Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG các ĐẢNG bộ xã PHƯỜNG, THỊ TRẤN ở TỈNH bạc LIÊU HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 98 trang )

5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong hệ thống tổ chức của Đảng, mỗi cấp có vị trí, chức năng, nhiệm vụ
khác nhau. TCCSĐ (trong đó có ĐBXPT) là nền tảng của Đảng, nối liền Đảng
với quần chúng; là nơi giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đảng viên; nơi
hình thành và trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng vào thực tiễn cuộc
sống và lãnh đạo, tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, nghị quyết
của Đảng. Mặt khác, TCCSĐ còn là nơi đào tạo cán bộ cho Đảng; nơi xuất phát
để cử ra cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng; là cửa ngõ quan trọng bảo đảm tính
tiên phong, tính trong sạch của Đảng ta. Chính vì vậy Hồ Chí Minh đã xác định:
“mỗi chi bộ của Đảng, phải là hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết
chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ
đại của quần chúng” [33, tr.23].
Thực tiễn đã chỉ ra: kết quả xây dựng, phát triển các mặt của xã, phường,
thị trấn; những tiềm năng được khai thác, những thành tựu đạt được, những kinh
nghiệm có giá trị được đúc kết ở các địa phương đều bắt nguồn từ sự đoàn kết,
nỗ lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên và đông đảo quần chúng ở cơ sở
mà hạt nhân lãnh đạo là các ĐBXPT.
Trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, phát huy vai trò chủ
động sáng tạo của các đơn vị cơ sở, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay,
vai trị, trách nhiệm chính trị của ĐBXPT càng trở nên quan trọng và nặng nề.
Do vậy, đòi hỏi ĐBXPT nói chung, các ĐBXPT ở tỉnh Bạc liêu nói riêng phải
có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngày càng cao, phải thật sự là hạt nhân
chính trị, đủ khả năng, điều kiện lãnh đạo toàn diện các mặt ở ở cơ sở xã
phường, thị trấn.
Trong những năm qua, quán triệt sự chỉ đạo của Trung ương, các cấp ủy, tổ chức
đảng ở tỉnh Bạc liêu đã có những chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoan mới. Công tác xây dựng
Đảng ở Bạc Liêu đã có sự chuyển biến rõ rệt về nhiều mặt; trong đó có xây dựng, củng cố, nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các TCCSĐ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở


cơ sở xã phường, thị trấn. Đó là một trong những nguyên nhân cơ bản, điều kiện

rất quan trọng bảo đảm sau gần 30 năm đổi mới, Bạc Liêu đã trở thành một
tỉnh phát triển khá trong khu vực Tây Nam Bộ, với tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao hơn mức bình quân của cả nước. Tỉnh Bạc Liêu đã và đang có những
thay đổi, phát triển rất rõ nét và toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống
xã hội.
Tuy vậy, công tác xây dựng TCCSĐ, xây dựng đội ngũ cán bộ ở xã,
phường, thị trấn trong Tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cả trong
nhận thức, trách nhiệm, cả trong nội dung, biện pháp tiến hành và chất
lượng, kết quả đạt được. Điều đó thể hiện rõ ở năng lực, hiệu lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của ĐBXPT, năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ.
Cụ thể là: còn một số ĐBXPT chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai trị, chức
năng, nhiệm vụ; năng lực quán triệt, cụ thể hoá nghị quyết, chỉ thị của cấp
trên, nắm chắc tình hình thực tiễn, xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo
đúng đắn, khả thi, đem lại kết quả thiết thực; có đảng bộ còn lúng túng


6
trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, chưa thực hiện
đầy đủ sự lãnh đạo đối với chính quyền và các đồn thể, chưa phát huy đầy
đủ sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng, các tầng lớp nhân dân
vào công cuộc phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương; sức chiến đấu của
khơng ít đảng bộ cịn hạn chế. Khơng ít cán bộ, đảng viên cơ sỏ chưa nắm vững chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, không nắm vững quy định của pháp luật; vì vậy quá
trình chỉ đạo điều hành, giải quyết cơng việc cịn mang tính chủ quan, thiếu chuyên nghiệp, . . .
Đúng như nhận định chung của Đảng ta trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI:“ Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của khơng ít tổ chức đảng cịn

thấp; cơng tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền

nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu” [12].
Thực tiễn tình thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ của các xã, phường, thị trấn
đang đặt ra nhiều vấn đề mới đối với các ĐBXPT ở Bạc Liêu phải giải quyết. Do
vậy, nâng cao chất lượng các ĐBXPT ở Bạc Liêu là vấn đề tất yếu và cấp thiết
cần được nghiên cứu, luận giải nghiêm túc, thấu đáo cả về lý luận và thực tiễn.
hiện nay. Vì lẽ đó, tác giả chọn vấn đề: Nâng cao chất lượng các ĐBXPT ở tỉnh
Bạc Liêu hiện nay để làm đề tài nghiên cứu của luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng
và chính quyền nhà nước của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xuất phát từ vị trí, vai trị tầm quan trọng và thực trạng chất lượng của
ĐBXPT mà nhiều nhà khoa học, các đồng chí cán bộ lãnh đạo và các học viên sau
đại học đặt vấn đề nghiên cứu. Tiêu biểu có các cơng trình như:
* Nhóm cơng trình nghiên cứu về TCCSĐ
- PGS, TS Nguyễn Cúc, TS Lê Phương Thảo, TS Doãn Hùng, đồng chủ
biên, (2004), TCCSĐ với cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội. Trần Ngọc Hường (2004), “Cần đánh giá đúng chất lượng
TCCSĐ và đảng viên”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (5). Thành Huy (2006), “Nâng
cao sức chiến đấu của các TCCSĐ”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
(14.8.2006). Đại tá, PGS, TS. Nguyễn Hồng Châu, (2012), “Nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ gắn với thực hiện nghị quyết Trung
ương 4 (khoá XI) trong Quân đội”, Tạp chí xây dựng Đảng số tháng 12. Vĩnh
Trọng, (2013), “Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở các đảng bộ cơ sở”,
Tạp chí Xây dựng Đảng số tháng 11. Khánh Tùng, (2014), " Chi bộ cơ quan
xã, phường, thị trấn: Thực tiễn và kinh nghiệm ", Tạp chí Xây dựng Đảng số
tháng 7. Huyền Trang (2014), Xây dựng TCCSĐ theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
Tạp chí Xây dựng Đảng tháng 8.
Bằng cơ sở lý luận, thực tiễn, các bài viết đã khẳng định vai trò quan trọng
của TCCSĐ; thực trạng chất lượng và kinh nghiệm xây dựng TCCSĐ; những
yếu tố tác động, những vấn đề đặt ra đối với xây dựng, nâng cao chất lượng
TCCSĐ hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất, kiến nghị những giải pháp cụ thể xây

dựng, nâng cao chất lượng, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ theo
quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh và gắn với thực hiện nghị quyết
Trung ương 4 (khoá XI) hiện nay.


7
- Phan Quốc Hưng, (2002), “Đảng bộ Bạc Liêu với cơng tác tổ chức cán bộ”,
Tạp chí Cộng sản, (24). Bộ Nội Vụ (2004), Hệ thống chính trị cơ sở - Thực trạng
và một số giải pháp đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trịnh Xuân
Thắng, (2014), "Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở người Khmer các tỉnh Tây Nam
Bộ", Tạp chí Xây dựng Đảng số tháng 7.
Các bài viết, cơng trình trên bàn luận về vị trí, vai trị của hệ thống chính trị
ở cơ sở gắn với TCCSĐ; sự cần thiết phải đánh giá đúng thực trạng và thực trạng
bộ máy hệ thống chính trị và công tác tổ chức cán bộ ở cơ sở nói chung, Bạc
Liêu nói riêng. Từ đó đề xuất, kiến nghị những giải pháp thực hiện tốt hơn công
tác tổ chức, cán bộ và nâng cao chất lượng, hiệu lực hệ thống chính trị ở cơ sở
gắn với thực hiện các quan điểm, nghị quyết của Trung ương về đổi mới, nâng
cao chất lượng hệ thống chính trị.
* Những cơng trình nghiên cứu về chất lượng TCCSĐ
- Nguyễn Đức Ái, (2001), "Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ nơng thơn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước", luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác
giả đã làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về vai trị của TCCSĐ ở nơng thơn; đánh
giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm. Từ đó đề xuất hệ thống
giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ nông thơn
vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- "Nâng cao chất lượng TCCSĐ nông thôn (xã, phường, thị trấn) ở đồng bằng
sông Hồng", luận án tiến sĩ lịch sử chuyên ngành Xây dựng Đảng của Đỗ Ngọc
Ninh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1995.
- "Nâng cao chất lượng các đảng bộ xã, thị trấn huyện Kim Sơn tỉnh Ninh

Bình trong giai đoạn hiện nay" của Phạm Thị La, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 2001.
- "Nâng cao chất lượng TCCSĐ xã, phường, thị trấn tỉnh Vĩnh Long hiện
nay" của Nguyễn Văn Bé Tư, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, 2002.
- "Chất lượng các đảng bộ xã vùng đồng bằng Thanh Hoá giai đoạn hiện nay"
của Lê Xuân Thành, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004.
- "Chất lượng đảng bộ xã tỉnh Trà Vinh hiện nay - thực trạng và giải pháp" của
Lê Văn Vẹn, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005.
- Phạm Mạnh Khởi, (2013), “Nâng cao chất lượng hoạt động của TCCSĐ
cấp xã”, Tạp chí xây dựng Đảng số tháng 5. Bài viết đề cập những kinh nghiệm
được rút ra qua nghiên cứu tình hình hoạt động các Tổ TCCSĐ cấp xã, cả những
nơi hoạt động tốt và chưa tốt, từ đó đề xuất các giải pháp để TCCSĐ cấp cơ sở
ngày càng hoạt động tốt hơn.
- Vũ Thị Thuỷ, (2014), "Đánh giá chất lượng của TCCSĐ và đảng viên năm
2013: "được và "chưa được", Tạp chí Xây dựng Đảng số tháng 7. Bài viết đã đề cập
cách làm, kết quả; qua đó phân tích những mặt "được", "chưa được" và đề xuất một số
biện pháp nhằm giúp cho công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên hằng
năm ngày càng thực chất hơn.


