MỤC LỤC
Tran
MỞ ĐẦU
Chương 1
g
3
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
Ở CÁC DOANH NGHIỆP QUỐC PHÒNG – AN NINH
THUỘC TỔNG CỤC CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG
1.1.
Đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh
và những vấn đề cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng
1.2.
cục Công nghiệp quốc phòng
Thực trạng và kinh nghiệm nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng hiện nay
Chương 2
YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở CÁC
DOANH NGHIỆP QUỐC PHÒNG – AN NINH
THUỘC TỔNG CỤC CÔNG NGHIỆP QUỐC
PHÒNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1.
Sự phát triển tình hình nhiệm vụ và yêu cầu nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng
– an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng trong
2.2.
giai đoạn hiện nay.
Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng
cục Công nghiệp quốc phòng trong giai đoạn hiện nay
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Ban chấp hành
Cán bộ, đảng viên
Chủ nghĩa đế quốc
Chủ nghĩa xã hội
Công tác đảng, công tác chính trị
“Diễn biến hòa bình”
Hoàn thành nhiệm vụ
Hoàn thành tốt nhiệm vụ
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
Lý luận chính trị
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân
Quốc phòng – an ninh
Trách nhiệm hữu hạn
Trong sạch vững mạnh
Xã hội chủ nghĩa
Chữ viết tắt
BCH
CB, ĐV
CNĐQ
CNXH
CTĐ,CTCT
“DBHB”
HTNV
HTTNV
HTXSNV
LLCT
Nxb CTQG
Nxb QĐND
QP-AN
TNHH
TSVM
XHCN
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong những năm đầu
chính quyền Xô viết non trẻ, V.I.Lênin khẳng định: “Nghiên cứu con người,
tìm ra những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là vấn đề then chốt; nếu không
thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn” [21, tr.449].
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc; muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém.
Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo đòi hỏi phải phát huy
sức mạnh và trí tuệ sáng tạo của nhân dân, trong đó đội ngũ cán bộ là lực
lượng nòng cốt. Thực tiễn cách mạng ở nước ta cho thấy, ở địa phương nào có
đội ngũ cán bộ tốt, thì ở đó phong trào quần chúng phát triển mạnh mẽ, kinh
tế - xã hội phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải
thiện; mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng được củng cố tăng cường. Vì
thế, bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta khẳng định: đổi mới cán bộ lãnh đạo
các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng phải nắm chắc để thúc đẩy
những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng.
Nhiệm vụ của các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng trong sự nghiệp phát triển công nghiệp quốc phòng,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải không ngừng nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng –
an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng là người trực tiếp chỉ đạo,
quản lý, điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng doanh nghiệp
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Chức năng, nhiệm vụ của các
doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng
đòi hỏi phải có số lượng cán bộ phù hợp, cơ cấu hợp lý, có phẩm chất
chính trị, đạo đức, năng lực, phong cách công tác ngang tầm.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy, Chỉ huy
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, Đảng ủy các doanh nghiệp quốc phòng – an
ninh đã có nhiều chủ trương, giải pháp tích cực nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ thuộc diện quản lý. Nhờ đó, đã góp phần nâng cao phẩm chất
chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực và hiệu quả công tác, đội ngũ cán bộ có
3
số lượng, cơ cấu ngày càng hợp lý, chất lượng được nâng cao.
Mặc dù vậy chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng –
an ninh, bên cạnh những ưu điểm vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập cả về số lượng,
cơ cấu, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, phong cách. Tình trạng
suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi một cách có hiệu quả. Trình độ, năng lực quản lý của
đội ngũ cán bộ còn nhiều mặt hạn chế. Có nhiều nguyên nhân của tình hình trên,
trong đó có nguyên nhân từ công tác cán bộ vẫn còn những hạn chế, bất cập cả
trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Trong nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh, một số chủ thể, chưa nhận
thức đầy đủ về mục tiêu, nội dung và biện pháp, còn gặp nhiều khó khăn, lúng
túng trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Một số cấp ủy các doanh nghiệp quốc
phòng – an ninh chưa chấp hành nghiêm quy chế, quy trình, thực hiện các khâu,
các nội dung của công tác cán bộ. Vì thế, đã dẫn đến những khuyết điểm trong
bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cũng như thực hiện chế độ, chính
sách cán bộ, thậm chí gây hậu quả xấu.
Hiện nay, trước yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ của các doanh nghiệp quốc
phòng – an ninh cách mạng có bước phát triển mới, yêu cầu ngày càng cao. Tình
hình đó đã và đang trực tiếp đặt ra yêu cầu ngày càng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ ở Tổng cục Công nghiệp quốc phòng..
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ
chuyên ngành xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cán bộ và công tác cán bộ đã được đề cập trong các tác phẩm của các
nhà kinh điển Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các văn kiện, nghị quyết
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quán triệt quan điểm, chủ trương chính sách
của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới, đến nay đã có nhiều
công trình của cá nhân và tập thể nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ trong
và ngoài quân đội với các góc độ tiếp cận khác nhau.
4
Nguyễn Phú Trọng (2001): “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”, Nxb CTQG – ST, Hà Nội, 2001. Cuốn sách đã làm rõ những vấn đề
lý luận và phương pháp luận về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên cơ sở đó đưa ra
những quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu
cầu sự nghiệp cách mạng cả hiện tại và tương lai; luận giải những yêu cầu về
chất lượng đội ngũ cán bộ trong điều kiện hoàn cảnh mới của đất nước và thời
đại. Về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, tác giả chỉ rõ, phải căn cứ vào tiêu
chuẩn cán bộ, chất lượng, hiệu quả công việc thực tế, có tính đến môi trường và
điều kiện công tác, mức độ tín nhiệm của quần chúng nơi công tác và nhân dân
nơi cán bộ sinh sống; trách nhiệm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức là của
cấp ủy, tổ chức đảng. Cần có một quy hoạch khoa học về xây dựng đội ngũ
cán bộ trong điều kiện thời bình, đất nước diễn ra quá trình đổi mới, biến
động và phát triển mạnh mẽ. Nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ. Tiếp tục đổi mới vấn đề sử dụng cán bộ. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện chính sách đối với cán bộ và gia đình cán bộ.
