Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Hà Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (880.34 KB, 101 trang )

`
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUANG HUY

CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI
TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM CÔNG TÁC XÃ HỘI
TỈNH HÀ NAM

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. LÊ THỊ QÚY

HÀ NỘI, 2017


`
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi
thực hiện dựa vào những hiểu biết của bản thân cùng sự hướng dẫn của
GS.TS. Lê Thị Quý.
Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực, chưa được công
bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tôi xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày


tháng năm 2017
Học viên thực hiện

Nguyễn Quang Huy


`
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI ....................................................................................... 9
1.1. Các khái niệm công cụ ............................................................................................. 9
1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ................................................................. ...11
1.3. Thể chế về công tác xã hội đối với người cao tuổi ................................................ 15
1.4. Vai trò và nhiệm vụ của nhân viên xã hội đối với người cao tuổi ......................... 18
1.5. Các dịch vụ công tác xã hội dành cho người cao tuổi ........................................... 22
1.6. Các yếu tố tác động đến công tác xã hội cá nhân đối với người cao tuổi.. ........... .23
Chương 2: THỰC TRẠNG NGƯỜI CAO TUỔI VÀ TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC
XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TẠI TRUNG TÂM CÔNG
TÁC XÃ HỘI TỈNH HÀ NAM .................................................................................... 26
2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu … .................................................................... .26
2.2. Thực trạng người cao tuổi tại Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Hà Nam ............... 32
2.3. Tiến trình công tác xã hội cá nhân đối với người cao tuổi tại Trung tâm Công
tác xã hội tỉnh Hà Nam…….......................................................................................... 38
2.4. Những hạn chế, thiếu sót trong công tác xã hội cá nhân đối với người cao tuổi
tại Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Hà Nam và nguyên nhân ....................................... 62
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ
NHÂN ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM CÔNG
TÁC XÃ HỘI TỈNH HÀ NAM .................................................................................... 65
3.1. Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động CTXH đối với NCT tại Trung tâm

CTXH tỉnh Hà Nam ...................................................................................................... 65
3.2. Đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng về hoạt động
CTXH với NCT ............................................................................................................. 67
3.3. Đào tạo, nâng cao năng lực hoạt động của mạng lưới cộng tác viên xã hội ở cơ
sở ................................................................................................................................... 68
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 73
PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 76


`

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ, cụm từ viết tắt

Nghĩa của từ, cụm từ

BTXH

Bảo trợ xã hội

CTXH

Công tác xã hội

NCT

Người cao tuổi


NVXH

Nhân viên xã hội

TC

Thân chủ

PVS

Phỏng vấn sâu


`
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo truyền thống văn hóa của người Việt Nam phần lớn NCT sống cùng
với con, cháu trong gia đình hình ảnh của những các cụ, ông, bà, cha, mẹ trong gia
đình được tôn vinh, phục dưỡng không chỉ là một thứ tình cảm đặc biệt thiêng liêng,
được lưu giữ qua nhiều thế hệ của người Việt, mà thành đạo lý chung của dân tộc từ
gia đình đến xã hội, đó chính là “Đạo hiếu”.
Từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới, đời sống các gia đình không
ngừng được cải thiện, tuổi thọ bình quân ngày càng cao, số lượng NCT ngày càng
gia tăng. Việt Nam đã chính thức bước vào giai đoạn “già hóa dân số” từ năm 2011
và là một trong các quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trên thế giới theo
dự báo, khoảng 15 – 20 năm nữa, Việt Nam sẽ chuyển sang cơ cấu dân số già. Đạo
lý “Kính già” là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, cho đến nay vẫn còn nguyên
giá trị, được coi là một trong những thang bậc giá trị cơ bản và quan trọng của dân
tộc Việt Nam, song trên thực tế do lao động kiếm sống đã và đang chiếm phần lớn
thời gian của gia đình nên việc thực hiện đạo lý ấy đang bị sao nhãng và ít được

quan tâm như trước. Thực tiễn cho thấy, có không ít những NCT ở nước ta đang
phải sống trong những hoàn cảnh thiếu thốn về kinh tế, phải tiếp tục kiếm sống,
nhiều NCT cô đơn, không nơi nương tựa thuộc gia đình hộ nghèo. Sự suy giảm về
sức khỏe, thể lực, sự thiếu thốn về tinh thần, tình cảm, sự quan tâm chăm sóc của
gia đình, xã hội đối với NCT đang trở thành những hiện tượng phổ biến…điều đó
đặt ra cho hệ thống an sinh xã hội của chúng ta những thách thức rất lớn trong việc
đảm bảo điều kiện sống, chăm sóc y tế, các hoạt động văn hóa giải trí … đặc biệt là
sự tham gia của các hoạt động CTXH vào lĩnh vực này.
Trên địa bàn tỉnh Hà Nam tính đến hết năm 2015 dân số tỉnh là 800.751
người, trong đó NCT là 112.791 chiếm 14,1% dân số. Thực hiện chủ trương chính
sách của Đảng và nhà nước, đảng bộ, các cấp chính quyền và nhân dân tỉnh Hà
Nam đã có nhiều giải pháp để quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất cũng như

1


`
tinh thần đối với NCT. Chính vì vậy, đời sống của NCT ở tỉnh Hà Nam nói chung
đã phần nào được ổn định, được cải thiện và từng bước được nâng lên. Tuy nhiên
Hà Nam là một tỉnh có điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn công tác chăm sóc,
trợ giúp NCT còn nhiều hạn chế mới chỉ đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu cơ
bản của NCT mà chưa đáp ứng những nhu cầu đa dạng khác, cũng như chưa giải
quyết tốt những vấn đề mang tính chất cá nhân, nhóm đối tượng đặc thù. Hiện nay
số NCT đang được quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng tại Trung tâm CTXH tỉnh Hà
Nam là 77 người. Trong điều kiện hội nhập và phát triển sâu rộng với thế giới,
nghề CTXH ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong việc cung cấp những dịch
vụ của CTXH nhằm hỗ trợ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho NCT trên
mọi phương diện. Các phương pháp CTXH như CTXH nhóm, CTXH cá nhân đối
với NCT là lĩnh vực khoa học đặc thù nhưng khá mới về cả lý luận, ứng dụng cũng
như cải tạo thực tiễn. Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam đã áp dụng các lý thuyết nền

