MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
BĐBP là lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng và Nhà nước, là lực lượng
nòng cốt chuyên trách bảo vệ chủ quyền an ninh BGQG. Để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ thiêng liêng đó, BĐBP phải vận dụng nhiều biện pháp trong đó, biện
pháp cơ bản quan trọng nhất là biện pháp VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ
quyền ANBG. BĐBP đã phát huy truyền thống vẻ vang của Đảng, dân tộc và Quân
đội, luôn coi nhiệm vụ VĐQC nhân dân tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền
BGQG là yêu cầu khách quan và cấp bách trong mọi giai đoạn của cách mạng.
Đối với mỗi quốc gia, dân tộc, chủ quyền biên giới là thiêng liêng, bất khả
xâm phạm. Sự bền vững, ổn định chủ quyền ANBG là điều kiện, tiền đề đảm bảo
cho sự ổn định về chính trị, quốc phòng, an ninh, tạo môi trường thuận lợi cho phát
triển kinh tế - xã hội và mở rộng bang giao. Do đó, việc quản lý, bảo vệ chủ quyền
ANBG là sự nghiệp trọng yếu của mỗi quốc gia, là nghĩa vụ và trách nhiệm của
toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã khẳng định chủ
quyền lãnh thổ quốc gia và coi việc bảo vệ nơi “phên dậu” của giang sơn đất nước
là bổn phận thiêng liêng của mọi thần dân đất Việt. Do đó, các thế hệ ông cha đã tổ
chức xây dựng các lực lượng dân binh và chăm lo tăng cường sức dân tại chỗ nơi
biên ải nhằm xây dựng thế trận toàn dân với lũy thép biên phòng lòng dân, coi đó
là thượng sách trong “phương lược” giữ gìn bờ cõi.
Biên giới phía Bắc là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị,
kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Phần lớn dân cư là đồng bào các dân tộc
thiểu số, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội còn rất khó khăn. Chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, kích động chia rẽ khối
đại đoàn kết toàn dân... Mặt khác, trong xu thế hòa bình, hữu nghị, mở cửa giao
lưu hội nhập quốc tế và khu vực, phát triển đất nước, lưu lượng người và phương
tiện ra vào qua lại biên giới ngày càng lớn. Ngoài ra, các hoạt động xuất nhập cảnh
trái phép, buôn lậu, mua bán tàng trữ, sử dụng ma túy, vũ khí, chất nổ, vận chuyển
lưu hành tiền giả, mua bán phụ nữ, trẻ em qua lại biên giới, cũng đang diễn ra rất
phức tạp, thường xuyên tạo ra những nhân tố gây mất ổn định an ninh và trật tự an
toàn xã hội ở khu vực biên giới.
Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ANBG, công tác VĐQC tham gia
quản lý, BVĐB, cột mốc của BĐBP trên tuyến biên giới phía Bắc có vị trí vai trò
hết sức quan trọng, là biện pháp cơ bản để tiến hành các biện pháp công tác biên
phòng khác trong quản lý, bảo vệ chủ quyền ANBG.
Trong những năm qua, BĐBP đã VĐQC nhân dân các dân tộc ở khu vực
biên giới phía Bắc tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc và thu được những kết quả
quan trọng góp phần xây dựng phòng tuyến nhân dân bảo vệ BGQG. Tuy nhiên,
hiệu quả công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc của BĐBP các tỉnh
biên giới phía Bắc còn những hạn chế nhất định. Vì vậy, việc nghiên cứu lý luận
và thực tiễn, đề xuất những giải pháp để tiến hành công tác VĐQC tham gia và tự
quản lý, BVĐB, cột mốc của BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc hiện nay có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác dân vận của QĐND Việt Nam nói chung và công tác VĐQC tham
gia bảo vệ chủ quyền an ninh BGQG của BĐBP nói riêng luôn là vấn đề lớn được
các nhà khoa học trong và ngoài quân đội nghiên cứu. Nhiều công trình nghiên cứu
đã có những đóng góp to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
“Công tác VĐQC công giáo tham gia bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biển
- đảo của BĐBP tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong tình hình mới”, đề tài cấp cơ sở
BĐBP do Đại tá Nguyễn Minh Mẫn, Chỉ huy trưởng BĐBP Bà Rịa - Vũng Tàu
làm chủ nhiệm, 2001.
“BĐBP với công tác đấu tranh phòng, chống truyền đạo trái phép và di cư
tự do ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số khu vực biên giới Tây Bắc, Tây Nguyên”,
đề tài cấp Tổng cục Chính trị do tiến sĩ Đặng Vũ Liêm làm chủ nhiệm, 2002.
“Nâng cao chất lượng công tác VĐQC của BĐBP tỉnh Lào Cai hiện nay”,
đề tài cấp Khoa thuộc Học viện Chính trị quân sự do thạc sĩ Phạm Văn Đáng làm
chủ nhiệm, 2000.