8
- Thu Thuỷ, (2014), "Nâng cao chất lượng TCCSĐ ở miền núi phía bắc",
Tạp chí Xây dựng Đảng số tháng 7. Bài viết đã phản ánh cách làm cụ thể của 4
tỉnh Yên Bái, Tuyên Quang, Điện Biên, Lai Châu để góp phần xây dựng TCCSĐ
thực sự là hạt nhân chính trị lãnh đạo tồn diện các mặt cơng tác ở địa phương,
nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số.
- Vũ Hồng Hào, (2014), "Nghệ An: Nhiều giải pháp nâng cao chất
lượng TCCSĐ", Tạp chí Xây dựng Đảng số tháng 7. Bài viết đã đi từ góc độ
nhận thức đến triển khai các biện pháp và đánh giá về những kết quả đạt được.

Từ đó, tác giả nêu rõ phương hướng nâng cao chất lượng TCCSĐ ở Nghệ An
trong thời gian tới.
- Nguyễn Hồng Pháp, (2014), "Điểm nhấn trong đánh giá chất lượng
TCCSĐ và đảng viên ở Bình Thuận", Tạp chí Xây dựng Đảng số tháng 7. Bài
viết đã phân tích, chứng minh những điểm nhấn nổi bật trong đánh giá tổ chức đảng
và đảng viên của Bình Thuận năm 2013 là do chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể, phù hợp
với thực tế; có nội dung đánh giá sát hợp dẫn đến kết quả thực chất hơn.
Đó là những tài liệu có giá trị để tác giả có thể kế thừa trong nghiên cứu thực
hiện mục đích, nhiệm vụ đề ra. Tuy vậ, do đối tượng, mực đích, nội dung nghiên
cứu và góc độ tiếp cận của các cơng trình khác nhau, cho nên đến nay chưa có
cơng trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống và chuyên sâu về
Nâng cao chất lượng các ĐBXPT ở tỉnh tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn, xác định
yêu cầu, đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng các ĐBXPT ở
tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về chất lượng và nâng cao chất lượng các
ĐBXP ở tỉnh Bạc Liêu.
- Đánh giá thực trạng chất lượng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra những kinh
nghiệm nâng cao chất lượng các ĐBXP ở tỉnh Bạc Liêu.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
các ĐBXP ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vị nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng các ĐBXP ở tỉnh Bạc Liêu.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng và hoạt động nâng cao chất lượng
các ĐBXP ở tỉnh Bạc liêu; phạm vị khảo sát thực tế ở 10 ĐBXP đại diện thuộc 7

đảng bộ cấp huyện ở tỉnh Bạc Liêu; các tư liệu, số liệu phục vụ cho nghiên cứu giới
hạn chủ yếu từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu


9
* Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm về Đảng và xây dựng Đảng. Đồng thời, luận
văn còn tham khảo, kế thừa kết quả của các cơng trình nghiên cứu có liên quan
đã được công bố.
* Cơ sở thực tiễn
Thực trạng chất lượng và nâng cao chất lượng các ĐBXP; các báo cáo sơ,
tổng kết về công tác xây dựng, hoạt động của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp ở tỉnh
Bạc Liêu; kết quả điều tra, khảo sát của chính tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, luận văn sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên
ngành, trong đó chú trọng phương pháp: kết hợp lơgíc với lịch sử, phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương
pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho
các cấp uỷ, tổ chức đảng ở tỉnh Bạc Liêu xác định chủ trương, biện pháp cụ thể
để nâng cao chất lượng các ĐBXP hiện nay.
Luận văn cịn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và
học tập trong trường chính trị tỉnh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.



10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN Ở
TỈNH BẠC LIÊU
1.1. Những vấn đề cơ bản về chất lượng và nâng cao chất lượng các
ĐBXP ở tỉnh Bạc Liêu
1.1.1. Các ĐBXP ở tỉnh Bạc Liêu
* Khái quát về xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu
- Mấy nét về tỉnh Bạc Liêu
Tỉnh Bạc liêu được thành lập ngày 20 tháng 12 năm 1899, chính thức hoạt
động từ ngày 01 tháng 01 năm 1900. Năm 1956, tỉnh Bạc Liêu bị giải thể nhập
vào tỉnh Ba Xuyên. Năm 1964, tỉnh Bạc Liêu được tái lập. Sau ngày 30 tháng
04 năm 1975, tỉnh Bạc Liêu lại bị giải thể, nhập vào tỉnh Minh Hải. Ngày 06
tháng 11 năm 1996, tỉnh Bạc Liêu được tái lập, chính thức đi vào hoạt động từ
ngày 01 tháng 01 năm 1997.
Bạc Liêu là một tỉnh thuộc duyên hải vùng đồng bằng sông Cửu Long, nằm
trên bán đảo Cà Mau, miền đất cực Nam của Việt Nam. Phía bắc giáp với Hậu
Giang, phía đơng và đơng bắc giáp với Sóc Trăng, phía tây nam giáp với Cà Mau,
phía tây bắc giáp với Kiên Giang, phía đơng nam giáp với Biển Đơng. Diện tích
đất tự nhiên của Tỉnh là 2.570 km2, chiếm gần 0.8% diện tích cả nước và đứng
hàng thứ 7 trong khu vực Đồng bằng sơng Cửu Long. Bạc Liêu có địa hình khá
bằng phẳng, khơng có đồi, núi chính vì lẽ đó cũng khơng có các chấn động địa
chất lớn. Địa hình chủ yến là đồng bằng, sông rạch và kênh đào chằng chịt. Bạc
Liêu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết chia thành hai mùa rõ
rệt là mùa mưa bắt đầu từ tháng 4, tháng 5 đến tháng 10, tháng 11 và mùa khơ
hay cịn gọi là mùa nắng thường bắt đầu từ tháng 10, tháng 11 năm trước đến
tháng 4, tháng 5 năm sau. Nhiệt độ thấp nhất trong năm là 21 0C, nhiệt độ cao nhất

trong năm là 360C. Bạc Liêu thuộc hệ sinh thái rừng ngập mặn, chủ yến như rừng
tràm, chà là, giá, cóc, lâm vồ,... Bên dưới là thảm thực vật gồm cỏ và các lồi dây
leo. Rừng Bạc Liêu có 104 lồi thực vật, 10 lồi thú nhỏ, 8 lồi bị sát,...
Bạc Liêu có tài nguyên biển khá dồi dào với chiều dài bờ biển 56 km, diện
tích vùng biển là 4 vạn km2, động vật biển gồm 661 loài cá trong đó nhiều loại
có giá trị cao, trữ lượng lớn (800 ngàn tấn), có thể đánh bắt khoảng 100 nghìn
tấn mỗi năm.... Bờ biển thấp và phẳng rất thích hợp để phát triển nghề làm muối,
trồng trọt hoặc nuôi tôm, cá. Hàng năm, sự bồi lấn biển ở Bạc Liêu ngày một
tăng. Đây là điều kiện lý tưởng cho phát triển thêm quỹ đất, đồng thời là yếu tố
quan trọng đưa kinh tế biển của Bạc Liêu phát triển. Thế mạnh du lịch của Bạc
Liêu là du lịch sinh thái, du lịch biển với những cảnh quan thiên nhiên độc đáo
như vườn chim, vườn nhãn... đồng thời với những di tích lịch sử - văn hố như:
Tháp cổ Vĩnh Hưng, đồng lịch sử Nọc Nạng, đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà
lưu niệm cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, hệ thống đình, chùa,... sự hấp dẫn của du lịch
Bạc Liêu còn ở những nét độc đáo trong ẩm thực, trang phục, lễ hội.


11
Với những lợi thế về thiên nhiên, Bạc Liêu có nhiều tiềm năng để phát triển
kinh tế biển và nông nghiệp: bao gồm đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, công nghiệp
chế biến thuỷ sản, nông sản, dịch vụ tổng hợp và du lịch, giao thơng có ý nghĩa
quan trọng tác động vào sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh. Bạc Liêu nằm ở vị
trí trung chuyển trên tuyến đường giao thông huyết mạch quan trọng của cả nước
(Quốc lộ 1A), cách thành phố Cần Thơ khoảng 110 km và thành phố Hồ Chí
Minh khảong 280 km về phía Bắc; hiện nay cịn có các tuyến đường mới như
Nam Sơng Hậu, Ngã Bảy - Cà Mau đi qua địa phận tỉnh Bạc Liêu. Đây là điều
kiện rất thuận lợi cho Bạc Liêu trong sự giao lưu, phát triển kinh tế.
Về mặt lịch sử, vùng đất Bạc Liêu được hình thành trên 200 năm. Do điều
kiện đất đai và cấu tạo dân cư buổi đầu, Bạc Liêu không giống các tỉnh miền
Trung, miền Bắc. Dân cư khơng hình thành từ các "luỹ tre làng", "cha truyền con

nối". Dân cư Bạc Liêu đa số là dân "xiêu tán" nghèo khổ "tha hương cầu thực".
Họ định cư rải rác trên những gò đất cao, trên các bờ sông, kinh xáng. Người
Kinh, Hoa, Khmer ở đan xen nhau, ln tương trợ, đồn kết khi hoạn nạn, chân
thành cởi mở, thích "làm ăn lớn", phong cách ứng xử người dân Bạc Liêu mang
tính cách nơng dân thôn dã chất phát, bộc trực, phản kháng mạnh mẽ trước
những bất công của xã hội.
Tuy nhiên, hiện nay do quá trình phát triển kinh tế thị trường và đơ thị hố,
mà trong dân cư cả ở một số xã, thị trấn ven đô và dọc quốc lộ đang diễn sự thay
đổi tư duy, tập quán sản xuất, sinh hoạt, lối sống. Nhân dân thành thị và nông
dân đang tiếp thu nhiều cái mới, hiện đại nhưng cũng đang chịu tác động, ảnh
hưởng không nhỏ bởi các tệ nạn xã hội.
Theo Cục Thống kê năm 2011 dân số của Tỉnh là 873.300 người, mật độ
dân cư trung bình 354 người/km2. Trong đó dân số sống ở thành thị đạt 234.700
người, dân số sống ở nông thôn đạt 638.600 người. Phần lớn đồng bào trong tỉnh
là người Việt (Kinh), người Khơme chiếm 4,7%, người Hoa chiếm 3,3% và
người Chăm. Đồng bào trong Tỉnh chủ yếu theo các tôn giáo: Phật giáo, Thiên
chúa giáo.
Về hành chính, Bạc Liêu có 7 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1
thành phố: Bạc Liêu và 6 huyện: Hồng Dân, Hịa Bình, Giá Rai, Phước Long,
Vĩnh Lợi, Đơng Hải; trong đó tính đến cuối năm 2012 có 64 xã, phường, thị trấn
(03 xã thuộc thành phố, 48 xã thuộc huyện).
Sau khi được tái lập, tỉnh Bạc Liêu có nhiều thuận lợi, nhưng cũng có khơng ít
khó khăn trong phát triển các mặt của địa phương. Thuận lợi là: Bạc Liêu là một
trong những tỉnh của đồng bằng sơng Cửu Long có nhiều tiềm năng phát triển kinh
tế; được kế thừa và phát huy những kinh nghiệm, thành xây dựng, phát triển kinh
tế, xã hội của tỉnh Minh Hải để lại; nhân dân có truyền thống cách mạng cần cù
năng động sáng tạo trong lao động sản xuất, công tác, học tập; đội ngũ cán bộ, đảng
viên được rèn luyện, thử thách và trưởng thành trong đấu tranh cách mạng, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, tâm huyết với sự nghiệp đổi mới quê hương.
Khó khăn chủ yếu là: điểm xuất phát về kinh tế, xã hội của tỉnh còn thấp so

với các tỉnh trong khu vực, nhất là cơ sở hạ tầng; đời sống một bộ phận nhân
dân, nhất là đồng bào Khmer ở vùng sâu, vùng xa cịn nhiều khó khăn; tình hình