tảng và phương pháp thực hành của CTXH vào việc chăm sóc, nuôi dưỡng NCT
nhưng chưa đạt được kết quả như mong muốn, hiện nay Trung tâm cũng chưa có
đề tài nào nghiên cứu về CTXH với NCT. Từ thực tế trên và với mong muốn áp
dụng những kiến thức, kỹ năng đã học được về CTXH vào thực tiễn góp phần
nâng cao chất lượng của công tác chăm sóc, nuôi dưỡng NCT ở Trung tâm, vì vậy
tôi quyết định lựa chọn đề tài: “CTXH đối với NCT từ thực tiễn Trung tâm
CTXH tỉnh Hà Nam” và sử dụng phương pháp “CTXH cá nhân với NCT” làm
đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
CTXH chuyên nghiệp trên thế giới đã phát triển được hơn một thế kỷ, tuy
nhiên ở Việt Nam nghề CTXH chỉ mới bắt đầu. Trong gia đoạn 2000 - 2005, CTXH
chính thức được đưa vào một số trường cao đẳng, đại học ở nước ta với tư cách là
một chuyên ngành độc lập thì đây cũng chính là thời điểm xuất hiện nhiều những
nghiên cứu, bài viết về NCT tại Việt Nam.
Năm 1989, những nghiên cứu dân số và lao động về tuổi già bắt đầu với một
báo cáo quan trọng về NCT theo yêu cầu của ESCAP được hoàn thành. Đây là báo
2


`
cáo dân số học đầu tiên về tuổi già Việt Nam được giới thiệu ra quốc tế. Tiếp sau đó
là những khảo sát của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về NCT, những khảo
sát là công cụ quan trọng của quá trình làm chính sách.
Năm 2000 trở đi cũng có nhiều nghiên cứu, bài viết về NCT do các nhà khoa
học xã hội tiến hành. Có thể kể đến công trình nghiên cứu của các tác giả như
Nguyễn Phương Lan “Tìm hiểu đời sống văn hóa NCT” dưới góc độ văn hóa học,
Nguyễn Trung Nghĩa với khóa luận xã hội học “Tìm hiểu đời sống văn hóa tinh
thần của cán bộ công nhân viên hưu trí” tại thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả các
nghiên cứu cho thấy, tham gia các hoạt động văn hóa tinh thần là nhu cầu cấp thiết
đối với NCT.

Đặng Vũ Cảnh Linh (2009), trong cuốn tài liệu “NCT và các Mô hình chăm
sóc NCT ở Việt Nam” tác giả đã đưa ra những nghiên cứu đánh giá về thực trạng
của đời sống, sinh hoạt và nhu cầu của NCT hiện nay, đồng thời đưa ra những phân
tích cụ thể về các mô hình chăm sóc NCT hiện có như: Mô hình Bệnh viện; mô
hình Trung tâm chăm sóc NCT do nhà nước, các cơ quan đoàn thể, tư nhân quản lý;
mô hình chăm sóc NCT tại gia đình; mô hình chăm sóc NCT tại cộng đồng.
Ngày 25/3/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
32/2010/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án phát triển nghề CTXH, ở nước ta đã có thêm
nhiều nghiên cứu mới dưới dạng các đề tài, các bài báo khoa học về lĩnh vực CTXH
nói chung, trong đó có các nghiên cứu về dịch vụ CTXH, tiêu biểu là:
Trong Bài báo "Đề xuất mô hình trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH ở Việt
Nam" được đăng trên tạp chí Lao động Xã hội ngày 11/11/2011 của Ths.Nguyễn
Văn Hồi, tác giả đã trình bày khái quát những kết quả nghiên cứu, đánh giá về thực
trạng hoạt động cung cấp dịch vụ CTXH của mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ
CTXH ở Việt Nam (gồm các Trung tâm bảo trợ xã hội công lập và các Trung tâm,
cơ sở ngoài công lập), trong đó nhấn mạnh đến những hạn chế và đưa ra một số
khuyến nghị về mô hình trung tâm dịch vụ CTXH ở Việt Nam.

3


`
Trong cuốn tài liệu tập huấn “Khóa đào tạo CTXH cho các nhà quản lý cấp
cao” Dự án đào tạo CTXH tại Việt Nam MOLISA - ULSA - CFSI- ASI – AP UNICEF 2012. Cuốn tài liệu này đã khái quát những nội dung cơ bản về nghề
CTXH, nền tảng triết lý và kiến thức với các nội dung cơ bản như về nghề CTXH,
nhân viên xã hội, quy trình trợ giúp trong CTXH, các mô hình trợ giúp trong
CTXH.
Nguyễn Thị Kim Hoa (2012), Giáo trình “CTXH trợ giúp NCT”. Tác giả đã
trình bày một cách tổng quan về CTXH với NCT như: Các khái niệm, hệ thống lý
thuyết áp dụng, các chương trình chính sách, một số mô hình trợ giúp NCT hiện

nay. Cuốn sách đã giới thiệu một cách tổng quan về CTXH với NCT, là cơ sở để
NVXH vận dụng vào thực hành trợ giúp NCT, tuy nhiên cuốn sách chưa tìm hiểu
được nhiều mô hình trợ giúp CTXH với NCT ở một số nước có nghề CTXH phát
triển, chưa nêu ra được các phương pháp tiếp cận làm việc với tường nhóm đối
tượng cụ thể trong CTXH với NCT.
Như vậy, qua việc tổng quan tình hình nghiên cứu về NCT từ trước tới nay
cho thấy việc nghiên cứu đa dạng với các khía cạnh khác nhau về NCT nhưng chủ
yếu dừng lại ở các nghiên cứu mang tính chất của chuyên ngành xã hội học là chủ
yếu. Đề tài nghiên cứu về CTXH đối với NCT còn ít, những nghiên cứu trên chỉ
tiếp cận ở khía cạnh chủ yếu như: tìm hiểu về chăm sóc sức khỏe hoặc phân tích
thực trạng cũng như các đặc điểm, lao động và sắp xếp công việc trong gia đình của
NCT hay đánh giá hiệu quả của chính sách xã hội… Cho đến nay chưa có đề tài nào
nghiên cứu về CTXH đối với NCT tại Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam. Vì thế, đề tài
“CTXH đối với NCT từ thực tiễn Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam” sử dụng
phương pháp “CTXH cá nhân đối với NCT” là đề tài khá mới mẻ và sẽ bổ sung
thêm vào những nghiên cứu về NCT.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn (thông qua thực tiễn tại Trung
tâm CTXH tỉnh Hà Nam) CTXH cá nhân đối với NCT.
4


