Tải bản đầy đủ (.pdf) (185 trang)

Luận văn đảng bộ bộ đội biên phòng lãnh đạo công tác vận động quần chúng bảo vệ tuyến biên giới đất liền việt nam trung quốc từ năm 1996 đến năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.89 KB, 185 trang )

MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương 1 CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG BẢO VỆ TUYẾN
BIÊN GIỚI ĐẤT LIỀN VIỆT NAM - TRUNG QUỐC CỦA
ĐẢNG BỘ BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG (1996 - 2001)
1.1.
Yêu cầu khách quan vận động quần chúng bảo vệ tuyến biên
giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc (1996 - 2001)
1.2.
Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Bộ đội Biên phòng về
công tác vận động quần chúng bảo vệ tuyến biên giới đất liền
Việt Nam - Trung Quốc (1996 - 2001)
Chương 2 ĐẢNG BỘ BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG BẢO VỆ TUYẾN
BIÊN GIỚI ĐẤT LIỀN VIỆT NAM - TRUNG QUỐC (2001 - 2006)
2.1.
Nhân tố mới và yêu cầu đẩy mạnh công tác vận động quần chúng bảo
vệ tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc (2001 - 2006)
2.2.
Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Bộ đội Biên phòng
đẩy mạnh công tác vận động quần chúng bảo vệ tuyến biên
giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc (2001 - 2006)
Chương 3 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
3.1.
Một số nhận xét về quá trình Đảng bộ Bộ đội Biên phòng


lãnh đạo công tác vận động quần chúng bảo vệ tuyến biên
giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc (1996 - 2006)
3.2.
Kinh nghiệm đúc rút từ quá trình Đảng bộ Bộ đội Biên
phòng lãnh đạo công tác vận động quần chúng bảo vệ tuyến
biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc (1996 - 2006)
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5
10

27
27
48

75
75
94
126
126
143
167
170
171
185



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6
7

Chữ viết đầy đủ
Bộ đội Biên phòng
Công tác dân vận
Hệ thống chính trị
Kinh tế - xã hội
Khu vực biên giới
Nhà xuất bản
Vận động quần chúng

Chữ viết tắt
BĐBP
CTDV
HTCT
KT-XH
KVBG
Nxb
VĐQC



5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Đề tài “Đảng bộ Bộ đội Biên phòng lãnh đạo công tác vận động quần
chúng bảo vệ tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc từ năm 1996
đến năm 2006” được thực hiện dưới góc độ khoa học lịch sử, chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đề tài luận án được kết cấu 03 chương, 06
tiết. Nội dung đề tài luận án trình bày khái quát một số vấn đề cơ bản như:
Yêu cầu khách quan VĐQC bảo vệ biên giới; hệ thống hóa hoạt động lãnh
đạo của Đảng bộ BĐBP về công tác VĐQC bảo vệ tuyến biên giới đất liền
Việt Nam - Trung Quốc (1996 - 2006); nhận xét và đúc rút một số kinh
nghiệm lịch sử có giá trị tham khảo, vận dụng trong thực tiễn công tác VĐQC
bảo vệ biên giới của BĐBP. Đây là công trình nghiên cứu độc lập, không trùng
lặp với bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào đã công bố.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thiêng liêng, bất
khả xâm phạm. Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, bảo vệ biên giới quốc gia đã được
tiến hành bằng nhiều phương thức, biện pháp, nhưng phương thức, biện pháp cơ
bản nhất là dựa vào sức mạnh của nhân dân. Nhận thức sâu sắc vấn đề trên, ngay
từ khi mới ra đời và trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn xác định công tác VĐQC là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, quyết
định đến sự thành bại của cách mạng Việt Nam.
Trong công tác biên phòng, VĐQC là nhiệm vụ chính trị quan trọng, một
nội dung cơ bản của công tác đảng - công tác chính trị, là biện pháp nghiệp vụ cơ
bản, làm nền tảng để tiến hành các biện pháp công tác khác. Vì vậy, làm tốt công
tác VĐQC sẽ góp phần đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đi vào



6
cuộc sống; hướng dẫn, tổ chức quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh phòng,
chống các hoạt động vi phạm chủ quyền lãnh thổ và các loại tội phạm ở KVBG;
xây dựng “nền biên phòng toàn dân” vững mạnh góp phần bảo vệ vững chắc chủ
quyền, an ninh biên giới quốc gia.
Tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là biên giới “mở”, “núi
liền núi, sông liền sông”, chiếm vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, quốc
phòng - an ninh và đối ngoại. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ BĐBP, sự
giúp đỡ và tạo điều kiện về mọi mặt của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, sự
phối hợp hiệp đồng của các ngành, các lực lượng, công tác VĐQC bảo vệ
tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc đã đạt được những kết quả tích
cực. Tuy nhiên, do lịch sử để lại, đường biên giới chứa đựng nhiều yếu tố tranh
chấp phức tạp. Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ vào ngày
10/11/1991, đặc biệt sau khi Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và
Trung Quốc được ký ngày 30/12/1999, tình hình trên biên giới có những thuận
lợi cơ bản, song trên thực tế, xuất hiện nhiều diễn biến mới hết sức phức tạp
như: Hoạt động lấn chiếm biên giới, xâm canh, xâm cư, xâm táng, xây kè, đắp
đập, nắn dòng chảy sông, suối trên biên giới … xâm phạm đến độc lập chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Mặt khác, tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là địa bàn
thường xuyên bị các thế lực thù địch lợi dụng thực hiện chiến lược “diễn biến
hòa bình”, kích động bạo loạn lật đổ; bọn phản động lưu vong xâm nhập cấu
kết với bọn phản động trong nước đẩy mạnh tuyên truyền, kích động chống,
phá cách mạng Việt Nam; tình hình di dịch cư tự do gắn với phát triển đạo trái
pháp luật; hoạt động của các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia diễn biến hết sức phức tạp. Những tồn tại trên ảnh hưởng trực tiếp đến
công tác VĐQC bảo vệ biên giới của BĐBP, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề
mới, đòi hỏi Đảng bộ BĐBP nâng cao năng lực lãnh đạo công tác VĐQC đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới trong tình hình mới.



