Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Tổ chức phi chinh phủ và vuồn quốc gia khu bảo tồn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.05 KB, 7 trang )

TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ (NGOs) VÀ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ VƯỜN
QUỐC GIA, KHU BẢO TỒN

1.

I. Đặt vấn đề
Hiện nay,Việt nam có 164 khu rừng đặc dụng, bao gồm 30 vườn quốc
gia, 69 khu dự trữ sinh quyển, 45 khu bảo vệ cảnh quan, 20 khu nghiên cứu
thực nghiệm khoa học và 3 khu bảo tồn biển chứa đựng các hệ sinh thái, cảnh
quan đặc trưng với giá trị đa dạng sinh học tiêu biểu. Đây là những nguồn tài
nguyên thiên nhiên quý báu không chỉ trước mắt cho thế hệ hôm nay mà còn
là di sản của nhân loại mãi mãi về sau.
Trong những năm qua, với sự nỗ lực của các tổ chức phi chính phủ quá
trình quản lý các khu khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đã và đang tiếp cận,
trao đổi kinh nghiệm, hài hoà với những thông lệ, tiêu chí quản lý bảo tồn
thiên nhiên quốc tế. Các tổ chức phi chính phủ đóng góp vai trò vô cùng quan
trọng trong quản lí phát triển khu bảo tồn và vườn quốc gia như tổ chức phi
chính phủ JICA (Nhật Bản) , Greenpeace ( Canada)....
II. Mục tiêu
- Sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên
- Bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ các loài động thực vật hoang dã quý
hiếm (Vọoc Cát Bà, Vượn Đen Má Vàng…)
- Tăng cường nhận thức của người dân địa phương.
- Giữ gìn bản sắc dân tộc
- Nghiên cứu khoa học
- Du lịch, nghỉ dưỡng thăm quan
IV. Nội dung và khuyến nghị giải quyết
Chính sách đầu tư nguồn vốn
Phần lớn các khu bảo tồn có nguồn kinh phí nhỏ do Chính phủ cấp thông
qua ngân sách tỉnh, hay một số ít các vườn quốc gia do Chính phủ trực tiếp cấp
từ ngân sách trung ương. Các nguồn ngân sách này thường không đủ để trang


trải cho các chi phí hoạt động và duy trì của các khu bảo tồn. Phần lớn các
nguồn ngân sách này được cấp theo kế hoạch hàng năm và dựa trên cân đối
ngân sách nhà nước và ngân sách tỉnh. Vì thế, tìm kiếm và thiết lập nguồn tài
chính bền vững cho hệ thống các khu bảo tồn vẫn là một vấn đề.
Tài trợ quốc tế là một nguồn vốn bổ sung cho công tác quản lý bảo tồn ở
nhiều khu rừng đặc dụng. Phần lớn các nhà tài trợ đầu tư cho các dự án lớn ở
các khu cụ thể. Các sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ như WWF, JICA,
IUCN, GEF….đã tài trợ 10 triệu đôla. Điều này chỉ ra rằng bảo vệ vườn quốc
1


gia và khu bảo tồn đã chiếm được sự ưu tiên trong việc viện trợ tài chính Ngân
sách của các dự án này thường được chi dùng cho những nội dung mà ngân sách
quốc gia không có khả năng đáp ứng.
Về mức độ cấp vốn có sự khác biệt đáng kể giữa các rừng đặc dụng, nhất
là giữa các tỉnh khác nhau. Các tỉnh nghèo, nơi có nhiều khu bảo tồn hơn
thường ít có khả năng đầu tư vào quản lý rừng đặc dụng hơn so với các tỉnh
giàu có nền kinh tế và nguồn thu tại chỗ dồi dào. Điển hình, có một số tỉnh
nghèo có tới bốn hoặc nhiều hơn khu rừng đặc dụng nằm trên phạm vi của tỉnh
nhưng nguồn kinh phí cho mục đích này lại hạn hẹp.

2.

Làm sao các dự án nhận được tiền tài trợ từ các tổ chức phi chính phủ?
Khi nhu cầu bảo tồn được xác định Ví dụ như bảo vệ một loài nào đó hay
thành lập khu bảo vệ thiên nhiên, các vấn đề này thường được bắt đầu bởi
một quá trình phức tạp của việc thiết kế dự án, viết dự thảo của dự án, xin
tiền tài trợ và thực hiện dự án. Quá trình thực hiện phải phối hợp nhiều các
tổ chức, các cơ quan bảo tồn khác nhau. Các quỹ từ thiện và các cơ quan
chính phủ, các tổ chức phi chính phủ. Trong trường hợp này các cơ quan

chính phủ chuyển tiền cho các tổ chức bảo tồn lớn như quỹ bảo tồn thiên
nhiên, quỹ bảo tồn các loài hoang dã thế giới….Các tổ chức này sẽ sau đó sẽ
phân bổ lại tiền cho các tổ chức bảo tồn địa phương
Kết hợp với ban quản lí rừng đặc dụng tổ chức các chương trình đào
tạo
Đào tạo phải trở thành vấn đề ưu tiên trong quản lý khu BTTN. Với xu
thế và yêu cầu hiện nay, bên cạnh những nội dung truyền thống trong công
2


3.

