Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Nghiên cứu đa dạng sinh học của côn trùng nước ở Vườn Quốc gia Ba Vì, Hà Nội (luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 74 trang )

IH
TRƢỜ

QU

GI H N I



Ọ T

-----------------------

PH M THỊ BÍCH THU

NGHIÊN CỨU

D NG SINH HỌC CỦA Ô TRÙ
VƢỜN QUỐC GIA BA VÌ, HÀ NỘI

U

V

T

S

i - 2015

1





ƢỚC Ở


MỤC LỤC

Trang
MỞ ẦU ....................................................................................................................1
ƢƠ

1-TỔNG QUAN TÀI LIỆU...................................................................7

1.1. Tình hình nghiên cứu côn trùng nước trên thế giới .............................................7
1.3. iều kiện tự nhiên và đa dạng sinh học VQG Ba Vì .........................................26
1.3.1. iều kiện tự nhiên của VQG Ba Vì ................................................................26
1.3.2. a dạng sinh học VQG Ba Vì .........................................................................28
ƢƠ

2- THỜ

, Ị

ỂM, V T LIỆU VÀ P ƢƠ

P ÁP

NGHIÊN CỨU.........................................................................................................31
2.1. Thời gian nghiên cứu .........................................................................................31

2.2. ịa điểm nghiên cứu ..........................................................................................31
2.3. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................................35
2.3.1. Vật liệu nghiên cứu .........................................................................................35
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................35
2.3.3. Chỉ số đa dạng sinh học và chỉ số tương đồng ................................................36
2.3.4. Xử lý số liệu ....................................................................................................38
ƢƠ

3- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............................................................39

3.1. Một số chỉ số thủy lý, hóa học tại các điểm nghiên cứu ....................................39
3.2. Thành phần loài côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu...................................40
3.2.1. Thành phần loài của bộ Phù du (Ephemeroptera) ...........................................42
3.2.2. Thành phần loài bộ Chuồn chuồn (Odonata) ..................................................44
3.2.3. Thành phần loài bộ Cánh úp (Plecoptera) .......................................................44
3.2.4. Thành phần loài bộ Cánh nửa (Heniptera) ......................................................45

2


3.2.5. Thành phần loài bộ Cánh lông (Trichoptera) ..................................................45
3.2.6. Thành phần loài bộ Cánh cứng (Coleoptera) ..................................................46
3.2.7. Thành phần loài bộ Hai cánh (Diptera) ...........................................................46
3.2.8. Thành phần loài bộ Cánh vảy (Lepidoptera) ..................................................47
3.2.9. Thành phần loài bộ Cánh rộng (Megaloptera) ................................................47
3.3. Số lượng cá thế của các bộ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu..................48
3.4. Một số đặc điểm của quần xã côn trùng nước tại các dạng sinh cảnh ...............49
3.4.1. Thành phần loài côn trùng nước theo dạng sinh cảnh ....................................50
3.4.2. Mật độ côn trùng nước theo các dạng sinh cảnh .............................................59
3.4.3. Loài ưu thế và một số chỉ số đa dạng ..............................................................61

3.4.4. ánh giá mức độ tương đồng về thành phần loài giữa 3 dạng sinh cảnh .......62
KẾT LU N VÀ Ề NGHỊ .....................................................................................64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................65
PHỤ LỤC

3


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1. Một số chỉ số thủy lý, hóa học tại các điểm thu mẫu ..................................39
Bảng 2. Cấu trúc thành phần loài côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu ...............40
Bảng 3: Số lượng loài côn trùng nước tại VQG Ba Vì và VQG Tam ảo ..............42
Bảng 4. Số lượng cá thể của các bộ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu ...........48
Bảng 5. Số lượng loài côn trùng nước theo các dạng sinh cảnh ...............................50
Bảng 6. Thành phần loài côn trùng nước thu được theo ba dạng sinh cảnh .............51
Bảng 7. Số lượng cá thể côn trùng nước tại các sinh cảnh trên đơn vị diện tích
0,25m2 .......................................................................................................................59
Bảng 8. Loài ưu thế, chỉ số DI, chỉ số d và H’ tại các sinh cảnh ..............................61
Bảng 9. Chỉ số tương đồng Jacca – Sorensen (%) giữa các dạng sinh cảnh.............62

4


DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 1. Sơ đồ các điểm thu mẫu tại VQG Ba Vì ......................................................32
Hình 2: Tỷ lệ số loài theo từng bộ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu .............41
Hình 3. Số lượng cá thể của các bộ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu ...........49
Hình 4. Số loài của từng bộ côn trùng nước giữa các sinh cảnh...............................51

Hình 5. Mật độ cá thể giữa các dạng sinh cảnh ........................................................60
Hình 6. Sơ đồ thể hiện sự tương đồng về thành phần loài giữa các sinh cảnh .........63

5


MỞ ẦU
ôn trùng nước giữ vai trò quan trọng trong hệ sinh thái các thủy vực cả
nước đứng cũng như nước chảy. Mỗi một môi trường thủy vực, nhóm sinh vật này
đều có những đặc tính thích nghi phù hợp. So với nhiều nhóm sinh vật khác, côn
trùng nước có nhiều đặc tính nổi trội như số lượng loài, số lượng cá thể lớn…đặc
biệt chúng là những mắt xích không thể thiếu trong chuỗi và lưới thức ăn. ác loài
côn trùng nước là những sinh vật tiêu thụ bậc 1, bậc 2 đồng thời lại là nguồn thức
ăn của nhiều loài động vật có xương sống. Nhiều loài côn trùng nước có quan hệ
mật thiết đối với con người. Một số loài côn trùng nước gây hại là tác nhân truyền
bệnh, tác nhân gây bệnh, tác nhân phá hoại sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp…
Chính vì vậy côn trùng nước là đối tượng quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học trên thế giới. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây côn trùng nước cũng đã
được quan tâm nghiên cứu đặc biệt là ở các Vườn Quốc gia và các Khu bảo tồn
thiên nhiên của Việt Nam, những nơi có hệ thống sông, suối phong phú, tiềm ẩn
tính đa dạng côn trùng nước. Vườn Quốc gia Ba Vì với hệ động thực vật phong phú
và đa dạng đã thu hút nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước,
nhưng chưa có nhiều nghiên cứu về côn trùng nước. Chính vì thế chúng tôi tiến
hành thực hiện đề tài “ ghiên cứu đa dạng sinh học của côn trùng nƣớc ở Vƣờn
Quốc gia Ba Vì, Hà N i”, nhằm mục đích:
 Xác định thành phần loài của côn trùng nước tại một số hệ thống suối thuộc
Vườn Quốc gia Ba Vì, Hà Nội
 Nghiên cứu đặc điểm của quần xã côn trùng nước: thành phần loài, mật độ cá
thể, mức độ đa dạng dựa vào một số chỉ số đa dạng sinh học theo các dạng
sinh cảnh.

.

6


ƢƠ

QU

1-TỔ



ỆU

1.1. Tình hình nghiên cứu côn trùng nƣớc trên thế giới
ôn trùng nước bao gồm những loài côn trùng mà có một phần hoặc cả vòng
đời sống trọng môi trường nước. Chính vì sự đa dạng về thành phần loài, hình thái
cấu tạo và các đặc điểm thích nghi cùng với vai trò quan trong của chúng đối với hệ
sinh thái và đời sống con người mà côn trùng nước đã sớm được quan tâm nghiên
cứu ở các nước phát triển.