12
cán bộ đảng viên có nhiều biến động lớn, đội ngũ cán bộ quản lý ở nhiều ban
ngành thiếu, yếu; cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ yêu cầu công tác, nơi làm việc,
chỗ ở cán bộ gặp nhiều khó khăn.
Nhận thức được những thuận lợi và khó khăn, Đảng bộ tỉnh tăng cường
đoàn kết thống nhất, phát huy truyền thống cách mạng quý báu, nêu cao tinh
thần tự lực, tự cường, phát huy mọi nguồn lực, đẩy mạnh khai thác tiềm năng,
thế mạnh ở địa phương, nhanh chóng tổ chức bộ máy và cán bộ, đổi mới phương
thức lãnh đạo. Do đó, hơn 15 năm tái lập, Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu đã giành được
những kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Hầu hết các chỉ tiêu đều đạt và
vượt kế hoạch, năm sau cao hơn năm trước, cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp
được chuyển dịch tích cực và đúng hướng, góp phần tăng trưởng GDP của tỉnh
đạt khá. Kết cấu hạ tầng nhất là hạ tầng nông thôn phát triển tương đối nhanh; an
ninh đảm bảo, quốc phịng được củng cố; cơng tác xây dựng Đảng chính quyền,
đồn thể đều có những tiến bộ.
- Xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu
Điều 110 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định:
“Các đơn vị hành chính của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
phân định như sau: nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; tỉnh
chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung
ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; huyện
chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã;
quận chia thành phường” [18].
Theo đó xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính lãnh thổ cấp cơ sở của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ở đó có những cộng đồng dân cư
liên kết với nhau trong các sinh hoạt vật chất và tinh thần trên một địa bàn cố

định; có hệ thống tổ chức hành chính ổn định hoạt động theo Hiến pháp và
pháp luật. Trong xã bao gồm các làng, xóm, thơn, bản, ấp, bn; phường chia
thành khóm, tổ dân phố; thị trấn chia thành ấp.
Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn lịch sử đều cho thấy xã, phường, thị
trấn có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xã,
phường, thị trấn là nơi trực tiếp cụ thể hoá việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện các chỉ tiêu, kế
hoạch, nhiệm vụ cụ thể về các mặt chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng,
an ninh. Cấp xã là nơi khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng trong từng thơn, bản,
xóm, ấp, khu phố, từng gia đình, là nơi trực tiếp giải quyết những vấn đề đặt ra
trong xây dựng phát triển kinh tế, văn hố, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, kết hợp kinh tế với quốc phịng, an ninh, phát động tồn dân tham gia
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xã, phường, thị trấn ổn định về chính trị, vững mạnh
về kinh tế, quốc phịng, an ninh là cơ sở, nền tảng tạo nên tiềm lực chính trị - tinh
thần, tiềm lực kinh tế - xã hội, tiềm lực quốc phịng tồn dân v.v… của các địa
phương và trên phạm vi cả nước.
Các xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu có các đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, các xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu có quy mơ dân số và
trình độ phát triển về kinh tế - xã hội không đồng đều.


13
Theo Cục Thống kê năm 2011 dân số của Tỉnh Bạc Liêu là 873.300 người.
Mật độ dân cư trên địa bàn Tỉnh phân bố không đều; các xã, phường, thị trấn ở
thành phố tập trung đơng dân cư, cịn các xã ở vùng nông thôn thi dân thưa hơn khá
nhiều, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa. Theo tiến trình đổi mới, CNH, HĐH đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu
ngày càng có quan trọng. Trong những năm qua kinh tế - xã hội ở các xã, phường,
thị trấn phát triển mạnh nhưng không đồng đều. Số lượng các doanh nghiệp tư nhân
đã tăng lên khá nhanh; kinh tế hộ gia đình phát triển mạnh về số lượng và quy mơ,

chủ yếu là loại hình kinh tế kinh doanh dịch vụ và nghề thủ cơng. Hàng năm số hộ
đói nghèo trong Tỉnh giảm dần. Tuy nhiên, do lịch sử để lại, kinh tế - xã hội giữa
các xã, phường, thị trấn ở thành phố, thị xã so với các xã ở vùng nơng thơn, nơi khó
khăn trong sản xuất, kinh doanh cịn có sự chênh lệch lớn. Tập qn sản xuất, kinh
doanh theo cơ chế kinh tế thị trường của nhân dân ở các xã, phường, thị trấn của
Tỉnh còn chuyển biến chậm, còn dựa nhiều vào thiên nhiên.
Những năm gần đây đời sống văn hoá tinh thần của các xã, phường, thị trấn
của Tỉnh có sự cải thiện, phát triển rõ rệt. Đến nay các xã, phường ở thành phố đã
hoàn thành chỉ tiêu phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ. Đời sống văn hoá ở
các xã, phường được nâng cao một bước, văn hoá truyền thống của đồng các bào
dân tộc được tôn trọng và phát huy. Các dịch bệnh cơ bản được ngăn chặn và đẩy
lùi, việc khám chữa bệnh cho người nghèo, đồng bào dân tộc được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, chất lượng giáo dục và đào tạo ở các xã, phường, thị trấn ở tỉnh
Bạc Liêu cịn thấp, cơng tác chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào ở các xã vùng sâu,
vùng xa cịn nhiều khó khăn, ở một số xã, bản sắc tốt đẹp trong văn hóa của các
dân tộc đang bị mai một. Một số tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng
phát triển.
Thứ hai, hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu được tổ
chức rộng khắp, khá chặt chẽ, hoạt động ngày càng có hiệu lực, hiệu quả.
Hiện nay, về cơ bản các xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu đều có đầy đủ các
tổ chức Đảng, chính quyền, các tổ chức CT - XH, đoàn thể nhân dân. Các đảng bộ
được thành lập ở 64 xã, phường, thị trấn trong Tỉnh. các ĐBXP được tổ chức thành
các chi bộ, tổ đảng; các chi bộ đều có cấp ủy. Hệ thống chính quyền được tổ chức
đúng theo quy định của pháp luật về tổ chức chính quyền cơ sở. Các đồn thể chính
trị - xa hội, MTTQ được tổ chức theo quy định của pháp luật và quy định, điều lện
của tổ chức đó. Hệ thống chính trị ở một số xã, phường, thị trấn của Tỉnh còn yếu,
hoạt động kém hiệu quả, không sát dân, không tập hợp được nhân dân. Một số nơi
còn để xảy ra tham nhũng, tiêu cực làm giảm lòng tin của nhân dân. Trình độ của
đội ngũ cán bộ cịn thấp, khơng ít cán bộ xã, phường, thị trấn còn quan liêu, khơng
hiểu và nắm được dân, khơng có uy tín đối với nhân dân... Công tác phát triển đảng

chậm, số lượng đảng viên chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số dân cư của xã. Đây chính
là khó khăn của việc lãnh đạo, tổ chức, chỉ đạo, quản lý, điều hành thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương.
Tuy nhiên, trải qua quá trình đổi mới, các ĐBXP và chính quyền cơ sở của
Tỉnh đang từng bước được củng cố và đổi mới phương thức hoạt động. Các tổ
chức CT - XH, đoàn thể nhân dân ở xã, phường, đã có nhiều hoạt động thiết


14
thực, tham gia xố đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hó mới, đấu tranh
bác bỏ các luận điệu xuyên tạc của địch, góp phần ổn định trật tự an tồn xã hội
ở địa phương. Từ khi có nghị quyết của Đảng về xây dựng, củng cố hệ thống
chính trị xã, phường, thị trần và Chỉ thị số 30 ngày 18 tháng 2 năm 1998 của Bộ
Chính trị về Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, hệ thống chính trị
xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu ngày càng được tăng cường và củng cố.
Thứ ba, thế trận quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân ở các xã, phường,
thị trấn tỉnh Bạc Liêu được tăng cường, củng cố, an ninh chính trị, trật tự xã hội
cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc.
Quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng về quốc phòng, an ninh trong
thời kỳ mới, các xã, phường, thị trấn ở Bạc Liêu đã làm cho nhân dân nhận rõ
âm mưu, thủ đoạn của địch; chăm lo giáo dục truyền thống, lịng u nước, u
chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, ý thức trách nhiệm, trình độ hiểu biết và nhận thức về
nghĩa vụ của mỗi công dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được nâng lên. Cơ
chế quản lý cơng tác quốc phịng, an ninh ở cấp xã, phường, thị trấn đã được
vận dụng sáng tạo và ngày càng phát huy hiệu lực. Lực lượng dân quân tự vệ,
công an và đội ngũ cán bộ trong ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn được
củng cố một bước. Cán bộ chủ chốt và cốt cán ở các thôn, ấp, khu dân cư ở một
số xã, phường, thị trấn đã được tiêu chuẩn hoá về kiến thức quốc phòng, an
ninh. Hệ thống làng, xã (khu phố) và cụm chiến đấu đã từng bước được xây
dựng, bảo đảm cho thế trận phịng thủ huyện liên hồn, ngày càng vững chắc.