4.

5.

6.

tác quản lý khu BTTN, cần mở rộng sang các lĩnh vực khác như kỹ năng lôi
cuốn sự tham gia của cộng đồng, kỹ năng thương thảo và giải quyết tranh
chấp, xung đột, xây dựng các kỹ năng công nghệ thông tin và quản lý. Đặc biệt
đối với các nước đang phát triển, cần xây dựng năng lực nghiên cứu ứng
dụng, đặc biệt là cách tiếp cận tổng hợp và đa ngành trong quản lý môi
trường. Các kỹ năng, chính sách và chế độ lương thưởng phù hợp cho cán bộ
bảo tồn cũng cần được xây dựng. Tại hầu hết các nước đều có nhu cầu xây
dựng các kinh nghiệm thực tế cho các cán bộ cấp địa phương và tỉnh, sao cho
hình thành được mạng lưới các tập huấn viên được đào tạo tốt, tài năng và
có kinh nghiệm thực hiện các dự án có sự tham gia tại hiện trường.
Các tổ chức phi chính phủ (NGOs) đề xuất , hỗ trợ, cùng với ban quản lý
vườn xây dựng, tổ chức các chương trình đào tạo cho các cán bộ kiểm lâm,

cán bộ nguồn của các dự án nhằm nâng cao năng lực quản lý
Hỗ trợ quản lí vùng đệm
Hỗ trợ đầu tư cho cộng đồng dân cư thôn, bản vùng đệm để cùng tham
gia quản lý rừng, Khoản kinh phí này được chi cho các nội dung: đầu tư nâng
cao năng lực phát triển sản xuất (khuyến nông, khuyến lâm, giống cây, giống
con, thiết bị chế biến nông, lâm sản quy mô nhỏ); hỗ trợ vật liệu xây dựng cho
thôn, bản (đối với các công trình công cộng của cộng đồng như nước sạch,
điện chiếu sáng, thông tin liên lạc, đường giao thông thôn bản, nhà văn hóa...)
; hỗ trợ vốn và kỹ thuật để phát triển kinh tế ; chương trình phát triển nông
nghiệp và chăn nuôi (cải tạo đất, tập huấn kĩ thuật cho người dân….)
Chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuât
NGOs hỗ trợ nguồn vốn và kết hợp với ban quản lý vườn xây dựng các
trạm chốt kiểm lâm, xây dựng các khu hành chính dịch vụ, xây dựng hệ thống
đường điện, khu vực cấp thoát nước…Trang bị nhiều xe mô tô, máy vi tính,
máy định vị, máy ânh và công cụ hỗ trợ đảm bảo phục vụ công tác quản lý
điều hành của đơn vị.
Chương trình phát triển du lịch sinh thái:
Lập kế hoạch để xây dựng dự án quy hoạch phát triển du lịch sinh thái
nhằm thu hút sự quan tâm của cộng đồng, tăng thêm thu nhập duy trì bảo vệ
VQG.
Chương trình đẩy mạnh công tác giáo dục, thông tin,tuyên truyền giáo dục
và thu hút cộng đồng tham gia công tác bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên
nhiên
NGOs tham gia vào công tác tổ chức tập huấn bảo tồn đa dạng sinh học
cho 100% cán bộ công chức của Vườn; tham quan các VQG trong nước. Tuyên
truyền giáo dục về bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên nhiên cho cộng đồng
3


7.


8.

9.