ã có rất nhiều các công trình nghiên cứu liên quan đến

từng bộ của nhóm này, từ những nghiên cứu về phân loại học, tiến hoá, đến những
nghiên cứu về ứng dụng. Trong đó phân loại học côn trùng nước là vấn đề đã được
nghiên cứu nhiều hơn cả.
Những nghiên cứu sớm nhất về côn trùng nước thường tập trung vào nhóm
côn trùng gây hại, truyền bệnh như ruồi, muỗi (Resh và Rosenberg, 1979; Merritt
và Cummins, 1984; Merritt và Newson, 1978; Kim và Merritt, 1987) [50].

Bên cạnh các nhóm côn trùng nước gây hại, vai trò của nhóm côn trùng nước
với các hệ sinh thái cũng thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học.
Phạm vi nghiên cứu côn trùng nước ngày càng được mở rộng, các hướng nghiên
cứu không chỉ dừng lại ở việc mô tả, phân loại mà còn đi sâu nghiên cứu các đặc
điểm sinh học, sinh thái như: biến động quần thể côn trùng, các mối quan hệ dinh
dưỡng, đáp ứng yêu cầu của sinh thái học (Resh và Rosenberg, 1984; Cummins,
1994) [50, 67].

ặc biệt một hướng nghiên cứu mới về côn trùng nước được mở ra

đó là sử dụng côn trùng nước làm sinh vật chỉ thị chất lượng nước bắt đầu với các
công trình nghiên cứu của Kuehne (1962), Bartsch và Ingram (1966), Wilhm và
Dorris (1968) [86].
ến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, nhiều nhà khoa học đã công bố hàng
loạt các công trình nghiên cứu về côn trùng nước như: Mc afferty W.P. (1983),
John C.M., Yang Lianfang and Tian Lixin (1994), Merritt R. W. and Cummins K.
W. (1996),… ác nghiên cứu này đã đưa ra khóa định loại tới giống, thậm chí tới
loài côn trùng nước dựa vào hình thái con trưởng thành và ấu trùng. Bên cạnh đó
các tác giả còn đề cập đến một số ứng dụng của chúng trong sinh thái học [50].

7


Qua các công trình nghiên cứu đã được công bố từ trước đến nay đã xác định
được 9 bộ côn trùng nước thường gặp là Phù du (Ephemeroptera), Chuồn chuồn
(Odonata), Cánh úp (Plecoptera), Cánh nửa (Hemiptera), Cánh lông (Tricoptera),
Cánh cứng (Coleoptera), Hai cánh (Diptera), Cánh rộng (Meganoptera) và Cánh
vảy (Lepidoptera).
Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)
Bộ Phù du (Ephemeroptera) là bộ côn trùng có cánh cổ sinh tương đối

nguyên thủy, thậm chí còn được xem như một trong những tổ tiên của côn trùng.
Dựa vào những bằng chứng hóa thạch, chúng có thể đã phát sinh vào giai đoạn cuối
của kỷ Cacbon và đầu kỷ Pecmơ trong đại Cổ sinh, cách đây khoảng 290 triệu năm
(Edmund, 1972) [25]. Các loài thuộc bộ Phù du được mô tả từ rất sớm. Công trình
nghiên cứu đầu tiên về phân loại học Phù du là của nhà tự nhiên học nổi tiếng
Lineaus (1758). Ông đã mô tả 6 loài Phù du tìm thấy ở châu Âu và xếp chúng vào
một nhóm là Ephemera [56].
Vào thế kỷ XIX, Eaton (1871, 1881, 1883-1888, 1892) đã công bố hàng loạt
các công trình nghiên cứu Phù du của mình, các công trình đã cung cấp những kiến
thức cơ bản về Phù du như: mô tả các đặc điểm về mặt hình thái của cả giai đoạn ấu
trùng và trưởng thành, những kiến thức này rất hữu ích cho việc xây dựng khóa
định loại đến các họ và giống của bộ Phù du [56].
Nghiên cứu về Phù du thực sự phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XX, điển hình
là các công trình nghiên cứu của Ulmer (1920, 1924, 1925, 1932, 1933), Navás
(1920, 1930), Lestage (1921, 1924, 1927, 1930), Needham và cộng sự (1935).
Edmunds (1963) đã xây dựng hệ thống phân loại đến họ thuộc bộ Phù du trên toàn
thế giới. Ông đã đưa ra một bức tranh tổng thể về khóa phân loại bậc cao cũng như
nguồn gốc phát sinh của Phù du [24]. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các
nghiên cứu về Phù du, hệ thống phân loại của ông ngày càng tỏ ra hạn chế. Mc
Cafferty và Edmunds (1979), đã bổ sung những dẫn liệu mới và chỉnh lý khóa phân
loại cho phù hợp với thực tế nghiên cứu đòi hỏi. Trong khóa định loại của Mc
Cafferty và Edmunds ngoài việc mô tả đặc điểm hình thái thì mối quan hệ họ hàng

8


giữa các loài trong qúa trình tiến hóa cũng được các tác giả đề cập đến. Tiếp sau
công trình nghiên cứu mang tính bước ngoặt này hệ thống phân loại Phù du ngày
càng được hoàn chỉnh bởi các nghiên cứu của Kluge (1995, 1998, 2004), Mc
Cafferty (1991, 1997) và nhiều nhà nghiên cứu về Phù du khác [50].

Trong một nghiên cứu gần đây Odgen và Whiting (2005) đã tổng hợp những
nghiên cứu về phân loại học của Mc

afferty và Edmunds đồng thời đưa ra giả

thuyết mới về nguồn gốc phát sinh của Phù du dựa trên những nghiên cứu về sinh
học phân tử. [63]
ến năm 2008, toàn thế giới đã xác định được khoảng 3000 loài Phù du
thuộc 375 giống và 37 họ trong đó ở Châu Âu có khoảng 350 loài và Bắc Mỹ là 670
loài (Hubbard, 2008) [29]. Thành phần loài hay nói cách khác sự đa dạng về mức
độ loài của Phù du ở các họ thể hiện rất khác nhau, có những họ chỉ có một vài loài
như Teloganiella, Teloganidae... hay có những họ có tới hàng trăm loài như
Heptageniidae, Leptophlebiidae... Tuy nhiên những con số này chưa phản ánh hết
mức độ đa dạng của Phù du vì còn nhiều khu vực trên thế giới vẫn chưa được khám
phá hết, nhất là các khu vực nhiệt đới.
Ở với khu vực châu Á, những nghiên cứu đầu tiên về Phù du được thực hiện
bởi các nhà côn trùng học đến từ châu Âu như: Navás (1922, 1925), Lestage (1921,
1924) [56]. Những nghiên cứu này là cơ sở và nền tảng thúc đẩy việc nghiên cứu về
Phù du ở khu vực. Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy, ở châu Á có khoảng 128
giống thuộc 18 họ của bộ Phù du (Hubbard, 1990; McCaffrty, 1991; McCaffrty &
Wang, 1997, 2000; Dudgeon, 1999) [56].
Tại khu vực

ông Nam Á, các nghiên cứu về Phù du đã được khởi xướng

bởi Ueno (1931, 1969) và Ulmer (1939). Các nhà nghiên cứu của Việt Nam và Thái
Lan cũng đã công bố khá nhiều công trình nghiên cứu về Phù du trong thời gian gần
đây (Nguyen, 2003, Nguyen and Bae, 2003, 2004, Tungpairojwong và Bae, 2006;
Tungpairojwong, 2007; Braasch Boonsoong, 2009) [56, 57, 58, 59, 60].
ho đến nay, những nghiên cứu liên quan đến phân loại và hệ thống học Phù

du khá tỉ mỉ, các nhà khoa học đã xây dựng khoá phân loại chi tiết tới loài kể cả giai