7
Vì vậy, nghiên cứu quá trình Đảng bộ BĐBP lãnh đạo công tác VĐQC
bảo vệ tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc (1996 - 2006) có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh chọn đề tài
này làm luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Làm rõ quá trình Đảng bộ BĐBP lãnh đạo công tác VĐQC
bảo vệ tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc từ năm 1996 đến năm
2006; đúc rút kinh nghiệm lịch sử có giá trị tham khảo, vận dụng vào công tác
VĐQC bảo vệ biên giới của BĐBP hiện nay.
Nhiệm vụ:
Làm rõ yêu cầu khách quan VĐQC bảo vệ tuyến biên giới đất liền Việt
Nam - Trung Quốc từ năm 1996 đến năm 2006.
Phân tích, luận giải chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ BĐBP về công
tác VĐQC bảo vệ tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc từ năm 1996
đến năm 2006.
Nhận xét và đúc rút kinh nghiệm lịch sử từ quá trình Đảng bộ BĐBP
lãnh đạo công tác VĐQC bảo vệ tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung
Quốc từ năm 1996 đến năm 2006.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ BĐBP về
công tác VĐQC bảo vệ tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ
BĐBP về công tác VĐQC bảo vệ tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung
Quốc từ năm 1996 đến năm 2006.



8
Về không gian: Đảng bộ BĐBP lãnh đạo công tác VĐQC bảo vệ tuyến
biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc trên phạm vi 07 tỉnh (Quảng Ninh,
Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên).
Về thời gian: Từ năm 1996 đến năm 2006, tuy nhiên để đảm bảo tính
hệ thống và đạt được mục đích nghiên cứu, luận án có đề cập đến những nội
dung có liên quan trước và sau 10 năm nói trên.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nhiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên hệ thống những quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác VĐQC.
Cơ sở thực tiễn: Đề tài luận án được xây dựng trên cơ sở hoạt động
thực tiễn lãnh đạo công tác VĐQC của Đảng bộ BĐBP; các báo cáo sơ kết,
tổng kết của BĐBP về công tác VĐQC trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam Trung Quốc và số liệu khảo sát thực tiễn tại một số tỉnh. Đồng thời, tham khảo
kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan
đã công bố để giải quyết các vấn đề nghiên cứu đặt ra.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu
của khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong đó chú trọng kết hợp các
phương pháp: Lịch sử và lôgic; phương pháp phân tích, thống kê, so sánh,
tổng hợp; phương pháp điều tra xã hội học, khảo sát thực tế và phương pháp
chuyên gia.
6. Những đóng góp mới của luận án
Luận án góp phần tổng kết hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ BĐBP về
công tác VĐQC bảo vệ tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc; rút ra
nhận xét và đúc rút kinh nghiệm lịch sử về công tác VĐQC bảo vệ biên giới
của BĐBP từ năm 1996 đến năm 2006 để vận dụng vào hiện thực.



9
Luận án góp phần cung cấp những luận cứ khoa học về hoạt động lãnh
đạo, chỉ đạo công tác VĐQC nhằm hoàn thiện chủ trương, giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác VĐQC bảo vệ biên giới của BĐBP trong tình hình mới.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp thêm cơ sở khoa học cho các
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ BĐBP trong thực hiện nhiệm vụ công
tác biên phòng góp phần bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Luận án có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo, vận dụng vào công
tác VĐQC trên các tuyến biên giới và phục vụ trong nghiên cứu, giảng dạy ở
cơ sở đào tạo của BĐBP.
8. Kết cấu của luận án
Gồm: Phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 03 chương, 06 tiết,
kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả đã công bố liên quan đến đề
tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


10

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
ĐẢNG BỘ BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG
QUẦN CHÚNG BẢO VỆ TUYẾN BIÊN GIỚI ĐẤT LIỀN VIỆT NAM TRUNG QUỐC TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006
1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến đề tài
Tác giả Chương Tư Nghị viết cuốn sách “Công tác chính trị của Quân
Giải phóng nhân dân Trung Quốc” [115]. Đây là công trình lý luận phục vụ
học tập, nghiên cứu trong các học viện, nhà trường của Quân giải phóng nhân
dân Trung Quốc. Bàn về công tác chính trị của Bộ đội Biên phòng, tác giả chỉ ra
rằng nhất thiết phải phát động quần chúng để xây dựng, bảo vệ biên cương. Với
hoạt động quân dân cùng giữ gìn, cùng xây dựng, củng cố và tăng cường công

tác biên phòng. Do đó, BĐBP muốn hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ biên cương
phải “tích cực giúp đỡ nhân dân vùng biên cương và bờ biển phát triển sản xuất,
làm phồn vinh nền kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân vùng biên cương và
bờ biển, tăng cường sức mạnh vật chất cho Bộ đội Biên phòng” [115, tr.600].
Tác giả Mao Trấn Phát chủ biên cuốn sách “Bàn về Biên phòng (Biên
phòng luận)” [118]. Biên phòng luận là công trình lý luận khá toàn diện về
công tác biên phòng của Trung Quốc, bao gồm những vấn đề quan trọng về
chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự, văn hóa, dân tộc khu vực biên cương
và hải cương. Bàn về công tác xây dựng kinh tế và xã hội ở KVBG, tác giả
xác định: Phải tích cực giúp đỡ và chi viện xây dựng kinh tế vùng biên cảnh
và ven biển là một nhiệm vụ quan trọng của Bộ đội Biên phòng.... Đồng thời,
với việc giúp đỡ xây dựng kinh tế địa phương, cần tích cực thúc đẩy và tham
gia xây dựng văn minh tinh thần khu vực biên cảnh.