và học sinh địa phương. In và phát hàng ngàn tài liệu bướm, tờ rơi cho nhân
dân.
Chương trình phục hồi sinh thái
Lập kế hoạch trồng và chăm sóc nuôi dưỡng nhằm phục hổi diện tích rừng đã
bị mất. Sự tham gia của khu vực tư nhân (Ví dụ như điều hành tuyến du lịch,
kinh doanh lữ hành và khách sạn) trong phát triển du lịch tại các khu bảo tồn
thiên nhiên có thể giúp cho việc duy trì và nâng cao lợi ích kinh tế của những
khu này. Cần phải có các thoả thuận phân chia lợi nhuận để đảm bảo sự công
bằng trong phát triển du lịch sao cho các cộng đồng, các nhà quản lý các khu
bảo tồn thiên nhiên, kinh doanh lữ hành và khách sạn và các công ty tư nhân
thừa nhận và hỗ trợ nhu cầu đầu tư vào bảo tồn và phát triển thận trọng các cơ
sở hạ tầng cho du lịch
Chương trình bảo vệ tài nguyên rừng và bảo tồn đa dạng sinh học
Tổ chức học tập Luật bảo vệ và phát triển rừng . Mở các lớp thực thi
pháp luật cho kiểm lâm viên. Hàng tháng tham gia họp giao ban với chính
quyền Xã và tham gia các buổi họp thôn. Phối hợp với địa phương và các đơn
vị chủ rừng lân cận đã phát hiện và xử lý kịp thời các vụ vi phạm rừng
Nghiên cứu khoa học
Kết hợp với các trường Đại học thực hiện các nghiên cứu khoa học, đề
xuất các giải pháp nhằm bảo vệ các khu bảo tồn và vườn quốc gia
Ví dụ cụ thể: Bảo tồn loài Vượn đen má vàng tại vườn quốc gia Biduop - Núi
Bà của Quỹ quốc tế về bảo vệ động vật và thiên nhiên hoang dã - WWF.
WWF là một trong những tổ chức phi lợi nhuận về bảo tồn thiên nhiên
lớn nhất và giàu kinh nghiệm nhất trên thế giới. Tổ chức phi Chính phủ này có
gần 5 triệu cộng tác viên và một mạng lưới toàn cầu đang hoạt động tại hơn

100 nước.
Năm 2010 Vườn quốc gia Bidoup- Núi Bà được quỹ quốc tế về bảo vệ
động vật và thiên nhiên hoang dã - WWF ưu tiên bảo tồn loài Vượn đen má
vàng (Nomascus gabriellae) ở vùng cảnh quan Nam Trường Sơn thông qua
nâng cao năng lực của kiểm lâm địa phương.
Mục tiêu :
(1) Nâng cao năng lực, thành lập nhóm điều tra linh trưởng mà nòng cốt là
cán bộ kiểm lâm thực hiện các cuộc điều tra và giám sát;
(2) Thiết lập bức tranh tổng thể về phân bố loài Vượn và xác định các mối
đe dọa trong vùng cảnh quan;
(3) Nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương và các nhà hoạch định
chính sách về hiện trạng các loài Vượn;

4


(4) Triển khai các hoạt động bảo tồn và xây dựng hệ thống quản lý bảo tồn
Vượn trong các khu rừng đặc dụng.
Kết quả sau khi kết thúc dự án:
(1) Xác định được vùng phân bố loài Vườn đen má vàng tại VQG Bidoup - Núi
Bà;
(2) Nâng cao năng lực cho cán bộ kiểm lâm địa phương thực hiện điều tra
khảo sát và gắn kết với cộng đồng trong việc bảo tồn loài Vượn;
(3) Lồng ghép hệ thống quản lý bền vững cho loài Vượn và các loài ưu tiên
khác trong hệ thống rừng đặc dụng;
(4) Nâng cao nhận thức của người dân xung quanh VQG và vùng ưu tiên cho
loài Vượn;
(5) Gắn kết vai trò của người dân trong việc lập kế hoạch và triển khai thực
hiện các hoạt động bảo tồn.
Một số giải pháp:

 Về phía Vườn quốc gia:

Tiếp tục khảo sát điều tra loài Vượn đen má vàng tại những vùng còn lại (
theo người dân hay đi vào rừng) để đánh giá số lượng quần thể, phân bố,
tình trạng sống,…làm cơ sở dữ liệu cho việc giám sát, theo dõi cũng như
đề xuất các biện pháp bảo vệ hữu hiệu, xác định khu vực phân bố chính
và phụ cận để phục vụ tốt cho công tác quản lý và bảo vệ loài;

Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát những khu vực này, thành lập
các điểm chốt chặn tại các tuyến đường khu vực Liêng Ka, Đưngia riêng,
Đạ Long. Công tác tuần tra, kiểm soát phải có kế hoạch chi tiết cụ thể,
bám sát thực tế, đồng thời xây dựng mạng lưới thông tin từ chính người
dân. Thường xuyên phối hợp với Chính quyền địa phương, các đơn vị
chủ rừng giáp ranh, kiểm lâm địa bàn tổ chức tuần tra, truy quyét; tổ chức
họp giao ban định kỳ, ký kết quy chế phối kết hợp hoạt động với các đơn
vị theo Nghị định số 74/2010/NĐ- CP, ngày 12/7/2010 của Chính phủ;
Thông tư liên tịch số 98/2010/TTLT-BQP-BNNPTNT ngày 19/7/2010
giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sự phối
hợp hoạt động với các đơn vị phải có kế hoạch cụ thể và được đánh giá
sau mỗi lần tổng kết;

Tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các văn bản pháp luật liên quan
đến công tác bảo tồn, quản lý bảo vệ linh trưởng đến các tầng lớp nhân
dân nhất là cộng đồng dân cư sống trong và vùng đệm của Vườn quốc
gia. Nâng cao nhận thức bảo tồn thông qua các chương trình giáo dục
lồng ghép trong nhà trường (câu lạc bộ bảo tồn), tại thôn bản như những
buổi họp thôn, sinh hoạt cộng đồng, tại Vườn quốc gia Bidoup- Núi Bà
(chương trình giáo dục cho du khách và cán bộ Vườn). Kinh nghiệm thực
tế cho thấy, ngoài báo chí, đài phát thanh, truyền hình thì các loại áp
5






















phích, tờ bướm, đặc biệt là trên bìa vở học sinh và phân phát cho các em,
cho các gia đình đã đem lại kết quả tốt về bảo tồn;
Cần phải có nghiên cứu sự phụ thuộc của người dân sống trong và vùng
đệm Vườn quốc gia đối với các sản phẩm rừng. Kết quả này sẽ phục vụ
tốt cho công tác quản lý bảo vệ rừng, phục vụ cho việc xây dựng các dự
án phát triển và các hoạt động kinh tế nhằm giảm bớt sự phụ thuộc của
người dân vào rừng và chỉ khi nào dân thực sự tham gia vào công việc
QLBVR nói chung và tài nguyên thú linh trưởng nói riêng trong đó có
Vượn đen má vàng thì mới có thể phát triển bền vững;

Cần phải có sự nghiên cứu về chuỗi thức ăn của loài Vượn đen má vàng,
thức ăn chủ yếu là loài cây gì để từ đó phục vụ tốt cho công tác quản lý
bảo vệ nguồn thức ăn, duy trì sự sống cho loài Vượn này;
Đối với các khu vực có Vượn đen má vàng không nên thiết kế các tuyến
đường ô tô đi qua mà chỉ sử dụng đường mòn hoặc không nên xây dựng
các công trình gần nơi sinh sống của Vượn;
Cần phải mở rộng hợp tác với các tổ chức, các trường đại học, Viện
nghiên cứu giúp cho việc đào tạo và nâng cao chuyên môn nghiệp vụ về
bảo tồn, hỗ trợ các trang thiết bị cần thiết để phục vụ cho công việc, tiếp
cận các phương pháp mới trên thế giới về điều tra, giám sát, cách quản lý,
phương thức bảo tồn loài Vượn đen má vàng;
Sau khi dự án về Vượn đen má vàng kết thúc, Vườn quốc gia rất cần có
sự hợp tác và hỗ trợ của các tổ chức để tiếp tục thực hiện quá trình giám
sát, quản lý và bảo tồn loài này.
Về phía chính quyền địa phương, TW, các tổ chức dự án:
Đối với các nhà hoạch định chính sách ở địa phương cần có một chiến
lược quy hoạch tổng thể về sử dụng đất: Đất nào dành cho sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp, Doanh nghiệp và cho chăn nuôi; đồng thời phải có
quỹ đất dự trù, có như thế mới giảm áp lực của dân vào Vườn quốc gia;
Kết hợp với Vườn quốc gia tiến hành di dân từ vùng lõi ra vùng đệm của
Vườn quốc gia, đồng thời phải có kế hoạch, chiến lược phát triển vùng
đệm, gắn giữa phát triển kinh tế của địa phương với việc sử dụng bền
vững tài nguyên rừng;
Phát triển mạnh mạng lưới khuyến nông lâm để hỗ trợ người dân về kỹ
thuật trong sản xuất, hỗ trợ giống, vật nuôi, sử dụng NLKH để đa dạng
hóa sản phẩm, đảm bảo lương thực cho đời sống của người dân;
Đối với WWF sau khi dự án kết thúc rất cần có kế hoạch tiếp theo đầu tư
cho việc giám sát loài Vườn, phục vụ tốt cho công tác QLBV loài này;
ngoài phương pháp điều tra theo tiếng kêu còn có thể kết hợp một số
phương điều tra khác như phương pháp đánh giá mật độ nhóm, đống

phân thì kết quả sẽ có độ chính xác cao hơn và từ đó đưa ra biện pháp
quản lý bảo vệ tốt hơn;
6




Đối với những vùng giáp ranh có loài Vượn xuất hiện thì quá trình xây
dựng dự án bảo tồn loài Vượn cần tiến hành cả 2 bên (Trong cùng một
điều kiện sinh thái và phạm vi hẹp loài có thể di chuyển qua lại)

7



×