Nguyễn Thị Lan (2005): “Công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ lãnh
đạo, quản lý của Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp”, luận
văn thạc sĩ chính trị học. Tác giả đã luận giải về thực trạng vấn đề quy hoạch
cán bộ, đào tạo cán bộ tại Thành phố Hồ Chí Minh và trên cơ sở đó đưa ra
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quá trình quy hoạch cán bộ.
Trong hệ những nhóm giải pháp được đưa ra đều đã tập trung vào vấn đề quy
hoạch cán bộ gắn với tình hình nhiệm vụ lãnh đạo hệ thống chính trị của
Thành phố Hồ Chí Minh cả hiện tại và những năm tiếp theo. Theo tác giả có
quy hoạch đúng, khoa học thì mới có cơ sở để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng cán bộ.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004). Công tác cán bộ của
tổ chức cơ sở Đảng, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, năm 2004. Đề tài đã
phân tích luận giải làm rõ quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò đặc
biệt quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ của Đảng đối với thành công
5
của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Về công tác cán bộ của
tổ chức đảng, giáo trình chỉ rõ là những công việc mà cấp uỷ, tổ chức đảng
tiến hành bao gồm những khâu chủ yếu: quy hoạch cán bộ, xây dựng tiêu
chuẩn cán bộ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ; nhận xét đánh giá cán bộ, luân
chuyển cán bộ; kiểm tra, giám sát cán bộ, quản lý cán bộ, chính sách cán bộ;
nhân dân tham gia góp ý kiến xây dựng cán bộ… nhằm xây dựng được đội
ngũ cán bộ cơ sở có chất lượng tốt, bảo đảm cho đường lối chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước trong từng thời kỳ cách mạng và các
chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và của cấp uỷ, tổ chức đảng được thực hiện
thắng lợi tại cơ sở. Trên cơ sở phân tích làm rõ vị trí, vai trò, nội dung của
công tác cán bộ, giáo trình này chỉ rõ, phải bảo đảm sự thống nhất chặt chẽ
giữa các khâu, các nội dung của công tác cán bộ, không được coi nhẹ khâu
nào; phải chấp hành nguyên tăc cấp ủy đảng lãnh đạo tập trung thống nhất
công tác cán bộ; triệt để chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ trong công
tác cán bộ; việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải căn cứ vào quy hoạch và nhu
cầu bố trí, sử dụng cán bộ.
Tổng cục Chính trị (2000): “Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới”, Nxb QĐND, Hà Nội, 2000.
Dựa vào lý luận của nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng, công trình này đã luận bàn về vị trí, vai trò chức năng và
hoạt động cơ bản của đội ngũ cán bộ; những vấn đề cơ bản về quản lý, xây
dựng, phát triển đội ngũ cán bộ; xác định những giải pháp xây dựng, quản lý,
phát triển đội ngũ cán bộ phù hợp với đặc điểm tổ chức và nhiệm vụ của từng
cơ quan, đơn vị. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, từ
thực tiễn công tác cán bộ trong quân đội, công trình đã khẳng định vai trò đặc
biệt quan trọng của đội ngũ cán bộ. Đánh giá thực trạng; rút ra các bài học kinh
nghiệm về xây dựng đội ngũ cán bộ; khẳng định những yêu cầu khách quan
của việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quân đội trong thời kỳ
mới. Về tiêu chuẩn cán bộ, công trình của Tổng cục Chính trị chỉ rõ, cán bộ
phải là những người mẫu mực về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng,
giỏi về chuyên môn. Công trình cũng xác định những vấn đề cơ bản xây dựng
đội ngũ cán bộ quân đội về số lượng, cơ cầu.
6
Trần Danh Bích, “Xây dựng cơ cấu hợp lý đội ngũ cán bộ Quân đội
nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới”, luận án Phó tiến sĩ khoa
học quân sự, Hà Nội 1996; Tô Xuân Sinh, “Dự báo chất lượng đội ngũ cán bộ
ở các đơn vị cơ sở thuộc các binh đoàn chủ lực trong Quân đội nhân dân Việt
Nam giai đoạn 2000 – 2010” đề tài cấp cơ sở, Hà Nội năm 2000; Phạm Ngọc
Thuỵ, “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan ở Trường sỹ quan Lục quân 1
trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam, Hà Nội 2004. Quân đội nhân dân Việt Nam trên mặt trận sản
xuất, xây dựng kinh tế, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, H. 2004; Một số
yêu cầu đổi mới quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp quân đội khi gia
nhập WTO của Nguyễn Anh Hoàng, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 2,
2007; Bồi dưỡng đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ doanh nghiệp trong
quân đội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Luận án Tiến sĩ của Đặng Sỹ
Lộc, H. 2009
Trong các công trình trên, các tác giả đã dựa vào quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về cán bộ và xây
dựng đội ngũ cán bộ. Các đề tài nêu trên đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực
tiễn của công tác quản lý, nhận xét, đánh giá cán bộ; đánh giá thực trạng công
tác cán bộ của một số cơ quan, đơn vị, khẳng định những yêu cầu khách quan
của công tác cán bộ. Làm rõ những tác động ảnh hưởng, qua đó khẳng định
những vấn đề có tính nguyên tắc, xác định rõ yêu cầu, giải pháp đổi mới, nâng
cao chất lượng công tác cán bộ trong tình hình hiện nay.