11
Tác giả đã nghiên cứu những vấn đề chung về lãnh thổ và cương giới
quốc gia, lịch sử biên phòng Trung Quốc qua các thời kỳ, tranh chấp biên giới
trên thế giới và biên phòng của các quốc gia; đưa ra những định hướng về nhận
thức và chỉ đạo công tác biên phòng thời kỳ mới, những suy nghĩ vĩ mô về tăng
cường xây dựng biên phòng Trung Quốc. Tác giả cho rằng, BĐBP và các cơ
quan biên phòng khác cần phát huy truyền thống vinh quang của quân đội, coi
việc tăng cường đoàn kết dân tộc, gắn chặt mối quan hệ giữa quân đội với
chính quyền và giữa quân đội với nhân dân, thúc đẩy và giữ gìn sự đoàn kết
ổn định ở KVBG là một nhiệm vụ cơ bản của xây dựng quốc phòng.
Từ đó, tác giả đã đưa ra yêu cầu cơ bản đối với BĐBP khi thực hiện
công tác VĐQC ở biên cương: “Bộ đội Biên phòng và các cơ quan biên
phòng khác cần tổ chức bộ đội học tập chính sách dân tộc của Đảng, khuyến
khích cán bộ và chiến sĩ học tập ngôn ngữ của các dân tộc ít người, bồi dưỡng
một loạt cán bộ cốt cán biết nói tiếng dân tộc địa phương, hiểu chính sách dân

tộc, biết làm công tác quần chúng” [118, tr.312].
Đối với đảng ủy, chính quyền và cơ quan biên phòng, tác giả cũng chỉ
rõ: Đảng ủy, chính quyền và cơ quan biên phòng các cấp ở biên cương cần
thường xuyên đi vào quần chúng dân tộc ít người, ra sức tuyên truyền thế giới
quan dân tộc của chủ nghĩa Mác và chính sách của Đảng về việc bảo vệ đoàn
kết dân tộc. Phải đi sâu vào các khu vực xa xôi, khó khăn để giải quyết khó
khăn cho quần chúng nhân dân các dân tộc. Theo tác giả, ổn định xã hội biên
cương là ổn định lòng dân và làm tốt công tác VĐQC ở biên cương, tăng
cường khối đại đoàn kết của các dân tộc là cơ sở, tiền đề để bảo vệ lợi ích
quốc gia; đồng thời, phải nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân
các dân tộc và phát huy vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ của họ trong bảo vệ
biên giới quốc gia. “Các dân tộc biên cương đều là cơ sở xã hội và lực lượng
quan trọng để khai thác phát triển biên cương, xây dựng biên cương, bảo vệ
biên cương” [118, tr308].


12
Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Nghiên cứu Trung Quốc chủ
biên cuốn sách Chiến lược “Hưng biên phú dân” của Trung Quốc [145]. Cuốn
sách đã trình bày bối cảnh ra đời, nội dung, cương yếu quy hoạch Chiến lược
“Hưng biên phú dân”, một số giải pháp cụ thể của Trung Quốc để thực hiện
chương trình “Hưng biên phú dân” và quá trình thực hiện ở hai tỉnh Quảng
Tây và Vân Nam trong giai đoạn (2000 - 2006). Cuốn sách tập trung bàn về
nội dung nhiệm vụ thực hiện chương trình “Hưng biên phú dân”, thúc đẩy sự
phát triển của vùng biên giới, làm cho người dân nhanh chóng tiến lên đời
sống khá giả, củng cố vùng biên cương của Trung Quốc vững mạnh.
Cuốn sách nêu rõ: “Chiến lược “Hưng biên phú dân” có nghĩa là: Chấn
hưng biên giới, phú dự biên dân và mục đích của chiến lược này là: Phú dân,
hưng biên, cường quốc, mục lân” [145, tr.182]. Với tư tưởng chỉ đạo: “Nâng
cao toàn diện trình độ phát triển kinh tế - xã hội vùng biên, đẩy mạnh sự phối

hợp giữa khu vực biên giới với các vùng khác trong cả nước, đẩy nhanh các
bước xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa ở vùng biên” [145, tr.262],
cuốn sách đã đề xuất hệ thống các biện pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
chương trình “Hưng biên phú dân”. Xác định vai trò của BĐBP trong thực
hiện chương trình, nội dung, biện pháp động viên thành phần xã hội hỗ trợ để
xây dựng và phát triển vùng biên giới. “Phát huy thế mạnh và vai trò của Bộ
đội Biên phòng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng vùng biên, xóa đói giảm
nghèo, giáo dục tuyên truyền, phát động rộng rãi phong trào dân quân cùng
tham gia xây dựng vùng biên” [145, tr.272]. Từ đó, cuốn sách cũng đã xác
định phương hướng, biện pháp để BĐBP tham gia thực hiện chương trình
“Hưng biên phú dân”. “Các đồn Biên phòng phải xây dựng các phương án cụ
thể để thực hiện kế hoạch, làm đến nơi đến chốn các nhiệm vụ” [145, tr.274].
Trên cơ sở nghiên cứu những điểm tương đồng giữa Việt Nam và Trung
Quốc về vấn đề dân tộc và cải cách ở Trung Quốc, đổi mới ở Việt Nam tại khu
vực sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở hai nước. Chính sách dân tộc
của Trung quốc và Việt Nam đều phải tập trung phát triển KT-XH vùng dân tộc


13
thiểu số, vừa bảo tồn và phát huy được tính đa dạng của văn hóa các dân tộc.
Trên thực tiễn, Chiến lược “Hưng biên phú dân” ở Trung Quốc đã, đang được
tiến hành và thực hiện thành công ở hai tỉnh biên giới tiếp giáp với Việt Nam là
Quảng Tây và Vân Nam, được đồng bào dân tộc thiểu số hết sức hoan nghênh và
ủng hộ, góp phần xây dựng thắng lợi xã hội hài hòa ở Trung Quốc. Đồng thời,
cuốn sách đã phân tích và rút ra những bài học kinh nghiệm góp phần nêu lên
những kiến nghị mang tính gợi mở, cung cấp luận cứ khoa học cho các chủ
trương, chính sách nhằm phát triển và ổn định đối với vùng dân tộc thiểu số ở
KVBG Việt Nam - Trung Quốc.
2. Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài
2.1. Các công trình nghiên cứu về công tác vận động quần chúng