`
Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả CTXH đối với NCT từ thực tiễn Trung
tâm CTXH tỉnh Hà Nam
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nói trên, đề tài cần giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
Nghiên cứu cơ sở lý luận về CTXH đối với NCT, về CTXH cá nhân đối với
NCT.

Phân tích, đánh giá thực trạng sống, nhu cầu của NCT tại Trung tâm CTXH
Tỉnh Hà Nam. Tiến trình CTXH cá nhân đối với NCT. Kỹ năng trong quá trình
CTXH cá nhân để hỗ trợ, giúp đỡ NCT.
Thực hiện tiến trình CTXH cá nhân với NCT và xây dựng quy trình cho nhân
viên xã hội trong việc thực hiện hoạt động CTXH cá nhân đối với NCT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động CTXH cá nhân đối với NCT tại Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Từ tháng 5 năm 2016 đến 31 tháng 12 năm 2016.
- Phạm vi không gian: Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam.
- Giới hạn nội dung nghiên cứu: CTXH cá nhân đối với NCT.
4.3. Khách thể nghiên cứu
- NCT; người thân thân của NCT.
- Lãnh đạo Trung tâm; nhân viên y tế, nhân viên tư vấn.
- Những người bạn của NCT.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: Từ những đánh giá thực trạng,
nhu cầu của NCT, các hoạt động CTXH của cán bộ, nhân viên Trung tâm đối với

5


`
người cao tuổi sống ở Trung tâm CTXH từ đó rút ra những lý luận và đưa ra được
những đề xuất về biện pháp nâng cao hiệu quả CTXH cá nhân đối với NCT trên địa
bàn tỉnh Hà Nam.
Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: Nghiên cứu hệ thống những lý
thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài, hệ thống các yếu tố có liên quan như CTXH

cá nhân đối với NCT, các chế độ, chính sách đối với NCT ở Trung tâm...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Nhân viên xã hội tiến hành thu thập các tài liệu, văn bản cần thiết với hoạt
động trợ giúp NCT để phân chia, chia nhỏ những số liệu, dữ liệu thành từng cụm,
từng lĩnh vực, từng chi tiết cụ thể để tìm ra những ý nghĩa của số liệu đó phục vụ
cho mục đích tổng hợp thông tin và đáp ứng cho mục tiêu nghiên cứu đề tài một cách
tốt nhất.
5.2.2. Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp tri giác có mục đích, có kế hoạch nhằm thu thập
những số liệu, sự kiện cụ thể, đặc trưng của NCT. Phương pháp này được sử dụng
trong suốt quá trình nghiên cứu, được thực hiện trong nhiều giai đoạn như: từ giai
đoạn khảo sát trung tâm, giai đoạn tiến hành can thiệp với TC và những hoạt động
khác đến giai đoạn kết thúc quá trình can thiệp.
5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu (định tính)
Phỏng vấn sâu là phương pháp được sử dụng để tìm hiểu những thông tin cần
thiết một cách chi tiết nhất từ NCT. Thông qua những câu hỏi và trả lời trực tiếp
giữa NVXH với NCT, lãnh đạo, nhân viên Trung tâm và người thân của NCT
(PVS: 06 người).
Mục đích của phương pháp này là tìm hiểu sâu hơn, rõ hơn những về vấn đề
của NCT cần can thiệp. Trong quá trình phỏng vấn, NVXH sử dụng những kỹ năng
chuyên sâu như: kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng nhận xét, đánh giá, kỹ năng
diễn giải vấn đề, kỹ năng quan sát, kỹ năng thấu hiểu… đối với TC và đối tượng
được phỏng vấn.
6


`
Thời gian dành cho mỗi cuộc phỏng vấn từ 50-60 phút, NVXH chuẩn bị
trước các nội dung cần hỏi bằng những câu hỏi về những vấn như: thông tin chung,

về hoàn cảnh của bản thân và gia đình, nhu cầu, vấn đề khó khăn đang gặp phải…
trong đó NVXH phỏng vấn NCT là chủ yếu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Với mục đích tìm hiểu thực tế để nâng cao hiệu quả trong quá trình học tập
và nghiên cứu của học viên, đề tài này thuộc nhóm đề tài nghiên cứu ứng dụng lý
thuyết, phương pháp CTXH vào việc giải quyết một vấn đề xã hội cụ thể. Cụ thể là
việc sử dụng hệ thống khái niệm, lý thuyết, phương pháp CTXH vào việc đánh giá,
phân tích và đưa ra phương pháp hỗ trợ thích hợp. Những kết quả thu được từ thực tế
sẽ đóng góp thêm vào nguồn tham khảo cho việc phân tích và nghiên cứu lý luận
của CTXH cá nhân đối với NCT.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp NVXH, cán bộ
làm công tác quản lý CTXH nói chung trên trên địa bàn tỉnh Hà Nam, Ban lãnh đạo
và NVXH Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam nói riêng thấy được vai trò, ý nghĩa quan
trọng của phương pháp CTXH cá nhân với NCT, đồng thời có thêm cái nhìn toàn
diện, sâu sắc tích cực về cách thức và phương pháp chăm sóc, nuôi dưỡng từ đó có
những giải pháp phù hợp giúp cho trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng NCT được
toàn diện và tốt hơn. Kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ những mặt hạn chế của chính
sách, chế độ trợ cấp nuôi dưỡng, trang cấp… của Đảng và nhà nước đối với NCT
được nuôi dưỡng tại Trung tâm. Giúp cho NCT nhận ra vấn đề và tiềm năng giải
quyết vấn đề của chính mình.
Kết quả nghiên cứu thực trạng CTXH cá nhân với NCT tại Trung tâm CTXH
tỉnh Hà Nam cũng chứng tỏ phương pháp CTXH cá nhân trong việc trợ giúp NCT
giải quyết được vấn đề của bản thân là phương pháp tối ưu và có thể nhân rộng
phương pháp này với đối tượng NCT trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Bản thân sau khi
nghiên cứu đề tài sẽ củng cố, mở rộng kiến thức về CTXH nói chung và CTXH đối
7