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (2013), Nâng cao chất lượng công
tác đảng, công tác chính trị ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh hoạt
động theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, Hà Nội,
2013. Công trình này đã đánh giá tương đối toàn diện thực trạng đội ngũ cán
bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh, chỉ ra những ưu điểm mạnh,
hạn chế của đội ngũ cán bộ. Trên cơ sở đó, công trình xác định phải nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ cả về số lượng, cơ cấu , phẩm chất, năng lực và
phong cách công tác đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng công tác đảng,
công tác chính trị ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh hoạt động theo
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
7
Trần Lưu Hải (2014), Một số vấn đề về công tác cán bộ trong hoạt
động cầm quyền của Đảng ta hiện nay. Từ thực tiễn đổi mới công tác cán bộ
trong 30 năm đất nước đổi mới, tác giả đã khái quát rõ quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về công tác cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước: Một là, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, là khâu the chốt trong công tác xây dựng Đảng. Phải thường xuyên
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng; Hai là, công tác cán bộ phải xuất phát từ
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Ba là, quán triệt quan
điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, truyền
thống yêu nước, đại đoàn kết và gắn bó mật thiết với nhân dân; tập hợp rộng
rãi các loại cán bộ, trọng dụng nhân tài. Bốn là, Gắn xây dựng đội ngũ cán bộ
với xây dựng tổ chức, đổi mới cơ chế, chính sách với học tập là làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Năm là, thông qua hoạt động thực tiễn và
phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng
cán bộ. Phải dựa vào nhân dân để phát hiện, kiểm tra, giám sát cán bộ. Sáu là,
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiêm của các tổ chức
và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị. Tác giả đã khái quát
những thành tựu ưu điểm, hạn chế của công tác bộ trên các phương diện xây
dựng tiêu chuẩn cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; luân chuyển cán
bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chỉ ra một số vấn đề và giải pháp thực hiện bao
gồm: Tiếp tục đổi mới công tác đánh giá cán bộ; Tiếp tục nâng cao chất lượng
công tác quy hoạch cán bộ, bảo đảm có tầm nhìn xa, đáp ứng nhiệm vụ cả
trước mắt và lâu dài. Tiếp tục đẩy mạnh luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp. Tạo sự chuyển biến sâu sắc về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cơ cấu lại
đội ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu tăng cường chất lượng, tinh giảm biên
chế hành chính. Cải cách hệ thống chính sách về cán bộ. Đổi mới công tác
tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ. Tăng cường công tác giáo dục, quản lý cán
bộ.
Nhìn tổng quát, các công trình đã dựa vào lý luận chủ nghĩa Mác 8
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng đội ngũ cán bộ, để lụân giải những vấn đề cơ bản về công tác cán bộ
cũng như đánh giá, nhận xét cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng đội
ngũ cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới. Có công trình nghiên cứu xây
dựng đội ngũ cán bộ dưới góc độ khoa học giáo dục. Có nhiều công trình
nghiên cứu xây dựng đội ngũ cán bộ, đánh giá cán bộ dưới góc độ khoa học
xây dựng Đảng. Có công trình chỉ đi sâu vào một nội dung, một mặt của vấn
đề của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức như tiêu chuẩn hoá chức
danh để làm căn cứ để đánh giá; quy trình đánh giá cán bộ; thực hiện dân chủ
trong đánh giá cán bộ; đánh giá thực trạng về cơ cấu đội ngũ cán bộ quân đội
hiện nay, những ưu, khuyết điểm và tìm ra những nguyên nhân tác động ảnh
hưởng trong xây dựng đội ngũ cán bộ của các cấp, các ngành.
Về chất lượng đội ngũ cán bộ, các đề tài đều xác định là sự thống nhất
hữu cơ giữa đức và tài thể hiện ra ở kết quả hoàn thành chức trách, nhiệm vụ.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các đề tài đều thống nhất cho rằng cần
phải đổi mới công tác cán bộ, bảo đảm đội ngũ cán bộ có số lượng, cơ cấu
hợp lý, có phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, năng lực đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội.
Căn cứ vào quan điểm, đường lối xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, các
tác giả đã đưa ra các giải pháp cơ bản trong tuyển chọn, đào tạo, sắp xếp, quản lý
sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức... để hình thành cơ cấu cán bộ hợp lý, nhằm
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Đó
là những tài liệu có giá trị để tác giả nghiên cứu kế thừa trong thực hiện
nhiệm vụ, nội dung nghiên cứu đề tài luận văn.
Tuy nhiên do đối tượng, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phạm vi nghiên
cứu của mỗi công trình khác nhau, mà đến nay chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách cơ bản, có hệ thống chất lượng đội ngũ cán bộ và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng
cục Công nghiệp quốc phòng trong giai đoạn hiện nay với tính chất là một
công trình khoa học độc lập. Tác giả luận văn trân trọng kế thừa kết quả của
những công trình nghiên cứu có liên quan để luận giải làm rõ những vấn đề cơ
bản về lý luận và thực tiễn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh
9
nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng trong
giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng trong giai đoạn hiện nay .
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải rõ những vấn đề lý luận nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở
các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an
ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng .
- Xác định yêu cầu, đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục Công
nghiệp quốc phòng giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng –
an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu chất lượng và công tác nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng từ 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ và công
tác cán bộ của Đảng.
* Cơ sở thực tiễn
Thực trạng chất lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công tác
cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp
10
quốc phòng thông qua nghiên cứu các văn kiện, nghị quyết của cấp ủy; các
báo cáo tổng kết và trao đổi với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy; điều tra của tác giả ở
các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh. Hệ thống các tài liệu, số liệu thực tế
giới hạn từ năm 2010 đến nay.
* Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, luận văn
sử dụng tổng hợp phương pháp: Lôgic –lịch sử; phân tích và tổng hợp; đối
chiếu - so sánh; điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn; điều tra xã hội học;
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm những
vấn đề lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ; cung cấp cơ sở khoa
học cho Đảng uỷ, Chỉ huy các doanh nghiệp, Đảng ủy, Chỉ huy Tổng cục Công
nghiệp quốc phòng xác định các chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ thuộc quyền quản lý. Luận văn có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng dạy môn công tác đảng, công
tác chính trị ở các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận và kiến nghị, danh
mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
11
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÁC DOANH NGHIỆP QUỐC
PHÒNG AN NINH THUỘC TỔNG CỤC CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG
1.1. Đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh và
những vấn đề cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh
nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng
1.1.1. Doanh nghiệp quốc phòng - an ninh và đội ngũ cán bộ ở các
doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng
* Doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục CNQP.