Tác giả Nguyễn Văn Linh viết cuốn sách Về công tác quần chúng [104].
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của công tác VĐQC trong sự nghiệp cách mạng
Việt Nam, tác giả đã khẳng định: “Công tác vận động quần chúng trong mỗi giai
đoạn cách mạng đều có ý nghĩa quyết định” [104, tr.30]. Tác giả lưu ý, việc thực
hiện chính sách xã hội, giáo dục quần chúng hiểu về vai trò làm chủ thực sự của
mình, đập tan mọi âm mưu của các thế lực thù địch chia rẽ Đảng và quần chúng,
hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sẽ góp phần củng cố mối liên
hệ giữa Đảng và quần chúng nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh của cách mạng.
Nhiệm vụ của các cấp ủy đảng trong công tác VĐQC rất nặng nề, “lấy dân làm
gốc” phải trở thành nền nếp của xã hội, tất cả phải do nhân dân, vì nhân dân mới
có thể thực hiện thắng lợi được nhiệm vụ đó.
Trong điều kiện đảng cầm quyền, phải huy động được sức mạnh của
đảng, chính quyền, các đoàn thể theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ, giữ vững nguyên tắc chân thành, cởi mở. Cán bộ các ngành,
các cấp phải coi trọng công tác VĐQC, xem công tác VĐQC là công việc gốc
trong mọi hoạt động cách mạng. Chỉ có như thế mới góp phần thúc đẩy phong


14
trào cách mạng, lấy lại lòng tin cho quần chúng nhân dân, đưa sự nghiệp cách
mạng của nhân dân đến mọi thành công.
Tổng Cục Chính trị chủ biên cuốn sách Đổi mới công tác dân vận của
Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới [136]. Cuốn sách được
nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
minh về vai trò quần chúng và công tác VĐQC; đồng thời, xác định rõ vị trí,
vai trò và nội dung CTDV của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong tình hình
mới. Trên cơ sở đó, đề xuất những kiến nghị, giải pháp tiếp tục đổi mới
CTDV của Quân đội Nhân dân Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
cách mạng và yêu cầu xây dựng quân đội trong giai đoạn (1996 - 2005).
CTDV được coi là tiêu chí để xây dựng bản chất và rèn luyện ý chí quyết

chiến, quyết thắng của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Công tác dân vận thực sự là một trong những điều kiện quan trọng để
quân đội ta rèn luyện, xây dựng bản chất cách mạng và truyền thống tốt
đẹp “Trung với Đảng, hiếu với dân…” xây dựng nên mối quan hệ máu
thịt quân - dân, tạo thành nguồn sức mạnh vô địch và ý chí quyết chiến,
quyết thắng mọi kẻ thù, góp phần làm rạng danh Tổ quốc và dân tộc Việt
Nam trong thời đại mới [136, tr.16].
Sách Lý luận và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác
dân vận [110]. Cuốn sách đã sưu tầm và tập hợp hơn 30 bài viết của các đồng chí
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành và các nhà khoa học trong cả nước.
Nội dung cuốn sách là những phân tích sâu sắc, toàn diện, làm nổi bật cơ sở lý
luận, thực tiễn và kinh nghiệm của CTDV trong thời gian qua. Các bài viết đã cho
thấy rõ, dân vận là công tác rộng lớn, nhạy cảm, bao trùm mọi mặt của đời sống,
do đó, phải luôn đúc rút từ hoạt động thực tiễn để kịp thời định ra chủ trương,
chính sách hợp lòng dân, thể hiện đúng tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Đảng.
Cuốn sách tiếp tục khẳng định tính chân lý, khoa học tư tưởng của chủ
tịch Hồ Chí Minh đối với CTDV: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém


15
thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [112, tr.700].
CTDV là nhiệm vụ chiến lược của Đảng, một trong những công tác cơ bản, có
tính chiến lược, gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam; là truyền thống, nguồn gốc sức mạnh của Đảng, là mối quan hệ gắn bó
máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tạo phong trào rộng lớn xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải thực hiện tốt CTDV trong thời kỳ mới.
Tác giả Bùi Văn Huấn viết bài Nâng cao hiệu quả công tác dân vận của
Quân đội nhân dân trong thời kỳ mới [90]. Trong bài viết, tác giả đã khẳng

định: “Công tác dân vận là một nội dung cơ bản trong hoạt động công tác đảng,
công tác chính trị của quân đội ta. Thực hiện có hiệu quả công tác dân vận vừa
là trách nhiệm của “Bộ đội Cụ Hồ” đối với nhân dân; đồng thời là điều kiện để
cán bộ, chiến sỹ quân đội hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ” [90, tr.21].
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của CTDV, trong suốt quá trình xây dựng,
chiến đấu và trưởng thành, trải qua các giai đoạn cách mạng khác nhau, lúc
thuận lợi cũng như khó khăn, trong chiến tranh hay trong hòa bình, Quân đội
Nhân dân Việt Nam luôn dựa vào nhân dân, giúp đỡ nhân dân, bảo vệ nhân dân
và được nhân dân tin cậy, đùm bọc. Dù ở đồng bằng hay miền núi, biên giới hay
hải đảo, CTDV của quân đội đã góp phần quan trọng đưa chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào, đưa nghị quyết
của Đảng đi vào cuộc sống. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc Nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và Nhà nước về CTDV trong tình hình mới, tác giả đã đánh giá những
thành tựu, hạn chế và đề xuất những nội dung cần tập trung thực hiện trong thời
gian tới. Trong đó, nội dung biện pháp hàng đầu là: “Cần đẩy mạnh việc tuyên
truyền, vận động nhân dân quán triệt và thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng các
địa phương ngày càng giàu mạnh” [90, tr.23].


