Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Tieu luận CTXH với người cao tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.06 KB, 47 trang )

Mục lục

1


Lý do chọn chủ đề
Người cao tuổi là lớp người có uy tín và vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội,
là người có công sinh thành, nuôi dạy con cháu, hình thành nhân cách, phát triển
giống nòi. Ngoài ra còn là lớp người có vai trò rất lớn trong lịch sử dựng nước và
giữ nước. Những năm qua, nhờ những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới, đời
sống của nhân dân được cải thiện, tuổi thọ trung bình của người cao tuổi Việt Nam
nói chung được nâng cao. Tuy nhiên, nước ta là một nước trải qua nhiều năm chiến
tranh, dù điều kiện kinh tế - xã hội đã có nhiều biến đổi tích cực nhưng đời sống vật
chất, tinh thần của một bộ phận người cao tuổi vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là
người cao tuổi ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.Vì
vậy, Công tác chăm sóc người cao tuổi là một trong những nhiệm vụ mang tính
chính trị và nhân văn sâu sắc được Đảng và Nhà nước ta dành nhiều sự quan
tâmtrong những năm vừa qua.

2


I.Cơ sở lý luận công tác xã hội với người cao tuổi.
1.Khái quát chung về người cao tuổi.
1.1.Đặc điểm của người cao tuổi.
1.1.1.Khái niệm chung người cao tuổi.

Có rất nhiều khái niệm khác nhau về người cao tuổi. Trước đây, người ta
thường dùng thuật ngữ người già để chỉ những người có tuổi, hiện nay “người
cao tuổi” ngày càng được sử dụng nhiều hơn.
Theo quan điểm y học: Người cao tuổi là người ở giai đoạn già hóa gắn


liền với việc suy giảm các chức năng của cơ thể.
Về mặt pháp luật: Luật Người cao tuổi Việt Nam năm 2010 quy định:
Người cao tuổi là “Tất cả các công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên”.
Theo WHO: Người cao tuổi phải từ 70 tuổi trở lên.
Theo quan điểm của Công tác xã hội: Với đặc thù là một nghề trợ giúp xã
hội, công tác xã hội nhìn nhận về người cao tuổi như sau: Người cao tuổi với
những thay đổi về tâm sinh lý, lao động – thu nhập, quan hệ xã hội sẽ gặp nhiều

3


khó khăn, vấn đề trong cuộc sống. Do đó, người cao tuổi là một đối tượng yếu
thế, đối tượng cần sự trợ giúp của công tác xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của người cao tuổi.
1.1.2.1. Đặc điểm sinh lý
a. Quá trình lão hóa
Lão hóa là quá trình tất yếu của cơ thể sống. Lão hóa có thể đến sớm hay
muộn tùy thuộc vào cơ thể từng người. Khi tuổi già các đáp ứng kém nhanh
nhạy, khả năng tự điều chỉnh và thích nghi cũng giảm dần, tất nhiên sức khỏe về
thể chất và tinh thần giảm sút. Về thể xác trong giai đoạn này cơ thể bắt đầu có
những thay đổi theo chiều hướng đi xuống.
Diện mạo thay đổi: Tóc bạc, da mồi, có thêm nhiều nếp nhăn. Da trở nên
khô và thô hơn. Trên cơ thể, đầu và mặt xuất hiện mụn cơm nhiều hơn. Ở tuổi
già có những nếp nhăn là do lớp mỡ ở dưới lớp da mất đi cũng như do da không
còn tính chất đàn hồi. Các mạch máu mỏng vỡ ra, tạo thành các chất xanh đen
nhỏ dưới da
Bộ răng yếu làm cho người cao tuổi ngại dùng các thức ăn cứng, khô, dai
dùthức ăn này giàu vitamin, đạm và chất khoáng. Người cao tuổi thường chọn
các thức ăn mềm
Các cơ quan cảm giác: Cảm giác nghe nhìn, nếm và khứu giác cùng với

tuổi tác ngày càng cao thường bắt đầu hoạt động kém hiệu quả.
Các cơ quan nội tạng: Tim là một cơ bắp có trình độ chuyên môn hoá cao
cùng với tuổi tác cũng phải chịu những vấn đề tương tự như các cơ bắp khác của
cơ thể. Tim phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của hệ tuần hoàn, mà có thể là
nguyên nhân phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến lão hoá.

4


Phổi của người già thường làm việc ít hiệu quả khi hít vào và lượng ôxy
giảm. Khả năng dự phòng của tim, phổi và các cơ quan khác cùng với cũng
giảm sút. Người già thích nghi với các điều kiện rét chậm hơn. Người già dễ
dàng bị cảm lạnh, nhiệt độ có thể hạ thấp sẽ rủi ro nghiêm trọng cho sức khoẻ
của họ. Họ cũng phải chịu đựng những khó khăn tương tự khi trong trường hợp
cần thiết phải tiếp cận vớ i nhiệt độ cao.
Khả năng tình dục giảm: Do sự thay đổi của nội tiết tố, ham muốn tình
dục ở người cao tuổi cũng giảm rõ rệt. Ở người già xương và khớp không còn
linh hoạt, mềm dẻo, các cơ đều yếu đi dẫn đến mọi cử động đều chậm chạp,
vụng về. Người già hay bị mệt mỏi, mọi hành vi, cử chỉ yêu đương gặp khó
khăn.
b. Các bệnh thường gặp ở người cao tuổi.
Người cao tuổi thường mắc các bệnh về:
Các bệnh tim mạch và huyết áp: Cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, suy tim,
loạn nhịp tim…
Các bệnh về xương khớp: Thoái hóa khớp, loãng xương, bệnh gút…
Các bệnh về hô hấp: Cảm sốt, viêm họng – mũi, cúm, viêm phế quản,
viêm phổi, ung thư phổi…
Các bệnh răng miệng: Khô miệng, sâu răng, bệnh nha chu…
Các bệnh về tiêu hóa và dinh dưỡng: Rối loạn tiêu hóa, suy dinh dưỡng…
Ngoài ra người cao tuổi còn hay mắc các bệnh về ung bướu, bệnh thần

kinh và các bệnh về sức khỏe tâm thần…
1.1.2.2.Đặc điểm tâm lý.
Trạng thái tâm lý và sức khỏe của người cao tuổi không chỉ phụ thuộc vào
nội lực của bản thân mà còn phụ thuộc vào môi trường xã hội, đặc biệt là môi
5