Các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh trong Tổng cục Công nghiệp
Quốc phòng là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, Bộ
Quốc phòng làm chủ sở hữu, được tổ chức theo quy định của pháp luật, hoạt
động theo loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Chức năng của các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng là bảo toàn và phát triển vốn chủ sở hữu đầu tư tại
công ty; giữ gìn và phát triển đội ngũ cán bộ, công nhân lao động lành nghề
và hoàn thành các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh do Bộ Quốc phòng, Tổng
cục Công nghiệp quốc phòng giao.
Nhiệm vụ của các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh có hai nhiệm vụ
chủ yếu là nhiệm vụ quốc phòng an ninh và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
Về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh có
nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa, cải tiến, đồng bộ các loại vũ khí, trang bị quân
sự để phục vụ cho nhiệm vụ huấn luyện, chiến đấu của quân đội và các lực
lượng vũ trang nhân dân; sản xuất các loại vật tư chuyên dụng phục vụ sản
xuất quốc phòng và thực hiện các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng theo chỉ
lệnh của Bộ Quốc phòng và Tổng cục Quốc phòng giao.
Về nhiệm vụ sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp quốc phòng - an
ninh có nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất hàng quốc phòng, kết hợp với sản xuất
hàng kinh tế, lấy sản xuất quốc phòng là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, sản
12
xuất kinh tế làm đòn bẩy để phát triển sản xuất chung của các doanh nghiệp;
nâng cao hiệu quả quản lý khai thác trang bị máy móc hiện có, đồng thời tạo
nguồn lực cho nhiệm vụ phát triển công nghiệp quốc phòng.
Tính đặc thù này về hai nhiệm vụ sản xuất quốc phòng theo kế hoạch
pháp lệnh và tham gia sản xuất, phát triển kinh tế theo sự điều tiết của quy
luật kinh tế thị trường là "bài toán kép" mà các doanh nghiệp quốc phòng - an
ninh luôn phải tìm lời giải hợp lý. Nhiệm vụ của doanh nghiệp đòi hỏi phải có
một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên môn kỹ thuật, khoa học
công nghệ có thể đáp ứng các yêu cầu của quốc phòng và sản xuất tốt các mặt
hàng kinh tế có sức cạnh tranh trên thị trường, đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Là một đơn vị quân đội, nên hoạt động lãnh đạo, chỉ huy quản lý ở các
doanh nghiệp quốc phòng – an ninh theo cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với
Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng thời là doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh, cho nên các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tuân
theo luật doanh nghiệp và quy luật của thị trường. Bộ máy chỉ huy quản lý ở
doanh nghiệp có Ban Giám đốc và các cơ quan chức năng theo biểu biên chế
của Bộ Tổng Tham mưu.
Tổ chức đảng ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc tổ chức
cơ sở Đảng ba, hoặc hai cấp theo quy mô của từng doanh nghiệp. Theo quy
định, ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh biên chế chính ủy doanh
nghiệp; cơ quan chính trị. Các tổ chức quần chúng ở doanh nghiệp quốc
phòng - an ninh có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Công
đoàn; Hội phụ nữ cơ sở hoạt động dưới sự lãnh đạo của cấp ủy; sự chỉ đạo,
hướng dẫn của chính ủy, cơ quan chính trị doanh nghiệp. Hoạt động lãnh đạo,
chỉ huy quản lý ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh theo cơ chế lãnh
đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam là nhân tố thuận lợi để
tiến hành công tác đảng, công tác chính trị nói chung và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh nói riêng.
* Quan niệm cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh.
Luật cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm
2008, định nghĩa cán bộ: Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê
13
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương,
ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện),
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Từ điển công tác đảng, công tác chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
định nghĩa: “Cán bộ quân đội là cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoạt động trong quân đội; được bổ
nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo, chỉ huy quản lý bộ đội, đảm nhiệm các công
việc chuyên biệt, chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ khác. Theo Luật sĩ quan
Quân đội nhân dân Việt Nam, diện bố trí cán bộ là sỹ quan và được đào tạo,
bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh. Cán bộ do cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ
chủ trì và cơ quan chức năng quản lý theo phân cấp. Cán bộ quân đội được
chia thành nhiều loại, theo chuyên môn nghề nghiệp có: Cán bộ tham mưu,
cán bộ chính trị, cán bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, cán bộ hậu cần, cán bộ
chuyên môn nghiệp vụ,…. Theo loại hình đơn vị và cương vị công tác có:
Cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược; cán bộ cấp cơ sở…”[51,tr.36]
Từ những phân tích trên có thể quan niệm cán bộ ở các doanh nghiệp
quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng là những
người có nghiệp vụ chuyên môn được bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo, chỉ
huy quản lý, các công việc chuyên biệt, chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ của
doanh nghiệp; do cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì và cơ quan chức năng
quản lý theo Quy chế công tác cán bộ; diện bố trí là sỹ quan; được hưởng
các chế độ, chính sách theo Luật sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và
các quy định của Đảng, Nhà nước, quân đội.
Cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh có nhiều loại. Theo
tính chất, nghề nghiệp chuyên môn có cán bộ chính trị, cán bộ quân sự, cán
bộ chuyên môn kỹ thuật; cán bộ hậu cần; theo chức danh, chức vụ có cán bộ
lãnh đạo, cán bộ quản lý; theo quy mô tổ chức và cấp quân hàm có cán bộ cao
cấp, cán bộ trung cấp, cán bộ sơ cấp.
* Đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh.
Từ điển tiếng Việt giải thích thuật ngữ đội ngũ có các nghĩa: 1. Khối
14
đông người được tập hợp và tổ chức thành lực lượng chiến đấu. Các đơn vị đã
chỉnh tề đội ngũ. 2. Tập hợp số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp
thành một lực lượng. Đội ngũ những người viết văn trẻ. Đội ngũ nhà giáo[tr.