Những công trình khoa học trên đã nghiên cứu ở nhiều nội dung, góc độ
khác nhau về công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh BGQG
của BĐBP. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống công
tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc của BĐBP các tỉnh biên giới phía
Bắc. Đây là khoảng trống cần được nghiên cứu và làm sáng tỏ.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Mục đích: Nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận, thực tiễn về công tác VĐQC
tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu
phát huy vai trò quần chúng tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc của BĐBP các tỉnh
biên giới phía Bắc.
* Nhiệm vụ:
+ Luận giải làm rõ khái niệm, vai trò, nội dung, hình thức, biện pháp, những
vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc
của BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc.
+ Đánh giá đúng thực trạng, rút ra nguyên nhân và những kinh nghiệm công
tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc của BĐBP các tỉnh biên giới phía
Bắc.
+ Xác định phương hướng, yêu cầu, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm
tiến hành công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc của BĐBP các tỉnh
biên giới phía Bắc.
* Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
+ Đối tượng nghiên cứu: công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc
của BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc.
+ Phạm vi nghiên cứu: công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc
của đồn biên phòng các tỉnh biên giới phía Bắc từ năm 1998 đến tháng 6 năm
2004.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của luận văn:
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở hệ thống quan điểm của chủ nghĩa
Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các
nghị quyết, chỉ thị của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục
Chính trị, Bộ Tư lệnh BĐBP về lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận của lực lượng
vũ trang nói chung và đối với công tác VĐQC tham gia bảo vệ chủ quyền ANBG
của BĐBP nói riêng, kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình
khoa học có liên quan trực tiếp đến nội dung luận văn.
* Cơ sở thực tiễn của luận văn:
Thực tiễn, các báo cáo sơ kết, tổng kết và kết quả điều tra khảo sát thực tế về
công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc của BĐBP các tỉnh biên giới
phía Bắc.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp lôgic - lịch sử, phương pháp
điều tra xã hội học, phương pháp sử dụng chuyên gia, phương pháp so sánh, tổng
hợp, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ cung cấp thêm những cơ sở khoa học
giúp cấp ủy, người chỉ huy BĐBP các cấp ở các tỉnh biên giới phía Bắc làm tốt
công tác lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác VĐQC tham gia quản lý,
BVĐB, cột mốc biên giới.
Kết quả nghiên cứu luận văn được sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên
cứu ở các đơn vị cơ sở và giảng dạy trong các nhà trường của BĐBP.
6. Kết cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC VẬN
ĐỘNG QUẦN CHÚNG THAM GIA QUẢN LÝ, BẢO VỆ ĐƯỜNG BIÊN,
CỘT MỐC CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Nhiệm vụ quản lý, bảo vệ đường biên, cột mốc và những vấn đề
cơ bản trong công tác vận động quần chúng tham gia quản lý, bảo vệ đường
biên, cột mốc của bộ đội biên phòng các tỉnh biên giới phía Bắc
1.1.1. Nhiệm vụ quản lý, bảo vệ đường biên, cột mốc ở các tỉnh biên giới
phía Bắc của bộ đội biên phòng
* Quan niệm đường BGQG và cột mốc biên giới:
BGQG: trong Điều 1, Luật BGQG xác định: “BGQG của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định
giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo, trong đó có quần đảo Hoàng Sa
và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”[5, 27].
- Đường BGQG: được quan niệm là “Đường phân chia lãnh thổ trên
mặt đất, mặt nước giữa quốc gia này với quốc gia khác hoặc biển công. Đường
BGQG bao gồm: đường BGQG trên đất liền, trên biển, đường BGQG trên sông hồ.
Đường BGQG được xác định trên thực địa, được đánh dấu, cố định bằng các mốc
quốc giới, vẽ trên bản đồ và ghi rõ trong các điều ước biên giới”[5, 82].
Hiện nay, theo thông lệ và luật pháp quốc tế đương đại về quan điểm:
“BGQG là bất khả xâm phạm”. “Biên giới là phải do ý chí của dân cư quyết định...
Thôn tính là vi phạm quyền tự quyết của một dân tộc, là kiến lập BGQG trái với ý
muốn của nhân dân”[22, 254].
Luật pháp quốc tế thừa nhận nguyên tắc bình đẳng các quốc gia trên cơ sở:
không chiếm đoạt lãnh thổ nước khác bằng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực. Tôn
trọng tính bất khả xâm phạm của các đường BGQG. Không sử dụng lãnh thổ nước
khác khi không có sự đồng ý của nước đó. Không gây thiệt hại cho nước khác khi
sử dụng lãnh thổ của nước mình.