trường văn hóa - tình cảm và quan trọng nhất là môi trường gia đình. Khi bước
sang giai đoạn tuổi già, những thay đổi tâm lý của mỗi người mỗi khác, nhưng
tựu trung những thay đổi thường gặp là:
a.Hướng về quá khứ
Để giải tỏa những ưu phiền thường nhật trong cuộc sống hiện tại, người
cao tuổi thường thích hội họp, tìm lại bạn cũ, cảnh xưa, tham gia hội ái hữu, hội
cựu chiến binh... Họ thích ôn lại chuyện cũ, viết hồi ký, tái hiện kinh nghiệm
sống cũng như hướng về cội nguồn: Viếng mộ tổ tiên, sưu tầm cổ vật…
b.Chuyển từ trạng thái “tích cực” sang trạng thái “tiêu cực”
Khi về già người cao tuổi phải đối mặt với bước ngoặt lớn lao về lao động
và nghề nghiệp. Đó là chuyển từ trạng thái lao động (bận rộn với công việc, bạn
bè) sang trạng thái nghỉ ngơi, chuyển từ trạng thái tích cực khẩn trương sang
trạng thái tiêu cực xả hơi. Do vậy người cao tuổi sẽ phải tìm cách thích nghi với
cuộc sống mới. Người ta dễ gặp phải hội chứng về hưu.
c.Những biểu hiện tâm lý của người cao tuổi
Những biểu hiện tâm lý của người cao tuổi có thể được liệt kê như sau:
Sự cô đơn và mong được quan tâm chăm sóc nhiều hơn : Con cháu
thường bận rộn với cuộc sống. Điều này làm cho người cao tuổi cảm thấy mình
bị lãng quên, bị bỏ rơi. Họ rất muốn tuổi già của mình vui vẻ bên con cháu,
muốn được người khác coi mình không là người vô dụng. Họ rất muốn được
nhiều người quan tâm, lo lắng cho mình và ngược lại. Họ sợ sự cô đơn, sợ phải
ở nhà một mình.
Cảm nhận thấy bất lực và tủi thân: Đa số người cao tuổi nếu còn sức khỏe

vẫn còn có thể giúp con cháu một vài việc vặt trong nhà, tự đi lại phục vụ mình,
hoặc có thể tham gia được các sinh hoạt giải trí, cộng đồng. Nhưng cũng có một
số người cao tuổi do tuổi tác đã cao, sức khỏe giảm sút nên sinh hoạt phần lớn
6


phụ thuộc vào con cháu. Do vậy dễ nảy sinh tâm trạng chản nản, buồn phiền,
hay tự dằn vặt mình. Người cao tuổi mà tuổi càng cao thì sức khỏe lại càng giảm
sút, đi lại chậm chạp, không còn khả năng lao động, quan niệm sống khác với
thế hệ sau... nên chỉ một thái độ hay một câu nói thiếu tế nhị có thể làm cho họ
tự ái, tủi thân cho rằng mình già rồi nên bị con cháu coi thường.
Nói nhiều hoặc trầm cảm: Vì muốn truyền đạt kinh nghiệm sống cho con
cháu, muốn con cháu sống theo khuôn phép đạo đức thế hệ mình nên họ hay bắt
lỗi, nói nhiều và có khi còn làm cho người khác khó chịu. Với một bộ phận
người cao tuổi bảo thủ và khó thích ứng với sự thay đổi, cộng với sự giảm sút
của sức khỏe, khả năng thực hiện công việc hạn chế, nếu thời trẻ có những ước
mơ không thực hiện được, hoặc không thỏa đáng, không hài lòng... có thể xuất
hiện triệu chứng của bệnh trầm cảm. Họ trở thành những người trái tính, hay
ghen tỵ, can thiệp sâu vào cuộc sống riêng tư của con cháu vì họ cho rằng mình
có quyền đó.
Sợ phải đối mặt với cái chết: Sinh – tử là quy luật của tự nhiên, dù vậy
người cao tuổi vẫn sợ phải đối mặt với cái chết. Cũng có những trường hợp các
cụ bàn việc hậu sự cho mình, viết di chúc cho con cháu... có những cụ không
chấp nhận, lảng tránh điều đó và sợ chết. Với những thay đổi chung về tâm lý
của người cao tuổi đã trình bày ở trên dẫn đến việc một bộ phận người cao tuổi
thường thay đổi tính nết. Con cháu cần chuẩn bị sẵn tâm lý để đón nhận thực tế
này nhằm có những ứng xử phù hợp.
1.1.2.3.Đặc điểm tâm lý người cao tuổi cô đơn.
Người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa là những người từ đủ 60 tuổi
trở lên sống độc thân, người cao tuổi còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu không

có con, cháu, người thân thích đẻ nương tựa, không có nguồn thu nhập. Trường
hợp là phụ nữ cô đơn không nơi nương tựa, không có nguồn thu nhập, từ đủ 55
tuổi trở lên, hiện đang được hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội.
7


Ngoài những đặc điểm của người cao tuổi đã nêu ở trên, người cao tuổi cô
đơn còn có những đặc điểm tâm lý sau:
Cảm giác cô đơn luôn dày vò, nhưng thực tại cuộc sống vẫn bắt buộc phải
tìm kế sinh nhai hằng ngày nên ý thức tự lực cao, tinh thần chịu đựng lớn.Nhìn
chung trước khó khăn các cụ ít kêu ca phàn nàn.
Họ rất nặng tình cảm hàm ơn người khác nếu được ai giúp đỡ, dù là việc
nhỏ.
Do tuổi cao, sức yếu lại mất nguồn nuôi dưỡng, họ cảm nhận sâu sắc khó
khăn của mình hơn so với lúc còn trẻ nên có tâm trạng lo lắng thường xuyên về
ngày mai.Các cụ đều có ý thức chủ động lo liệu cho lúc ốm đau và lúc từ giã cõi
đời của mình, tuy khả năng lo liệu rất nhỏ.
1.2.Vấn đề già hóa dân số.
1.2.1.Trên thế giới.
Già hóa dân số là một trong những xu hướng quan trọng nhất của thế kỷ
21. Điều này có ý nghĩa quan trọng và ảnh hưởng lớn đến tất cả các khía cạnh
của xã hội. Trên thế giới, cứ một giây, có hai người tổ chức sinh nhật tròn 60
tuổi – trung bình một năm có gần 58 triệu người tròn 60 tuổi. Hiện nay trên thế
giới cứ chín người có một người từ 60 tuổi trở lên và con số này dự tính đến
năm 2050 sẽ tăng lên là cứ năm người sẽ có một người từ 60 tuổi trở lên. Do vậy
hiện tượng già hóa dân số không thể không được quan tâm.
Già hóa dân số đang diễn ra trên tất cả các khu vực và các quốc gia với
các tốc độ khác nhau. Già hóa dân số đang gia tăng nhanh nhất ở các nước đang
phát triển, bao gồm các nước có nhóm dân số trẻ đông đảo. Hiện nay, có 7 trong
số 15 nước có hơn 10 triệu người già là các nước đang phát triển. Già hóa là một