328]. Như vậy đội ngũ không phải là một người mà bao gồm nhiều người
được tập hợp lại và tổ chức lại thành một lực lượng để hoạt động theo những
mục đích, nhiệm vụ nhất định. Những thành viên của đội ngũ phải là những
người có cùng chức năng, nghề nghiệp hoạt động. Nếu thiếu một trong hai
dấu hiệu đó thì không được gọi là đội ngũ. Cần phân biệt rõ thuật ngữ đội ngũ
với thuật ngữ đám đông. Đám đông cũng bao gồm nhiều người, nhưng không
được tập hợp và tổ chức thành lực lượng. Những người trong đám đông có rất
nhiều nghề nghiệp khác nhau.
Họat động là phương thức tồn tại của con người. Bất kỳ một hoạt động
dưới hình thức nào của con người cũng đều là hoạt động xã hội, đều có sự
quan hệ hoặc trực tiếp, dán tiếp với những người khác, lĩnh vực khác. Các
lĩnh vực hoạt động của xã hội vô cùng đa dạng phong phú: kinh tế, văn hoá,
giáo dục đào tạo, quân sự, quốc phòng, an ninh.... do chính nhu cầu tồn tại và
phát triển của xã hội quy định. Để đáp ứng nhu cầu hoạt động của các lĩnh
vực ấy phải có lực lượng bao gồm những con người có nghề nghiệp, hoặc
thực hiện một chức năng nhất định nào đó trong một tổ chức, ngành nghề,
lĩnh vực hoạt động nhất định. Muốn hoạt động của một tổ chức, tập thể, ngành
nghề nào đó có chất lượng phải có sự tổ chức, tập hợp những cá nhân lại thành
một lực lượng, có nghĩa là phải có một đội ngũ đồng bộ về các mặt.
Trong đời sống xã hội thuật ngữ đội ngũ dùng để chỉ những người có
cùng nghề nghiệp, được tổ chức tập hợp thành một lực lượng để hoạt động như:
đội ngũ trí thức, đội ngũ giáo viên, đội ngũ công nhân viên chức, đội ngũ những
người lao động. Trong tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội đội ngũ bao gồm những
các cá nhân hợp thành để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ hoạt động của tổ chức ấy
như: đội ngũ đảng viên, đội ngũ công chức Nhà nước, đội ngũ cán bộ quân đội,
đội ngũ đoàn viên thanh niên….
Trong mỗi tổ chức, cá nhân được đặt ở một vị trí nhất định nhằm thực
hiện một hoặc một số chức năng, nhiệm vụ nào đó của tổ chức. Hoạt động của
họ là một trong những yếu tố tạo nên hoạt động và kết quả hoạt động của tổ
15
chức. Mỗi người thực hiện tốt nhiệm vụ của mình là điều kiện để người khác
trong tổ chức thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của họ. Như vậy, muốn một tổ
chức nào đó hoạt động tốt phải có một đội ngũ đồng bộ.
Từ quan điểm và phương pháp tiếp cận trên có thể quan niệm: Đội ngũ
cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công
nghiệp quốc phòng là tập hợp những sỹ quan có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất
chính trị, đạo đức, năng lực; được cấp có thẩm quyền bổ nhiệm chức vụ,
chức danh trong bộ máy tổ chức, biên chế của doanh nghiệp theo Quy chế
công tác cán bộ; với một số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý nhằm thực hiện
tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Những yếu tố tạo thành đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng
- an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng bao gồm số lượng, cơ cấu,
chất lượng.
Số lượng cán bộ theo biên chế tổ chức của doanh nghiệp. Để tạo thành đội
ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công
nghiệp quốc phòng trước hết phải có một số lượng cán bộ nhất định.Việc xác
định số lượng cán bộ cần thiết không phải tuỳ tiện mà phải xuất phát từ chức
năng, nhiệm vụ và các quy định của cấp trên về tổ chức biên chế đội ngũ cán bộ
ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng.
Cơ cấu đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng bao gồm cơ cấu về độ tuổi, thâm niên
công tác, trình độ học vấn... Nếu trong đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp
quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng mà không bảo
đảm sự kế thừa chuyển tiếp giữa các thế hệ thì sẽ dẫn đến sự hẫng hụt. Bởi vì,
tuổi phục vụ của cán bộ theo Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Mặt
khác, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà trong đội ngũ cán bộ ở các doanh
nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng luôn
có sự biến động (sức khỏe, trình độ, năng lực..). Do đó cần phải bảo đảm cơ
cấu về độ tuổi và thâm niên công tác để bảo đảm sự phát triển liên tục, vững
chắc của đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng
cục Công nghiệp quốc phòng. Ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh
16
thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng lại có nhiều phận theo các hoạt
động sản xuất kinh doanh và cơ cấu của bộ máy tổ chức của các doanh
nghiếp, do đó cần có một cơ cấu hợp lý về cán bộ theo ngành nghề chuyên
môn. Nếu không có cơ cấu hợp lý, sẽ dẫn đến tình trạng một cán bộ phải kiêm
nhiệm nhiều công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của bộ phận khác, hoặc
trong một bộ phận. Tình trạng đó sẽ làm cho chất lượng công tác thấp, thậm
chí dễ dẫn đến những tiêu cực trong thực thi chức trách, nhiệm vụ.
Trong việc xác định cơ cấu, cần đặc biệt chú ý đến trình độ học vấn. Là
doanh nghiệp quốc phòng – an ninh, nên đội ngũ cán bộ ở đây có trình độ học
vấn sau đại học, đại học, cao đẳng, trung cấp, nhân viên chuyên môn kỹ thuật.
Tính hợp lý về cơ cấu trình độ học vấn sẽ bảo đảm cho đội ngũ cán bộ ở các
doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng
có thể giải quyết tốt các chức năng, nhiệm vụ, bồi dưỡng lẫn nhau, tự hoàn
thiện, tự phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lao động ở các
doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng.
Chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh
thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng được thể hiện trước hết ở chất
lượng của từng người. Đó phẩm chất chính trị của người cán bộ thể hiện ở
niềm tin, lý tưởng chính trị, nghề nghiệp; phẩm chất đạo đức cách mạng, nghề
nghiệp thể hiện ở chí hướng và lòng mong muốn, thái độ tích cực đối với
nhiệm vụ của các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công
nghiệp quốc phòng. Năng lực của cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an
ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng thể hiện ở việc làm chủ kiến
thức, các năng lực tổ chức, kỹ năng giao tiếp trong quá trình thực thi chức
trách, nhiệm vụ. Tuy nhiên chất lượng của đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp
quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng không chỉ là
sự cộng lại thuần tuý các phẩm chất cá nhân của mỗi người mà là tổng hoà
của các phẩm chất ấy thể hiện ở những đặc trưng của một tập thể mạnh. Đó là
bầu không khí chính trị – tinh thần, sự đoàn kết tương trợ lẫn nhau trong hoạt
động; ở việc xây dựng tập thể nphân xưởng, tổ đội sản xuất vững mạnh về
mọi mặt.
Các yếu tố tạo thành đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng 17
an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng có mối quan hệ biện chứng
với nhau tạo điều kiện làm tiền đề hỗ trợ cho nhau, tạo nên sức mạnh tổng
hợp của đội ngũ. Vì vậy phải đặc biệt quan tâm xây dựng các yếu tố đó,
không coi nhẹ bất cứ yếu tố nào, trong đó đặc biệt coi trọng phẩm chất, năng
lực, phong cách công tác của đội ngũ cán bộ và mỗi cá nhân cán bộ trong
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh
thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng .
* Chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ các doanh nghiệp quốc
phòng – an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng.
Chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ các doanh nghiệp quốc phòng
– an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng là những điều quy định về
trách nhiệm, quyền hạn, những công việc mà cán bộ phải làm theo chức vụ,
chức danh đảm nhiệm. Do đó chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ các
doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng
được cụ thể hóa cho từng chức vụ, chức danh cán bộ. Theo đó có chức trách,
nhiệm vụ của chính ủy, cán bộ chính trị; chức trách nhiệm vụ của giám đốc
doanh nghiệp, quản đốc phân xưởng, chức trách nhiệm vụ của cán bộ chuyên
môn kỹ thuật … ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng. Nếu mỗi cán bộ thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ
của mình thì tạo nên chất lượng tổng hợp thực hiện nhiệm vụ của doanh
nghiệp. Do đó khi nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các doanh nghiệp quốc
phòng – an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng phải nắm vững
chức trách, nhiệm vụ của từng người để có các giải pháp tác động làm cho
từng người hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ đã xác định.
* Yêu cầu về phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ các doanh
nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng.
Yêu cầu về phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ các doanh nghiệp
quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng được quy
định bởi hệ thống quan điểm của Đảng, Nghị quyết của Quân ủy Trung ương;
nhiệm vụ quân đội, nhiệm vụ Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, nhiệm vụ
của các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh. Có tiêu chuẩn chung và tiêu
chuẩn riêng cho từng chức danh cán bộ. Căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ được
18
Đảng xác định trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, trong
giai đoạn hiện nay yêu cầu chung về phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ
các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng.
Có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và
nhân dân; sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc và chủ
nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Có tinh thần cảnh giác cao, quyết
tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao;
Có đạo đức, lối sống cách mạng cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư,
không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng; có ý thức tổ
chức kỷ luật nghiêm, không cơ hội, bè phái; thực hiện nói đi đôi với làm.
Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, đường lối,quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; nắm vững và vận dụng sáng tạo lý
luận quân sự Mác – Lênin, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, quan điểm, đường
lối quân sự, quốc phòng của Đảng trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; có
trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng, độ tuổi và sức khỏe
đáp ững với yêu cầu nhiệm vụ được giao
Có phong cách làm việc khoa học, dân chủ, tập thể, chính quy, đoàn
kết; kỷ luật; sâu sát gắn bó với quần chúng…
Ngoài yêu cầu chung về phẩm chất, năng lực mỗi loại cán bộ còn có
tiêu chuẩn riêng gắn với chức danh, chức vụ của mỗi người đảm nhiệm.
* Đặc điểm đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh
thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng.
Một là, đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng đa dạng về loại hình, về cương vị công tác
và hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Đội ngũ đội ngũ cán bộ ở các doanh
nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng công
tác ở các chuyên ngành với những chuyên môn nghiệp vụ, cương vị công tác
khác nhau như cán bộ chính trị, hậu cần, chuyên môn kỹ thuật, khoa học công
nghệ. Điều này đặt ra tính phức tạp của nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở
các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng. Bởi lẽ hoạt động ở mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi cương vị công tác đòi hỏi
19
cán bộ có những tiêu chuẩn cụ thể khác nhau, không có tiêu chuẩn chung
chung cho mọi cán bộ.
Đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng
cục Công nghiệp quốc phòng đều được đào tạo tại các trường của quân đội,
Nhà nước và Tổng cục. Xuất phát điểm của mỗi người khi bước vào đội ngũ
cũng khác nhau. Có người được đào tạo ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội, có người được đào tạo ở một số trường đại học, cao đẳng ở các chuyên
ngành khác được tuyển dụng sau đó tiếp tục đi đào tạo bồi dưỡng để làm việc
ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng. Sự đa dạng của nguồn vào làm cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp
quốc phòng khá phức tạp. Trình độ học vấn không đồng đều cũng là một đặc
điểm chi phối việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp
quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng. Với những
người ở trình độ trung cấp, cao đẳng, cử nhân thì chưa được trang bị kiến thức
về lý luận chính trị một cách có hệ thống. Những cán bộ chính trị thường
thiếu kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ sản xuất kinh doanh, ngoại ngữ, công
nghệ thông tin.... Vì vậy khi nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh
nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng phải
nắm vững trình độ học vấn của mỗi người để xác định đúng những giải pháp
khắc phục những thiếu hụt của họ đáp ứng yêu cầu chức trách, nhiệm vụ.