`
với NCT nói riêng, từ đó rút ngắn khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn trong lĩnh
vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu, các phụ lục, luận văn có 3
chương sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về CTXH cá nhân đối với NCT.
Chương 2: Thực trạng NCT và tiến trình CTXH cá nhân đối với NCT tại
Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả CTXH đối với NCT từ thực tiễn tại
Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam.

8


`

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Khái niệm người cao tuổi
“Có rất nhiều khái niệm khác nhau về NCT. Trước đây, người ta thường
dùng thuật ngữ người già để chỉ những người có tuổi, hiện nay NCT ngày càng
được sử dụng nhiều hơn. Hai thuật ngữ này tuy không khác nhau về mặt khoa học
song về tâm lý, NCT là thuật ngữ mang tính tích cực và thể hiện thái độ tôn trọng.
Theo quan điểm y học: NCT là người ở giai đoạn già hóa gắn liền với việc
suy giảm các chức năng của cơ thể.
Về mặt pháp lý, Luật NCT Việt Nam năm 2009 quy định: NCT là là công
dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên.

Theo WHO: NCT phải từ 70 tuổi trở lên.
Một số nước phát triển như Đức, Hoa Kỳ… lại quy định NCT là những
người từ 65 tuổi trở lên. Quy định ở mỗi nước có sự khác biệt là do sự khác nhau về
lứa tuổi có các biểu hiện về già của người dân ở các nước đó khác nhau. Những
nước có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì tuổi thọ và sức khỏe của người dân
cũng được nâng cao. Do đó, các biểu hiện của tuổi già thường đến muộn hơn. Vì
vậy, quy định về tuổi của các nước đó cũng khác nhau.
Theo quan điểm của CTXH: Với đặc thù là một nghề trợ giúp xã hội, CTXH
nhìn nhận về NCT như sau: NCT với những thay đổi về tâm sinh lý, lao động - thu
nhập, quan hệ xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn, vấn đề trong cuộc sống. Do đó, NCT là
một đối tượng yếu thế, đối tượng cần sự trợ giúp của công tác xã hội” [7].
1.1.2. Khái niệm công tác xã hội
Theo Hiệp hội CTXH thế giới: ‘‘CTXH là sự thúc đẩy thay đổi trong xã hội,
thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề trong quan hệ giữa con người, trao quyền và
giải phóng con người đem lại sự bình yên cho xã hội và hạnh phúc cho mọi người.
Vận dụng lý thuyết về hành vi của con người và các hệ thống xã hội, CTXH can
9


`
thiệp vào các mặt, ở đó con người tác động với môi trường sống của họ. Nguyên tắc
về quyền của con người và công bằng xã hội là cốt lõi của CTXH” [30].
Theo Nguyễn Thị Oanh trong cuốn “Công tác xã hội”, định nghĩa đơn giản
và dễ nhớ nhất là “CTXH nhằm giúp cá nhân và cộng đồng tự giúp” [21, Tr 6].
Theo Bùi Thị Xuân Mai trong cuốn giáo trình “Nhập môn CTXH”, định
nghĩa: “CTXH là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá
nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường
chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và
dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các
vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội” [17, Tr 16].

1.1.3. Khái niệm công tác xã hội cá nhân
Theo Bùi Thị Xuân Mai, nhập môn CTXH thì CTXH cá nhân được định
nghĩa là “Hệ thống giá trị và phương pháp được các NVXH chuyên nghiệp sử dụng,
trong đó các khái niệm về tâm lý xã hội, hành vi và hệ thống được chuyển thành các
kỹ năng giúp đỡ cá nhân và gia đình giải quyết những vấn đề về nội tâm lý, quan hệ
giữa các cá nhân, giữa cá nhân, kinh tế xã hội và môi trường thông qua các mối
quan hệ một - một” [18, Tr 32].
Theo Lê Văn Phú, trong cuốn giáo trình CTXH định nghĩa “CTXH cá nhân
là phương pháp can thiệp để giúp một cá nhân thoát khỏi những khó khăn trong đời
sống vật chất và tinh thần; chữa trị, phục hồi sự vận hành các chức năng xã hội của
họ; giúp họ tự nhận thức và giải quyết các vấn đề xã hội bằng khả năng của chính
mình” [22, Tr 121].
Theo Nguyễn Thị Vân, trong cuốn giáo trình CTXH với NCT định nghĩa
“CTXH cá nhân với NCT là phương pháp của CTXH nhằm giúp đỡ, hỗ trợ NCT
vượt qua khó khăn, giúp họ đánh giá, xác định vấn đề, tìm kiếm tiềm năng, điểm
mạnh từ đó nâng cao năng lực tự giải quyết vấn đề. Quá trình giúp đỡ là quá trình
khoa học và chuyên nghiệp, trong đó NVXH vận dụng nền tảng kiến thức khoa học
tâm lý xã hội, xã hội học, các khoa học xã hội liên quan khác và các kỹ năng, đạo
đức nghề nghiệp sát cánh cùng NCT hỗ trợ họ tự giải quyết vấn đề của mình và

10


`
hướng đến vượt qua những vấn đề khác có thể xẩy ra trong tương lai” [32, Tr8].
Như vậy, căn cứ vào các khái niệm CTXH cá nhân chúng ta có thể định
nghĩa CTXH cá nhân với NCT như sau: CTXH cá nhân với NCT là quá trình
NVXH sử dụng các kiến thức, kỹ năng chuyên môn để giúp đỡ, hỗ trợ NCT vượt
qua khó khăn, giúp họ đánh giá, xác định vấn đề, tìm kiến tiềm năng, điểm mạnh từ
đó nâng cao năng lực tự giải quyết vấn đề.