thành tựu của quá trình phát triển. Nâng cao tuổi thọ là một trong những thành
tựu vĩ đại nhất của loài người. Con người sống lâu hơn nhờ các điều kiện tốt hơn
8


về chế độ dinh dưỡng, vệ sinh, tiến bộ y học, chăm sóc y tế, giáo dục và đời
sống kinh tế. Hiện nay, có tới 33 quốc gia đạt được tuổi thọ trung bình trên 80
tuổi; trong khi đó năm năm trước đây, chỉ có 19 quốc gia đạt con số này. Hiện
nay, Nhật Bản là quốc gia duy nhất có trên 30% dân số già; nhưng đến năm
2050, dự tính sẽ có 64 nước có trên 30% dân số già như Nhật Bản. Quá trình
biến đổi nhân khẩu học này không ngừng đem lại những cơ hội, cũng như dân
số già hóa với sức khỏe, an sinh và năng động cả về kinh tế và xã hội có thể có
những đóng góp không ngừng cho xã hội.
Ảnh hưởng về kinh tế và xã hội của hiện tượng già hóa dân số có ý nghĩa
vô cùng quan trọng, không chỉ tác động tới cá nhân người cao tuổi và gia đình
họ, mà còn có tác động rộng hơn tới toàn xã hội và cộng đồng toàn cầu theo
những cách thức chưa từng có. Đây chính là cách thức mà chúng ta lựa chọn để
giải quyết các thách thức cũng như tận dụng tối đa các cơ hội mà dân số già hóa
nhanh chóng mang lại nhằm xác định liệu xã hội có được hưởng lợi hay không
từ cơ hội dân số già. Với số lượng cũng như tỷ trọng người cao tuổi trong dân số
ngày càng gia tăng nhanh chóng ở ngày càng nhiều quốc gia, điều quan trọng là
cần nâng cao năng lực của xã hội nhằm giải quyết các thách thức đặt ra từ
chuyển đổi cơ cấu nhân khẩu học này.
Dân số được gọi là già hóa khi người cao tuổi chiếm tỷ trọng tương đối
lớn trong toàn bộ dân số. Tỷ suất sinh giảm và tuổi thọ tăng là hai yếu tố dẫn
đến già hóa dân số. Tuổi thọ trung bình đã gia tăng đáng kể trên toàn thế giới.
Giai đoạn năm 2010- 2015, tuổi thọ trung bình của các nước phát triển là 78, và
của các nước đang phát triển là 68 tuổi. Đến những năm 2045 – 2050, dự kiến
tuổi thọ trung bình sẽ tăng lên đến 83 tuổi ở các nước phát triển và 74 tuổi ở các
nước đang phát triển. Năm 1950, toàn thế giới có 205 triệu người từ 60 tuổi trở

lên. Đến năm 2012, số người cao tuổi tăng lên đến gần 810 triệu người. Dự tính
con số này sẽ đạt 1 tỷ người trong vòng gần 10 năm nữa và đến năm 2050 sẽ
tăng gấp đôi là 2 tỷ người. Có sự khác biệt lớn giữa các vùng. Ví dụ, năm 2012,
9


Châu Phi có 6 % dân số tuổi từ 60 trở lên, trong khi con số này ở Châu Mỹ La
Tinh và vùng biển Caribe là 10%, ở Châu Á là 11%, Châu Đại dương là 15%,
Nam Mỹ là 19% và Châu Âu là 22%. Đến năm 2050, dự báo tỷ trọng người cao
tuổi từ 60 tuổi trở lên ở Châu Phi sẽ tăng lên chiếm 10% tổng dân số, so với
24% ở Châu Á, 24% ở Châu Đại dương, 25% ở Châu Mỹ La Tinh và vùng biển
Caribe, 27% ở Nam Mỹ và 34% ở Châu Âu. Trên toàn cầu, phụ nữ chiếm đa số
trong dân số cao tuổi. Hiện nay trên thế giới, cứ 100 phụ nữ từ 60 tuổi trở lên thì
chỉ có 84 nam giới. Cứ 100 phụ nữ từ 80 tuổi trở lên thì chỉ có 61 nam giới.
Nam giới và phụ nữ trải qua giai đoạn tuổi già một cách khác nhau. Mối quan hệ
về giới tác động tới toàn bộ quá trình sống, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các
nguồn lực và cơ hội một cách liên tục cũng như tích lũy. Trong rất nhiều trường
hợp, phụ nữ cao tuổi thường hay bị phân biệt đối xử hơn, như hạn chế trong tiếp
cận công ăn việc làm và dịch vụ chăm sóc sức khỏe bị hạn chế, dễ bị lạm dụng,
bị từ chối quyền cá nhân và quyền thừa kế tài sản, thiếu thu nhập tối thiểu cơ
bản và an sinh xã hội. Nam giới cao tuổi, đặc biệt sau khi về hưu cũng gặp nhiều
khó khăn do khả năng tiếp cận các mạng lưới hỗ trợ xã hội còn hạn chế, và cũng
có thể có nguy cơ bị lạm dụng, đặc biệt là lạm dụng về tài chính. Những điểm
khác biệt cho thấy những lưu ý quan trọng trong việc hoạch định chương trình
và chính sách công.
Trên thế giới cứ mỗi giây có hai người tổ chức sinh nhật lần thứ 60, trung
bình hàng năm có 58 triệu người tròn 60 tuổi. Đến năm 2050, lần đầu tiên con số
người cao tuổi nhiều hơn số trẻ em dưới 15 tuổi. Năm 2000, số người từ 60 tuổi
trở lên đã nhiều hơn số trẻ em dưới 5 tuổi. Năm 2012, có 810 triệu người từ 60
tuổi trở lên, chiếm 11,5% tổng dân số toàn thế giới. Dự báo con số này sẽ đạt 1

tỷ người trong vòng chưa đến 10 năm tới và sẽ tăng gấp đôi, đạt 2 tỷ người vào
năm 2050, chiếm 22% tổng dân số thế giới. Thập kỷ vừa qua, số người từ 60
tuổi trở lên tăng lên 178 triệu người – tương ứng với dân số của cả nước
Pakistan, là nước có số dân đông thứ 6 trên thế giới. Giai đoạn 2010-2015, tuổi
thọ trung bình ở các nước phát triển là 78 năm và ở các nước đang phát triển là
10