Hai là, đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng có sự khác biệt nhất định về bản lĩnh
chính trị, về kinh nghiệm, vốn sống và tuổi đời. Số cán bộ đã qua các cương
vị lãnh đạo, quản lý, được tu dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn hoạt động chính
trị - xã hội, nên ở họ có khả năng tự ý thức được về bản thân. Tuy nhiên, ở đội
ngũ này dễ nảy sinh tư tưởng công thần, chủ quan. Nhìn nhận cấp dưới đôi
khi mang theo lề thói gia trưởng, độc đoán, dựa vào kinh nghiệm cũ, thiếu
phương pháp tiếp cận thế hệ. Những cán bộ tuổi đời, tuổi nghề còn trẻ, họ chưa
trải qua thử thách nhiều trong thực tiễn chính trị - xã hội. Những đức tính của
người cán bộ như: tính kỷ luật, tính tự kiềm chế, khả năng làm chủ bản thân, ý
thức tự phê bình và phê bình, kỹ năng đánh giá hành vi, mặt mạnh, mặt yếu của
20
bản thân còn nhiều mặt hạn chế. Trong cách tư duy thiếu biện chứng, mềm dẻo.
Trong giao tiếp, quan hệ với con người, thiếu tế nhị hoặc theo cảm tính, che giấu
khuyết điểm cho nhau.
Đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng đều có lai lịch chính trị rõ ràng, trung thành tuyệt
đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, có kiến thức, năng lực toàn diện,
chuyên môn nghiệp vụ vững vàng; có phương pháp tác phong làm việc khoa
học, cẩn trọng, tỉ mỉ, chính xác. Tuyệt đại đa số có xu hướng nghề nghiệp rõ
ràng, yên tâm với nhiệm vụ được giao. Cán bộ ở các doanh nghiệp quốc
phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng gia đình đều cư trú
ở các địa phương trên cả nước. Trong nền kinh tế thị trường, nghề nghiệp của
gia đình cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng thường xuyên biến đổi. Điều này quy định sự khác
biệt về nhận thức, nhu cầu, tình cảm, thị hiếu của họ. Trong ý thức, hành vi
của họ luôn in đậm dấu ấn cả tích cực và tiêu cực của những phong tục, tập
quán của địa phương mà gia đình họ sinh sống. Nắm vững đặc điểm này, việc
nâng cao chất lượng chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc
phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng phải nắm vững
những điểm mạnh, những thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của
từng người để có sự cá biệt hoá về nội dung, hình thức, phương pháp giáo
dục, rèn luyện, bồi dưỡng.
Ba là, tính phức tạp về môi trường, điều kiện hoạt động của đội ngũ cán
bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp
quốc phòng. Các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công
nghiệp quốc phòng đứng chân trên địa bàn cả nước. Có doanh nghiệp đứng
chân ở các trung tâm chính trị, kinh tế của đất nước và khu vực. Nhiều doanh
nghiệp đứng chân trên các địa bàn chiến lược, xa trong tâm kinh tế, chính trị
của đất nước và khu vực. Mỗi doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh
khác nhau, chuyên môn kỹ thuật, công nghệ khác nhau. Ở những doanh
nghiệp này, đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng thường gặp khó khăn trong việc đi lại,
giao lưu, học hỏi. Mặc dù được các doanh nghiệp và Tổng cục Công nghiệp
21
quốc phòng quan tâm tạo điều kiện thuận lợi, nhưng nhìn chung điều kiện làm
việc và đời sống của họ vẫn ở trong tình trạng khó khăn, thiếu thốn. Điều kiện
về nhà ở, kinh tế, đời sống hậu phương gia đình của không ít cán bộ ở các
doanh nghiệp này còn nhiều khó khăn là một trong những vấn đề mà nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng cần quan tâm giải quyết.
Chính sự đa dạng về loại hình, môi trường, điều kiện công tác, nhiệm vụ
quy định việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc
phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng phải hết sức cụ thể.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh
thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng một mặt phải nắm vững quan điểm,
nguyên tắc chung phải đặc biệt chú ý đến hoàn cảnh, điều kiện, công việc của
tổ chức, lực lượng, coi đây là một căn cứ, cơ sở để xác đinh quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đánh giá phẩm chất, năng lực phong cách của
cán bộ, không thể dập khuôn chung chung.
* Vai trò đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh
thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng
V.I.Lênin cho rằng, trong lịch sử chưa hề có giai cấp nào giành được
quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra trong hàng ngũ của mình những lãnh
tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng lãnh đạo và tổ chức
phong trào. Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, cán bộ là những người
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ.
Đồn thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ
để đặt chính sách cho đúng; và công tác cán bộ “là công việc gốc của Đảng”.
Theo quan điểm đó có thể xác định đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc
phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng có vai trò sau đây:
Một là, đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng là lực lượng trực tiếp giữ vai trò quyết
định đến thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp quốc
phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng. Mối quan hệ biện
chứng giữa cán bộ với đường lối của Đảng quy định, đội ngũ cán bộ ở các
doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng
22
vừa là người trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ của doanh nghiệp theo
chức trách, nhiệm vụ, vừa là người chỉ đạo, hướng dẫn các hoạt động của
doanh nghiệp. Vì vậy, đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an
ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng giữ vai trò trực tiếp quyết định
đến chất lượng, hiệu quả hoạt động sản xuất kinhh doanh của các doanh
nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng. Vấn
đề này biểu hiện tập trung nhất ở các hoạt động tham mưu, chỉ đạo, hướng
dẫn các mặt công tác của các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng
cục Công nghiệp quốc phòng. Phẩm chất đạo đức lối sống, phương pháp tác
phong công tác, tính kỷ luật, trách nhiệm cao, sự mẫu mực trong ứng sử, giao
tiếp của đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng
cục Công nghiệp quốc phòng là những tấm gương sáng để giáo dục, thuyết
phục cán bộ, nhân viên thuộc quyền, góp phần củng cố lòng tin đối với Đảng,
với chế độ xã hội chủ nghĩa, với doanh nghiệp. Thực tiễn cho thấy, nhân cách
của người cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng có tác dụng giáo dục, sức cảm hoá mạnh mẽ đối với
cán bộ, nhân viên thuộc quyền. Sự mẫu mực về đạo đức, lối sống, luôn luôn
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, lời nói với việc làm, có tác phong khiêm
tốn giản dị và trung thực trong mọi hoàn cảnh; luôn luôn có sự đòi hỏi cao đối
với chính mình của đội ngũ cán bộ là tấm gương sáng có tác động sâu sắc tới
tình cảm, lòng tin của cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền.