16
Tác giả Dương Xuân Ngọc viết bài Quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo
tiến hành công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh [116]. Mở đầu bài
viết, tác giả đã khẳng định: CTDV là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với
toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, cả trong thời kỳ chưa có chính quyền
cũng như thời kỳ Đảng cầm quyền; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự
lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền và toàn xã hội, thắt chặt mối liên hệ
máu thịt giữa Đảng với dân.
Tác giả đã đưa ra bốn quan điểm chỉ đạo CTDV dưới ánh sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh: CTDV phải xuất phát từ lợi ích của quần chúng nhân dân, thực

hiện và bảo vệ lợi ích của nhân dân; thực hành dân chủ là phương thức cơ bản của
CTDV; dân vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, xây
dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; dân
vận và CTDV là sự nghiệp của cả HTCT, của toàn dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất. Trên cơ sở
phân tích, đánh giá thực trạng CTDV, tác giả chỉ rõ: muốn bảo vệ vững chắc chủ
quyền an ninh biên giới quốc gia, Đảng và Nhà nước cần có những chính sách
phát triển KT-XH thích hợp, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân các dân tộc ở KVBG và làm tốt công tác VĐQC.
Tác giả Hà Thị Khiết viết bài Một số bài học kinh nghiệm trong công tác
dân vận của Đảng sau gần 25 năm đổi mới [95]. Tác giả đã khẳng định: Những
chủ trương, chính sách về CTDV, về đại đoàn kết dân tộc, về xây dựng giai
cấp công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, thanh niên, phụ nữ, về tôn
giáo, dân tộc, người Việt Nam ở nước ngoài... lần lượt được xác định và ngày
càng được hoàn thiện. Trên cơ sở phân tích những kết quả đạt được và chỉ ra
những tồn tại, khó khăn trong CTDV của Đảng gần 25 năm đổi mới, tác giả
chỉ rõ: thường xuyên củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, để CTDV ngày càng được triển khai sâu rộng trong các cấp, các
ngành, các lĩnh vực và trong quần chúng nhân dân; đồng thời, huy động được


17
sức mạnh tổng hợp của cả HTCT và nhân dân thực hiện thành công các nhiệm
vụ chính trị, mục tiêu phát triển KT-XH mà Đảng và Nhà nước đề ra.
Tác giả Hà Thị Khiết viết bài Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động quần chúng trong tình hình mới [96]. Tác giả đã khẳng định:
“công tác vận động quần chúng là nhiệm vụ chiến lược, phải được tiến hành
thường xuyên trong mọi hoàn cảnh, trên mọi địa bàn, đối với mọi tầng lớp
nhân dân các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài” [96, tr.3].
Trong điều kiện đất nước có sự thay đổi ngày một cơ bản và toàn diện: KT-XH

phát triển, quốc phòng - an ninh được giữ vững và tăng cường; đời sống nhân
dân từng bước được cải thiện, HTCT và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được
củng cố và tăng cường ... tác giả tiếp tục nhấn mạnh: “Trong bất cứ hoàn cảnh
và điều kiện nào cũng phải tin ở lực lượng và sức mạnh của nhân dân, gắn bó
máu thịt với nhân dân, một lòng một dạ phục vụ nhân dân. Linh hoạt, sáng tạo
trong việc tổ chức, tập hợp nhân dân bằng các hình thức hoạt động thích hợp
trong từng giai đoạn cách mạng” [96, tr.4].
Trên cơ sở đánh giá những thành tựu và hạn chế của CTDV, để tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác VĐQC trong tình hình mới, tác giả đã đưa
ra sáu giải pháp cơ bản, trong đó giải pháp hàng đầu được xác định: “Tiếp tục
quán triệt, làm chuyển biến nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân về vị trí, vai trò của công tác vận động quần chúng” [96, tr.6].
2.2. Các công trình nghiên cứu về công tác vận động quần chúng
bảo vệ biên giới
Công tác VĐQC thực chất là công tác vận động cách mạng. Nâng cao
chất lượng công tác VĐQC là yêu cầu khách quan, vừa có tính cấp bách, trước
mắt, vừa cơ bản lâu dài. Nhận thức rõ về vai trò của quần chúng nhân dân trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những năm qua, đã có nhiều công trình
nghiên cứu khoa học về công tác VĐQC xây dựng, bảo vệ biên giới nói chung


18
và xây dựng, bảo vệ tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc nói riêng,
tiêu biểu như:
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên
phòng chủ biên cuốn sách Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam về công tác biên phòng [93]. Cuốn sách là tổng hợp các bài
viết của nhiều tác giả, cuốn sách đã phản ánh khá toàn diện các quan điểm cơ
bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác
biên phòng. Tiêu biểu là các bài viết:

Tác giả Phạm Hồng Chương viết bài Quán triệt tư tưởng dân vận của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác Biên phòng. Trong bài viết tác giả đã
nhấn mạnh: Quán triệt tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh vào CTDV của
BĐBP là phải hết sức chú ý tới đặc điểm của mỗi dân tộc, mỗi địa phương để
tiến hành một cách thích hợp việc thông tin, tuyên truyền, giáo dục để dân
biết, tìm ra các hình thức phù hợp để dân bàn, tổ chức các hình thức phù hợp
để dân làm và kiểm tra.
Bàn về xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sỹ Bộ đội Biên phòng làm
CTDV theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả chỉ rõ: “Cán bộ, chiến sỹ lực lượng
biên phòng phải luôn gắn bó với nhân dân, với thực tiễn, phải mắt trông, tai
nghe, chân đi” [93, tr.319]. Theo tác giả, người làm CTDV không nhìn thấy,
không nghe thấy, không đi đến từng bản, từng người dân không thể nói tới tổ
chức nhân dân tham gia bảo vệ an ninh biên giới, không thể đổi mới phương
thức hoạt động trước sự thay đổi của tình hình, sẽ dẫn tới làm việc theo ý
kiến, tư tưởng chủ quan của mình rồi đem đặt vào quần chúng. Như vậy, hiệu
quả công tác VĐQC xây dựng và bảo vệ biên giới sẽ không cao, không
phát huy được sức mạnh và lực lượng của quần chúng nhân dân vào sự
nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia.
Tác giả Đặng Vũ Liêm viết bài Biên phòng đổi mới công tác vận động
quần chúng tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới theo quan