9


đoạn ấu trùng và trưởng thành. Hiện nay, hướng nghiên cứu tập trung vào các vấn
đề sinh thái, phục hồi và bảo tồn các loài cũng như các nghiên cứu ứng dụng của
Phù du vào thực tiễn.
Neddham và cộng sự (1935), đã công bố các số liệu về vòng đời, quá trình
lột xác chuyển từ đời sống dưới nước lên cạn, tập tính dinh dưỡng, tập tính sinh sản,
biến động số lượng theo mùa... của nhiều loài Phù du. Các kết quả nghiên cứu về
ịa động vật của Lestage (1930) cho thấy các loài thuộc bộ Phù du ưa sống ở
những nơi nước chảy với hàm lượng oxy hòa tan trong nước cao, bên cạnh đó cấu
trúc nền đáy của các thủy vực giữ vai trò quan trọng, quyết định đến thành phần loài
Phù du. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng những thủy vực nước chảy mà ở đó cấu trúc nền
đáy là các khối đá với nhiều kích thước khác nhau và có chứa mùn bã hữu cơ thì
thành phần loài Phù du rất đa dạng. Ngoài ra, các yếu tố tự nhiên khác như độ cao,
độ che phủ của rừng tự nhiên, … cũng ảnh hưởng đến sự phân bố của Phù du [52].
Brittain (2008) đã cung cấp những nghiên cứu bước đầu về ảnh hưởng của biến đổi
khí hậu đối với sự phân bố và đa dạng của bộ Phù du [37].
Về khía cạnh ứng dụng, các nghiên cứu ứng dụng của Phù du hiện nay tập
trung vào việc sử dụng Phù du làm sinh vật chỉ thị môi trường nước. Landa và
Soldan (1991), Bufagni (1997) khi nghiên cứu khía cạnh này, cho rằng việc sử dụng
Phù du làm sinh vật chỉ thị dễ thực hiện và có nhiều ưu điểm. Hai ưu điểm nổi bật
là: thứ nhất có nhiều công trình nghiên cứu phân loại đã được thực hiện, nên việc
định loại tới loài dễ dàng hơn. Thứ hai là hầu hết các loài Phù du rất nhạy cảm với
sự biến đổi của môi trường nên sự việc sử dụng chúng làm sinh vật chỉ thị sẽ cho
những kết quả đáng tin cậy [56].
Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)
Các nghiên cứu về Chuồn chuồn được bắt đầu từ khoảng cuối thế kỉ 19,

nhưng phải sang thế kỉ 20 Chuồn chuồn mới ngày càng nhận được chú ý nhiều hơn
của các nhà nghiên cứu phân loại học và sinh thái học. Ở giai đoạn đầu, các công
trình nghiên cứu về Chuồn chuồn chủ yếu tập trung mô tả hình dạng và đặc điểm
ngoài các loài Chuồn chuồn thu thập được ở châu Á và châu Âu nhằm xây dựng

10


khóa định loại.

iển hình cho các công trình nghiên cứu này là: Needham (1930),

Fraser (1933, 1934, 1936), Askew (1988), Zhao (1990), Hisore & Itoh (1993),
Wilson (1955). Merritt và Cummins (1996), xây dựng khóa định loại tới giống ở cả
giai đoạn thiếu trùng và trưởng thành bộ Chuồn chuồn thuộc khu vực Bắc Mỹ [50].
Bộ chuồn chuồn được chia thành 3 phân bộ: phân bộ Anisozygoptera, phân
bộ Zygoptera (Chuồn chuồn kim) và phân bộ Anisoptera (Chuồn chuồn ngô). Phân
bộ Anisozygoptera chỉ có 1 giống là Epiophlebia, giống này có một số loài chỉ phân
bố ở độ cao khoảng 2.000m ở những con suối thuộc Nhật Bản và vùng núi cao
Himalaya (Tani & Miyatake, 1979; Kumar & Khanna, 1983). Hai phân bộ còn lại
phân bố rộng cả ở nơi nước đứng cũng như nước chảy với số lượng loài phong phú
[52]. ến năm 2008 trên thế giới đã xác định được hơn khoảng 6000 loài thuộc hơn
600 giống của bộ Chuồn chuồn (Trueman and Rowe, 2008) [85].
Khu hệ Chuồn chuồn Bắc Mỹ đã xác định được khoảng 462 loài. Những
nghiên cứu đầu tiên về phân loại học

huồn chuồn Bắc Mỹ được thực hiện bởi

Muttkowski (1910), Needham và Heywood (1929), phần lớn các loài gần đây được
mô tả đều thuộc họ Gomphidae là họ có số lượng loài lớn và đa dạng nhất trong bộ

huồn chuồn [50].
Ở khu vực châu Á, Chowdhury và Akhteruzzaman (1981) là những người
đầu tiên công bố công trình nghiên cứu về Chuồn chuồn ở Bangladesh. Hai ông đã
mô tả chi tiết các ấu trùng của 13 loài Chuồn chuồn thuộc bộ phụ Anisoptera. Ngoài
ra còn một số công trình điển hình khác như: Nasiruddin và Begum (1985), sahina
(1993), Subramanian (2005). Ở Việt Nam phải kể đến các công trình nghiên cứu về
Chuồn chuồn của

sahina (1969, 1996), Karube (1999, 2002), Hoàng

ức Huy

(2001), ỗ Mạnh Cương (2003) [1, 4].
Ngoài các công trình nghiên cứu về phân loại học còn có những công trình
nghiên cứu về sinh học, sinh thái học và tập tính của Chuồn chuồn. Một trong
những nghiên cứu tiêu biểu là của Corbet (1999) về tập tính và sinh thái của Chuồn
chuồn trên thế giới, trong đó tác giả đã trình bày rất đầy đủ về các đặc điểm sinh
học của Chuồn chuồn như chu kỳ sống, tập tính bắt cặp giao phối, săn mồi, lựa

11


chọn môi trường sống…Silsby (2001) đã tổng hợp rất nhiều nghiên cứu trước đây
để tạo nên một công trình khá hoàn chỉnh về các đặc điểm sinh học của Chuồn
chuồn đặc biệt là về chu trình sống, tập tính sinh sản hay sự di cư của loài [4].
Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)
ho đến năm 2007 trên thế giới đã xác định được khoảng 3500 loài Cánh úp,
trong đó : khu vực Bắc Mỹ có khoảng 650 loài (Stark & Baumann, 2005), khu vực
Trung Mỹ 95 loài, khu vực Nam Mỹ 378 loài (Heckman, 2003), khu vực Châu Âu
426 loài (Fochetti & Tierno de Figueroa, 2004), khu vực Châu phi 126 loài ; Châu

Á là khu vực có số lượng loài phong phú nhất với số loài đã xác định được lên tới
1527 loài trong đó: khu vực