Hai là, đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng là lực lượng giữ vai trò quan trọng trong
xây dựng các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công
nghiệp quốc phòng vững mạnh về chính trị tư tưởng, tổ chức. Đội ngũ cán bộ
ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng là thành viên của doanh nghiệp, họ hoạt động trong tổ chức đảng, chỉ
huy, quản lý, các tổ chức quần chúng như Đoàn Thanh niên, công đoàn, phụ
nữ… Bằng việc thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ, tham gia vào các tổ chức
chính trị - xã hội, đội ngũ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng có vai trò to lớn đối với việc xây dựng các
doanh nghiệp vững mạnh toàn diện, xây dựng uy tín, truyền thống của doanh
23
nghiệp. Theo đó để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp
quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng cần phải đặc
biệt Nang cao phẩm chất, năng lực, có quan điểm bố trí, sử dụng cho sát với
khả năng từng cán bộ. Thường xuyên bồi dưỡng, rút kinh nghiệm kịp thời
trong quá trình tổ chức thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Tạo mọi điều kiện
thuận lợi để mỗi cán bộ có cơ hội tốt nhất trong việc rèn luyện, tự học tập, tự
tích luỹ kinh nghiệm để không ngừng phát triển năng lực và phát huy vai trò
của mình đối với xây dựng doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng
cục Công nghiệp quốc phòng vững mạnh.
Ba là, đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng là lực lượng bổ sung trực tiếp nguồn cung
cấp cán bộ cho cấp trên thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng. Các doanh
nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng là môi
trường rèn luyện, thử thách và sàng lọc cán bộ. Thông qua hoạt động, công
tác, đội ngũ cán bộ được rèn luyện, thử thách để lựa chọn những người ưu tú
đưa đi đào tạo, bồi dưỡng bổ sung nguồn cán bộ cho cấp trên. Với ý nghĩa ấy,
đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục
Công nghiệp quốc phònp là lực lượng quan trọng bổ sung nguồn cán bộ cho
cấp trên thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và toàn quân.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở
các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng
* Quan niệm chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc
phòng - an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng
Khái niệm chất lượng được các chuyên ngành khoa học khác nhau
nghiên cứu. Do đối tượng, tính chất, phạm vi, phương pháp tiếp cận khác nhau
mà có những quan niệm cụ thể chất lượng. Ở bình diện triết học, chất lượng
được hiểu là mỗi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan là sự thống nhất
biện chứng giữa chất và lượng. Chất lượng là phạm trù biểu thị những thuộc
tính bản chất và tính ổn định tương đối của sự vật; chỉ rõ nó là cái gì, phân
biệt nó với các sự vật khác. Chất lượng quy định những đặc điểm và tính chất
khách quan vốn có của sự vật. Chất lượng biểu hiện bằng các thuộc tính của
24
sự vật. Bất cứ một sự vật, hiện tượng, hoạt động nào trong đời sống cũng có
những thuộc tính, chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Chất lượng là biểu
hiện giá trị và cũng là để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện
tượng khác. Chất lượng có thể đánh giá được về định lượng và định tính
thông qua các phương pháp khoa học. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và
lượng thể hiện cách thức vận động phát triển của sự vật hiện tượng.
Tiếp cận chất lượng dưới góc độ giá trị học, từ điển tiếng Việt quan
niệm: “chất lượng là thuộc tính vốn có, là cái tạo nên giá trị của sự vật, hiện
tượng, con người” [50, tr.139]. Mỗi một sự vật, hiện tượng có chất lượng khác
nhau, giá trị tác dụng khác nhau. Chất lượng của một sự vật, hiện tượng, con
người được biểu hiện ở giá trị, tác dụng trong đời sống. Đánh giá chất lượng
hoạt động trong lĩnh vực chính trị - xã hội thường là phức tạp hơn trong lĩnh
vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ, y học…Vì bản chất con người là
tổng hoà các mối quan hệ xã hội.
Đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh thuộc Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành. Các yếu tố ấy có mối
quan hệ hữu cơ với nhau. Yếu tố này là tiền đề, điều kiện của yếu tố kia và
ngược lại. Nếu thiếu hụt một yếu tố nào đó hoặc có sự khiếm khuyết làm ảnh
hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng – an ninh
thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng.
Từ quan điểm và phương pháp tiếp cận trên có thể quan niệm, chất
lượng đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng
cục Công nghiệp quốc phòng là tổng hoà giá trị của những bộ phận, yếu tố
cấu thành thể hiện ra ở thực hiện chức trách, nhiệm vụ của từng người và
chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ.
Như đã rõ, đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh
thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng gồm các yếu tố về số lượng, cơ cấu,
và phẩm chất, năng lực, phong cách của đội ngũ cán bộ. Vì vậy, chất lượng
đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh thuộc Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng phải được thể hiện giá trị của số lượng đội ngũ cán
bộ; cơ cấu đội ngũ cán bộ; phẩm chất, năng lực, phong cách của đội ngũ cán
bộ đối với việc chức hiện chức trách, nhiệm vụ và chức năng, nhiệm vụ của
25