19
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ thực tiễn công
tác VĐQC của BĐBP, tác giả chỉ rõ: “Trong quá trình đổi mới công tác vận
động quần chúng phải nắm vững định hướng và quán triệt các quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân vận” [93,
tr.372]. Để đổi mới công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, an
ninh biên giới quốc gia theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam, BĐBP cần quán triệt tốt những nội dung: Nắm vững và

thực hiện tốt quan điểm “nước lấy dân làm gốc” trong thực hiện nhiệm vụ
quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới; phải có niềm tin mãnh liệt vào
quần chúng, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, sâu sát cơ sở, kiên trì nhẫn nại
VĐQC; muốn có phong trào quần chúng phải chăm lo xây dựng động lực của
phong trào; nắm vững quan điểm công tác VĐQC là trách nhiệm của mọi cấp,
của mọi cán bộ, đảng viên.
Tác giả Cao Thượng Lương viết bài Quán triệt quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Bộ đội Biên phòng vận động nhân dân các dân tộc bảo vệ chủ
quyền an ninh biên giới quốc gia. Trên cơ sở làm rõ đặc điểm tình hình trên
tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, sau khi quan hệ hai bên biên
giới trở lại bình thường, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp ước biên giới
trên đất liền và Hiệp định về thềm lục địa trong Vịnh Bắc bộ, song hoạt động
xâm canh, xâm cư, lấn chiếm biên giới, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ chưa
chấm dứt. Từ khi Việt Nam tiến hành sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, công tác bảo vệ chủ quyền an ninh biên
giới quốc gia có những đặc điểm, yêu cầu và tư duy mới. Việt Nam tuy đã có
hòa bình, nhưng phải thường xuyên đấu tranh, phòng chống âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hòa bình”, kích động bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Vì vậy, theo tác giả “mở cửa phải đi đôi với gác cửa”, nhiệm vụ bảo vệ biên
giới là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó BĐBP là lực
lượng nòng cốt, chuyên trách.


20
Để đấu tranh có hiệu quả với các hành động vi phạm chủ quyền, lãnh thổ
của nước láng giềng, tác giả đã nhấn mạnh đến vai trò của quần chúng nhân
dân và chỉ rõ: BĐBP muốn bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia phải biết dựa
vào dân, phát huy sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân, nhất là nhân dân
các dân tộc trên biên giới. “BĐBP luôn luôn dựa vào nhân dân các dân tộc,
làm tham mưu cho cấp ủy đảng và chính quyền địa phương, phát huy sức mạnh

biên phòng tại chỗ, chống lấn chiếm biên giới” [93, tr.229].
Tác giả Đặng Vũ Liêm chủ nhiệm Đề tài khoa học cấp Tổng cục
Chính trị Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng của Bộ đội Biên
phòng trong đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở địa bàn biên
giới Tây Bắc hiện nay [138]. Đề tài nghiên cứu những cơ sở khoa học của
công tác VĐQC trong phòng chống truyền đạo trái phép ở địa bàn biên giới
Tây Bắc, trong đó khẳng định vai trò quan trọng của công tác VĐQC trong
phòng chống truyền đạo trái phép, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới Tổ
quốc. Tác giả nhấn mạnh: “Chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh chính trị
vùng biên giới chỉ có thể được giữ gìn và bảo vệ vững chắc trong mọi tình
huống khi và chỉ khi tạo lập được một thế trận biên phòng toàn dân vững
chắc” [138, tr.54]. Vì vậy, nội dung quan trọng xuyên suốt nhất của công tác
biên phòng là phải xây dựng cho được “thế trận lòng dân” nơi biên giới, với
biện pháp cơ bản, nền tảng là công tác VĐQC.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác VĐQC của BĐBP và dự báo tình
hình liên quan đến vấn đề truyền đạo trái phép trên địa bàn biên giới Tây Bắc
trong tình hình mới; trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch,
tác giả khẳng định: “Công tác vận động quần chúng có vai trò, vị trí hết sức quan
trọng, nhằm giữ vững lòng dân, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với chính quyền,
tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc” [138, tr.114].


21
Tác giả Hoàng Xuân Lương chủ nhiệm Đề tài cấp ngành Công tác vận
động quần chúng của Bộ đội Biên phòng tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền an
ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới [107]. Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh
biên giới quốc gia, tác giả đã đề cập đến những đặc điểm chi phối công tác
VĐQC chúng của BĐBP và đưa ra dự báo tình hình có liên quan đến công tác
VĐQC; về vị trí, mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ công tác VĐQC; về nội dung,

phương pháp VĐQC của BĐBP trong tình hình mới.
Để phát huy được vai trò của nhân dân tham gia quản lý, bảo vệ chủ
quyền, an ninh biên giới quốc gia, tác giả chỉ rõ: “Công tác vận động quần
chúng của Bộ đội Biên phòng cần phải quán triệt và nhận thức sâu sắc về vai
trò, sức mạnh to lớn, quyết định của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ biên
giới. Phấn đấu làm cho sự nghiệp bảo vệ biên giới là sự nghiệp của quần chúng”
[107, tr.40]. Đồng thời, công tác VĐQC của BĐBP phải xây dựng được khối
đoàn kết toàn dân, củng cố cơ sở chính trị và các tổ chức, đoàn thể quần chúng,
xây dựng phong trào bảo vệ an ninh, xây dựng biên giới lòng dân, nền biên
phòng toàn dân, kết hợp với nền quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân
dân vững chắc... thực hiện được tư tưởng “lấy dân là gốc” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra những giải pháp, kiến nghị nâng cao chất
lượng hiệu quả công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên
giới quốc gia trong tình hình mới. Trong đó, giải pháp hàng đầu được tác giả xác
định: “Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác vận động
quần chúng, tham gia quản lý, bảo vệ biên giới, vùng biển - đảo” [107, tr.72].
Tác giả Đặng Vũ Liêm - Luận án phó tiến sĩ Triết học Nhân dân các
dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới phía Bắc [101].
Luận án đã tập trung nghiên cứu vai trò của nhân dân các dân tộc ở KVBG
phía Bắc, chỉ rõ nội dung và tính tất yếu phải bảo vệ chủ quyền, an ninh


22
biên giới trong tiến trình bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; phân
tích tình hình, đặc điểm biên giới và an ninh biên giới phía Bắc; đánh giá
những mặt tích cực của nhân dân các dân tộc trong tham gia bảo vệ chủ
quyền, an ninh biên giới, tác giả đã khẳng định: “Đồng bào các dân tộc đã
có những đóng góp to lớn trong tham gia xây dựng lực lượng vũ trang và
phối hợp với bộ đội chiến đấu bảo vệ biên giới” [101, tr.70].