ông Á và Nam Á có khoảng 784 loài, Trung Quốc

đứng đầu với 350 loài (Yuzhou & Junhua, 2001), tiếp đó là Nhật Bản với 306 loài
(Sivec & Yang 2001); Tây Á có 114 loài và Bắc Á với 279 loài. Khu vực Australia
có 191 loài (Michaelis & Yule, 1988) và New Zealand với 104 loài [68].
Khi so sánh với nghiên cứu của Hynes (1976) và Zwick (1980) (nghiên cứu
đã cung cấp thông tin về 2000 loài Cánh úp trên thế giới) có thể thấy là tổng số loài
Cánh úp đã tăng lên đáng kể trong vòng 25 năm trở lại đây [68].
Khu vực Bắc Mỹ và Châu Âu là hai khu vực đã được nghiên cứu nhiều hơn
cả. Tuy nhiên tỷ lệ loài mới được mô tả ở 2 khu vực này vẫn khá cao: trung bình
mỗi năm có 2,6 loài

ánh úp mới được mô tả ở khu vực Châu Âu (Fochetti &

Tierno de Figueroa, 2005). Ngoài ra khu hệ Cánh úp ở Australia và New Zealand
cũng đã được nghiên cứu khá đầy đủ, trong khi đó những dẫn liệu về Cánh úp ở
Trung và Nam Mỹ còn rất nghèo nàn và chưa đủ để đại diện cho mức độ đa dạng
thật sự ở các khu vực này. hâu Á được đánh giá là có mức độ phong phú của bộ
ánh úp cao hơn nhiều so với khu vực Bắc Mỹ và Châu Âu. Tuy nhiên trên thực tế
ngoại trừ Nhật Bản và Nga, những dẫn liệu về Cánh úp ở khu vực này còn rất sơ
sài, thậm chí có những nước chưa hề có bất cứ một nghiên cứu nào về bộ này [68].
Khu hệ Cánh úp ở châu Á được nghiên cứu bởi những nhà khoa học châu Á
và châu Âu. Trong suốt những thập niên 30 của thế kỷ XX, Wu và Claassen (1934,
1935, 1937, 1938) đã mô tả khóa định loại Cánh úp ở miền Nam Trung Quốc.

12



Kawai (1961 - 1975) nghiên cứu một vài loài ở Ấn

ộ, Bangladesh đến phía Nam

châu Á. Zwick và Sivec (1980) mô tả một số loài Cánh úp ở Himalaya. Vào thập
niên 80 của thế kỷ XX, Zwick (1980, 1983, 1985, 1988) cũng đưa ra những nghiên
cứu về khu hệ Cánh úp ở ông Nam Á. Uchida và cộng sự (1988, 1989) mô tả một
vài loài thuộc Perlinae (Perlidae) ở Malaysia, Thái Lan và mô tả 2 giống thuộc
Peltoperlidae (Cryptoperla và Yoraperla) ở Nhật Bản và

ài Loan. Stark (1979,

1987, 1983, 1991, 1999) đã ghi nhận nhiều loài mới trong họ Peltoperlidae và
Perlidae ở châu Á. Gần đây, Du (1998, 1999, 2000) đã công bố những tài liệu liên
quan đến Perlidae ở miền Nam Trung Quốc [17].
Morse J. C., Yang Lianfang & Tian Lixin (1994); Merritt & Cummins
(1996) khi nghiên cứu khu hệ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ, các tác giả đã xây
dựng khóa định loại tới giống ấu trùng của bộ này, đó là cơ sở cho việc định loại
các loài thuộc bộ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ sau này [50,52].
ánh úp đóng vai trò quan trọng đối với hệ sinh thái suối, chúng đóng vai trò
là sinh vật tiêu thụ bậc 1, 2 đồng thời cũng là thức ăn của nhiều loài động vật không
xương sống và cá; thiếu trùng bộ

ánh úp còn được sử dụng như là những chỉ thị

sinh học để đánh giá chất lượng môi trường nước, thêm vào đó côn trùng của bộ
Cánh úp hầu như không gây hại đối với đời sống con người. Tuy nhiên do sự suy
giảm chất lượng nguồn nước và sự thay đổi về mặt vật lý của sông suối đặc biệt là ở
các nước công nghiệp phát triển hay các nước có mật độ dân số cao đã và đang làm

giảm số lượng loài Cánh úp [68].
Nghiên cứu về bộ Cánh nửa (Hemiptera)
ôn trùng nước bộ Cánh nửa phân bố rộng rãi ở hầu hết các lục địa trừ Nam
Cực, chúng bao gồm 2 nhóm chính là: Gerromorpha (nhóm sống trên màng nước)
và Nepomorpha (nhóm sống dưới nước). Ngoài ra còn có một nhóm nữa là
Leptopodomorpha, tuy không sống ở môi trường nước nhưng kiếm ăn, bắt mồi ở
gần bờ nước. Một số tác giả cũng tính nhóm này vào nhóm sống ở nước [65]. Năm
2008, thế giới xác định được 4.810 loài, 343 giống và 23 họ thuộc bộ Cánh nửa
trong đó bao gồm 4.656 loài, 326 giống, 20 họ sống ở nước ngọt [65].

13


Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu bộ Hemiptera ở nước về
hình thái, sinh học, sinh thái, phân loại và chủng loại phát sinh như:

heng và

Fernando (1969), Menke (1979), Andersen (1985), Schuh và Slater (1995),
Hilsenwoff (1991) [87].
Ở Châu Á, các công trình nghiên cứu về bộ Hemiptera được bắt đầu khá sớm
bằng các nghiên cứu của Lundblad (1933), La Rivers (1970), Lansbury (1972,
1973) [47]. Bộ Hemiptera cũng được quan tâm nghiên cứu ở nhiều nước như Trung
Quốc, Thái Lan, Malaysia, Singapore… Ở Trung Quốc, từ những năm 1920-1930,
Hoffmann đã công bố nhiều nghiên cứu phân loại, sinh học của Hemiptera ở nước
[47]. Ở ông Á và ông Nam Á, Esaki (trong giai đoạn 1923-1930) đã mô tả nhiều
loài thuộc bộ Hemiptera ở khu vực này và các vùng lân cận, đưa thêm vào bậc phân
loại cao hơn mà ngày nay vẫn được tiếp tục nghiên cứu. Lundblad (1933) đưa ra
tổng quan chung về bộ Hemiptera ở nước, với danh lục những loài từ Ấn


ộ đến

New Guinea và Nhật Bản [65]. Ở bán đảo Malaysia, Fernando và heng (1974) đã
lập một danh lục gồm 102 loài thuộc 12 họ. Sau đó, nhiều loài khác vẫn được miêu
tả hoặc ghi nhận. Hiện tại, bán đảo Malaysia và Singapore có 167 loài nước ngọt
thuộc 64 giống, 18 họ được biết đến. Bộ Cánh nửa ở Borneo bao gồm khoảng 80
loài đặc hữu [87]. Gần đây Tran và Polhemus D. A. (2012), đã mô tả 1 loài mới
thuộc giống Ranatra (Nepidae) ở khu vực ông Nam Á [83].
Cùng với việc nghiên cứu về phân loại học, nhiều nhà khoa học cũng quan
tâm đến việc nghiên cứu các lĩnh vực sinh thái học, địa lý sinh vật, chủng loại phát
sinh, tập tính hay sự thích nghi của Cánh nửa ở nước. Có thể kể đến công trình
nghiên cứu của Cobben (1968, 1978), Andersen (1982), Damgaard (2008). Cheng
(1965,1966,1976) đã công bố một số bài báo về sinh thái và địa lý sinh vật của
giống Halobates. Những nghiên cứu về vai trò của bộ Cánh nửa trong hệ sinh thái
cũng được quan tâm bởi các nhà khoa học như Keffer (2000), Spence và
(2000), Sites (2000), Yang et al. (2004), Chen et al. (2005)...[87].