Mốc quốc giới: “Vật thể nhân tạo được đặt cố định ở một điểm do hiệp
ước hoạch định biên giới đã ký kết giữa hai hay ba nước quy định dùng để đánh
dấu vị trí hoặc hướng đi của đường BGQG đi qua và làm dấu hiệu cho mọi người
nhận biết được. Mốc quốc giới có: mốc chính, mốc phụ, mốc đoạn, mốc cụm, mốc
đơn, mốc đôi, mốc một mặt, mốc hai mặt, mốc ba mặt. Trên đất liền, mốc quốc
giới thường được làm bằng bê tông cốt thép, đá hoặc bằng các vật liệu bền vững
khác, có hình dáng, kích thước và màu sắc nhất định (hình lăng trụ đứng, đáy tứ
giác hoặc tam giác), trên các mặt có chữ viết, ký hiệu của các nước có chung
đường biên giới. Trên mặt nước (biển, sông, suối, hồ), mốc quốc giới thường là các
phao tiêu phù hợp. Quy cách, tính chất, chất liệu, ký hiệu mốc quốc giới do các
nước tiếp giáp thống nhất quy định. Tài liệu về mốc quốc giới được thành lập
thành hồ sơ lưu trữ ở các cơ quan nhà nước có chức năng của cơ quan quốc gia có
chung đường biên giới (bao gồm: nghị định thư về biên giới, biên bản cắm mốc
bản đồ, ảnh, thuyết minh cho mỗi nước)”[5, 135].
Cắm mốc, đây là quá trình cuối cùng của quá trình tiến hành phân giới thực
địa, sau khi các bên hữu quan thỏa thuận và hoàn chỉnh các công việc ở giai đoạn
phân giới thực địa. Sau khi hoàn thành ủy ban sẽ lập bản đồ về biên giới được phân
định và cắm mốc. Bản đồ này sẽ đi kèm với nghị định thư về phân giới thực địa và
cắm mốc để các quốc gia hữu quan có chung đường biên giới ký kết.
Lịch sử biên giới Việt Nam - Trung Quốc từ thời kỳ các Vua Hùng dựng
nước đến năm 1886, biên giới nước ta với Trung Quốc chưa hoạch định rõ ràng
bằng phân giới cắm mốc, biên giới hai nước lúc bấy giờ chỉ là quy thuộc đất mà
mang tính tương đối. Phải đến cuối thế kỷ XIX, dưới sự thống trị của thực dân
Pháp đã phân định đường biên giới, mốc quốc giới phù hợp với Công pháp ký
ngày 26/6/1887 về hoạch định việc cắm mốc ở đoạn biên giới từ Sông Hồng đến
nơi mà sau này được coi là ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Trung Quốc. Việc
hoàn thành cắm mốc đoạn Lai Châu đánh dấu việc hoàn thành công tác phân giới
và cắm mốc trên thực địa đường biên giới Việt Nam- Trung Quốc theo hai Công
ước 1887 và 1895. Tổng cộng đã cắm được 314 cột mốc. Từ đây giữa hai nước
Việt Nam - Trung Quốc đã có một đường biên giới pháp lý mang tính quốc tế.
Nhưng về lợi ích thống trị của thực dân Pháp, sự tác động của thiên nhiên,
con người hàng trăm năm và qua chiến tranh với những biến đổi qua nhiều thời kỳ
khác nhau, biên giới phía Bắc còn tồn tại nhiều vấn đề do lịch sử để lại liên quan
tới nước láng giềng chưa được đàm phán giải quyết dứt điểm, còn nhiều nơi trên
biên giới chưa được phân định dứt khoát và chính thức. Năm 1999, Hiệp ước biên
giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc được hai nhà nước ký kết, nhưng quá trình
hoạch định phân giới cắm mốc còn gặp nhiều khó khăn. Trên thực tế, từ khi hiệp
ước được ký kết đến nay, các hoạt động, lấn chiếm, xâm canh vi phạm chủ quyền
lãnh thổ của nước ta vẫn rất phức tạp, có nơi có lúc căng thẳng và quyết liệt, nhất
là các khu vực điểm tranh chấp và những nơi chưa được phân định cụ thể.