Trước yêu cầu, nhiệm vụ của công tác biên phòng trong tình hình mới,
công tác bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia phải thực hiện đồng bộ
các biện pháp công tác, trong đó tác giả đã nhấn mạnh đến vai trò của của
công tác VĐQC tham gia bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia.
“Công tác bảo vệ chủ quyền, an ninh trật tự biên giới không phải là công tác
chuyên môn đơn thuần, mà phải làm tốt công tác vận động quần chúng, tổ
chức quần chúng, tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc thực sự phát huy
quyền làm chủ của mình trong sự nghiệp giữ gìn chủ quyền, an ninh biên
giới quốc gia [101, tr.61].
Tác giả Nguyễn Văn Thúy - Luận án tiến sĩ quân sự Bộ đội Biên
phòng tỉnh vận động quần chúng tham gia bảo vệ biên giới Tây Bắc trong
tình hình mới [132]. Tác giả đã nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
về BĐBP tỉnh VĐQC tham gia bảo vệ biên giới Tây Bắc, đánh giá thực
trạng, đưa ra những dự báo và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả
BĐBP tỉnh VĐQC tham gia bảo vệ biên giới Tây Bắc trong tình hình mới.
Trong đó, tác giả chỉ rõ: “Cùng tham gia bảo vệ biên giới quốc gia với Bộ
đội Biên phòng còn có một lực lượng quan trọng, đó là quần chúng nhân dân
sống trực tiếp trên biên giới” [132, tr.76]. Quần chúng nhân dân có sức mạnh
to lớn, BĐBP các tỉnh biên giới Tây Bắc muốn hoàn thành nhiệm vụ của
mình phải biết dựa vào dân, tuyên truyền, vận động và tổ chức, hướng dẫn
quần chúng nhân dân tham gia bảo vệ biên gới.


23
Để phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân, mà trước hết
là đồng bào các dân tộc ở KVBG Tây Bắc tham gia bảo vệ biên giới trong
tình hình mới, đòi hỏi công tác VĐQC của BĐBP phải tuyên truyền, giáo dục
nâng cao trình độ giác ngộ cho quần chúng là nội dung cơ bản, quan trọng.
Theo tác giả, chỉ trên cơ sở đồng bào các dân tộc được tuyên truyền, giáo dục
nâng cao trình độ giác ngộ, ý thức rõ trách nhiệm thì đồng bào mới tham gia

bảo vệ biên giới một cách tự giác, hành động mới tích cực, sáng tạo, hiệu quả
mới cao, phong trào quần chúng mới bền vững.
Tác giả Vũ Đình Liêm - Luận án tiến sĩ quân sự Bộ đội Biên phòng tham
gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở khu vực biên giới phía Bắc [103].
Luận án đã khái quát về BĐBP tham gia xây dựng, củng cố HTCT cơ sở ở KVBG;
nghiên cứu những vấn đề lý luận về BĐBP tham gia xây dựng, củng cố HTCT cơ
sở KVBG phía Bắc; đáng giá thực trạng, dự báo tình hình và đề xuất những giải
pháp nâng cao hiệu quả BĐBP tham gia xây dựng, củng cố HTCT cơ sở KVBG
phía Bắc. Luận án chỉ rõ, một trong những nội dung biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả BĐBP tham gia xây dựng, củng cố HTCT cơ sở là tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
xây dựng lực lượng chuyên trách làm công tác VĐQC. Theo tác giả, “trong tham
gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở ở KVBG là trách nhiệm của các cấp
ủy, chỉ huy và mọi cán bộ, chiến sỹ BĐBP mà trực tiếp là đội ngũ cán bộ, chiến sỹ
trực tiếp làm công tác VĐQC” [103, tr.89].
Tác giả Đinh Vũ Thủy - Luận án tiến sĩ quân sự Bộ đội Biên phòng vận
động người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số tham gia bảo vệ chủ
quyền, an ninh biên giới ở khu vực biên giới Tây Bắc [133]. Luận án phân tích,
làm rõ: Cơ sở lý luận để Bộ đội Biên phòng các tỉnh Tây Bắc vận động người có
uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số tham gia bảo vệ chủ quyền, an ninh
biên giới; đánh giá thực trạng BĐBP vận động người có uy tín trong đồng
bào dân tộc thiểu số; dự báo tình hình có liên quan đến công tác vận động
người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng khái niệm, đặt ra


24
yêu cầu, nội dung, phương pháp BĐBP vận động người có uy tín trong đồng
bào dân tộc thiểu số; đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả BĐBP vận
động người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số tham gia bảo vệ chủ
quyền, an ninh biên giới ở KVBG Tây Bắc. Theo tác giả, vận động người có
uy tín trong đồng bào các dân tộc thiểu số là một nội dung, hình thức, biện