14

ndersen


Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)
Cánh lông là một trong những bộ có số lượng loài phong phú. Những nghiên
cứu về hệ thống phân loại bậc cao của bộ ánh lông được thực hiện bởi Ross (1956,
1967) và sau đó tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện bởi Morse (1997) [27].
ến năm 2012 ước tính trên thế giới có khoảng 14.548 loài, 616 giống và 49
họ còn tồn tại và 685 loài thuộc 125 giống và 12 họ đã hóa thạch của bộ Cánh lông
[31].
Ở ông Nam Á, bộ ánh lông được nghiên cứu từ rất sớm bởi Ulmer (1911,

1915, 1925, 1927, 1930, 1932) và Navás (1913, 1917, 1922, 1930, 1932). Trong khi
các hướng nghiên cứu chủ yếu dựa vào giai đoạn trưởng thành thì Ulmer đã mở ra
hướng nghiên cứu dựa vào giai đoạn ấu trùng vào những năm 1955 và 1957 [27].
Trong giai đoạn này, việc nghiên cứu về Cánh lông ở các nước

hâu Á cũng bắt

đầu được chú trọng, Ulmer (1905 - 1951, 1955, 1957), Malicky (1955), Morse
(2009); Banks (1937) là người đầu tiên nghiên cứu khu hệ ánh lông Philippin. ặc
biệt trong những năm gần đây, có hàng loạt các công trình nghiên cứu mới về Cánh
lông được công bố: Malicky (2007) đã liệt kê 327 loài và chứng minh sự đa dạng
của ánh lông trên đảo Sumatra cao hơn so với các khu vực khác xung quanh đại
lục Indonesia; Johason và Oláh (2008) đã công bố 7 loài mới thuộc giống Tinodes
(Psychomyiidae) cho khu hệ ánh lông

ông Nam Á và 1 loài mới từ Hồng Kông

[35].
Năm 2009, Sharma và handra đã cung cấp một danh sách gồm 1046 loài,
94 giống, 27 họ của khu hệ Cánh lông ở Ấn

ộ. Các nghiên cứu về Cánh lông cũng

được quan tâm ở một số quốc gia khác như Nhật Bản với những nghiên cứu của
Iwata (1927), Tanida (1986, 1987), Ito và Ohkawa (2012); Trung Quốc (Martynov,
1930, 1931; Wang, 1963), Thái Lan (Chantaramongkol và Malicky, 1989, 1991,
1992, 1993a, 1993b, 1995, 1997; Radomsuk, 1999; Sangpradub và cộng sự, 1999;
Malicky và cộng sự, 2001, 2002; Chaiyapa, 2001) [27]... Tuy nhiên, do còn nhiều
hạn chế về định loại ấu trùng tới giống và loài nên các nghiên cứu ở


ông Nam Á

mới chỉ dừng lại ở giai đoạn trưởng thành. ác khóa định loại của bộ Cánh lông ở

15


ông Dương (Lào, ampuchia và Việt Nam) dựa trên những nghiên cứu của tác giả
Wallace và cộng sự (1990), Edington và Hildrew (1995) và Wiggins (1996) [27].
Olash và Johanson (2010) đã công bố 19 loài mới thuộc họ Dipseudopsidae
cho khoa học từ các mẫu vật thu được tại Ấn

ộ, Malaysia, Lào và Việt Nam. Tại

Nhật Bản, tác giả Ito và Ohakawa (2012) đã ghi nhận sự xuất hiện lần đầu của hai
loài Cánh lông thuộc giống Ugandatrichia (Hydroptilidae) kèm theo những miêu tả
chi tiết cho giai đoạn ấu trùng, nhộng và trưởng thành của các loài thuộc giống này
tại đây [30].
Bên cạnh những nghiên cứu về phân loại học, những nghiên cứu về sinh thái
và đặc điểm sinh học của bộ

ánh lông cũng được đặc biệt chú ý tiêu biểu là các

công trình của Haris, Mackay và Wiggins vào những năm 70 của thế kỉ trước. Một
số công trình khá đồ sộ liên quan đến giai đoạn ấu trùng côn trùng của Wiggins
(1969, 1978, 1985, 1986) trong đó có ấu trùng ánh lông (1977, 1982, 1984). Năm
2009, Morse đã công bố một danh sách đầy đủ các loài cũng như phân bố địa lý
sinh vật của bộ Cánh lông trên toàn thế giới và tiếp tục được cập nhật cho tới hiện
nay [27].
Nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera)

Bộ Cánh cứng (Coleoptera) là bộ có số lượng loài lớn nhất trong giới

ộng

vật. Hiện nay, số loài thuộc bộ côn trùng này vào khoảng 277.000 - 350.000 loài và
khoảng 18.000 loài trong số đó thuộc nhóm côn trùng nước [32]. Hiện nay, các
công trình nghiên cứu về bộ Cánh cứng tập trung vào phân loại học, sinh thái học,
tiến hóa như: các nghiên cứu của Feng (1932, 1933), Gschwendtner (1932),
Fernando (1962, 1969), Nertrand (1973), Jach (1984). Heinrich & Balke (1997),
Gentuli (1995), Jach & Ji (1995, 1998, 2003) đã cung cấp khá đầy đủ những dẫn
liệu về phân loại học của bộ Cánh cứng ở châu Á [52].
Wu và cộng sự đã xác định ở Trung Quốc có 601 loài, Sato (1988) đã định
loại được 311 loài ở Nhật Bản, Britton (1970) xác định ở Úc có khoảng 510 loài và
White (1984) đã phân loại được 1.143 loài ở khu vực Bắc Mỹ thuộc bộ Cánh cứng
[50].

16


Những nghiên cứu mới đây có thể kể đến như Čiampor Jr và cộng sự (2012)
đã cung cấp những thông tin về các loài thuộc giống Dryopomorphus (Elmidae) ở
khu vực Malaysia. Short và Jia (2012) đã bổ sung 2 loài mới của giống Oocyclus là
Oocyclus fikaceki Short và Jia và O. dinghu Short và Jia cho khu hệ Cánh cứng
Châu Á từ các mẫu vật thu được ở đông nam Trung Quốc [69].
Mặc dù là nhóm côn trùng nước có số loài rất phong phú tuy nhiên con số
này chỉ là một phần nhỏ tổng số loài của bộ cánh cứng vì thế các công trình nghiên
cứu về bộ Cánh cứng ở nước thường ít được quan tâm hơn các loài ánh cứng trên
cạn.
Nghiên cứu về bộ Hai cánh (Diptera)
Bộ Hai cánh là một trong những bộ côn trùng có số lượng loài nhiều nhất

trong giới

ộng vật với khoảng 120.000 loài sống ở nước được biết trên thế giới,

chúng phân bố rông rãi ở hầu hết các dạng thủy vực.