1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết hệ thống sinh thái
Trong tiến trình thực hành CTXH nói chung và CTXH cá nhân nói riêng,
NVXH khi giúp đỡ thân chủ của mình cần áp dụng rất nhiều kĩ năng và kiến thức
như: thuyết hành vi, lí thuyết phân tâm học, thuyết nhân văn, hiện sinh…và nhiều lí
thuyết khác để giải thích hành vi của thân chủ từ đó đưa ra được tiến trình giúp đỡ
phù hợp mang lại hiệu quả cao. Thuyết Hệ thống là một trong những lí thuyết quan
trọng được vận dụng trong CTXH, khi thực hiện một tiến trình giúp đỡ cá nhân
không thể thiếu được lí thuyết Hệ thống bởi NVXH cần chỉ ra thân chủ của mình
đang thiếu và cần đến những hệ thống trợ giúp nào và tìm cách giúp đỡ để họ có thể
tiếp cận và tham gia các hệ thống. Có làm được như vậy thì NVXH mới thực sự
hoàn thành tiến trình giúp đỡ cá nhân. Chỉ khi nào thân chủ được sự giúp đỡ và
tham gia các hệ thống họ mới thực sự trở lại là chính họ.
Các quan điểm về hệ thống trong CTXH bắt nguồn từ lý thuyết hệ thống
tổng quát của Bertanlaffy (nhà sinh học người Áo, 1901 – 1972). Thuyết này dựa
trên quan điểm của lý thuyết sinh học cho rằng mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ
thống, được tạo nên từ các tiểu hệ thống và đồng thời bản thân các tiểu hệ thống
cũng là mộ phần của hệ thống lớn hơn.
Đại diện của thuyết hệ thống sinh thái là Hanson (1995), Mancoske (1981),
Siporin (1980). Nội dung của thuyết nhấn mạnh đến sự tương tác giữa con người
với môi trường sinh thái của mình. Do vậy, nguyên tắc chủ đạo của lý thuyết này là
cuộc sống bình thường của con người phụ thuộc vào môi trường xã hội hiện tại của
họ. Như vậy có thể nói, cốt lõi của cách tiếp cận này là:

11


`
- Con người sống trong môi trường.
- Con người chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố.

- Con người ảnh hưởng ngược lại với môi trường.
Thuyết nhấn mạnh sự can thiệp bất cứ thời điểm nào trong hệ thống cũng ảnh
hưởng hoặc tạo ra sự thay đổi trong toàn hệ thống. Thuyết hệ thống sinh thái vận
dụng sức mạnh của các lý thuyết khác trong việc mô tả hành vi phức tạp của con
người. Nó chỉ ra hành vi của cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng và những mối
quan hệ kết nối của họ tạo ra bối cảnh lý tưởng để giúp đỡ cho vấn đề thực hành. Lý
thuyết tập trung làm sáng tỏ sự hòa hợp giữa con người và môi trường của họ như
thế nào để từ đó tìm cách giải quyết vấn đề của thân chủ. Như vậy vận dụng lý
thuyết này vào nghiên cứu trong đề tài này sẽ giúp tác giả thấy được trong môi
trường sống tập trung tại cơ sở bảo trợ xã hội có những yếu tố nào tác động đến
NCT và người lại, từ đó giúp NVXH có những biện pháp, giải pháp can thiệp trợ,
giúp kịp thời phù hợp nhất để giúp đỡ NCT giải quyết được vấn đề.
1.2.2. Thuyết nhu cầu
Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908-1970) được xem như một trong
những người tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn. Năm 1943, ông đã
phát triển một trong các lý thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó được thừa nhận rộng
rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đó là lý thuyết về Thang bậc
nhu cầu của con người. Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu của con người
theo một hệ thống trật tự cấp bậc, trong đó, các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn
xuất hiện thì các nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước.
Tổng quan về lý thuyết Thang bậc nhu cầu, Maslow đã sắp xếp các nhu cầu
của con người theo 5 cấp bậc:
Nhu cầu cơ bản: Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu của cơ thể hoặc nhu
cầu sinh lý, bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, uống, ngủ, không
khí để thở, tình dục, các nhu cầu làm cho con người thoải mái,…đây là những nhu
cầu cơ bản nhất và mạnh nhất của con người. Trong hình kim tự tháp, chúng ta thấy
những nhu cầu này được xếp vào bậc thấp nhất: bậc cơ bản nhất.

12



`
Nhu cầu về an toàn, an ninh: Nhu cầu an toàn và an ninh này thể hiện trong
cả thể chất lẫn tinh thần. Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống còn của
mình khỏi các nguy hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động trong các
trường hợp khẩn cấp, nguy khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, gặp thú
dữ... Nhu cầu này cũng thường được khẳng định thông qua các mong muốn về sự
ổn định trong cuộc sống, được sống trong các khu phố an ninh, sống trong xã hội có
pháp luật, có nhà cửa để ở, được chăm sóc khi ốm đau, bệnh tật … Các chế độ bảo
hiểm xã hội, các chế độ khi về hưu, các kế hoạch để dành tiết kiệm … cũng chính là
thể hiện sự đáp ứng nhu cầu an toàn này.
Nhu cầu về xã hội: Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn thuộc
về một bộ phận, một tổ chức nào đó hoặc nhu cầu về tình cảm, tình thương. Nhu
cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc tìm kiếm, kết bạn, tìm người yêu,
lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào đó, đi làm việc, đi chơi picnic, tham gia
các câu lạc bộ, làm việc nhóm, …
Nhu cầu về được quý trọng: Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng
vì nó thể hiện 2 cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua các
thành quả của bản thân và nhu cầu cảm nhận, quý trọng chính bản thân, danh tiếng
của mình, có lòng tự trọng, sự tự tin vào khả năng của bản thân. Chúng ta thường
thấy trong công việc hoặc cuộc sống, khi một người được khích lệ, tưởng thưởng về
thành quả lao động của mình, họ sẵn sàng làm việc hăng say hơn, hiệu quả hơn.