68 năm. Đến giai đoạn năm 2045-2050, dự báo tuổi thọ trung bình sẽ tăng tới 83
năm ở các nước phát triển và 74 năm ở các nước đang phát triển. Trên toàn thế
giới, trong số ba người từ 60 tuổi trở lên thì có hai người sống ở các nước đang
phát triển. Đến năm 2050, trong số 5 người từ 60 tuổi trở lên thì sẽ có 4 sống ở
nước đang phát triển. Hiện nay, Nhật Bản là quốc gia duy nhất trên thế giới có
hơn 30% dân số từ 60 tuổi rở lên. Đến năm 2050, sẽ có 64 quốc gia có số người
cao tuổi chiếm hơn 30% tổng dân số quốc gia. Trên toàn cầu, số người thọ trên
100 tuổi sẽ tăng từ 316.600 năm 2011 lên 3,2 triệu người năm 2050. Trên thế
giới, cứ 100 phụ nữ từ 60 tuổi trở lên thì có 84 nam giới. Cứ 100 phụ nữ 80 tuổi
trở lên thì có 61 nam giới.
Trên toàn thế giới, chỉ có một phần ba các quốc gia, chiếm 28% tổng dân
số thế giới, có hệ thống bảo trợ xã hội toàn diện bao phủ tất cả các khía cạnh của
an sinh xã hội. Chi phí cho quỹ hưu trí toàn dân cho người từ 60 tuổi trở lên ở
các nước đang phát triển chỉ chiếm từ 0,7% đến 2,6% tổng thu nhập quốc dân.
Trên toàn cầu, có 47% nam giới cao tuổi và 23,8% nữ giới cao tuổi tham gia vào
lực lượng lao động. 30 năm trước đây, không có “nền kinh tế già” mà trong đó
tiêu dùng của người cao tuổi nhiều hơn giới trẻ. Năm 2010, có 23 nền kinh tế già
và đến năm 2040, con số này sẽ tăng lên là 89. Trên toàn thế giới, có hơn 46%
người từ 60 tuổi trở lên bị khuyết tật. Có hơn 250 triệu người cao tuổi bị khuyết
tật vừa đến khuyết tật nặng. Dự tính tổng số người mất trí nhớ trên toàn thế giới
là 35,6 triệu người và cứ 20 năm con số sẽ tăng gấp đôi, và sẽ đạt 65,7 triệu
người năm 2030.

Tóm lại vấn đề già hóa dân số và đáp ứng chính sách liên quan đến người
cao tuổi phải được đặt là trọng tâm trong quá trình xây dựng chặng đường phát
triển của các quốc gia sau năm 2015. Trong một thế giới đang già hóa nhanh
chóng, rất cần chú trọng xây dựng các mục tiêu phát triển cụ thể liên quan đến
dân số cao tuổi, là vấn đề chưa được đề cập tới trong Các mục tiêu Phát triển
Thiên niên kỷ.
11


1.2.2.Tại Việt Nam.
Do tỷ suất sinh và tỷ suất chết giảm cùng với tuổi thọ tăng, dân số cao
tuổi Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng cả về số lượng và tỷ lệ so với tổng
dân số. Theo Ủy ban Kinh tế và Xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương của
Liên hợp quốc (UNESCAP), dân số một nước sẽ bước vào thời kỳ già hóa khi tỷ
lệ người cao tuổi chiếm hơn 10% tổng dân số. Theo dự báo dân số của Tổng cục
Thống kê năm 2010 thì tỷ lệ người cao tuổi so với tổng dân số ở Việt Nam sẽ
đạt đến con số 10% vào năm 2017, hay dân số Việt Nam chính thức bước vào
giai đoạn “già hóa” từ năm 2017. Giống như việc gia tăng dân số, dân số già hóa
cũng gây ra nhiều thách thức cho tăng trưởng kinh tế cũng như hạ tầng cơ sở và
các dịch vụ an sinh xã hội. Bên cạnh đó, các nghiên cứu còn chỉ ra rằng dân số
già hóa còn tác động mạnh đến mối quan hệ gia đình, lối sống, hệ thống an sinh
xã hội, đặc biệt là hệ thống hưu trí quốc gia. Vì lý do đó mà các vấn đề liên quan
đến già hóa dân số được coi trọng trong Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội
của Việt Nam trong thập kỷ tới cũng như dự thảo Kế hoạch Phát triển Kinh tế
Xã hội giai đoạn 2011-2015. Vấn đề này cũng được đề cập đến trong nhiều
chiến lược quốc gia khác nhau, ví dụ như Chiến lược Dân số và Sức khỏe Sinh
sản, các chiến lược và chính sách của một số lĩnh vực khác.
Trong ba thập kỷ qua, dân số Việt Nam đã có những biến động mạnh mẽ
về quy mô và cơ cấu tuổi. Tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam tăng lên nhanh
chóng trong thời gian này là do ba yếu tố quan trọng: tỷ suất sinh giảm, tỷ suất

chết giảm và tuổi thọ tăng lên. Tổng tỷ suất sinh (TFR) giảm từ 5,25 vào năm
1975 xuống 3,8 vào năm 1989 và 2,03 vào năm 2009. Tỷ suất chết trẻ em dưới 1
tuổi năm 2009 chỉ là 16‰, giảm 20 điểm phần nghìn so với năm 1999. Tuổi thọ
trung bình của dân số là 72,8 tuổi vào năm 2009, tăng 4,6 tuổi và 8 tuổi so với
năm 1999 và 1989. Tốc độ tăng dân số giảm từ mức trung bình 2,4%/năm giai
đoạn 1975-1989 xuống mức 1,7% giai đoạn 1989-1999 và 1,2% giai đoạn 19992009. Do đó, trong những thập kỷ qua, cơ cấu tuổi dân số Việt Nam biến động
12