ây là một trong những bộ

côn trùng nước thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học do mối liên hệ
chặt chẽ của chúng với con người.
ã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về bộ Hai cánh được công bố trên
toàn thế giới, trong đó tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của Alexander (1931),
Mayer (1934), Zwich & Hortle (1989). ối với khu vực châu Á, Delfinado & Hardy
(1973, 1975, 1977) đã tổng hợp một danh lục khá đầy đủ về thành phần loài của bộ
Hai cánh ở miền Ấn

ộ - Mã Lai. Khóa định loại tới họ và giống hiện nay chủ yếu

thực hiện theo khóa định loại được xây dựng bởi Harris (1990). Do nhiều loài thuộc
bộ này là vật chủ trung gian truyền bệnh cho người và gia súc nên những đặc điểm
về sinh thái học của bộ này đã được quan tâm nghiên cứu từ sớm (50).
Trong những năm gần đây, xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu liên quan
đến việc sử dụng ấu trùng bộ Hai cánh đặc biệt là họ hironomidae như là sinh vật
chỉ thị chất lượng môi trường nước [52].
Nghiên cứu về bộ Cánh rộng (Megaloptera)
Bộ Cánh rộng được xem là nhóm côn trùng nguyên thủy trong nhóm côn
trùng biến thái hoàn toàn. Hiện nay, bộ Cánh rộng có khoảng 300 loài được biết

17



trên thế giới và chia thành hai họ là:

orydalidae và Sialidae. Giai đoạn trưởng

thành ở cạn và ăn thịt, thường hoạt động vào ban đêm, tuy nhiên giai đoạn ấu trùng
lại sống dưới nước và ăn thịt các loài động vật [50].
Ấu trùng của bộ Cánh rộng thường phân bố ở các thủy vực nước ngọt như:
sông, suối, hồ nơi có nhiều mùn, các mảnh vụn, cát hoặc sỏi nhỏ. Chúng trải qua 5
lần lột xác và sống được khoảng 1 năm trong vòng đời của mình. Ấu trùng rời khỏi
các thủy vực nước ngọt và hóa nhộng [22].
Trong khi họ Corydalidae có phân bố khá rộng thì các loài thuộc họ Sialidae
này lại phân bố rất hẹp, ở châu Á, họ này mới chỉ phân bố ở vùng ôn đới thuộc Hàn
Quốc, Nhật Bản và một số nơi ở Trung Quốc (Bank, 1940) [50].
Nghiên cứu về bộ Cánh vảy (Lepidoptera)
Bộ cánh vảy là một trong những bộ côn trùng có số loài lớn nhất trên thế
giới, tuy nhiên chỉ có một số loài thuộc họ Pyralidae, Pyraustidae và Crambidae
sống ở nước. Giai đoạn trưởng thành của bộ này đã được nghiên cứu từ lâu và rất
nhiều công trình đã được công bố cùng với các khóa phân loại đến loài. Nhưng ở
giai đoạn ấu trùng, chỉ có một số công trình nghiên cứu, tiêu biểu là của Merrit và
Cummins (1984), Morse, Yang và Tian (1994) đã đưa ra khóa định loại đến giống
của ấu trùng bộ Cánh vảy [52].
Ở châu Á, các nghiên cứu về Lepidoptera chủ yếu là về phân loại học trong
đó có các nghiên cứu của Rose & Pajni (1987), Habeck & Solis (1994) và Munroe
(1995). Trong các nghiên cứu này, các tác giả cũng đã thành lập khóa định loại cụ
thể tới loài [50].
1.2. Tình hình nghiên cứu côn trùng nƣớc ở Việt Nam
Vấn đề nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam đã được một số tác giả đề cập
đến, các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào vào lĩnh vực phân loại học đối
với các bộ côn trùng nước phổ biến, bên cạnh đó còn có các nghiên cứu về sử dụng

côn trùng nước làm sinh vật chỉ thị chất lượng môi trường nước. Dưới đây là một số
kết quả nghiên cứu chính về côn trùng nước ở Việt Nam cho đến giai đoạn hiện
nay.

18


Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)
Những nghiên cứu đầu tiên về Phù du ở Việt Nam được thực hiện vào đầu
thế kỉ XX với các nhà khoa học nước ngoài. Mở đầu là nghiên cứu của nhà côn
trùng học Lestage (1921, 1924), ông đã mô tả một loài mới của bộ Phù du cho khoa
học, dựa vào mẫu vật được lưu giữ ở bảo tàng Pari (mẫu vật thu được ở miền Bắc
Việt Nam). Tiếp đó, Navas (1922, 1925) đã công bố hai loài Ephemera longiventris
và Ephemera innotata, cũng dựa trên các mẫu vật thu được ở miền Bắc Việt Nam
[56].
ặng Ngọc Thanh (1980), xác định khu hệ Phù du ở Bắc Việt Nam bao gồm
54 loài, 29 giống thuộc 13 họ khác nhau. Tuy nhiên trong số này chỉ có 13 loài là
được định tên đầy đủ, số còn lại chỉ ở mức độ giống. Trong nghiên cứu này đã mô
tả hai loài cho khoa học đó là Thalerosphyrus vietnamensis Dang và Neopheieridae
cuaraoensis Dang [56].
Braasch and Soldan (1984, 1986, 1988) đã mô tả 10 loài mới thuộc họ
Heptageniidae cho khu hệ Phù du ở Việt Nam, có 2 giống mới là Asionurus và
Trichogeniella [56].
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khoá định loại các
nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã đưa ra
khoá định loại tới họ ấu trùng Phù du. Kết quả của công trình này là cơ sở khoa học
cho các nghiên cứu phân loại về Phù du cũng như việc sử dụng đối tượng này là
sinh vật chỉ thị cho các thuỷ vực nước ngọt ở Việt Nam [5].
Nguyễn Văn Vịnh (2003), đã xác định được 102 loài thuộc 50 giống và 14
họ Phù du ở Việt Nam. Trong đó, có 23 loài đã được biết đến trong các nghiên cứu

trước, 30 loài lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam, 37 loài mới cho khoa học và
12 loài dự đoán là loài mới cho Việt Nam. Trong nghiên cứu này, tác giả đã xây
dựng khóa định loại và mô tả đặc điểm hình dạng ngoài của các loài thuộc bộ Phù
du ở Việt Nam, nghiên cứu này là cơ sở để phục vụ cho các hướng nghiên cứu tiếp
theo về bộ Phù du ở nước ta [56].

19


Những nghiên cứu gần đây về bộ Phù du chủ yếu tập trung nghiên cứu đa
dạng thành phần loài của bộ này ở các Vườn Quốc gia (VQG). Cụ thể Nguyễn Văn
Vịnh (2004), khi nghiên cứu về Phù du ở VQG Tam

ảo đã xác định được 32 loài

thuộc 24 giống và 8 họ. Trong đó, có 10 loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ động
vật Việt Nam cũng như VQG Tam ảo, Vĩnh Phúc [9];
Nguyễn Văn Vịnh (2005), trong dẫn liệu bước đầu về Phù du ở VQG Ba Vì,
Hà Tây, đã xác định được 27 loài thuộc 22 giống và 9 họ, trong đó, có một loài mới
cho khoa học là Polyplocia orientalis [10];

ũng trong thời gian này, khi điều tra

thành phần loài Phù du ở một số suối tại Sapa, Lào Cai, tác giả cũng đã xác định
được 53 loài thuộc 31 giống và 11 họ. Kết quả đã công bố được 4 loài mới cho
khoa học dựa vào các mẫu chuẩn thu được tại Sapa, đó là: Isca fasica Nguyen and
Bae, 2003; Rhoenanthus sapa Nguyen and Bae, 2004; Afronurus meo, Nguyen and
Bae, 2003; Iron longintibius, Nguyen and Bae, 2004.