pháp quan trọng trong công tác VĐQC của BĐBP. “Vận động người có uy
tín trong đồng bào dân tộc thiểu số là một nội dung của công tác vận động
quần chúng, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng và điều hành của người chỉ
huy các cấp” [133, tr.102].
Tác giả Đặng Vũ Liêm viết bài Công tác vận động quần chúng của Bộ
đội Biên phòng góp phần xây dựng và bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới Tổ
quốc [102]. Trong bài viết, tác giả khẳng định: Nội dung công tác VĐQC
không chỉ đơn thuần tuyên truyền vận động, mà phải tiến hành toàn diện;
tham gia xây dựng, củng cố cơ sở chính trị, thực hiện các chương trình phát
triển KT-XH, chương trình xóa đói giảm nghèo, tuyên truyền vận động nhân
dân xây dựng và bảo vệ biên giới.
Trên cơ sở phân tích những chủ trương, biện pháp đổi mới công tác
VĐQC của BĐBP, tác giả đã đánh giá kết quả thực hiện công tác VĐQC và
rút ra 6 kinh nghiệm chủ yếu, trong đó kinh nghiệm thứ ba được tác giả chỉ
rõ: “Bộ đội Biên phòng đã kết hợp chặt chẽ công tác biên phòng với tham gia
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở khu vực biên giới; giữa tuyên truyền, giác
ngộ đồng bào với chăm lo nhu cầu bức thiết trong đời sống của quần chúng,
cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, trên cơ sở đó tạo động lực phong trào
quần chúng bảo vệ biên giới” [102, tr.14].
Tác giả Phạm Huy Tập viết bài Bộ đội Biên phòng đẩy mạnh công tác
vận động quần chúng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tình hình mới [126]. Tác giả
đã chỉ rõ: Để từng bước phát triển KT-XH, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân ở KVBG hiện nay, cần tiếp tục nâng cao


25
chất lượng và hiện quả công tác VĐQC trong tình hình mới. Trên cơ sở phân
tích những đặc điểm cơ bản về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở KVBG, tác
giả đã khẳng định: “Công tác vận động quần chúng của Bộ đội Biên phòng
không ngừng được phát huy, góp phần quan trọng để tổ chức tuyên truyền vận

động, huy động sức mạnh của toàn dân tham gia quản lý bảo vệ chủ quyền, an
ninh biên giới và xây dựng biên giới ngày càng vững mạnh” [126, tr.91].
Đánh giá những kết quả đạt được và những tồn tại, bất cập của công tác
VĐQC, tác giả đã phân tích những yếu tố mới tác động và đề xuất sáu nhóm
giải pháp quan trọng đẩy mạnh công tác VĐQC đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới.
3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố
Các công trình khoa học nêu trên đều k hẳng định vai trò của quần
chúng nhân dân và công tác VĐQC có vai trò quan trọng, là chủ trương chiến
lược, quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Một số công trình khoa học đã luận giải sâu sắc, cụ thể đặc điểm tình
hình kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của đồng bào các dân tộc ở KVBG và
những nhân tố tác động đến công tác VĐQC; về vai trò của đồng bào các dân
tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ biên giới quốc gia.
Các công trình khoa học đã khảo sát, đưa ra những tư liệu quan trọng, trên
cơ sở tình hình thực tiễn, bước đầu đã có những đánh giá về thực trạng công tác
VĐQC trên một số mặt cụ thể, dự báo tình hình có tác động đến công tác VĐQC
của BĐBP, đề xuất chủ trương và những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
VĐQC nói chung và VĐQC bảo vệ biên giới nói riêng.


26
Một số công trình nghiên cứu của nước ngoài có đề cập đến vai trò của
nhân dân, hoạt động của BĐBP và yêu cầu, nhiệm vụ của BĐBP trong công
tác bảo vệ biên giới. Song với quan điểm, lập trường và lợi ích của các quốc
gia khác nhau mà họ đặt ra những yêu cầu giải quyết vấn đề trên biên giới
cũng khác nhau, tuy nhiên các công trình đó vẫn có giá trị tham khảo.

Tuy các công trình khoa học chưa đề cập một cách có hệ thống sự lãnh
đạo của Đảng bộ BĐBP về công tác VĐQC bảo vệ biên giới, song đã chỉ ra
những vấn đề có liên quan trực tiếp đến công tác VĐQC tham gia bảo vệ biên
giới. Các công trình khoa học nêu trên là tư liệu quan trọng, là cơ sở thực tiễn
cung cấp những luận cứ khoa học để tác giả tiếp tục nghiên cứu, phát triển, xây
dựng thành công luận án đúng mã số chuyên ngành khoa học Lịch sử Đảng.
3.2. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Làm rõ yêu cầu khách quan, phân tích đặc điểm tình hình tác động đến
công tác VĐQC bảo vệ tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc từ năm
1996 đến năm 2006.
Làm rõ hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ BĐBP về công tác VĐQC bảo vệ
tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc từ năm 1996 đến năm 2006.
Nhận xét quá trình Đảng bộ BĐBP lãnh đạo công tác VĐQC bảo vệ tuyến
biên giới đất liền Việt Nam - Trung từ năm 1996 đến năm 2006; đúc rút một số
kinh nghiệm lịch sử có giá trị tham khảo trong thực tiễn VĐQC bảo vệ tuyến
biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc của BĐBP trong những năm tiếp theo.
Đề tài luận án sẽ thu thập ý kiến của các nhà khoa học trong và ngoài
lực lượng BĐBP; thông qua phiếu trưng cầu ý kiến và trực tiếp khảo sát thực
tế trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.


27
Chương 1
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG BẢO VỆ
TUYẾN BIÊN GIỚI ĐẤT LIỀN VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
CỦA ĐẢNG BỘ BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG (1996 - 2001)
1.1. Yêu cầu khách quan vận động quần chúng bảo vệ tuyến biên
giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc (1996 - 2006)
1.1.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác vận động
quần chúng

Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trước yêu cầu, nhiệm
vụ mới, đòi hỏi phải đổi mới công tác quần chúng và tăng cường mối quan hệ
giữa Đảng và nhân dân. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VI), đã ban hành Nghị quyết Trung ương 8B/NQ-TW về đổi mới công tác
quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, đã nêu lên
bốn quan điểm chỉ đạo công tác VĐQC, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân, đó là: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân; động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của
nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công
dân; các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; công tác quần chúng là trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.
Ở mỗi giai đoạn lịch sử, có những mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương
pháp và đối tượng của cách mạng khác nhau. Vì vậy, công tác VĐQC cũng được
thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn và nhiệm vụ của từng giai đoạn cách
mạng. Trong thời kỳ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp tục
phát huy những bài học kinh nghiệm của công tác VĐQC, chủ trương về công tác
VĐQC được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, xác định:
Vận động, tập hợp nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát
huy vai trò làm chủ của nhân dân. Đây là mục tiêu quan trọng của công tác
VĐQC nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng mối quan


×