13


`
Biểu 1.1: Mô hình bậc thang nhu cầu của Abraham Maslow
Nhu cầu được
thể hiện mình


Nhu cầu
được quý trọng

Nhu cầu về xã hội

Nhu cầu về an toàn, an ninh

Nhu cầu cơ bản: về thể chất, sinh lý…

Nhu cầu được thể hiện mình: Đây chính là nhu cầu được sử dụng hết khả
năng, tiềm năng của mình để tự khẳng định mình, để làm việc, đạt các thành quả
trong xã hội.
Thông qua lý thuyết về Thang bậc nhu cầu được đề xướng bởi nhà tâm lý
học Abraham Maslow, chúng ta có thể thấy nhu cầu của con người là chính đáng,
cần được tôn trọng và đáp ứng đầy đủ. Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam là đơn vị sự
nghiệp công lập, NCT được đưa vào nuôi dưỡng, chăm sóc ở đây đều có hoàn cảnh
đặc biệt. Việc sử dụng lý thuyết này để nghiên cứu, tìm hiểu đánh giá xem trong 5
bậc thang nhu cầu đó, đơn vị đã đáp ứng được những nhu cầu nào và những nhu cầu
nào chưa đáp ứng được, để từ đó đưa ra những giải pháp, đề xuất với đơn vị nhằm
giúp cho công tác quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng NCT ở Trung tâm được thực hiện
tốt nhất đó là mục đích mà đề tài hướng đến.

14


`
1.3. Thể chế về công tác xã hôi đối với người cao tuổi
1.3.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đối với NCT một bộ phận trong lực lượng cách mạng dân tộc, người đã dành tình cảm và sự quan

tâm đặc biệt. Kế thừa truyền thống “Trọng lão”, “Trọng xỉ” của dân tộc, Hồ Chí
Minh luôn xác định rõ vị trí, vai trò của NCT và tầm quan trọng của việc vận động
NCT tham gia vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong xây
dựng đất nước. Theo Người, tuổi già, thực tế là “tuổi càng cao chí khí càng cao”,
NCT vẫn là lớp người mang ý nghĩa “đức cao vọng trọng” trong xã hội. Biết ơn
NCT, đó vừa là tình người và vừa là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
Sau khi Hội NCT Việt Nam được thành lập (10/5/1995), Ban Bí thư TW đã
ban hành chỉ thị 59/CT-TW “Về chăm sóc NCT”, quy định: “Việc chăm sóc đời
sống vật chất và tinh thần của NCT là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã
hội. Hội NCT Việt Nam mới được thành lập, cần được nhanh chóng ổn định về tổ
chức và mở rộng hoạt động ở cơ sở. Đảng đoàn, Mặt trận tổ quốc, các ban của
Đảng, các đoàn thể nhân dân cần giúp đỡ Hội hoạt động có hiệu quả thiết thực, phối
hợp với Hội trong việc vận động gia đình và xã hội chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy
NCT phục vụ công cuộc đổi mới. Đảng đoàn Quốc hội, Đảng đoàn Mặt trận tổ quốc
Việt Nam, các Ban của Đảng, các ban cán sự đảng Chính phủ, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Tư pháp phối hợp với Hội nghiên cứu, xem xét
các chính sách pháp luật hiện hành, đề xuất những văn bản pháp quy của Nhà nước
nhằm bảo vệ, chăm sóc và phát huy NCT [1].
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã nêu: “Đối với các lão
thành cách mạng, những người có công với nước, các cán bộ nghỉ hưu, những
NCT.. thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao đời
sống tinh thần và vật chất trong điều kiện mới; đáp ứng nhu cầu thông tin, phát huy
khả năng tham gia đời sống chính trị của đất nước và các hoạt động xã hội". Báo
cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng cũng ghi rõ: “Vận động toàn dân tham gia hoạt

15


`
động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với lão thành cách mạng, những
người có công với nước. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già,

nhất là những người già cô đơn, không nơi nương tựa…”. Báo cáo chính trị tại Đại
hội XI của Đảng tiếp tục xác định “ Sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng
bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn
thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống”.
Như vậy, từ Chỉ thị 59/CT-TW, các văn kiện Đại hội Đảng và Thông báo số
12-TB/TW ngày 13/6/2001 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đều khẳng định:
“NCT là nền tảng của gia đình, là tài sản vô giá, nguồn lực quan trọng cho sự phát
triển xã hội. Vì thế, chăm sóc và phát huy tốt vai trò NCT là thể hiện bản chất tốt
đẹp của chế độ ta và đạo đức người Việt Nam, góp phần tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” .
1.3.2. Văn bản pháp luật của Nhà nước
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 ghi rõ: “Những
công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ”. Hiếp pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 cũng viết “Người già, người
tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ”.
Luật bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe nhân dân năm 1989 quy định: “NCT
được ưu tiên trong khám bệnh, chữa bệnh, được tạo điều kiện thuận lợi để đóng góp
cho xã hội phù hợp với sức khỏe của mình”, “Bộ Y tế, Tổng cục Thể dục thể thao,
hướng dẫn phương pháp rèn luyện thân thể, nghỉ ngơi và giải trí để phòng, chống
bệnh tuổi già”.
Luật NCT được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá
XII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 23 tháng 11 năm 2009 đã thể hiện sâu sắc sự quan
tâm của Đảng, nhà nước và xã hội đối với NCT. Theo quy định của Luật này và các