Công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, quản lý lực lượng dự bị động
viên đã được thực hiện ngày càng có nề nếp. Nhiệm vụ giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an tồn xã hội ở xã, phường, thị trấn đã được triển khai nghiêm túc.
Các xã, phường, thị trấn đã thực hiện ngày càng tốt việc quản lý các đối tượng,
ngăn ngừa tệ nạn xã hội, giải quyết các vụ khiếu kiện, vi phạm pháp luật. Một
số xã, phường đã tổ chức tốt việc phối hợp giữa lực lượng an ninh (dân phòng)
với dân quân tự vệ tuần tra canh gác, bảo vệ an ninh trật tự; hoạt động của các
tổ hoà giải, tổ tự quản để giải quyết các mâu thuẫn, các vụ việc có liên quan
đến an ninh trật tự xã hội ở các điểm và khu dân cư. Trách nhiệm của ban,
ngành, đồn thể trong hệ thống chính trị xã, phường đối với cơng tác quốc
phịng ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, xây dựng, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an tồn xã hội chưa thực sự vững chắc. Ý thức quốc phòng, sự hiểu biết của
nhân dân về âm mưu thủ đoạn của kẻ thù còn hạn chế, kiến thức quân sự chưa
được phổ cập trong nhân dân. Công tác tổ chức, xây dựng quản lý, sử dụng lực
lượng dân quân tự vệ ở một số xã, phường chưa được tốt, chất lượng chính trị
chưa bảo đảm.
Những đặc điểm trên chi phối đến mọi mặt phát triển của Tỉnh và quá trình
xây dựng, hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, trong đó có việc xây dựng,
hoạt động của các ĐBXP. Do vậy, việc đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp
nâng cao chất lượng các các ĐBXP ở Tỉnh hiện nay cần phải hiểu rõ và tính đến
các đặc điểm trên.
* Quan niệm, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và đặc điểm các ĐBXP ở


15
tỉnh Bạc Liêu
- Quan niệm ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu
Các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu là một bộ phận trong hệ thống tổ chức của
Đảng bộ tỉnh nói riêng, Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung. Do vậy, về tổ

chức cũng như hoạt động của các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu phải theo đúng Điều
lệ Đảng (do Đại hội Đảng lần thứ XI thông qua), các quy định, hướng dẫn của
Ban chấp hành trung ương và Tỉnh ủy.
Các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu là TCCSĐ được lập ở các xã, phường, thị trấn.
Theo Điều 21 – Điều lệ Đảng (do Đại hội Đảng lần thứ XI thông qua): Ở xã,
phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên lập TCCSĐ. TCCSĐ có từ
ba mươi đảng viên chính thức trở lên lập đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc.
Đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên của TCCSĐ do cấp ủy cơ sở triệu tập
năm năm một lần; một trong những nội dung, nhiệm vụ của đại hội là bầu cấp ủy
nhiệm kỳ tiếp theo.
Từ tiếp cận trên có thể quan niệm: Các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu là TCCSĐ
có từ ba mươi đảng viên chính thức trở lên, được lập ở các xã, phường, thị trấn,
trực thuộc cấp ủy cấp huyện; bao gồm các chi bộ trực thuộc, là một bộ phận
quan trọng hợp thành hệ thống tổ chức của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu, thực hiện
chức năng, nhiệm vụ theo điều lệ Đảng, các quy định của Ban Bí thư và Ban
chấp hành Đảng bộ tỉnh.
- Chức năng, nhiệm vụ của các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu:
Theo Quy định số 95-QĐ/TW ngày 3-3-2004 của Ban Bí thư về chức
năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã thì: “Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã là hạt
nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng hệ thống
chính trị ở xã vững mạnh, nông thôn giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa
vụ đối với Nhà nước”.
Theo Quy định số 94-QĐ/TW ngày 3-3-2004 của Ban Bí thư về chức năng,
nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở phường, thị trấn thì: “Đảng bộ, chi bộ cơ sở
phường, thị trấn là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo thực hiện chức năng
quản lý hành chính nhà nước và quản lý đơ thị trên địa bàn; xây dựng hệ thống
chính trị ở cơ sở vững mạnh, phường, thị trấn giuauf đẹp văn minh; không ngừng

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm
tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước”.
Đảng ta xác định có nhiều loại hình TCCSĐ khác nhau nhưng đều thực hiện
chức năng chính là hạt nhân chính trị ở cơ sở, lãnh đạo cơ quan, đơn vị thực hiện
nhiệm vụ chính trị và tiến hành xây dựng nội bộ Đảng. Các đảng bộ cấp xã là loại
hình TCCSĐ ở cơ sở có chức năng: Là hạt nhân chính trị lãnh đạo thực hiện
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phát triển
kinh tế xã hội, xây dựng hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn vững mạnh, cơ
sở địa phương giàu đẹp, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và


16
tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Để thực hiện chức năng của mình, các đảng bộ, xã, phường, thị trấn ở tỉnh
Bạc Liêu phải quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối chính sách của Đảng
Nhà nước và của cấp trên, đề ra chủ trương công tác cụ thể cho đảng bộ mình
phù hợp với đặc điểm và tình hình từng đơn vị, lãnh đạo nhân dân phát triển sản
xuất, xây dựng đời sống mới, giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn, tham gia xây
dựng nền quốc phịng tồn dân; đồng thời, phải tiến hành các hoạt động xây
dựng đảng bộ, kiện tồn hệ thống chính trị ở cơ sở, phát huy vai trị của các đồn
thể, tổ chức và hướng dẫn nhân dân thực hiện vai trị làm chủ và làm trịn nghĩa
vụ cơng dân.
Nhiệm vụ các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu
Theo Quy định số 95-QĐ/TW ngày 3-3-2004 của Ban Bí thư về chức
năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã và Quy định số 94-QĐ/TW ngày
3-3-2004 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ chi bộ cơ sở
phường, thị trấn thì đảng bộ xã và đảng bộ phường, thị trấn đề có 5 nhiệm vụ.
Tuy vậy, nội dung nhiệm vụ của đảng bộ xã có điểm khác với đảng bộ
phường, thị trấn.
Điều 23 – Điều lệ Đảng quy định TCCSĐ nói chung có 5 nhiệm vụ là:

1. Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề
ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có
hiệu quả.
2. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh
hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đồn
kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ,
đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến
thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
3. Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phịng, an ninh và các đoàn thể CT - XH trong sạch, vững mạnh;
chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
4. Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
5. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra, giám sát
tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng. Đảng uỷ cơ sở nếu được cấp uỷ
cấp trên trực tiếp uỷ quyền thì được quyết định kết nạp và khai trừ đảng viên.
Các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu là một loại hình TCCSĐ nên phải thực hiện đầy
đủ 5 nhiệm vụ đó, phù hợp với tình hình thực tế ở Tỉnh và các cơ sở địa phương.
Theo đó, nhiệm vụ của các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu được xác định cụ thể là:
Một là, Lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng.
- Lãnh đạo chính quyền thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh


17
tế, xã hội theo nghị quyết đại hội của đảng bộ cấp xã và của cấp trên; phát triển kinh
tế đô thị, kinh tế nông thôn: nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp và
dịch vụ, tạo thêm việc làm mới cho người lao động, không ngừng nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối
với Nhà nước; xây dựng địa phương giàu đẹp, văn minh.
- Lãnh đạo chính quyền thực hiện nhiệm vụ CNH, HĐH nơng nghiệp,
nơng thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp quản lý và sử dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện
tích; thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở hạ tầng; quản lý và sử dụng tốt các
nguồn vốn; phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, bảo vệ mơi trường, thực
hiện tốt các chính sách xã hội, xố đói, giảm nghèo.
- Lãnh đạo xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt
phương châm "dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra"; giám sát mọi hoạt động ở
cơ sở theo đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; mở rộng dân
chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, kịp thời giải quyết những vướng mắc
phát sinh trong cộng đồng dân cư ở cơ sở theo đúng luật pháp, khơng để tích tụ mâu
thuẫn trở thành những điểm nóng, khơng để xảy ra tình trạng khiếu kiện tập thể,
vượt cấp hoặc lợi dụng dân chủ để làm mất ổn định chính trị ở cơ sở.
- Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phịng tồn dân và chính sách hậu
phương quân đội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội; đề cao tinh
thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập
thể, tính mạng và tài sản của nhân dân; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội,
nhất là ma tuý, mại dâm.
Hai là, lãnh đạo công tác tư tưởng.
- Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng,
đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh và phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thanh niên, thiếu niên;
xây dựng tình đồn kết, gắn bó; xây dựng mơi trường văn hố lành mạnh ở xã,
phường, thị trấn và trong từng gia đình, chú trọng tuyên truyền và nhân rộng
gương người tốt, việc tốt, các nhân tố tích cực trên mọi lĩnh vực.
- Tuyên truyền, vận động làm cho nhân dân hiểu và chấp hành đúng
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các
nhiệm vụ của địa phương; kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp

nhân dân để giải quyết và báo cáo lên cấp trên.
- Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh chống các quan điểm
sai trái, những hành vi nói, viết và làm trái với đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bè
phái, gia trưởng, bảo thủ và các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan; phịng, chống sự
suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Ba là, lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ.
- Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị,
các đơn vị kinh tế, sự nghiệp ở cơ sở vững mạnh; xây dựng và thực hiện quy
hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tích cực tạo nguồn cán bộ tại chỗ,


18
từng bước trẻ hố đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã.
- Cấp uỷ xây dựng quy chế về công tác tổ chức, cán bộ; nhận xét, đánh giá,
bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, đãi ngộ đối với cán bộ thuộc thẩm
quyền quản lý và kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với cán bộ ở cơ sở theo
phân cấp; giới thiệu người đủ tiêu chuẩn, có tín nhiệm trong tổ chức đảng và nhân
dân để bầu vào các chức danh chủ chốt của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân,
MTTQ, các đoàn thể nhân dân theo luật định và điều lệ của mỗi tổ chức.
- Cấp uỷ đề xuất ý kiến trong việc lựa chọn, giới thiệu cán bộ tham gia
vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, chính quyền, đồn thể nhân dân ở cấp trên
và cán bộ chủ chốt ở cơ sở do cấp trên quản lý.
Bốn là, lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể nhân dân.
- Lãnh đạo xây dựng MTTQ và các đoàn thể nhân dân ở xã vững mạnh,
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi đồn thể.
Thực hiện tốt các chính sách về dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, xây
dựng khối đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thi đua thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.
- Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ

đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các
nhiệm vụ của địa phương, trước hết là những chủ trương, chính sách về nơng
nghiệp, nơng dân và nông thôn.
Năm là, xây dựng tổ chức Đảng.
- Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ trong
sạch, vững mạnh, gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, nhất là
việc phát hiện và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu
hiện tiêu cực khác; chú trọng củng cố, xây dựng và nâng cao chất lượng lãnh đạo
của các chi bộ, tổ đảng ở khu dân cư, ấp. Thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt đảng; thực hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, nhất
là sinh hoạt chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.
- Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiên phong, gương
mẫu, phấn đấu trở thành người lao động giỏi, công dân mẫu mực; nghiêm chỉnh
chấp hành và vận động, thuyết phục nhân dân chấp hành nghị quyết của tổ chức
Đảng, quyết định của chính quyền và chương trình hành động của các đồn thể
nhân dân. Cấp uỷ xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện cho đảng viên thực hiện
nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt.
- Cấp uỷ xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý, phân công nhiệm vụ và
tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao. Làm tốt công tác
động viên khen thưởng, kỷ luật đảng viên; xử lý nghiêm, kịp thời những cán bộ,
đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, bảo đảm về tiêu
chuẩn và quy trình, chú trọng đối tượng là đồn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh và những người lao động giỏi, có uy tín trong quần chúng.
- Xây dựng cấp uỷ và bí thư cấp uỷ bảo đảm tiêu chuẩn về phẩm chất, năng


19
lực, thực sự là trung tâm đoàn kết, hoạt động có hiệu quả, được đảng viên và nhân

dân tín nhiệm. Định kỳ hằng năm, cấp uỷ tổ chức để quần chúng tham gia, góp ý
kiến xây dựng Đảng, bí thư cấp uỷ cơ sở, chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch
UBND tự phê bình trước đại diện của nhân dân và chịu trách nhiệm khi để xảy ra
quan liêu, tham nhũng, lãng phí ở địa phương.
- Cấp uỷ thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành
Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và Quy định của
Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Phối hợp với các
TCCSĐ trên địa bàn và các TCCSĐ có đảng viên, cán bộ, công chức đang cư trú
trên địa bàn thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước
và các nhiệm vụ của địa phương.
Những nhiệm vụ trên có mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau thể hiện
đầy đủ chức năng của ĐBXPT. Vì vậy, các đảng bộ xã, phường thị trấn ở tỉnh Bạc
Liêu cần nhận thức đầy đủ, đúng đắn và thực hiên tốt các nhiệm vụ trên.
Vị trí, vai trị của ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về
vị trí, vai trị của TCCSĐ và qua q trình xây dựng, trưởng thành Đảng ta ln
khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của TCCSĐ: TCCSĐ là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu là một bộ phận
trong hệ thống tổ chức của Đảng, là một loại hình TCCSĐ, là tổ chức lãnh đạo
của Đảng ở cơ sở địa phương (xã, phường, thị trấn). Vị trí, vai trò của ĐBXPT ở
tỉnh Bạc Liêu thể hiện trên những điểm sau:
Một là, các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu là một bộ phận quan trọng trong hệ
thống tổ chức Đảng bộ tỉnh, góp phần lập nên nền tảng của Đảng ở địa phương.
Đảng là một tổ chức chặt chẽ và khoa học từ Ban Chấp hành Trung ương đến chi
bộ. Các TCCSĐ là một bộ phận cấu thành Đảng và làm nền tảng của Đảng. Sự tồn
tại và phát triển của Đảng trước hết phụ thuộc vào sự tồn tại và phát triển của các
tế bào của Đảng là chi bộ, đảng bộ cơ sở. Các đảng bộ, chi bộ cơ sở được lập ở
các cơ quan, các ngành từ Trung ương đến cơ sở địa phương và các đơn vị cơ sở
lực lượng vũ trang. Nền tảng của Đảng vững chắc do sự vững mạnh của các
TCCSĐ lập thành; là cái bảo đảm cho sự vững chắc của toàn Đảng và các cơ quan

lãnh đạo của Đảng. Các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu là một loại hình và là một bộ
phận trong hệ thống TCCSĐ nên có vị trí, vai trò quan trọng trong lập nên nền
tảng của đảng ở địa phương tỉnh Bạc liêu.
Hai là, các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu là cầu nối giữa Đảng và các cơ quan
lãnh đạo cấp trên với quần chúng nhân dân ở cơ sở địa phương của Tỉnh. Mối
liên hệ giữa Đảng với quần chúng không chỉ là tiêu chuẩn của một Đảng chân
chính mà cịn là một quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Sức sống và cội
nguồn sức mạnh của Đảng được bắt nguồn từ mối liên hệ giữa Đảng với quần
chúng. Quần chúng vừa là đối tượng lãnh đạo, vừa là lực lượng tạo nên sức
mạnh của Đảng. Tách khỏi quần chúng, Đảng khơng cịn lý do để tồn tại và hoạt
động. Quan liêu, xa rời quần chúng là một trong những nguy cơ đáng sợ nhất của
Đảng cầm quyền. Do đặc điểm về tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của các tổ
chức đảng nên mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng chỉ có thể thông qua cầu


20
nối trực tiếp là các TCCSĐ. Là tổ chức lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, trực tiếp liên
hệ với quần chúng nhân dân hằng ngày, nên TCCSĐ có điều kiện nắm rõ những
tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của quần chúng để báo cáo với Đảng, giúp cho các
cơ quan lãnh đạo của Đảng nghiên cứu và giải quyết kịp thời. Mặt khác, Đảng
muốn đưa đường lối, chủ trương đến với quần chúng cũng phải thông qua công
tác tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện của các TCCSĐ. Vì vậy, TCCSĐ
có vai trị rất quan trọng làm cầu nối giữa Đảng với quần chúng và làm cho mối
liên hệ đó ngày càng mật thiết, bền chặt.
Các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu là đảng bộ cơ sở, một loại hình của TCCSĐ,
do vậy là cầu nối giữa Đảng và các cơ quan lãnh đạo cấp trên như đảng ủy cấp
huyện và Tỉnh ủy với quần chúng nhân dân ở cơ sở địa phương (xã, phường, thị
trấn) của Tỉnh.
Ba là, các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu là nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, nghị quyết của cấp ủy cấp trên vào quần chúng nhân dân và tổ

chức thực hiện thắng lợi tại cơ sở địa phương. ĐBXPT là nơi kiểm tra, kiểm nghiệm
tính đúng đắn của đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các cấp
ủy, chính quyền Tỉnh, huyện, Thành phố; nơi đúc rút kinh nghiệm, nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, phản ánh với Đảng, cấp ủy cáp trên để sửa
đổi, bổ sung cho đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, đề án ngày càng đúng
đắn, phù hợp và hoàn chỉnh hơn.
Các ĐBXPT trấn giữ vai trò hết sức quan trọng trong xây dựng khối đại
đồn kết các dân tộc, các tơn giáo; xây dựng thế trận an ninh nhân dân và thế
trận quốc phịng tồn dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an tồn xã
hội và tồn vẹn lãnh thổ quốc gia trên địa bàn Tỉnh.
Từ vị trí, vai trị là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng
với quần chúng, nên TCCSĐ có vai trị, trách nhiệm trực tiếp đưa đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng vào quần chúng và tổ chức thực hiện thắng lợi
đường lối, chính sách ấy. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng là điểm
hội tụ trí tuệ và ý chí của tồn Đảng. Đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng muốn thâm nhập vào quần chúng và được thực hiện phải thông qua nhiều
khâu, nhiều bước, nhiều tổ chức, trong đó trực tiếp nhất là thông qua hoạt động
lãnh đạo của các TCCSĐ. Là TCCSĐ, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ cấp
huyện, Tỉnh ủy, các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu có trách nhiệm cụ thể hố đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng; nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp huyện, Tỉnh
ủy thành nhiệm vụ chính trị của mỗi xã, phường, thị trấn; tiến hành tuyên truyền,
vận động và tổ chức quần chúng nhân dân chấp hành nghiêm đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thơng qua q trình đó,
các ĐBXPT có trách nhiệm báo cáo với các cơ quan lãnh đạo cấp trên những kiến
nghị, góp ý của các tầng lớp nhân dân về đường lối, chính sách đã ban hành để
Đảng, cấp ủy cấp trên nắm bắt đầy đủ, nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung, phát triển,
hồn thiện đường lối, chính sách cho phù hợp. Vì vậy, thắng lợi của đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng ở tỉnh Bạc liêu phụ thuộc rất lớn vào vai trò lãnh
đạo và tổ chức thực hiện của các ĐBXPT.



21
Là hạt nhân chính trị ở cơ sở, các ĐBXPT có vai trị, trách nhiệm kiểm tra,
giám sát mọi hoạt động của chính quyền, đội ngũ cán bộ, nất là chủ tri ở cơ sở địa
phương. Với chức năng lãnh đạo, các ĐBXPT không chỉ bảo đảm cho người cán bộ
chủ trì ở cơ sở hồn thành chức trách, nhiệm vụ của mình, mà cịn kiểm tra, giám
sát việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, nghị quyết, quy định của cấp trên của đội ngũ cán bộ chủ trì; định kỳ tổ chức
sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm góp phần thiết thực trong việc bổ sung, hoàn thiện,
phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước, chủ
trương, kế hoạch của các cấp ủy, chính quyền địa phương trong Tỉnh.
Bốn là, các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu là nơi giáo dục, rèn luyện, kết nạp và
sàng lọc đảng viên, nơi đào tạo cán bộ cho Đảng, nơi xuất phát đề cử ra cơ
quan lãnh đạo các cấp của Đảng. Quản lý, giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng
lọc đảng viên, đào tạo cán bộ cho Đảng là một nhiệm vụ thường xuyên quan
trọng của toàn Đảng và tổ chức đảng các cấp. TCCSĐ là nơi trực tiếp quản lý,
giáo dục, rèn luyện đảng viên. Đảng viên dù đảm nhiệm cương vị, trọng trách
nào trong các cơ quan Đảng, Nhà nước đều phải tham gia sinh hoạt và chịu sự
quản lý của một TCCSĐ. TCCSĐ trực tiếp tác động tới từng đảng viên và giáo
dục, rèn luyện họ thành những đảng viên ưu tú. Thông qua các nghị quyết lãnh
đạo, thông qua công tác tư tưởng và tổ chức, bằng các biện pháp quản lý, duy trì
các chế độ nền nếp sinh hoạt Đảng, phân cơng nhiệm vụ cho đảng viên, tự phê
bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát đảng viên và chấp hành kỷ luật Đảng
để giáo dục, rèn luyện đảng viên. Với vai trò là cầu nối trực tiếp giữa Đảng với
quần chúng, TCCSĐ có điều kiện lựa chọn những quần chúng ưu tú, có đủ điều
kiện, tiêu chuẩn để bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện, thử thách, kết nạp họ vào Đảng,
tăng thêm nguồn sinh lực cho Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng. Thông qua việc quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên,
TCCSĐ có trách nhiệm phát hiện, bồi dưỡng và rèn luyện đội ngũ cán bộ cho Đảng.
Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng từ Ban Chấp hành Trung ương tới cơ

sở do bầu cử lập ra. TCCSĐ là nơi xuất phát đề cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp
của Đảng. TCCSĐ có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng trong tồn bộ cơng tác
xây dựng và hoạt động của Đảng. Từ khi thành lập Đảng đến nay, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln coi trọng xây dựng, củng cố TCCSĐ, đặc biệt
là chi bộ. Người căn dặn: “Đối với Đảng ta, việc xây dựng chi bộ cho tốt, cho
vững mạnh là một việc vơ cùng quan trọng” [30, tr.80]. Vì vậy, cần thường
xun chăm lo xây dựng, củng cố TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, khơng ngừng
nâng cao năng lực lãnh đạo tồn diện và sức chiến đấu của TCCSĐ, làm cho
TCCSĐ thật sự trở thành nền tảng của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ
sở. Đây là trách nhiệm của cấp ủy, cơ qua chức năng cấp trên và của chính bản
thân TCCSĐ và của mọi cán bộ, đảng viên.
Như vậy, các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu là TCCSĐ được lập ở xã, phường, thị
trấn của Tỉnh, theo đó có vai trò là nơi giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đảng
viên ở cơ sở địa phương, nơi đào tạo cán bộ cho Đảng, nơi xuất phát đề cử ra cơ
quan lãnh đạo các cấp của Đảng từ cơ sở địa phương tỉnh Bạc Liêu.
Đặc điểm các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu


22
Một là, các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu được lập ở tất cả các xã, phường, thị
trấn của tỉnh. Thực tế, ở tất cả 64 xã, phường, thị trấn thuộc tỉnh Bạc Liêu đều có
số lượng đảng viên trên 60 đồng chí và đều đủ điều kiện thành lập đảng bộ cơ sở
theo quy định của Ban Bí thư (khơng có xã, phường, thị trấn thành lập chi bộ cơ
sở). Trực thuộc ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu đa số là các chi bộ khóm, ấp. Cách sắp
xếp các chi bợ tương đới hợp lý theo địa bàn khóm, ấp, liên ấp, khu dân cư; một
số chi bộ đông đảng viên thì chia thành các tở đảng. Ở Đảng bộ tỉnh Bạc liêu,
không thành lập đảng bộ bộ phận dưới các ĐBXPT.
Hai là, số lượng đảng viên của các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu có sự chênh
lệch khá lớn. Ở mỗi ĐBXPT số lượng đảng viên cũng không đồng đều và do đó
số chi bộ trực thuộc các đảng bộ trên cũng rất khác nhau. Cụ thể là: các đảng bộ ở

phường thường có số đảng viên đơng hơn (đảng bộ có số đảng viên đơng nhất là
trên 400); đảng bộ ở các xã, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa thường ít đảng viên
hơn (đảng bộ có số đảng viên ít nhất là 100)
Ba là, đa số đảng viên ở các ĐBXPT có tuổi đời tương đối trẻ. So với một số
địa phương khác trong cả nước, ở các ĐBXPT của tỉnh Bạc Liêu, đa số đảng viên
có tuổi đời tương đối trẻ; tuổi đời của các đảng viên mới kết nạp cũng ngày càng
được trẻ hố. Tuổi bình quân của đảng viên ở các đảng bộ xã khoảng 49, ở đảng
bộ phường, thị trấn khoảng 37). Do vậy, đội ngũ đảng viên là những người hăng
hái trong lao động sản xuất và nhiệt tình trong cơng tác. Đây là điều kiện thuận lợi
để đảng viên ở các ĐBXPT đi đầu trong tiếp nhận tiến bộ khoa học, kỹ thuật và
kiến thức, kỹ năng tổ chức, điều hành sản xuất, kinh doanh và hướng dẫn, tổ chức
nông dân, người lao động áp dụng vào phát triển sản xuất, kinh doanh.
Bốn là, trình độ học vấn của đội ngũ đảng viên của các ĐBXPT thấp hơn so
với trình độ học vấn của đội ngũ đảng viên ở các loại hình TCCSĐ khác của
Đảng bộ tinh Bạc Liêu. Thực tế, trình độ học vấn của đội ngũ đảng viên của các
ĐBXPT thấp hơn so với đội ngũ đảng viên ở các loại hình TCCSĐ khác của
Đảng bộ Tinh và thấp hơn đối tượng tương ứng ở một số đảng bộ tỉnh, thành phố
trong cả nước. Tuy nhiên hiện nay, trong đội ngũ đảng viên của các ĐBXPT ở
tỉnh Bạc Liêu không có đảng viên mù chữ. Dù trình độ, năng lực của đảng viên
khi mới kết nạp ngày càng nâng cao, tuổi đời ngày càng trẻ hố, nhưng nhìn
chung trình độ, năng lực của đội ngũ đảng viên ở xã, phường, thị trấn còn hụt
hẫng so với nhu cầu phát triển của xã hội, một bộ phận đảng viên, đặc biệt là
đảng viên Khmer cịn nhiều khó khăn về đời sống, ít có điều kiện học tập, tự
hoạc tập, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ.
Năm là, đội ngũ đảng viên và của các ĐBXPT tương đối thuần nhất, đồng
nhất. Phần lớn đảng viên của các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu là nông dân và cán bộ
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp cơng tác Đảng, chính quyền, đồn thể ở xã,
phường, thị trấn và cán bộ khóm, ấp. Đây là điều kiện thuận lợi cho công tác
quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên của các ĐBXPT. Tuy nhiên, cũng
có những điểm cần lưu ý trong quá trình đổi mới tư duy, nâng cao năng lực lãnh

đạo tồn diện của các đảng bộ đối với q trình CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng
thơn và q trình đơ thị hóa.... Đó là tư tưởng, tâm lý, tác phong tiểu nông, sản
xuất nhỏ manh mún, không cơ bản, hệ thống, khoa học, .... Điều đó trái ngược


23
với tư tưởng, tâm lý, tác phong sản xuất lớn, CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn mà cả nước và Tỉnh Bạc Liêu đang hướng tới để phấn đấu.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về chất lượng các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu
* Quan niệm về chất lượng các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu
Phạm trù “chất” và “lượng” gắn liền với sự phát triển trong quan niệm của
con người về cách thức, trạng thái tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Theo quan điểm Mác - Lênin, chất của sự vật, hiện tượng được tạo nên bởi các
thuộc tính của nó, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính. Thuộc tính là
những tính chất của sự vật, là những cái vốn có của sự vật đó. Nhưng thuộc tính
của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thơng qua mối quan hệ của sự vật đó
với sự vật, hiện tượng khác.
Chất của sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, là cái để phân biệt sự vật,
hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Đồng thời, học thuyết Mác – Lênin
cũng chỉ ra rằng: cùng với tính quy định về chất, bất kỳ sự vật nào cũng có tính
quy định về lượng. Lượng của sự vật tồn tại khách quan gắn với chất của sự vật,
bất kỳ một sự vật nào cùng với những tính quy định về chất bao giờ cũng có
những tính quy định về lượng. Lượng của sự vật vừa biểu hiện tính cụ thể, vừa
biểu hiện tính trừu tượng. Nhận thức về lượng của sự vật có thể thơng qua cân,
đong, đo, đếm được bằng các dụng cụ đo lường. Nhưng đồng thời tính quy định
về lượng của sự vật cũng biểu hiện dưới dạng trừu tượng, khái quát như: đánh
giá trình độ giác ngộ cách mạng, phẩm chất đạo đức của một con người; trình độ
phát triển của một xã hội... Do đó, để nhận thức đúng về lượng của sự vật địi hỏi
phải có sự trừu tượng hóa cao với một phương pháp luận khoa học.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học, Nhà xuất bản Đàng

Nẵng: “Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một người, một sự vật,
một sự việc. Đó là tổng thể những thuộc tính cơ bản khẳng định sự tồn tại của
sự vật và phân biệt nó với những sự vật khác”.
Như vậy, dù mỗi lĩnh vực, phương pháp xem xét khác nhau về chất lượng,
nhưng có điểm chung: chất lượng của sự vật là tổng hợp các yếu tố liên quan đến
bản chất của sự vật đó, làm nên tác dụng, giá trị của sự vật. Có thể nói, khi xem
xét chất lượng là nói đến tốt hay xấu, đạt hay không đạt, đạt đến đâu theo một
chuẩn mực và nhằm mục đích nào đó.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu: Chất lượng các ĐBXPT ở tỉnh Bạc
Liêu là tổng hịa các thuộc tính, giá trị của các yếu tố về tổ chức, sinh hoạt và
hoạt động của các đảng bộ, là kết quả của quá trình xây dựng của cấp ủy cấp
trên cùng với các lực lượng và chính bàn thân các đảng bộ, được thể hiện ở
mức độ trong sạch, vững mạnh, khả năng hồn thành nhiệm vụ được giao.
Từ quan niệm trên có thể chỉ ra những yếu tố tạo thành chất lượng các ĐBXPT
tỉnh Bạc Liêu như sau:
- Chất lượng đội ngũ đảng viên. Chất lượng đội ngũ đảng viên là nhân tố cơ
bản tạo nên chất lượng của các ĐBXPT. Đó là kết quả tổng hợp của yếu tố số
lượng, chất lượng của các đảng viên và cơ cấu đội ngũ đảng viên trong đảng bộ.
Đội ngũ đảng viên có phẩm chất, năng lực tốt là cơ sở trực tiếp nâng cao sức


24
mạnh của đảng bộ. Ngược lại, đảng bộ vững mạnh sẽ có điều kiện để xây dựng
đội ngũ đảng viê có chất lượng cao hơn. Sự gắn bó chặt chẽ giữa các cá nhân với
tập thể, giữa tập thể với từng cá nhân sẽ phát huy tốt hơn khả năng, vai trò của
từng thành viên và tổ chức, làm cho sức mạnh của tổ chức được nhân lên gấp
bội. V.I.Lê-nin có câu nói nổi tiếng: "...hãy cho chúng tơi một tổ chức những
người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo ngược nước Nga lên!" [53,162]. Như vậy,
đội ngũ những người cách mạng, đội ngũ CBĐV là lực lượng tạo lên sức mạnh
cho Đảng, quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:

"Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt" [35, 92].
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ suy cho cùng là do chất lượng
đội ngũ đảng viên tạo nên.
Chất lượng đội ngũ đảng viên được tạo nên và biểu hiện ở phẩm chất, năng
lực, số lượng, cơ cấu đội ngũ đảng viên. Về phẩm chất, năng lực bao gồm: phẩm
chất chính trị, đạo đức, trình độ trí tuệ, kiến thức, kinh nghiệm, năng lực tổ chức
hoạt động thực tiễn, phong cách, tác phong cơng tác, uy tín, tính tiền phong
gương mẫu, thể lực và tâm lý. Trong các yếu tố tạo nên phẩm chất, năng lực của
người đảng viên thì bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ giữ vai trị hết sức quan
trọng. Theo Chủ tịch Hồ Chi Minh thì tiêu chuẩn người CBĐV là phải có "đức"
có "tài". "Tài" được tạo lên chủ yếu từ năng lực trí tuệ. Bên cạnh đó để đấu tranh
làm thất bại âm mưu, hành động "diễn biến hồ bình", bạo loạn lật đổ của kẻ thù,
đội ngũ đảng viên cũng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có sự hiểu biết cần
thiết về chính trị, ...sẽ tạo khả năng "miễn dịch", "sức đề kháng" cao cho người
đảng viên, làm vơ hiệu hố những tác động tiêu cực của đời sống xã hội, phòng
chống "diễn biến hồ bình", nâng cao ý chí quyết tâm vượt lên mọi khó khăn,
thử thách, hồn thành nhiệm vụ
Số lượng và cơ cấu đội ngũ đảng viên cũng góp phần tạo nên chất lượng của
đảng bộ. Có số lượng đảng viên thích hợp, tỷ lệ lãnh đạo ngày càng cao cho phép
bố trí đủ đảng viên làm lực lượng nịng cốt ở các khóm, ấp, tăng cường hiệu lực
lãnh đạo, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện, sâu sát của các đảng bộ đối với xã,
phường, thị trấn. .....Vì vậy, đội ngũ đảng viên có phẩm chất, năng lực tốt, số lượng
thích hợp, tỷ lệ lãnh đạo ngày càng cao, bố trí, sắp xếp hợp lý là yếu tố quan trọng
hàng đầu để nâng cao chất lượng của chi bộ, đảng bộ.
- Chất lượng của cấp uỷ và đội ngũ cán bộ chủ chốt. Đó là kết quả tổng hợp
từ số lượng, chất lượng của các cấp uỷ viên và cơ cấu của cấp ủy và số lượng,
chất lượng, cơ cấu của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị ở xã,
phường, thị trấn. Chất lượng đảng bộ tuỳ thuộc rất lớn vào chất lượng của cấp uỷ
đảng và đội ngũ cán bộ chủ chốt. Nếu đảng bộ là hạt nhân chính trị, trung tâm
đồn kết... của cơ sở địa phương thì chi uỷ, đảng uỷ và đội ngũ cán bộ chủ chốt

là hạt nhân, trụ cột của chi bộ, đảng bộ và cơ sở địa phương. Chất lượng của các
cấp uỷ đảng, của đội ngũ cán bộ chủ chốt là một trong những nhân tố cơ bản,
quyết định đến chất lượng của các ĐBXPT. Bởi vì các cấp uỷ đảng, đội ngũ cán
bộ chủ chốt là hạt nhân lãnh đạo của đảng bộ và xã, phường, thị trấn, tiêu biểu
cho trí tuệ và sức mạnh của tổ chức đảng và xã, phường, thị trấn. Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng địi hỏi: “Mỗi cấp uỷ đảng phải là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy


25
phong trào cách mạng sôi nổi tiến lên" [64, 205]. Mọi hoạt động xây dựng đảng
bộ, các khâu, các bước trong tiến trình lãnh đạo của đảng bộ đều có sự đề xuất
chỉ đạo, tổ chức điều hành, quản lý, kiểm tra của cấp uỷ đảng. Các cấp uỷ đảng
là người trực tiếp dự thảo, hoàn chỉnh nghị quyết, quán triệt, tổ chức thực hiện
nghị quyết, nắm tình hình, kết quả, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, duy trì các
nguyên tắc tổ chức, chế độ sinh hoạt Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên,
các tổ chức, đoàn thể quần chúng, giải quyết các mối quan hệ của đảng bộ, xã,
phường, thị trấn ... Cùng với cấp uỷ đảng, cán bộ chủ chốt là người trực tiếp lãnh
đạo, vận dụng và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, nghị quyết của tổ chức đảng hàng ngày ở cơ sở; là người chịu
trách nhiệm trước hết về tình hình và kết quả thực hiện nhiệm vụ của cơ sở địa
phương. Với một cấp uỷ đảng và đội ngũ cán bộ chủ chốt thường xun được
kiện tồn về số lượng, cơ cấu, có sự đồn kết thống nhất vững chắc, các uỷ viên
có phẩm chất, năng lực tốt, có uy tín và sức chiến đấu cao, thực sự là trụ cột của
đảng bộ sẽ là tiền đề, điều kiện tiên quyết để xây dựng đảng bộ trong sạch, vững
mạnh, lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Chất lượng cấp
uỷ đảng và đội ngũ cán bộ chủ chốt được thể hiện ở phẩm chất, năng lực, uy tín
của mỗi cán bộ; ở việc kiện tồn, đảm bảo ln có đủ số lượng với cơ cấu hợp
lý; ở chế độ, chất lượng sinh hoạt, sự đoàn kết, thống nhất trong cấp uỷ là tổ
chức chính quyền.
- Việc chấp hành các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và chế độ sinh hoạt Đảng.

thể hiện ở việc xây dựng và thực hiện tốt quy chế làm việc của đảng uỷ, phân định
rõ vị trí, vai trị lãnh đạo tập thể và cá nhân phụ trách, duy trì đảm bảo các nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đặc biệt là bàn định và ra các nghị quyết của đảng uỷ,
của đảng bộ thực sự sát đúng, phù hợp với thực tiễn địa phương.
Chấp hành nghiêm túc, duy trì nề nếp có chất lượng các nguyên tắc tổ chức,
lãnh đạo và chế độ sinh hoạt Đảng sẽ đảm bảo đảng bộ có sự đoàn kết, thống nhất
cao, phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật, làm trong sạch nội bộ. Qua đó, phát huy
được trí tuệ của tập thể, vai trị tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nâng
cao chất lượng sinh hoạt, đảm bảo cho đảng bộ có tính tổ chức, tính kỷ luật và sự
đồn kết thống nhất cao, sức chiến đấu sẽ được nhân lên gấp bội. V.I.Lê-nin từng
chỉ rõ: "Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền, giai cấp vơ sản khơng có thứ
vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức" [29, 490]. Thực tiễn cũng cho thấy đây là nguồn
gốc tạo lên sức mạnh vô địch của đảng.
Chấp hành nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và chế độ sinh hoạt đảng sẽ nâng cao
sức chiến đấu cho các cấp uỷ đảng và mọi cán bộ, đảng viên, làm cho họ có ý
thức trách nhiệm cao, tuân thủ nghiêm ngặt và đấu tranh với những hiện tượng
buông lỏng, vi phạm nguyên tắc, chế độ. Khi các nguyên tắc, chế độ đó được
thực hiện nghiêm chỉnh, có nề nếp thì chính nó lại là cơ sở để giữ vững, nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ.
- Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiếm tra, đôn đốc, giúp đỡ
của cấp ủy, cấp trên và sự tham gia đóng góp xây dựng của các tổ chức, các lực
lượng. Cấp ủy cấp trên ở đây muốn nói đến từ Đại hội Đảng, Ban chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến cấp ủy cấp huyện, mà thường xuyên,


26
trực tiếp là cấp ủy cấp huyện. Mặt khác, còn có nói đến sự quan tâm chỉ đạo,
hướng dẫn của các cơ quan của Đảng, của Tỉnh ủy, huyện ủy, thành ủy. Các tổ
chức, các lực lượng khác, bao gồm: các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp;
các tầng lớp nhân dân thông qua các hoạt động cụ thể, tham gia đóng góp xây

dựng các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu.
Như vậy, chất lượng ĐBXPT được tạo thành bởi chất lượng đội ngũ đảng
viên, chất lượng của cấp uỷ và đội ngũ cán bộ chủ chốt; việc chấp hành các
nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và chế độ sinh hoạt Đảng; sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ
đạo, giúp đỡ, đóng góp xây dựng của cấp trên và các tổ chức, lực lượng liên quan.
Đó là những yếu tố cơ bản tạo thành chất lượng của ĐBXPT. Các nhân tố này có
mối quan hệ, biện chứng, thống nhất với nhau tạo nên chất lượng, biểu hiện ở
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các đảng bộ. Tuy nhiên, các nhân tố này có
vị trí, vai trị khơng ngang bằng nhau, trong đó chất lượng đội ngũ đảng viên và
các cấp uỷ đảng là yếu tố cơ bản, quyết định nhất.
Ngồi ra, chất lượng của ĐBXPT cịn đặt trong quan hệ, tác động với nhiều
yếu tố khác. Trong các yếu tố đó, đảng uỷ, cơ quan chức năng cấp trên trực tiếp
và các tổ chức, đoàn thể quần chúng ở xã, phường, thị trấn có quan hệ chặt chẽ,
tác động to lớn đến chất lượng của các đảng bộ. Tổ chức đảng và cơ quan chức
năng cấp trên, nhất là cấp trên trực tiếp lãnh đạo chỉ đạo công tác xây dựng Đảng,
có quan hệ chặt chẽ, thường xuyên gắn bó với ĐBXPT. Các tổ chức, đồn thể
quần chúng ở xã, phường, thị trấn cũng là nhân tố tác động trực tiếp, to lớn đến
chất lượng của các đảng bộ. Khác với các tổ chức đảng cấp trên, đảng bộ cấp xã là
nơi gắn bó chặt chẽ, trực tiếp, hàng ngày, hàng giờ với quần chúng. Chính sự gắn
bó ấy tạo ra điều kiện để đảng bộ củng cố vai trị hạt nhân lãnh đạo của mình, xây
dựng và phát triển lực lượng nòng cốt của phong trào cách mạng. Mọi hoạt động,
mọi ưu, khuyết điểm của mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng đều được thể hiện
trước quần chúng, được quần chúng phản ánh lại, giúp cho đảng bộ nhận thức đầy
đủ, đúng đắn hơn những hạn chế, yếu kém cần khắc phục; những mặt mạnh cần
phát huy; có chủ trương biện pháp lãnh đạo phù hợp hơn.
* Tiêu chí đánh giá chất lượng các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu
Đánh giá đúng chất lượng ĐBXPT là một yêu cầu rất quan trọng của bản
thân đảng bộ đó và của cấp uỷ cấp trên. Bởi vì kết quả đánh giá là cơ sở đề ra
chủ trương, giải pháp sát, đúng để phát huy những mặt tích cực, khắc phục mặt
hạn chế, yếu kém, nhằm nâng cao chất lượng đảng bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm

vụ mới.
Đánh giá chất lượng của một sự vật hiện tượng phải dựa vào căn cứ khoa học
rõ ràng, cụ thể, đó cũng có thể coi là tiêu chí để đánh giá. Theo từ điển Tiếng Việt:
“Tiêu chí là dùng để chỉ tính chất dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một
sự vật, một khái niệm” [59, tr.936]. Theo đó, chất lượng các ĐBXPT ở tỉnh Bạc
Liêu được xác định bởi một loạt các dấu hiệu, các chỉ số về mặt định tính, định
lượng. Nhờ kết quả đó mà có thể tìm ra nguyên nhân của ưu khuyết, điểm và đúc
rút kinh nghiệm, đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng các ĐBXPT. Năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu là sự phản ánh tập trrung nhất chất lượng, khả năng thực
hiện nhiệm vụ của các ĐBXPT.