ồng thời, xác định được 10


loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ động vật của Việt Nam [11].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2007), trong kết quả bước đầu điều tra thành
phần loài Phù du tại VQG Bi Doup - Núi Bà, tỉnh Lâm

ồng, đã xác định được 48

loài thuộc 30 giống và 7 họ [54].
Nguyễn Văn Vịnh và Nguyễn Thị Minh Huệ (2008), trong nghiên cứu về
thành phần loài của bộ Phù du (Ephemeroptera) ở VQG Bạch Mã, Thừa Thiên
Huế, đã xác định được 56 loài thuộc 33 giống và 11 họ đồng thời các tác giả cũng
nhận xét về sự phân bố của bộ Phù du theo độ cao tại khu vực nghiên cứu [12].
So với nhiều bộ côn trùng nước khác, bộ Phù du ở Việt Nam đã được nghiên
cứu một cách có hệ thống với nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nước, đồng thời đây cũng là bộ có khóa định loại của ấu trùng tương đối hoàn
thiện.
Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)
Nhìn chung những nghiên cứu về khu hệ Chuồn chuồn ở Việt Nam còn tản
mạn và chưa thành hệ thống, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào giai đoạn trưởng
thành của Chuồn chuồn. Bộ Chuồn chuồn ở Việt Nam được nghiên cứu lần đầu tiên

20


vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX dưới thời Pháp thuộc bởi một số
nhà nghiên cứu người Pháp: Martin trong báo cáo được công bố năm 1902 khi điều
tra khu hệ động vật ông Dương. Trong báo cáo này, ông công bố 139 loài thuộc 3
họ: Libellulidae,

eshnidae và


grionidae. Trong 139 loài, Martin đã mô tả 9 loài

mới và một giống mới là Merogomphus [1].
Asahina - thuộc bảo tàng Tự nhiên Tokyo (Nhật Bản) là một trong những
người tiên phong nghiên cứu khu hệ Chuồn chuồn ở Việt Nam.

sahina (1996) đã

công bố 84 loài thuộc 12 họ Chuồn chuồn ở miền Nam Việt Nam. Trong tài liệu
này, tác giả đã công bố một loài mới: Chlogomphus vietnamensis Asahina, thuộc họ
Cordulegasteridae [4].
Karube (1999) đã công bố một loài mới trên tạp chí Odonatologica là
Planaeschna cucphuongensis thuộc họ Aeshidae. Mẫu vật của loài này được thu
thập ở VQG úc Phương, tỉnh Ninh Bình [4].
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khóa định loại các
nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã xây dựng
khóa định loại tới họ của bộ Chuồn chuồn [5].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001), trong nghiên cứu khu hệ côn trùng
nước ở VQG Tam ảo đã xác định được 26 loài thuộc 12 họ của bộ Chuồn chuồn ở
khu vực này. Tuy nhiên, do những nghiên cứu về phân loại thiếu trùng chuồn chuồn
ở Việt Nam còn ít. Do đó, những mẫu vật thu được mới chỉ phân loại đến bậc giống
[55].
ỗ Mạnh ương (2003) trong công trình nghiên cứu về khu hệ chuồn chuồn
ở Khu bảo tồn thiên nhiên Mã

à và VQG

át Tiên đã xác định được 55 loài


Chuồn chuồn thuộc 11 họ đồng thời tác giả cũng đã xây dựng được khóa định loại
tới họ của Chuồn chuồn tại khu vực nghiên cứu. Ngoài ra, trong công trình chưa có
mô tả chi tiết từng họ, loài [1]. Năm 2005, tác giả đã có một công trình phân loại
của loài Dvidius monastyrskii, họ Gomphidae, bộ phụ

nisoptera.

Chuồn chuồn mới được ghi nhận ở miền Bắc Việt Nam [4].

21

ây là một loài


ặng Quốc Quân (2008) trong nghiên cứu về đa dạng khu hệ Chuồn chuồn
tại VQG Tràm Chim, tỉnh

ồng Tháp đã xác định được 12 loài (thiếu trùng ) và 25

loài ( trưởng thành) chuồn chuồn, tác giả cũng đưa ra khóa định loại riêng cho cả
thiếu trùng và cả Chuồn chuồn trưởng thành đồng thời cung cấp những miêu tả
tương đối chi tiết về hình thái ngoài của chúng [4].
Nguyễn Thị Minh Huệ (2009) trong nghiên cứu khu hệ côn trùng nước VQG
Bạch Mã tỉnh Thừa Thiên Huế xác định được 15 loài thuộc 11 họ. ũng trong năm
đó, Nguyễn Văn Hiếu và cộng sự khi nghiên cứu đa dạng côn trùng nước tại VQG
Tam ảo đã xác định được 32 loài thuộc 12 họ tại khu vực này [2, 3].
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về phân loại học nghiên cứu về ứng
dụng của bộ Chuồn chuồn đã được đề cập đến trong nghiên cứu của

ặng Ngọc


Thanh và nhóm nghiên cứu (2002), nghiên cứu đã đưa ra những dữ liệu về ấu trùng
Chuồn chuồn dùng để dánh giá chất lượng môi trường nước.
Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)
Ở Việt Nam, những nghiên cứu và hiểu biết về bộ Cánh úp còn ít. Một vài
loài đã được mô tả bởi Kawai (1968, 1969), Zwick (1988), Stark và cộng sự
(1999)], nhưng tất cả các mẫu vật đều ở giai đoạn trưởng thành [17].
Nguyễn Văn Vịnh (2001) và cộng sự khi nghiên cứu về nhóm côn trùng
nước ở VQG Tam

ảo đã tiến hành định loại các loài thuộc bộ Cánh úp. Kết quả

cho thấy số loài Cánh úp ở VQG Tam ảo là 12 loài thuộc 3 họ [55].
Cao Thị Kim Thu (2002) đã công bố dẫn liệu mô tả 50 loài thuộc 22 giống, 4
họ ở Việt Nam dựa trên những đặc điểm của cả hai giai đoạn trưởng thành và ấu
trùng. Tác giả đã xây dựng khóa định loại cho cả côn trùng trưởng thành và thiếu
trùng Cánh úp ở Việt Nam đồng thời cung cấp những miêu tả chi tiết về hình thái
của thiếu trùng bộ Cánh úp. Công trình này là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu
sau này về bộ Cánh úp ở nước ta [17].
Cao Thị Kim Thu (2007) công bố hai loài mới thuộc họ Cánh úp lớn
(Perlidae) cho khu hệ Cánh úp Việt Nam là Agnetina den Cao & Bae, 2007 và
Chinoperla rhododendroma Cao & Bae, 2007 [19].

22

ến 2009, tác giả trong nghiên


cứu thành phần loài họ Perlidae thuộc bộ Cánh úp ở khu vực miền Trung Việt Nam
đã xác định được 22 loài thuộc 10 giống, trong đó có 4 loài mới là Neoperla

tamdao, Tyloperla trui, Acroneuria bachma, Chinoperla rhododendrona và 4 loài
lần đầu ghi nhận cho khu hệ Việt Nam. ũng trong năm này đã mô tả thêm hai loài
nữa thuộc giống Acroneuria (Perlidae) và 1 loài thuộc giống Phanoperla [7].
Stark và Sivec (2010) đã công bố một số loài mới cho khu hệ Cánh úp Việt
Nam với 7 loài được mô tả từ VQG Cát Tiên và VQG Yok