16


`

văn bản hướng dẫn thì NCT được hưởng nhiều hỗ trợ ưu tiên, thể hiện qua các
chính sách cụ thể như:
- Về chính sách bảo trợ xã hội: NCT thuộc hộ gia đình nghèo không có
người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền
phụng dưỡng những người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hằng tháng; người
từ đủ 80 tuổi mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng trợ cấp xã
hội hằng tháng thì được hưởng bảo hiểm y tế, được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng
và hỗ trợ chi phí mai táng khi chết. NCT thuộc hộ gia đình nghèo không có người
có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, có
nguyện vọng và được tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội.
- Về chúc thọ, mừng thọ: Người thọ 100 tuổi được Chủ tịch nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam chúc thọ và tặng quà; người thọ 90 tuổi được Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chúc thọ và tặng quà; Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn phối hợp với Hội NCT tại địa phương, gia đình
của NCT tổ chức mừng thọ NCT ở tuổi 70, 75, 80, 85, 90, 95 và 100 tuổi trở lên.
Luật lao động sửa đổi năm 2012 quy định tại Mục 2 Điều 166: “Người lao
động cao tuổi được rút ngắn thời giờ làm việc hằng ngày hoặc được áp dụng chế độ
làm việc không trọn thời gian” và tại Mục 2 Điều 167: “Không được sử dụng người
lao động cao tuổi làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm có ảnh
hưởng xấu tới sức khỏe người lao động cao tuổi, trừ trường hợp đặc biệt theo quy
định của Chính phủ” và trong điều này có ghi “Người sử dụng lao động có trách
nhiệm quan tâm chăm sóc sức khỏe của người lao động cao tuổi tại nơi làm việc”.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 2 Điều 104 quy định: “Cháu có
nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại; trường hợp
ông bà nội, ông bà ngoại không có con để nuôi dưỡng mình thì cháu đã thành niên
có nghĩa vụ nuôi dưỡng”…
Quyết định số 141/2004/QĐ-TTg ngày 05/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ
Về việc thành lập Ủy ban Quốc gia về NCT Việt Nam.

17



`
Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ quy định
chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, trong đó quy định:
- NCT thuộc hộ gia đình nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền phụng
dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng những người này đang
hưởng chế độ trợ cấp xã hội hằng tháng thì NCT từ đủ 60 đến 80 tuổi thì được
hưởng mức trợ cấp là: 405.000đ/tháng, NCT từ đủ 80 tuổi trở lên được hưởng mức
trợ cấp là: 540.000đ/tháng.
- Người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc gia đình hộ nghèo mà không có
lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng trợ cấp xã hội hằng tháng thì được
hưởng mức trợ cấp là: 270.000đ/tháng.
Như vậy trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhà nước ta
đã có hàng loạt chính sách nhằm huy động nguồn lực vật chất và tinh thần to lớn
của toàn dân trong sự nghiệp chăm sóc và giúp đỡ NCT. Cùng với quá trình phát
triển của đất nước những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước
ngày càng hoàn thiện, hoạt động CTXH từng bước đi vào chuyên nghiệp đã tạo nên
một môi trường pháp lý hành chính bắt đầu cho sự nghiệp chăm sóc NCT.
1.4. Vai trò của nhân viên xã hội đối với người cao tuổi: Người kết nối
nguồn lực
Với những thay đổi trong tâm sinh lý, trong lao động – thu nhập và cả trong
những mối quan hệ, NCT bị hạn chế và mất thăng bằng trong việc thực hiện một số
chức năng xã hội của mình. NCT trở thành một đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương
và cần sự hỗ trợ của CTXH.
Với đặc thù là nghề trợ giúp xã hội, CTXH hướng trọng tâm nghề nghiệp đến
việc giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng phục hồi, phát triển các chức năng và
đạt được những giá trị phù hợp trong xã hội. Các chức năng của CTXH được thực
hiện thông qua việc thực hiện các vai trò của NVXH trong tiến trình làm việc với
các thân chủ.

Mỗi đối tượng khác nhau lại có những vấn đề cụ thể khác nhau. Vì thế vai

18


`
trò của NVXH trong tiến trình trợ giúp mỗi đối tượng cụ thể cũng có sự khác nhau.
Trong CTXH với NCT, NVXH cần thực hiện tốt các vai trò sau:
1.4.1. Người tạo khả năng
Nghề nghiệp của CTXH hướng đến việc trợ giúp các đối tượng khai thác
những tiềm năng của bản thân để tự lực vươn lên, giải quyết các vấn đề cụ thể của
bản thân. NVXH không làm hộ, làm thay thân chủ mà chỉ giúp thân chủ nhận thức
được những khả năng của mình, phát huy những khả năng đó để giải quyết vấn đề
của mình. Đối với NCT, NVXH cần giúp họ nhận thấy các khả năng của mình:
Chuyên môn, kinh nghiệm sống, sức khỏe, tay nghề… Cần động viên, cổ vũ để
NCT tin tưởng vào bản thân mình, tin tưởng rằng mình vẫn còn hữu ích với gia
đình, xã hội từ đó thúc đẩy NCT hoạt động để tiếp tục đóng góp cho gia đình, xã
hội. Qua những hoạt động đó, NCT không những giải quyết được các vấn đề của
bản thân mà còn có thể góp sức vào sự phát triển của gia đình, xã hội. NCT có quá
trình lao động lâu dài vì thế kinh nghiệm thực tế của họ là rất phong phú và rất có
giá trị. Sau khi về hưu, không được tiếp tục cống hiến, họ trở nên chán nản và coi
mình là người bỏ đi từ đó gây ra nhiều vấn đề nhất là các vấn đề tâm lý cho bản
thân. Đồng thời, việc không nhận thức và khai thác những kiến thức và kinh nghiệm
của NCT là sự lãng phí rất lớn của xã hội. Do đó, NVXH cần giúp NCT nhận thức
được giá trị của mình để họ tiếp tục lao động với cách thức phù hợp. Thông qua lao
động, các vấn đề của NCT: Tâm sinh lý, thu nhập, quan hệ… sẽ được giải quyết.
Thêm vào đó, khi huy động được NCT vào đội ngũ lao động, xã hội sẽ có thêm
nguồn kinh nghiệm và trí thức quý giá để phát triển nhanh hơn và bền vững hơn [7].
1.4.2. Người điều phối - kết nối dịch vụ
NVXH thông qua đánh giá, chẩn đoán các vấn đề và nguồn lực của NCT để