* Nhiệm vụ quản lý, BVĐB, cột mốc biên giới phía Bắc
Tổ tiên ta từ xưa đã xác định biên giới là “phên dậu”, bờ cõi, tiền tiêu của Tổ
quốc, là nơi địa đầu, hiểm yếu, có quan hệ đến lịch sử mấy ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Vì vậy, BGQG là thiêng liêng bất khả xâm phạm, có vị trí
trọng yếu về chiến lược chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Việc
“quản lý, bảo vệ BGQG, tổ chức, điều khiển hoạt động của các lực lượng đứng
chân trên khu vực biên giới BĐBP làm nòng cốt nhằm giữ gìn, bảo vệ và chống lại
mọi sự xâm phạm chủ quyền ANBG. Quản lý, bảo vệ BGQG phải kết hợp chặt chẽ
giữa quốc phòng, an ninh, kinh tế và đối ngoại, dựa trên thế trận quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân. Nội dung gồm: quản lý, bảo vệ chủ
quyền biên giới đất liền, trên biển, trên không và trong lòng đất, quản lý, bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên khu vực biên giới, quản lý, bảo vệ tài
nguyên môi trường và lợi ích quốc gia trên khu vực biên giới và vùng biển quốc
gia, quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng trên khu vực biên giới, các công trình
bảo vệ biên giới, quản lý, bảo vệ việc thực thi pháp luật, quy chế biên giới và các
điều ước quốc tế về biên giới, quản lý xuất nhập biên, xuất - nhập cảnh, quá cảnh
tại các cửa khẩu biên giới và cảng biển, quản lý hoạt động đối ngoại biên
phòng”[5, 162].
Với BĐBP, việc quản lý, BVĐB, mốc quốc giới đã được xác định là:
“Duy trì, giữ gìn đường biên giới, mốc quốc giới bảo đảm sự bất khả xâm phạm.
Giữ gìn các cột mốc quốc giới, các dấu hiệu và các công trình đánh dấu đường biên
giới, không bị xê dịch, hư hỏng mất mát. BVĐB, mốc quốc giới phải được thực
hiện theo đúng pháp luật của Nhà nước và các điều ước quốc tế về biên giới đã ký
kết, BVĐB, mốc quốc giới của Việt Nam là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, các ban ngành trong đó BĐBP là lực lượng chuyên trách và làm nòng
cốt”[5, 17].
Bước vào thời kỳ mới, quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh BGQG không
những là nhiệm vụ tiếp tục hoàn thành việc giành và bảo vệ chủ quyền, độc lập
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn quan hệ đến an nguy, xây dựng
và phát triển đất nước cả trước mắt cũng như lâu dài trong bối cảnh tình hình quốc
tế đang diễn ra phức tạp, khó lường. Từ đó đặt ra yêu cầu Đảng và Nhà nước cần
có nghị quyết toàn diện về lý luận, đường lối chủ trương, chính sách về xây dựng
và quản lý, bảo vệ BGQG lâu dài để làm cơ sở thống nhất nhận thức và hành động
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân và hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ
này.
Sự nghiệp bảo vệ BGQG là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân, của
các ngành, các cấp của Nhà nước và đoàn thể xã hội, với chức năng, nhiệm vụ của
BĐBP, Nghị quyết 11/NQ-TW của Bộ Chính trị về xây dựng BĐBP trong tình
hình mới đã chỉ rõ: “Bộ đội biên phòng là một lực lượng vũ trang cách mạng của
Đảng và Nhà nước, là một thành phần của QĐND Việt Nam làm nòng cốt chuyên
trách quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh BGQG theo nhiệm vụ quyền hạn được
giao, đồng thời là một lực lượng thành viên của khu vực phòng thủ tỉnh huyện biên
giới”. Nghị quyết còn khẳng định: “Nhiệm vụ biên phòng rất toàn diện và phức
tạp, bao gồm bảo vệ biên giới trên bộ, trên biển đảo, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước, bảo vệ an ninh trật tự xã hội, chống vượt biên trái phép,
chống buôn lậu qua biên giới, bảo vệ tài nguyên môi trường và lợi ích quốc gia,
xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, thân thiện với các nước láng giềng,
phục vụ mở cửa giao lưu hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực”[7, 1].
* Tính chất hoạt động và yêu cầu nhiệm vụ của BĐBP:
Để BĐBP thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền
ANBG cần tiến hành đồng bộ 6 biện pháp công tác, đó là biện pháp VĐQC, biện
pháp vũ trang, biện pháp trinh sát biên phòng, biện pháp kiểm soát hành chính,
biện pháp công trình kỹ thuật và biện pháp đối ngoại biên phòng.
Tính chất hoạt động hết sức phức tạp, đối tượng đấu tranh của BĐBP gồm
nhiều loại: bọn gián điệp, tình báo, biệt kích, phản động, lưu vong cấu kết với lực
lượng phản động tại chỗ, các toán vũ trang từ bên kia biên giới, một số tội phạm
hình sự... Đòi hỏi BĐBP không chỉ thành thạo nghề nghiệp, tinh thông nghiệp vụ
mà cần phải có trình độ hiểu biết xã hội sâu, rộng, sự kiên trì bền bỉ, sức cảm hóa
đối tượng, phẩm chất đạo đức trong sáng, lòng nhiệt tình và luôn coi đồng bào các
dân tộc là anh em ruột thịt.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Đại hội đại
biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ VII đặt ra yêu cầu nhiệm vụ biên phòng là: trên cơ
sở xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh, phát huy sức mạnh tổng hợp của
toàn dân, của cả nước để tăng cường quản lý bảo vệ vững chắc chủ quyền toàn vẹn
lãnh thổ, tài nguyên môi trường, lợi ích quốc gia, đẩy mạnh đấu tranh chống các
lực lượng thù địch, các bọn tội phạm từ bên ngoài về và trong nước, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng biên giới, đảm bảo chủ động trong mọi
tình huống. Đồng thời chấp hành đúng đắn chính sách đối ngoại của Đảng, ra sức
xây dựng củng cố biên giới hòa bình hữu nghị, thân thiện với nước láng giềng,
đàm phán hòa bình để xác lập chủ quyền quốc gia, giải quyết các vấn đề tồn tại
hoặc mới phát sinh trong quan hệ biên giới với nước láng giềng.
