chế độ, với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Với ý
nghĩa ấy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu có vai trò rất quan trọng
trong việc củng cố tăng cường mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân ở
cơ sở.
* Đặc điểm đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu
Một là, được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, có tính đa dạng về
lọai hình, chức danh, cương vị công tác.

26


Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu bao gồm cán bộ Đảng,
cán bộ chính quyền và khối mặt trận, đoàn thể với những cương vị công tác khác
nhau. Họat động ở mỗi ngành, mỗi cương vị công tác đòi hỏi cán bộ phải có
phẩm chất, năng lực, phương pháp công tác cụ thể để đáp ứng yêu cầu chức
trách, nhiệm vụ. Xuất phát điểm của từng cá nhân khi trở thành chủ chốt cấp xã
cũng khác nhau. Có người trưởng thành từ phong trào cách mạng của quần
chúng ở cơ sở được đi đào tạo bồi dưỡng về lý luận chính trị; Có người do chính
sách luân chuyển cán bộ từ huyện, thành phố xuống xã, giữ các chức vụ chủ
chốt, có người tốt nghiệp đại học, trung cấp ở các trường quản lý, kỹ thuật được
tuyển chọn vào các khối của ủy ban, đoàn thể … chính sự đa dạng của nguồn và
chức danh, cương vị công tác làm cho việc bồi dưỡng năng lực công tác của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu khá đa dạng, đòi hỏi các chủ thể khi
tiến hành bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã phải
nắm vững trách nhiệm, trình độ năng lực của từng người để xác định đúng
những giải pháp khắc phục sự thiếu hụt của họ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của hệ
thống chính trị cơ sở.
Hai là, có sự chênh lệch về tuổi đời, tuổi nghề nghiệp, kiến thức năng lực,
trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ.

Sự chênh lệch về tuổi đời, tuổi nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ cấp xã là
vấn đề hiện hữu có tính khách quan do xuất phát điểm của mỗi người trước khi
được tổ chức thuên chuyển, điều động, bổ nhiệm, tuyển chọn vào những cương
vị cụ thể trong hệ thống chính trị cơ sở khác nhau, có người làm tổ trưởng tổ dân
phố, trưởng khóm, ấp, có người là chi hội trưởng chi hội phụ nữ, có người trong
Ban chấp hành Mặt trận Tổ quốc, có người mới công tác ở xã 1 năm, 2 năm, 5
năm, có người thâm niên công tác hơn 10 năm … Sự chênh lệch về tuổi đời,
kinh nghiệm thực tế, đồng nghĩa với việc chênh lệch về tuổi nghề và chênh lệch
về kiến thức năng lực toàn diện làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng chung
của cả đội ngũ.
Trình độ học vấn không đều là một đặc điểm làm chi phối việc bồi dưỡng
năng lực công tác của đội ngũ CBCCCX. Có người tốt nghiệp phổ thông trung
học nhưng chưa được trang bị kiến thức về khoa học lãnh đạo, quản lý. Những
cán bộ có bằng cử nhân lại thiếu kiến thức về lý luận chính trị, kinh nghiệm lãnh

27


×