mạnh theo hướng: tỷ lệ trẻ em (0-14 tuổi) ngày càng giảm; tỷ lệ dân số trong độ
tuổi lao động (15-59) tăng lên; và tỷ lệ người cao tuổi (từ 60 trở lên) cũng tăng
nhanh. Nếu lấy năm 1979 là năm cơ sở thì trong giai đoạn 1979-2009, tổng dân
số tăng 1,6 lần; dân số trẻ em giảm gần một nửa; dân số trong độ tuổi lao động
tăng 2,08 lần, còn dân số cao tuổi tăng 2,12 lần. Như vậy, dân số cao tuổi tăng
nhanh nhất so với tất cả các nhóm dân số khác trong giai đoạn này. Đây chính là
đặc điểm đầu tiên, nổi bật nhất của quá trình già hóa dân số ở Việt Nam.
Dự báo của Tổng cục Thống kê (GSO, 2010) cho giai đoạn 2009-2049
cho thấy, hệ quả của xu hướng biến đổi cơ cấu tuổi trên là chỉ số già hóa sẽ tăng
lên nhanh chóng, chỉ số già hóa sẽ vượt ngưỡng 100 vào khoảng năm 2032. Đây
là thời điểm Việt Nam bắt đầu có dân số cao tuổi nhiều hơn dân số trẻ em. Dự
báo dân số cũng cho thấy tỷ số hỗ trợ tiềm năng giảm nhanh chóng trong thời
gian tới khi tốc độ tăng của dân số cao tuổi ngày càng lớn. Nếu năm 2009, cứ
hơn 7 người trong độ tuổi lao động sẽ hỗ trợ 1 người cao tuổi thì đến năm 2049,
tỷ số này chỉ là 2, tức là giảm hơn 3 lần. Dự báo dân số của Liên hợp quốc
(2008) cũng cho thấy, gắn liền với quá trình già hóa dân số nhanh chóng này là
sự gia tăng của tuổi trung vị từ 28,5 tuổi vào năm 2010 lên 36,7 tuổi vào năm
2030 và 42,4 tuổi vào năm 2050. Tuổi thọ trung bình tăng từ 75,4 tuổi vào năm
2010 lên tương ứng 78 và 80,4 vào năm 2030 và 2050. Tuổi thọ trung bình ở
tuổi 60 của dân số Việt Nam tương ứng cho nữ giới và nam giới là 20 và 18 tuổi.
Đây là tuổi thọ tương đương hoặc cao hơn những nước có thu nhập bình quân

đầu người cao hơn như Thái Lan, Malaysia và Inđônêxia.
Quá trình già hóa dân số ở Việt Nam là sẽ già ở nhóm già nhất, nghĩa là
tốc độ tăng và số lượng người cao tuổi ở độ tuổi cao nhất (từ 80 tuổi trở lên) sẽ
ngày càng lớn. Số liệu từ bốn cuộc Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở giai đoạn
1979-2009 cho thấy tỷ lệ người cao tuổi ở nhóm tuổi thấp nhất (từ 60 đến 69)
tăng chậm, trong khi tỷ lệ người cao tuổi ở nhóm cao tuổi trung bình (70-79) và
già nhất (80+) có xu hướng tăng nhanh hơn. Số liệu dự báo của GSO (2010) cho
13


giai đoạn 2009-2049 cho thấy, khi Việt Nam bước vào giai đoạn dân số “già”
cũng là lúc nhóm dân số cao tuổi nhất tăng với tốc độ cao nhất. So với các quốc
gia khác trên thế giới, thậm chí với nhiều nước phát triển hoặc có mức thu nhập
bình quân đầu người cao hơn, tốc độ già hóa dân số Việt Nam khá cao. Cụ thể,
số năm để tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên của Việt Nam tăng từ 7% lên 14% tổng
dân số hay thời gian để dân số quá độ từ giai đoạn già hóa sang già là ngắn hơn
nhiều nước: Pháp mất 115 năm; Mỹ mất 69 năm, Nhật Bản và Trung Quốc mất
26 năm, trong khi Việt Nam chỉ mất 20 năm. Với điều kiện phát triển kinh tế-xã
hội như hiện nay thì đây thực sự là thách thức lớn cho Việt Nam trong việc thích
ứng với một dân số già hóa nhanh.

Tỷ số giới tính nghiêng về nữ giới khi độ tuổi ngày càng cao. Do tỷ lệ phụ
nữ trong dân số cao tuổi ngày càng tăng còn gọi là xu hướng nữ hóa dân số cao
tuổi, nên đòi hỏi phải có các chính sách chăm sóc người cao tuổi thích ứng với
xu hướng này vì phụ nữ cao tuổi thường dễ tổn thương hơn với các cú sốc kinh
tế và xã hội. Tỷ số giới tính nữ/nam tăng lên theo tuổi ở Việt Nam cũng là xu
hướng chung trên thế giới.Nguyên nhân có thể lý giải cho xu hướng này là nam
giới cao tuổi thường có tỷ suất chết cao hơn nữ giới cao tuổi ở cùng nhóm tuổi.

14



Mức độ già hóa dân số ở các tỉnh và vùng có điều kiện và trình độ phát
triển kinh tế, xã hội khác nhau là rất khác nhau.Với những tỉnh có tỷ lệ người
cao tuổi trên 10% thì một trong những nguyên nhân quan trọng là do mức di cư
lớn của dân số trong độ tuổi lao động. Ngược lại, với những tỉnh có tỷ lệ người
cao tuổi nhỏ hơn 8% là do tỷ suất sinh còn cao. Điều này cho thấy tình trạng già
hóa dân số giữa các tỉnh, các vùng rất khác nhau là do nhiều nguyên nhân và cần
được phân tích kỹ lưỡng các nguyên nhân đó trong các điều kiện kinh tế và xã
hội nhất định thì mới có thể đưa ra các chính sách phù hợp.Theo khu vực thành
thị - nông thôn, số liệu Điều tra mức sống hộ gia đình trong thập kỷ qua cho
thấy phần lớn người cao tuổi vẫn sống ở nông thôn dù rằng quá trình đô thị hóa
đang diễn ra nhanh chóng ở Việt Nam.Tỷ lệ này giảm chậm theo thời gian, từ
78% vào năm 1993 xuống 73% vào năm 2008. Xét theo vùng kinh tế - xã hội,
người cao tuổi sống nhiều nhất ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu
Long, những vùng sản xuất nông nghiệp chủ yếu của cả nước.
2.Công tác xã hội với người cao tuổi.
2.1.Công tác xã hội với người cao tuổi ở Quốc tế.
Ở nhiều quốc gia trên thế giới công tác xã hội đã và đang góp phần to lớn
vào công tác chăm sóc người cao tuổi. Ngày 13-15/ 7/ 2015, Liên hợp quốc đã
tổ chức cuộc họp lần thứ 6 của Nhóm công tác mở về người cao tuổi để bàn về
vấn đề người cao tuổi và xây dựng Công ước về quyền của người cao tuổi. Cuộc
họp có sự tham gia của đại diện hơn 100 quốc gia thành viên, 28 tổ chức Phi
chính phủ, nhiều chuyên gia độc lập, đặc biệt đã có đại diện của người cao tuổi
của 4 nước ở Châu Á và Châu Phi là Việt Nam, Pakistan, Kenya.Ngoài ra, vào
cuối tháng 9/ 2015, tại phiên họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Chính phủ
các nước trên thế giới sẽ cùng ký cam kết thực hiện các Mục tiêu phát triển bền
vững tới năm 2030, trong đó người cao tuổi bắt đầu được công nhận trong
Chương trình trên của liên hợp quốc.
15