Tiếp tục đổi mới công tác quản lý, BVĐB, cột mốc biên giới vừa bảo vệ chủ
quyền an ninh quốc gia, vừa phục vụ tốt chính sách mở rộng, giao lưu hợp tác quốc
tế trên các lĩnh vực của Đảng và Nhà nước.
* Những đặc điểm chi phối công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột
mốc biên giới phía Bắc.
-
Về địa lý tự nhiên:
Biên giới phía Bắc là một trong những địa bàn chiến lược quan trọng về
chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng của Việt Nam và cả khu vực. Về mặt địa lý
tự nhiên, đường biên giới phía Bắc dài 1463 km, 314 mốc chính, 71 mốc phụ, tiếp
giáp với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, một quốc gia láng giềng có lịch sử,
văn hóa lâu đời, thời phong kiến đã từng đô hộ Việt Nam nhiều thế kỷ, đã ủng hộ
to lớn về vật chất, tinh thần cho cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của nhân
dân ta và cũng đã từng gây ra chiến tranh biên giới tháng 02/1979. Hiện nay đã
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, do đó đường biên giới này được hình
thành từ lâu đời, có nhiều vấn đề phức tạp do lịch sử, tự nhiên để lại và cả những
vấn đề mới do phía bên kia gây ra.
Tuyến biên giới phía Bắc có địa hình rừng núi cao, hiểm trở, rừng rậm,
nhiều sông suối, nhiều thác ghềnh, đường sá nhỏ hẹp, nhiều nơi chưa có đường dân
sinh, vận chuyển chủ yếu theo các đường mòn, vào mùa mưa nhiều xã, bản giao
thông bị ách tắc. Đây là trở ngại lớn nhất trong việc phát triển kinh tế xã hội cũng
như trong các hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới hiện tại và tương lai.
- Về văn hóa xã hội:
Do điều kiện địa lý và lịch sử, các dân tộc thiểu số ở khu vực biên giới phía
Bắc hiện nay còn nhiều khó khăn về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Có 161 xã
biên giới thuộc các tỉnh: Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Lào Cai,
Lai Châu và Điện Biên với 21 dân tộc anh em sinh sống như dân tộc H.Mông, Dao,
Tày, La Chí, Phù Lá... Trong đó dân tộc Nùng chiếm 23% (17.793 hộ; 92.450
khẩu), dân tộc H.Mông chiếm 20% (14.510 hộ, 80.598 khẩu), dân tộc Tày chiếm
19% (14.927 hộ, 76.308 khẩu). Đồng bào các dân tộc thiểu số ở phía Bắc từ xưa
đến nay luôn có truyền thống yêu nước, từ ngày có Đảng, đồng bào một lòng theo
Đảng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc ngày càng được củng cố và phát huy, đồng
bào các dân tộc luôn gắn bó và ủng hộ BĐBP, có nhiều kinh nghiệm trong việc
phối hợp với BĐBP quản lý, bảo vệ chủ quyền ANBG.
Đồng bào các dân tộc ở vùng biên giới phía Bắc sinh sống ở môi trường
rừng núi và canh tác nương rẫy là chính, có những tín ngưỡng, lễ nghi liên quan tới
việc làm rẫy, cúng ma... Chính cơ sở kinh tế nương rẫy đã quy định toàn bộ đời
sống xã hội và văn hóa của các dân tộc. Mật độ dân cư thưa, là nơi cư trú của nhiều
dân tộc bản địa, sống lâu đời như Tày, Nùng, H.Mông, Dao... Các dân tộc sống xen
kẽ nhau, mỗi dân tộc có tiếng nói và phong tục tập quán riêng, họ đều có đức tính
trung thực, thẳng thắn, thật thà, dễ tin, cần cù trong cuộc sống, dũng cảm trong tự
vệ nhưng hay định kiến, dễ mặc cảm, vai trò của già làng, trưởng họ, trưởng bản có
vị trí quan trọng là những người có uy tín, luôn được đồng bào tin cậy, nghe theo...