điều phối, cung cấp các dịch vụ phù hợp. Với những NCT bị hạn chế khả năng phục
vụ bản thân trong sinh hoạt hàng ngày, NVXH có thể giới thiệu và cung cấp cho
NCT những dịch vụ hỗ trợ tại nhà như người giúp việc, người chăm sóc y tế. Với
những NCT neo đơn, không nơi nương tựa, NVXH có thể giới thiệu, làm thủ tục để
NCT vào sinh sống trong các trung tâm bảo trợ phù hợp. NVXH cần giới thiệu cho

19


`
NCT các câu lạc bộ phù hợp để NCT sinh hoạt. Việc sinh hoạt ở các câu lạc bộ
NCT: Câu lạc bộ văn thơ, cựu chiến binh, dưỡng sinh… sẽ giúp NCT đáp ứng các
nhu cầu về quan hệ xã hội cho NCT [7].
1.4.3. Người giáo dục
NCT phải đối mặt với rất nhiều những thay đổi về tâm sinh lý cũng như các
chức năng xã hội. Do đó, để thích ứng với cuộc sống, NCT cần phải có thêm nhiều
kiến thức, kỹ năng về chế độ dinh dưỡng, chăm sóc bản thân, các kỹ năng xã hội…
NVXH hỗ trợ NCT những kiến thức và kỹ năng đó thông qua vai trò là người giáo
dục. Hình thức giáo dục có thể qua việc cung cấp tài liệu, các lớp tập huấn, hoặc
được lồng ghép trong tiến trình trợ giúp. Thông qua giáo dục, NVXH sẽ giúp NCT
có thêm những kiến thức, kỹ năng để phòng ngừa, chữa trị, phục hồi hay cũng như
phát triển các chức năng xã hội phù hợp. Việc cung cấp cho NCT những kiến thức,
kỹ năng chăm sóc bản thân như chế độ dinh dưỡng, các hoạt động thể chất, các cách
thức phòng bệnh, chữa bệnh… khoa học và phù hợp sẽ giúp NCT có cuộc sống
mạnh khỏe và an toàn hơn. Không chỉ quan tâm đến cá nhân NCT, CTXH còn
hướng đến giáo dục, tham vấn cho gia đình NCT. NVXH cung cấp thông tin, hướng
dẫn cụ thể, tham vấn cho gia đình NCT những cách thức chăm sóc, ứng xử với
NCT… Cung cấp những kiến thức, hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý, xã hội, những
nhu cầu… của NCT để gia đình chăm sóc, hỗ trợ NCT tốt hơn [7].
1.4.4. Người biện hộ

Khi làm việc với NCT, NVXH cần đánh giá, phân tích những nhu cầu, mong
muốn cũng như những nguồn lực của NCT. NVXH phải bảo vệ những nhu cầu
chính đáng của NCT. Do những thay đổi và sự không ổn định về tâm sinh lý, một
số NCT có thể có những hành động, hành vi khác thường. NVXH cần tìm hiểu
nguyên nhân của các hành vi đó và lý giải để mọi người xung quanh nhất là gia đình
hiểu và thông cảm cho họ. Trong xã hội Việt Nam, do đặc thù của văn hóa, nhu cầu
tình dục của NCT chưa được chú ý đúng mức, thậm chí là một hành vi bị lên án.
Những NCT kết hôn luôn chịu sự bàn tán, đánh giá của gia đình, của những người
xung quanh. Đây là một nhạy cảm văn hóa mà NVXH cần hết sức chú ý. Cần làm

20


`
cho bản thân NCT cũng như gia đình và những người xung quanh hiểu và tôn trọng
nhu cầu đó của NCT bởi tình dục cũng như ăn, uống, hít thở… là những nhu cầu cơ
bản nhất của con người. NCT suy giảm nhu cầu tình dục chứ không phải là hoàn
toàn không có nhu cầu đó [7].
1.4.5. Người tạo môi trường thuận lợi
Mỗi cá nhân là một hệ thống chịu ảnh hưởng và sự tác động từ những hệ
thống xung quanh. CTXH chú ý đến mối quan hệ giữa con người với các hệ thống
xung quanh. Tạo môi trường thuận lợi trong CTXH được thực hiện qua việc cải
thiện và nâng cao chất lượng trong mối quan hệ giữa con người và hệ thống xung
quanh. NCT cũng tương tác và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ gia đình, các tổ chức xã
hội. Vì thế, trong tiến trình CTXH với NCT cần chú ý đến các hệ thống xung quanh
NCT: Gia đình, hội hưu trí, các câu lạc bộ NCT… NVXH cần tác động và làm thay
đổi các hệ thống đó để tạo ra môi trường thuận lợi nhất phục vụ NCT giải quyết các
vấn đề của bản thân cũng như những hoạt động phù hợp với nhu cầu của bản thân
và sự mong đợi của xã hội.
Gia đình là một thiết chế quan trọng đối với mọi cá nhân trong đó có NCT.

Ngày nay, do ảnh hưởng của sự thay đổi điều kiện kinh tế – xã hội, gia đình cũng có
sự biến đổi về nhiều mặt như cấu trúc, quy mô, văn hóa… và sự thay đổi đó có ảnh
hưởng sâu sắc đến NCT. Nhịp sống công nghiệp làm cho con người ít quan tâm đến
nhau, sự thiếu quan tâm của con cháu, sự mâu thuẫn và xung đột về tư tưởng giữa
các thế hệ… làm cho NCT cảm thấy bị cô lập, cảm giác không được quan tâm. Đó
là nguyên nhân nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực ở NCT. Chính vì thế, trong tiến trình
CTXH với NCT, NVXH cần quan tâm đến việc huy động các nguồn lực hỗ trợ từ
gia đình thông qua cải thiện các mối quan hệ, thúc đẩy sự quan tâm của các cá nhân
trong gia đình NCT… để NCT có thêm các nguồn lực hỗ trợ, có thêm các điều kiện
thuận lợi để tự lực vươn lên, giải quyết triệt để các vấn đề của cá nhân và đạt được
những giá trị xã hội như mong đợi của họ [7].
1.4.6. Người đánh giá và giám sát
NVXH là người trực tiếp đánh giá, chẩn đoán những vấn đề của NCT trong

21


×