Ở Mỹ, công tác xã hội góp phần rất lớn vào công tác trợ giúp nhóm người
yếu thế trong đó có người cao tuổi. Nhân viên công tác xã hội là người kết nối
người cao tuổi đến với những dịch vụ và tiếp cận chính sách. Ngay từ những
năm 1994 – 1995 ở Mỹ đã có những chương trình nghiên cứu về chăm sóc sức
khỏe cho người cao tuổi. Nghiên cứu chỉ ra những rào cản trong công tác chăm
sóc sức khỏe cho người cao tuổi.
Đại hội của Liên đoàn Nhân viên xã hội tại quốc tế (IFSW) Salvador de
Bahia, Brazil 14 tháng 8 năm 2008 đã ra tuyên bố về vai trò và vị trí của nhân
viên xã hội (NVXH) trong các hoạt động cũng như chính sách trợ giúp người
cao tuổi.
2.2.Công tác xã hội với người cao tuổi ở Việt Nam.
2.2.1.Khái niệm công tác xã hội với người cao tuổi.
Công tác xã hội với người cao tuổi là phương pháp của công tác xã hội
nhằm giúp đỡ, hỗ trợ người cao tuổi vượt qua khó khăn, giúp họ đánh giá, xác
định vấn đề, tìm kiếm tiềm năng, điểm mạnh từ đó nâng cao năng lực giải quyết
vấn đề. Quá trình giúp đỡ là quá trình khoa học và chuyên nghiệp, trong đó,
nhân viên xã hội xử dụng nền tảng kiến thức khoa học tâm lý, xã hội học, các
khoa học xã hội có liên quan khác và các kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp sát cánh
cùng người cao tuổi hỗ trợ họ tự giải quyết vấn đề của mình và hướng đến có thể
giải quyết các vấn đề khác có thể xảy ra trong tương lai.
2.2.2.Mục tiêu của công tác xã hội với người cao tuổi.
Giúp người cao tuổi hiểu được vấn đề của chính mình
Giảm nhẹ hoặc xóa bỏ các vấn đề gặp phải
Tìm ra những điểm mạnh và phát huy tiềm năng của nct.
2.2.3.Phương pháp của công tác xã hội với người cao tuổi.
16



2.2.3.1.Phương pháp công tác xã hội cá nhân với người cao tuổi
Giai đoạn 1:Tiếp nhận đối tượng
Nhân viên xã hội trực tiếp phát hiện và tiếp cận người cao tuổi có vấn đề
xã hội
Người cao tuổi chủ động tìm đến nhân viên xã hội khi gặp phải vấn đề
Nhân viên xã hội tiếp nhận đối tượng từ cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
khác
Giai đoạn 2:Thu thập thông tin
Mục đích: Để nhân viên xã hội có cái nhìn tổng quan về vấn đề của người
cao tuổi, trên cơ sở đó lập kế hoạch trợ giúp.
Trong quá trình thu thập thông tin có thể sẽ xảy ra trường hợp thông tin
thiếu chính xác hoặc mâu thuẫn với nhau, đây cũng là một đặc trưng thường
thấy khi làm việc với đối tượng người cao tuổi do đăc điểm tâm-sinh lý của đối
tương người cao tuổi vì vậy, nhân viên xã hội cần có các hoạt động kiểm chứng
thông tin liên tục xuyên suốt quá trình.
Những thôn tin cần thu thập:
+
+

Thông tin về thân chủ
Hoàn cảnh của thân chủ

Tình trạng sức khỏe
Vai trò của các tổ chức, đoàn thể với người cao tuổi
Nguồn thu thập:
+
+
+
+


Từ người cao tuổi
Từ gia đình người cao tuổi
Từ các cơ quan tổ chức địa phương
Từ hồ sơ, tài liệu
17


Ghi chép, tổng hợp thông tin:
+
+

Sắp xếp thông tin theo nội dung
Theo một mẫu chuẩn thống nhất để lưu trữ hồ sơ

Giai đoạn 3: Đánh giá, xác định vấn đề
Các hoạt động đánh giá thông tin:
+

Kiểm tra lại thông tin để có được thông tin chính xác nhất của than

+
+

chủ
Kiểm tra chéo các thông tin thu được
Xác định vấn đề

Lưu ý mỗi vấn đề đều có nguyên nhân của nó, nhân viên có thể xử dụng
cây vấn đề để xác định rõ nguyên nhân và hậu quả của nó, ngoài ra, nhân viên
xã hội có cũng có thể xử dụng các công cụ khác như biểu đồ gia đình, biểu đồ

sinh thái, bảng phân tích để làm rõ tương tác giữa các thành viên trong gia đình
và xác định các nguồn lực.
NVXH cần nắm được các cơ sở hoặc trung tâm chuyên môn hóa về người
cao tuổi.
Trong trường hợp người cao tuổi có nhiều vấn đề thì nhân viên xã hội cần
sắp xếp các vấn đề theo thứ tự ưu tiên để giải quyết.
Từ những đánh giá và phân tích trên, nhân viên xã hội sẽ xác định được
các nguồn lực hỗ trợ cũng như các yếu tố cản trở việc hỗ trợ người cao tuổi giải
quyết vấn đề.
Giai đoạn 4: Lập kế hoạch can thiệp
Trong giai đoạn này, nhân viên xã hội cần khuyến khích, huy động tối đa
sự tham gia của người cao tuổi vào việc xây dựng kế hoạch vì chính họ sẽ thực
hiện kế hoạch và tạo ra những sự thay đổi tích cực cho bản thân.
Các hoạt động nvxh cần thực hiện trong bước này:
18


+
+

Xác định mục tiêu
Xác định các hoạt động can thiệp

Kết quả của giai đoạn này chính là bẩn kế hoạch được người cao tuổi và
nhân viên xã hội cùng thực hiện dựa trên cơ sở đáp ứng những nhu cầu bức thiết
nhất của thân chủ. Đồng thời, cũng phải lường trước những khó khăn, cản trở có
thể gặp phải trong quá trình thực hiện kế hoạch để chuẩn bị tinh thần và cách thứ
ứng phó.
Giai đoạn 5: Tổ chức thực hiện
Chuẩn bị những điều kiện cần thiết để thực hiện kế hoạch

Chuẩn bị tâm thế sẵn sàng
Hỗ trợ người cao tuổi thực hiện kế hoạch
Giai đoạn 6: Lượng giá
Là công việc đo lường và thẩm định các thay đổi, tiến bộ hay mức độ đạt
được để kịp thời bổ sung, điều chỉnh giúp nâng cao chất lượng hoạt động chuyên
môn. Vì thế, khi lượng giá cần xác định cụ thể các mục tiêu một cách rõ ràng,
ghi chép hồ sơ tiến trình, có sự tham gia của cả nhân viên xã hội và người cao
tuổi cũng như những người có liên quan cuối cùng là thực hiện quá trình lượng
giá một cách liên tục.
Giai đoạn 7: Kết thúc, chuyển giao
2.2.3.2. Công tác xã hội nhóm với người cao tuổi
Giai đoạn chuẩn bị:
+