Địa bàn biên giới phía Bắc là vùng đất giàu truyền thống cách mạng tin theo Đảng,
theo cách mạng đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhân dân các dân tộc có lòng yêu
nước, kiên trung, có tinh thần đoàn kết tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng đã đóng góp to lớn sức người trong đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh
bảo vệ biên giới, có truyền thống và kinh nghiệm trong đấu tranh bảo vệ biên giới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân các dân tộc luôn tích cực, sát cánh cùng
BĐBP đấu tranh có hiệu quả bảo vệ chủ quyền an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội ở khu vực biên giới. Hiện nay, nhân dân các dân tộc biên giới tiếp tục khẳng
định vai trò to lớn của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ biên giới.
- Về mặt kinh tế - xã hội:
Khu vực biên giới các tỉnh phía Bắc là một trong những khu vực có tiềm
năng kinh tế dồi dào nhưng chưa được đầu tư khai thác đúng mức, vì vậy trình độ
phát triển kinh tế - xã hội vẫn ở mức thấp, đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân còn rất khó khăn. Theo số liệu thống kê năm 2003, trên 26 xã biên giới phía
Bắc có 7.226 hộ thường xuyên thiếu ăn từ 3 đến 6 tháng trong một năm, 18.491 hộ
thuộc diện hộ nghèo đói, hiện nay mới có 151/161 xã có đường ô tô đến xã, 70/161
xã có điện lưới quốc gia. Trẻ em trong độ tuổi đến trường bị thất học còn nhiều,
hiện tượng mù chữ, tái mù chữ giảm không đáng kể (hiện đang có 14.341 người
tuổi từ 15 đến 35 tuổi mù chữ và tái mù chữ, 11.010 trẻ em bị thất học). Cơ sở y tế,
giáo dục, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, các tệ nạn nghiện hút, cờ bạc, các hủ tục lạc
hậu, mê tín còn diễn biến phức tạp. Địa bàn biên giới phía Bắc đang đặt ra nhiều
vấn đề cần được giải quyết. Do tập quán canh tác nương rẫy, không áp dụng các
biện pháp thâm canh nên năng suất thấp dẫn đến nạn du canh du cư kéo theo là nạn
phá rừng làm nương rẫy, làm mất cân bằng sinh thái. Đây là một nguyên nhân
quan trọng tạo nên làn sóng hàng vạn người dân đã di cư về phía tây vào vùng giáp
biên giới một cách ồ ạt trong những năm gần đây.
- Về cơ sở chính trị:
Theo báo cáo của phòng VĐQC, Cục Chính trị BTL – BĐBP hiện nay có
161 đảng bộ, 744 chi bộ, 1.120 đảng viên là nữ, 7.756 đảng viên là nam, các xã
biên giới các tỉnh phía Bắc đều có đảng bộ. Đây là điểm quan trọng rất thuận lợi
đối với công tác VĐQC xây dựng cơ sở chính trị ở khu vực biên giới, nơi đại đa số
là đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Qua phân loại phong trào bảo vệ chủ
quyền ANBG hàng năm số xã khá và vững mạnh tăng lên, theo kết quả phân loại,
đến nay, chất lượng phong trào bảo vệ chủ quyền ANBG của các xã biên giới phía
Bắc không còn xã yếu kém (cụ thể: vững mạnh 50; khá 104; trung bình 7).
Tổ chức công an, dân quân xã hàng năm được huấn luyện theo chương trình
quy định (có: 2.051 công an xã bản; 10.144 dân quân). Lực lượng công an và dân
quân cơ sở thường xuyên phối hợp với BĐBP tuần tra bảo vệ biên giới và giữ gìn
an ninh chính trị, trật tự xã hội ở khu vực biên giới. Tuy nhiên, tổ chức cơ sở đảng,
chính quyền địa phương ở một số xã chưa thực sự vững mạnh, năng lực lãnh đạo
còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ, đảng viên trình độ văn hóa thấp, kinh tế gia đình
còn khó khăn nên trong lãnh đạo, tổ chức quần chúng thực hiện các chương trình
phát triển kinh tế, quản lý xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh chưa đạt được hiệu
quả cao.
- Về an ninh chính trị:
Khu vực biên giới phía Bắc là môi trường rất nhạy cảm về chính trị, biến
động nhanh chóng khó lường. Vì BGQG vốn đã tồn tại những vấn đề lịch sử, vốn
đã có những khó khăn, phức tạp, nhưng còn bị tác động, nhất là biến động chính trị
- xã hội, chính sách đối ngoại của nước láng giềng đối với nước ta. BGQG còn là
cửa ngõ của đất nước, có địa hình tự nhiên hiểm trở, các loại đối tượng dễ xâm
nhập, ẩn nấp. Nên các thế lực phản động coi trọng các phương thức xâm nhập, cài
cắm, hoạt động tình báo, gián điệp, tiến hành điều tra, thu thập các bí mật quốc gia,
xây dựng phát triển cơ sở, nhen nhóm các tổ chức phản động, lôi kéo tranh thủ
quần chúng của ta, thực hiện “Diễn biến hòa bình”, nhằm làm mất ổn định ANBG,
chống phá cách mạng nước ta.