27
Việc đánh giá chất lượng TCCSĐ phải căn cứ vào yêu cầu nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng;
Quy định của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của TCCSĐ. Từ tiếp cận như
trên, căn cứ Hướng dẫn số 07-HD/BTCTW, ngày 11 tháng 10 năm 2011 của Ban
Tổ chức Trung ương về “đánh giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên”; căn cứ vào
Hướng dẫn số 06-HD/BTCTU, ngày 09 tháng 11 năm 2011 của Ban Tổ chức
Tỉnh ủy về đánh giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên có thể xác định tiêu chí
đánh giá như sau:
Một là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, đảm bảo quốc phịng, an
ninh. Tiêu chí này được xác định trên những nội dung cụ thể là: Kết quả thực
hiện nhiệm vụ chính trị của đảng bộ và nhiệm vụ đựoc cấp uỷ cấp trên giao; việc
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân; cơng tác đấu tranh phịng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Kết quả lãnh đạo công tác quốc phịng tồn
dân và thực hiện chính sách hậu phương qn đội; giữ vững an ninh chính trị và
trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, đơn vị.
Hai là, tiến hành cơng tác chính trị tư tưởng. Tiêu chí này được xác định

trên những nội dung cụ thể là: Kết quả đạt được trong việc phổ biến, quán triệt
và lãnh đạo đảng viên, quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Kết quả công tác phát hiện, ngăn
ngừa, đấu tranh với những biểu hiện về tư tưởng và hành vi trái với quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nói, làm,
viết trái với nghị quyết. Kết quả nắm tình hình tư tưởng và diễn biến tư tưởng
của đảng viên, quần chúng để có biện pháp lãnh đạo hoặc báo cáo lên cấp trên
giải quyết.
Ba là, lãnh đạo xây dựng chính quyền, MTTQ và các tổ chức CT - XH. Tiêu
chí này được xác định trên những nội dung cụ thể là: Kết quả công tác xây dựng
và phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền cơ sở, của cơ quan, đơn
vị; công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của chính quyền; xem xét, giải
quyết những vấn đề xảy ra ở cơ sở và những đề xuất, kiến nghị chính đáng của
nhân dân thuộc trách nhiệm của chính quyền cơ sở, của cơ quan, đơn vị. Kết quả
lãnh đạo xây dựng xã, phường thị trấn, MTTQ và các tổ chức CT - XH vững
mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi tổ
chức; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trong cơ quan, đơn vị.
Bốn là, lãnh đạo thực hiện cơng tác xây dựng đảng bộ. Tiêu chí này được
xác định trên những nội dung cụ thể là: Kết quả công tác xây dựng đảng bộ, chi
bộ trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng chính quyền, các tổ chức CT - XH
vững mạnh và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; việc xây dựng và
thực hiện quy chế làm việc của cấp uỷ, đảng bộ, chi bộ; thực hiện tự phê bình,
phê bình và nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng;
thực hiện chế độ sinh hoạt đảng nề nếp và đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng
sinh hoạt của cấp uỷ, chi bộ; xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong tổ chức đảng
Kết quả công tác kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng, đảng viên trong việc
chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ cấp trên và các nhiệm vụ


28

được giao; việc phát hiện, xử lý đảng viên sai phạm; cơng tác bảo vệ chính trị
nội bộ; đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác; kết
quả công tác giáo dục, bồi dưỡng, quản lý và phân công công tác cho đảng viên;
thực hiện việc giới thiệu đảng viên đang công tác giữ mối liên hệ với đảng uỷ,
chi uỷ cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Kết quả công
tác bồi dưỡng, tạo nguồn và kết nạp đảng viên, nhất là ở những địa bàn trọng
yếu, những nơi có ít hoặc chưa có đảng viên.
Năm là, lãnh đạo thực hiện việc học tập tư tưởng và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Tiêu chí này được xác định trên những nội dung cụ thể là:
Kết quả tổ chức cho đảng viên nghiên cứu, học tập, quán triệt Chỉ thị của Bộ
Chính trị, các văn bản của Trung ương về học tập tư tưởng và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh; xây dựng tiêu chí về chuẩn mực đạo đức của cán
bộ, đảng viên ở địa phương theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
để thực hiện. Kết quả của việc định kỳ kiểm điểm, đánh giá kết quả việc học tập
tư tưởng và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của đảng bộ, chi bộ và
đảng viên, quần chúng trong sinh hoạt đảng (hàng tháng, sơ kết 6 tháng và tổng
kết năm); chỉ rõ những việc làm được, chưa làm được để có biện pháp phát huy
ưu điểm, khắc phục khuyết điểm; biểu dương những cán bộ, đảng viên có những
việc làm cụ thể, thiết thực về học tập tư tưởng và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh.
Trên đây là 5 tiêu chí đánh giá chất lượng ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu. Cần lưu
ý là việc đánh giá chất lượng ĐBXPT phải căn cứ chủ yếu vào kết quả thực hiện
các nhiệm vụ của đảng bộ; sự vững mạnh của các tổ chức trong hệ thống chính
trị ở xã, phường, thị trấn, và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các tiêu chí
đánh giá chất lượng ĐBXPT được lượng hóa qua quy định mức điểm đạt được
cụ thể như sau:
- Về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị: số điểm tối đa là 30;
- Về lãnh đạo cơng tác chính trị tư tưởng: số điểm tối đa là 15;
- Về lãnh đạo xây dựng chính quyền, MTTQ và các tổ chức CT - XH: số
điểm tối đa là 15;

- Về thực hiện công tác xây dựng Đảng: số điểm tối đa là 25;
- Về thực hiện việc học tập tư tưởng và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh: số điểm tối đa là 15.
Thông qua tổng số điểm đạt được, xếp loại chất lượng TCCSĐ theo 4 mức là:
ĐBXPT trong sạch, vững mạnh:
Là những đảng bộ, chi bộ thực hiện xuất sắc 5 nhiệm vụ nói trên và đạt được
từ 90 điểm trở lên; đồng thời, phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ;
- Tổ chức chính quyền, MTTQ và các tổ chức CT - XH ở cơ sở đều đạt vững
mạnh hoặc tiên tiến xuất sắc;


29
- Khơng có cấp uỷ viên, cán bộ là cấp trưởng, cấp phó của các tổ chức trong
hệ thống chính trị ở cơ sở bị xử lý kỷ luật từ khiển trách trở lên (trừ những trường
hợp bị kỷ luật do tổ chức đảng chủ động phát hiện và tích cực đấu tranh, xử lý);
- Tỷ lệ đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt từ 80% trở lên;
- Nếu là đảng bộ cơ sở phải có từ 2/3 trở lên số chi bộ trực thuộc đạt trong
sạch, vững mạnh và khơng có chi bộ yếu kém;
- Các chi bộ sinh hoạt đều, đúng quy định và tỷ lệ đảng viên dự sinh hoạt
bình quân đạt từ 80% trở lên.
Trong số những TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, cấp uỷ cấp trên xem xét,
lựa chọn một số TCCSĐ trong sạch, vững mạnh tiêu biểu để biểu dương, khen
thưởng; số TCCSĐ được khen thưởng tối đa không vượt quá 20% tổng số TCCSĐ
đạt trong sạch, vững mạnh.
ĐBXPT hoàn thành tốt nhiệm vụ:Là những đảng bộ, chi bộ thực hiện tốt 5
nhiệm vụ nêu trên, nhưng chưa đạt mức trong sạch, vững mạnh và có tổng số
điểm đạt từ 70 đến dưới 90 điểm.
ĐBXPT hoàn thành nhiệm vụ: Là những đảng bộ, chi bộ cơ bản thực hiện
được 5 nhiệm vụ nêu trên nhưng còn một số hạn chế và có tổng số điểm đạt từ 50

đến dưới 70 điểm.
ĐBXPT yếu kém: Là những đảng bộ, chi bộ khơng hồn thành nhiệm vụ
được giao và đạt dưới 50 điểm hoặc tuy đạt từ 50 trở lên nhưng có một trong các
khuyết điểm sau:
- Nội bộ mất đoàn kết kéo dài, khơng xử lý kiên quyết, dứt khốt;
- Để xảy ra tham nhũng, tiêu cực đến mức có cán bộ, đảng viên phải kỷ luật;
- Đảng bộ cơ sở có từ 1/3 số chi bộ trực thuộc trở lên xếp loại yếu kém.
Việc đánh giá, xếp loại ĐBXPT phải căn cứ vào 5 tiêu chí được lượng hóa
bằng tính điểm cụ thể như trên. Trong đó cần chú ý thêm: Những đảng bộ xếp
loại từ mức hoàn thành nhiệm vụ trở lên phải có việc làm cụ thể, thiết thực về học
tập tư tưởng và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; đồng thời, đạt từ 8
điểm trở lên về thực hiện nhiệm vụ học tập tư tưởng và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh.
1.1.3. Quan niệm và những vấn đề có tính ngun tắc trong nâng cao
chất lượng các đảng bộ, xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu
* Quan niệm nâng cao chất lượng các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu
Nâng cao là làm cho cao hơn, tốt hơn, là một loại hoạt động làm cho sự vật,
hiện tượng biến đổi, phát triển theo chiều hướng tốt hơn. Mỗi sự vật, hiện tượng tồn
tại đều do các bộ phận, yếu tố cấu thành, tương tác với nhau theo những nguyên tắc,
cơ chế nhất định. Sự tác động đến các yếu tố, bộ phận phù hợp với quy luật sẽ làm
cho sự vật, hiện tượng vận động phát triển tích cực tiến lên khơng ngừng, đạt đến
trình độ mới với chất lượng mới tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Chất lượng các ĐBXPT ở tỉnh Bạc Liêu đang từng bước được nâng cao.
Đây là quá trình tác động liên tục của chủ thể cùng các lực lượng tham gia, bằng


×