on, 8 loài được mô tả

ở hệ thống suối ở Sa pa, tỉnh Lào ai. ũng nhóm tác giả này đã phát hiện 2 mẫu
vật thuộc giống Neoperla có kích thước khác thường so với những loài đã thu được
trước đó tại Cao Bằng vào năm 2011 [71, 72, 74].
Từ các mẫu vật thu thập được và tham khảo các tài liệu đã công bố, Cao Thị
Kim Thu (2011) đã tổng hợp được danh lục gồm 70 loài Cánh úp lớn thuộc 13
giống ở Việt Nam. Do đó, hiện nay đã có 48 loài mới cho khoa học được mô tả từ
mẫu vật và có 55 loài mới chỉ thấy ở Việt Nam mà chưa ghi nhận ở một nơi nào
trên thế giới [8].
Gần đây nhất, Stark, Sivec và Shimizu (2012) đã ghi nhận 3 loài mới là
Rhopalopsole azun (Gia Lai), R. minima (Nghệ An) và R. sapa (Lào ai), đồng thời
cũng cung cấp một khóa phân loại tới loài của giống này tại Việt Nam [77]. Tuy
nhiên, các nghiên cứu mới đây chỉ dừng lại ở giai đoạn trưởng thành của bộ Cánh
úp.
Nghiên cứu về bộ cánh nửa (Hemiptera)
Những nghiên cứu về bộ Cánh nửa ở Việt Nam được biết đến đầu tiên là
vào khoảng đầu thế kỷ 20 và chủ yếu được tiến hành bởi các nhà khoa học nước
ngoài như Lansbury (1972, 1973), Nieser (2002, 2004), Polhemus và Polhemus
(1995, 1998)… Những loài thuộc họ Gerridae đầu tiên được miêu tả từ Việt Nam là
Ptilomera hylactor Breddin, 1903. Hai thập kỷ sau, China (1925) mô tả loài
Gigantometra gigas, là loài có kích thước lớn nhất thuộc họ Gerridae và là đặc hữu
của Việt Nam và đảo Hải Nam. Năm 1996, Zettel và hen đã có những dẫn liệu về
họ Gerridae ở Việt Nam, ghi nhận tổng cộng khoảng 40 loài. Năm 1997, Hecher


23


công bố 2 loài mới: Pseudovelia intonsa và P. pusilla, hiện chỉ tìm thấy ở Việt Nam
[81].
Tran (2008) đã đưa ra khóa định loại đến loài của họ Gerridae, ghi nhận
64 loài thuộc 26 giống [81]. Sau đó vào năm 2010, tác giả đã bổ sung thêm 3 loài
cho Việt Nam: Hydrometra albolineata Scott, 1874; H. jaczewskii Lundblad, 1933
và H. ripicola

ndersen, 1992, đồng thời cũng cập nhật dẫn liệu mới về phân bố

của 9 loài Hydrometra ở Việt Nam [80]. Những nghiên cứu này đã bổ sung danh
sách thành phần loài, mô tả các loài mới, cũng như xây dựng các khóa định loại đến
loài của các giống, góp phần làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo về bộ Cánh
nửa ở nước của Việt Nam. Năm 2011, tác giả đã cung cấp danh sách loài Cánh nửa
thuộc khu vực đô thị Hà Nội bao gồm 23 loài, 12 giống, 9 họ [82].

ây là nghiên

cứu đầu tiên cho khu hệ Cánh nửa tại Hà Nội.
Mới đây nhất, Tran và Polhemus (2012) đã bổ sung một loài Gerris mới từ
miền Nam Việt Nam đồng thời ghi nhận sự xuất hiện lần đầu tiên của hai loài G.
latiabdominis và G. gracilicornis từ khu vực phía tây bắc của đất nước. Trong đó
cũng đưa ra một khóa phân loại chi tiết cho 4 loài Gerris có mặt ở Việt Nam hiện
nay [84]. Cho tới nay, thành phần loài Côn trùng nước bộ Cánh nửa ở Việt Nam có
khoảng trên 170 loài, 18 họ [80, 81, 83, 84].
Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)
Ở Việt Nam, bộ


ánh lông được nghiên cứu từ rất sớm. Những tài liệu về

ánh lông đã được xuất bản bởi các nhà phân loại học đến từ các nước châu Âu
như:

ức (Ulmer, 1907), Tây Ban Nha (Navás, 1913). Những nghiên cứu đầu tiên

của Ulmer về 2 loài Hydromanicus buenningi và Paraphlegopteryx tonkinensis đã
đặt nền móng cho việc nghiên cứu về Cánh lông ở Việt Nam. Navás (1913, 1917,
1921, 1922, 1930, 1932, 1933) đã mô tả một số loài thuộc các tổng họ của
Hydropsychoidae,

Philopotamoidae

(Stenopsychidae),

Leptoceroidae,

Limnephiloidae và Rhyacophiloidae. Banks (1931) và Mosely (1934) nghiên cứu về
Hydropsychoidae, Limnephiloidae và Rhyacopphiloidae. Oláh (1987 - 1989) mô tả
các loài thuộc Glossosomatoidae, Hydroptiloidae và Rhyacophiloidae [23]. May

24


(1998) và Malicky (1994, 1995, 1998), mô tả các loài thuộc họ Hydropsychoidae,
Phiolopotamoidae,

Leptoceroidae,


Sericostomatoidae,

Limnephiloidae,

Glossosomatoidae, Hydroptiloidae và Rhyacopphiloidae từ các mẫu vật thu được ở
một số vùng của Việt Nam. Malicky và Mey (2001), mô tả 2 loài mới thuộc giống
Ceratopsyche ở miền Bắc Việt Nam. Schefter và Johanson (2001), mô tả 3 loài
thuộc giống Helicopsyche [27]. Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001) định loại
được 23 loài thuộc 16 họ của bộ Cánh lông ở VQG Tam

ảo khi nghiên cứu về

nhóm côn trùng nước tại khu vực này [55].
Hoàng

ức Huy (2005) trong nghiên cứu về khu hệ Cánh lông ở Việt Nam

đã xác định được 198 loài (14 loài mới cho Việt Nam và 25 loài mới được ghi nhận)
thuộc 58 giống và 24 họ. Trong nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra những mô tả chi
tiết đến hình thái của ấu trùng Cánh lông ở Việt Nam [27]. Công trình nghiên cứu
này là cơ sở khoa học cho những nghiên cứu sau này về bộ Cánh lông ở Việt Nam.
Hoàng

ức Huy và Bae Jae Yeon (2006) đã thực hiện nghiên cứu so sánh

mức độ đa dạng côn trùng nước giữa suối ắk Pri ở miền Nam Việt Nam với suối ở
miền Trung của Hàn Quốc, kết quả cho thấy bộ Cánh lông ở nước ta đa dạng hơn
nhiều về số lượng loài và họ [28].
Năm 2009, trong nghiên cứu về đa dạng côn trùng nước ở cácVQG một số

tác giả có đề cập tới thành phần loài Cánh lông tại đó như Hoàng

ức Huy và cộng

sự nghiên cứu ở VQG Bi Doup- Núi Bà tỉnh Lâm ồng, Nguyễn Văn Hiếu ở VQG
Tam ảo tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Thị Minh Huệ ở VQG Bạch Mã tỉnh Thừa Thiên
Huế [2, 3].
Olash và Johanson (2010) đã công bố 14 loài mới được công bố thuộc giống
Dipseudopsis, Hyalopsyche và Pseudoneureclipsis từ các mẫu vật thu được tại các
tỉnh thành của Việt Nam [64].
Nghiên cứu về các bộ Cánh cứng, bộ Hai cánh, bộ Cánh vảy và bộ Cánh
rộng
Ở nước ta, các công trình nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera), Hai
cánh (Diptera), bộ Cánh vảy (Lepidoptera) và bộ Cánh rộng (Megaloptera) còn tản

25


×