Xác định các vấn đề, nhu cầu, mục đích nhóm, xác định các bước thực

+
+

hiện
Xây dựng nhóm
Quy mô nhóm
19


Giai đoạn triển khai hoạt động nhóm:
+

Giới thiệu làm quen, tạo bầu không khí cởi mở tin cây: Trong hoạt
động này, người điều phối cần chủ động đưa ra các hoạt động để các


+

thành viên trong nhóm tham gia và làm quen với nhau.
Truyền đạt các nội dung hoạt động nhóm: Để đảm bảo tất cả mọi thành
viên đều hiểu đượ mục đích, nội dung sinh hoạt cần xây dựng mục
đích và kế hoạch, nội dung sinh hoạt cần thiết thực, đáp ứng nhu cầu
của nhóm .

Giai đoạn lượng giá, kết thúc:
+

Lượng giá là kết quả chương trình hoạt động: Những lợi ích mà nhóm

+

đem lại cho các thành viên là gì? Mức độ đạt được?
Vai trò là người điều phối hoạt động nhóm, nhân viên xã hội có
nhiệmvụ hỗ trợ theo dõi, đánh giá những nỗ lực của nhóm trong thực
hiện vụ hỗ theo dõi, đánh giá những nỗ lực của nhóm trong thực hiện
nhiệm vụ.

2.2.4.Đánh giá chung.
Nghề công tác xã hội đã được phát triển ở Việt Nam từ rất lâu đời cho đến
ngày nay với sự công nhận là một nghề của Chính phủ thông qua các văn bản
pháp lý. Nằm trong tiến trình phát triển chung của công tác xã hội là lĩnh vực
công tác xã hội với người cao tuổi. Người cao tuổi đang ngày càng được quan
tâm và trở thành một nhóm đối tượng đặc thù của nghề công tác xã hội. Hiện
nay, Nhà nước cũng đã có những chương trình, chính sách nhằm thúc đẩy hoạt
động công tác xã hội với nhóm người cao tuổi. Để làm việc được với người cao

tuổi đòi hỏi phải có đầy đủ các kiến thức, kỹ năng chuyên môn. Điều đó được
thể hiện trong việc đầu tư cho quá trình đào tạo của Nhà nước cho các khóa học,
cũng như sự tự trao dồi không ngừng để nâng cao năng lực làm việc cho nhân
viên công tác xã hội. Hiện nay ở Việt Nam các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi
đang ngày càng mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Song
20


song với sự phát triển của hệ thống bảo trợ xã hội do nhà nước quản lý là các
trung tâm dịch vụ tư nhân với chất lượng khá tốt. Có thể kể đến một số mô hình
như: mô hình viện dưỡng lão; các câu lạc bộ dưỡng sinh cho người cao tuổi;
bệnh viện lão khoa;…. Tuy nhiên trong các mô hình đang phát triển hiện tại vai
trò của công tác xã hội chưa được thể hiện một cách rõ nét. Việc kết nối dịch vụ,
trợ giúp trực tiếp người cao tuổi dưới góc độ của công tác xã hội đã được thực
hiện và đem lại hiệu quả nhất định ở một số địa phương. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều bất cập, những hình thức trợ giúp còn nhỏ lẻ và chưa có tính đồng bộ trên
diện rộng. Xét trong tình hình thực tế bổi cảnh Việt Nam hiện tại có thể thấy
công tác xã hội đang ngày càng chứng minh được tầm quan trọng của mình
trong việc trợ giúp các nhóm đối tượng yếu thế trong đó có người cao tuổi. Việc
phát triển công tác xã hội nói chung và công tác xã hội với người cao tuổi nói
riêng là một điều tất yếu để đảm bảo nền an sinh cho đất nước.
II.Cơ sở thực tiễn.
1.Quan điểm, định hướng của Chính phủ về vấn đề Người cao tuổi.
Sau khi Hội Người cao tuổi Việt Nam được thành lập (10/5/1995), Ban Bí
thư TW đã ban hành Chỉ thị 59/CT-TW “Về chăm sóc người cao tuổi”, quy
định: “Việc chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người cao tuổi là trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Hội Người cao tuổi Việt Nam mới
được thành lập, cần được nhanh chóng ổn định về tổ chức và mở rộng hoạt động
ở cơ sở. Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc, các ban đảng, các đoàn thể nhân dân cần
giúp đỡ Hội hoạt động có hiệu quả thiết thực, phối hợp với Hội trong việc vận

động gia đình và xã hội chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy người cao tuổi phục vụ
công cuộc đổi mới. Đảng đoàn Quốc hội, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các ban của Đảng, các ban cán sự đảng Chính phủ, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Tư pháp phối hợp với Hội nghiên cứu, soát xét các
chính sách luật pháp hiện hành, đề xuất những văn bản pháp quy của Nhà nước
nhằm bảo vệ, chăm sóc và phát huy người cao tuổi. Nhà nước cần dành ngân
21


sách để giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề chăm sóc người cao
tuổi. Trước hết cần quan tâm chăm sóc những người cao tuổi có công, cô đơn
không nơi nương tựa, tàn tật và bất hạnh, nhanh chóng xoá bỏ tình trạng người
già lang thang trên đường phố, ngõ xóm. Đề nghị Chính phủ hỗ trợ Hội người
cao tuổi Việt Nam về kinh phí và điều kiện hoạt động”.
Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã nêu: “Đối với các lão thành
cách mạng, những người có công với nước, các cán bộ nghỉ hưu, những người
cao tuổi thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao
đời sống tinh thần và vật chất trong điều kiện mới; đáp ứng nhu cầu thông tin,
phát huy khả năng tham gia đời sống chính trị của đất nước và các hoạt động xã
hội; nêu gương tốt, giáo dục lí tưởng và truyền thống cách mạng cho thanh niên,
thiếu niên…”.
Thông báo số 12-TB/TW ngày 13 tháng 6 năm 2001 đã khẳng định Hội
Người cao tuổi Việt Nam là tổ chức xã hội của người cao tuổi, có các nhiệm vụ
đã được quy định cụ thể tại Pháp lệnh Người cao tuổi; Hội có Ban đại diện ở cấp
tỉnh và cấp huyện; Cấp tỉnh có từ 2 đến 3, cấp huyện có từ 1 đến 2 cán bộ
chuyên trách đồng thời khẳng định: “Nhà nước tiếp tục trợ cấp kinh phí hoạt
động cho Hội.Các cơ quan có chức năng của Nhà nước tạo thuận lợi, bảo đảm
cấp kinh phí kịp thời cho Hội”.
Trong bài phát biểu tại cuộc gặp mặt nhân ngày quốc tế Người cao tuổi do
TW Hội Người cao tuổi Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, Tổng Bí thư Nông Đức