Các thế lực thù địch hết sức lợi dụng bọn phản động trong các dân tộc thiểu
số, để lôi kéo quần chúng gây mất ổn định khu vực biên giới. Một số đối tượng
nước ngoài lợi dụng hoạt động từ thiện, nhân đạo đã xâm nhập vùng sâu, vùng xa
ở khu vực biên giới để nắm và lôi kéo đồng bào các dân tộc thiểu số, xây dựng cơ
sở xã hội. Chúng triệt để lợi dụng đặc điểm vùng dân tộc thiểu số dân trí thấp,
thông tin kém phát triển để khai thác những vấn đề lịch sử, những khó khăn hiện
nay, nhất là những sơ hở thiếu sót của ta trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn
giáo. Chúng ra sức kích động, dụ dỗ, lôi kéo những phần tử thoái hóa biến chất
trong cán bộ, đảng viên để tập hợp lực lượng, khi có thời cơ là nổi dậy gây rối tiến
tới gây bạo loạn, lật đổ chính quyền nhân dân. Trong những năm qua, BĐBP phối
hợp với quần chúng tham gia đấu tranh chống tội phạm tuyến biên giới phía Bắc
cụ thể: 763 vụ, 6.978 đối tượng vi phạm quy chế; 137 vụ, 1.947 đối tượng đẩy
người về qua biên giới và 327 vụ, 672 đối tượng tội phạm khác.
- Tình hình BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc:
Lực lượng BĐBP đã được Bộ Chính trị khóa VII chỉ rõ: “Bộ đội biên phòng
được sự chỉ huy thống nhất từ Trung ương đến đơn vị cơ sở, trực thuộc sự chỉ huy
và quản lý toàn diện của Bộ Quốc phòng”[7, 4]. Hệ thống tổ chức đó gồm: Bộ Tư
lệnh BĐBP, Bộ Chỉ huy biên phòng tỉnh (thành phố) và các đồn biên phòng. Đảng
ủy, Bộ Chỉ huy biên phòng tỉnh vừa chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ Tư
lệnh BĐBP, vừa chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy (Thành ủy). Đồn biên
phòng là đơn vị cơ sở của BĐBP, là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp
trên về nhiệm vụ công tác biên phòng. Tham gia các chương trình phát triển kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.
Xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của BĐBP, các đồn biên phòng có quân
số, trang bị, biên chế tổ chức theo quy định của QĐND Việt Nam, có sự lãnh đạo,
chỉ huy chặt chẽ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Trong hệ thống tổ chức của
BĐBP, lực lượng chuyên trách làm công tác VĐQC cũng được bố trí theo hệ thống
dọc; ở Bộ Tư lệnh BĐBP có Phòng VĐQC; ở Bộ Chỉ huy biên phòng tỉnh (thành
phố) có Ban VĐQC và các đồn biên phòng có Đội VĐQC, biên chế sĩ quan chỉ
huy làm đội trưởng, đội phó, số còn lại chủ yếu là quân nhân chuyên nghiệp và
chiến sĩ. Quân số Đội VĐQC biên chế từ 7 đến 9 đồng chí.
Trên tuyến biên giới phía Bắc, có những đồn biên phòng thành lập từ năm
1957 đến nay đều được mang địa danh địa phương đã ăn sâu vào tiềm thức, tình
cảm của mỗi người dân biên giới. Tuy được bố trí ở những vị trí thuận lợi cho công
tác quản lý biên giới, song hầu hết các đồn biên phòng ở địa bàn xa sự chỉ huy, chỉ
đạo của Bộ Chỉ huy biên phòng tỉnh, do đó mang tính độc lập tác chiến cao. Với
biên chế, trang bị còn hạn chế song phải đảm nhiệm trên một địa bàn rộng, một số
đồn phụ trách từ 3 đến 5 xã biên giới với chính diện 25 đến 45 km đường biên giới,
5 đến 7 cột mốc chính và phụ. Từ đặc điểm trên cho thấy hoạt động quản lý,
BVĐB, cột mốc trên tuyến biên giới phía Bắc còn gặp nhiều khó khăn, do đó chỉ
có dựa vào dân, làm tốt công tác VĐQC thì BĐBP mới hoàn thành nhiệm vụ của
mình.