Mạnh đã nói: “…Chưa bao giờ lực lượng người cao tuổi nước ta lại đông đảo
như hiện nay. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tự hào về lớp người cao tuổi nước
ta. Với uy tín cao, sự mẫu mực về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống cùng
với vốn tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng lao động và nghiệp vụ phong phú, đa
dạng của mình, người cao tuổi thực sự là một bộ phận hợp thành nguồn lực nội
sinh quý giá của cả dân tộc. Chúng ta tôn trọng, bồi dưỡng và phát huy nguồn
lực ấy”…
22


Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng ghi rõ: “Vận động toàn dân tham
gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với lão thành
cách mạng, những người có công với nước, người hưởng chính sách xã hội.
Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những người già
cô đơn, không nơi nương tựa…”.
Như vậy, từ Chỉ thị 59/CT-TW, các văn kiện Đại hội Đảng và Thông báo
số 12TB/TW của Ban Bí thư TW Đảng đều khẳng định: Người cao tuổi là nền
tảng của gia đình, là tài sản vô giá, nguồn lực quan trọng cho sự phát triển xã
hội. Vì thế, chăm sóc và phát huy tốt vai trò người cao tuổi là thể hiện bản chất
tốt đẹp của chế độ ta và đạo đức người Việt Nam, góp phần tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
2.Luật pháp, chính sách, chương trình, dịch vụ với người cao tuổi của Việt
Nam đang hiện hành.
2.1.Luật pháp với người cao tuổi ở Việt Nam.
Quan điểm trên của Đảng và Bác Hồ được thể hiện trong Hiến pháp năm
1946, Điều 14 quy định: “Những công dân già cả hoặc tàn tật không làm được
việc thì được giúp đỡ”. Điều 32 của Hiến pháp 1959 ghi rõ: “Giúp đỡ người già,
người đau yếu và tàn tật. Mở rộng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm sức khoẻ và cứu
trợ xã hội…”. Điều 64 của Hiến pháp 1992 quy định: “…Cha mẹ có trách nhiệm

nuôi dạy con cái. Con cái có trách nhiệm kính trọng và chăm sóc ông bà, cha
mẹ… ”. Và Điều 87 Hiến pháp ghi rõ: “Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi
không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ”.
Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 2 Điều 36 quy định:“Con có nghĩa vụ
và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu,
tàn tật…Và khoản 2 Điều 47 Luật này quy định: “Cháu có bổn phận… chăm
sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ngoại”.
23


Luật Bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân đã dành một chương riêng: Bảo
vệ sức khoẻ người cao tuổi … trong đó, khoản 1 Điều 41 của Luật này quy định:
“Người cao tuổi … được ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh, được tạo điều kiện
thuận lợi để đóng góp cho xã hội phù hợp với sức khoẻ của mình”.
Luật Lao động quy định tại Điều 124: “Người sử dụng lao động có trách
nhiệm quan tâm chăm sóc sức khoẻ người lao động cao tuổi, không được sử
dụng người lao động cao tuổi làm việc nặng nhọc, nguy hiểm… ảnh hưởng sức
khoẻ”.
Điều 151 của Bộ luật Hình sự quy định: “Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông
bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình” và Điều 152
quy định “Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng”. Bên cạnh đó, luật
cũng quy định một số tình tiết giảm nhẹ khi “người phạm tội là người già”.
2.2.Chính sách với người cao tuổi của Việt Nam.
Năm 1996, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 117/CP “Về chăm sóc
người cao tuổi và hỗ trợ hoạt động cho Hội người cao tuổi Việt Nam”. Chỉ thị
khẳng định: “Kính lão đắc thọ” là truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, Đảng và
Nhà nước ta coi việc quan tâm, chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của
người cao tuổi là đạo lý của dân tộc, là tình cảm và trách nhiệm của toàn đảng,
toàn dân. Các cấp chính quyền đã đề ra nhiều chính sách thể hiện sự quan tâm
đó. Để phát huy truyền thống của dân tộc, thực hiện chủ trương chính sách của

Đảng và hỗ trợ hoạt động của Hội Người cao tuổi, Thủ tướng đã chỉ thị:
Về chăm sóc người cao tuổi:
Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ đạo các cơ quan chức năng, đơn vị thuộc
quyền thường xuyên quan tâm làm tốt công tác chăm sóc người cao tuổi. Công
tác này cần được thể hiện trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ngắn hạn
và dài hạn của địa phương. Trong chỉ tiêu xây dựng gia đình văn hoá, xây dựng
cuộc sống mới ở khu dân cư: Chỉ đạo các cơ quan văn hoá, thông tin, giáo dục
24


và đào tạo đẩy mạnh công tác tuyên tryền, giáo dục nhân dân, nhất là thế hệ trẻ
về ý thức, thái độ và nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ kính trọng người cao tuổi.
Các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước trong khi hoạch định
các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội và các chương trình quốc gia, cần chú ý
bồi dưỡng và phát huy nguồn lực người cao tuổi. Hàng năm cần dành một tỷ lệ
thích đáng ngân sách để giải quyết các vấn đề xã hội, chăm sóc, bồi dưỡng, phát
huy vai trò người cao tuổi và hỗ trợ Hội người cao tuổi.
Đối với Hội Người cao tuổi:
Hội có tư cách pháp nhân, hoạt động theo điều lệ phù hợp với Hiến pháp
và pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự hỗ trợ của Chính phủ về kinh phí
và điều kiện hoạt động.
Đối với các Bộ, ngành:
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý về mặt Nhà nước đối với
Hội Người cao tuổi có trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn Hội hoạt động theo
đúng đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước…
Bộ Tài chính, Uỷ ban nhân dân các địa phương tạo điều kiện giúp đỡ về
cơ sở vật chất và hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động cho Hội Người cao tuổi ở
Trung ương, xã, phường và thị trấn.
Các Bộ, ngành khi soạn thảo các văn bản pháp luật có liên quan đến chính
sách đối với người cao tuổi cần tham khảo ý kiến của Hội Người cao tuổi Việt

Nam trước khi trình Chính phủ và Quốc hội.
Chỉ thị cũng đã đề cập đến Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa
học và Công nghệ, Bộ Ngoại giao, Tổng cục Thể dục Thể thao, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam… tạo điều kiện và phối hợp… chăm sóc và phát huy vai trò
người cao tuổi.
25


×