Trong công cuộc đổi mới, được Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư nên đời
sống của đồng bào các dân tộc từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, một bộ phận
nhân dân ở các khu vực giáp biên giới đời sống còn gặp nhiều khó khăn, dân cư
thưa thớt, hầu hết nhân dân các xóm giáp biên giới đều có quan hệ dòng họ, có
chung tiếng nói, tập quán, lễ hội, thờ cúng tổ tiên với nhân dân nước đối diện, do
vậy thường qua lại thăm thân, trao đổi mua bán hàng hóa, dự các lễ hội... Gây khó
khăn cho công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền ANBG. Ngoài ra đồng bào các dân
tộc sinh sống thành từng khu vực tương đối rõ nét, số lượng các thành phần dân tộc
không đều nhau, gây khó khăn cho BĐBP trong tuyên truyền, vận động giáo dục
thuyết phục và giúp đỡ đồng bào cùng tham gia quản lý, bảo vệ BGQG.
Từ những đặc điểm trên đã tạo nên những nhân tố khách quan thuận lợi và
khó khăn đặt ra cho công tác VĐQC của BĐBP trên tuyến biên giới phía Bắc cần
phải đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác VĐQC tham gia quản lý,
BVĐB, cột mốc biên giới. Biết vận dụng linh hoạt nội dung, hình thức, biện pháp
tiến hành công tác VĐQC, chăm lo xây dựng củng cố đội ngũ chuyên trách công
tác VĐQC ở các đồn biên phòng đảm bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ và: “Mỗi cấp ủy chỉ huy các cấp trong BĐBP phải nhận thức sâu sắc
hơn vị trí, yêu cầu công tác VĐQC trong tình hình mới... Tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp ủy, chỉ huy đối với công tác VĐQC” [6, 12].
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về công tác vận động quần chúng tham gia
quản lý, bảo vệ đường biên, cột mốc của bộ đội biên phòng phía Bắc
* Công tác VĐQC của BĐBP:
Công tác VĐQC là một trong những công tác cơ bản, gắn liền với từng bước
trưởng thành của BĐBP. Một trong những truyền thống tốt đẹp tạo nên sức mạnh
của BĐBP là mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân các dân tộc ở khu vực biên
giới.
Nhân ngày thành lập lực lượng CANDVT (nay là BĐBP) (3.3.1959), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đến dự và chỉ thị: “Một vạn công an chỉ có hai vạn tai, hai
vạn mắt, hai vạn tay chân, nhưng nhân dân có hàng triệu tai, hàng triệu mắt, hàng
triệu tay chân. Cho nên chúng ta phải dựa vào dân để hoạt động”[30, 404].
Tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh ở đây là dân yên thì biên phòng mới vững,
biên phòng muốn vững phải yên dân, đó là kế sách dựa vào nhân dân để bảo vệ
biên giới, đó là quan điểm biên phòng toàn dân - quan điểm cơ bản về công tác
biên phòng. Tư tưởng của Người là điểm hội tụ của chủ nghĩa Mác Lênin về sức
mạnh, vai trò lịch sử của quần chúng nhân dân và đạo lý truyền thống của cha ông
ta luôn dựa vào nhân dân các vùng biên ải, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu
số để giữ gìn biên cương, bờ cõi.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến
hòa bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta. Đối với khu vực biên
giới chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, lợi dụng khó khăn của đồng bào các
dân tộc về đời sống kinh tế, văn hóa thấp kém để lôi kéo, kích động quần chúng
chia rẽ đồng bào thiểu số gây mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Trước tình hình
đó, Bộ Chính trị đã giao nhiệm vụ cho BĐBP: “Liên hệ chặt chẽ với quần chúng,
dựa vào quần chúng để thực hiện nhiệm vụ, đồng thời tuyên truyền vận động nhân
dân vùng biên giới, tăng cường đoàn kết dân tộc, thực hiện các chủ trương và
chương trình kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước tích cực xây dựng cơ sở chính
trị, xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh
gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân trên vùng biên
giới”[7, 3].
Sức mạnh của đồng bào các dân tộc ở vùng biên giới là rất to lớn. Nhưng
sức mạnh đó chỉ được phát huy khi họ được giác ngộ và được tổ chức lại. Ngay từ
những ngày đầu dựng đồn, lập trạm, nhiều cán bộ, chiến sĩ biên phòng đã lặn lội
trèo đèo, lội suối đi tìm từng gia đình, đưa đồng bào về định canh, định cư, lập bản
làng để từng bước hình thành lũy thép biên phòng nhân dân.
Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và giữ gìn ANBG của BĐBP rất nặng
nề, có thể ví như người lính xung kích, tiên phong trên tuyến đầu chống giặc ngoại
xâm, bảo vệ an ninh an toàn cho Tổ quốc. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình,
BĐBP phải biết liên hệ mật thiết với nhân dân vùng biên, coi công tác tuyên truyền
VĐQC là nhiệm vụ thường xuyên cần thiết. BĐBP phải biết vận dụng linh hoạt sáu
biện pháp công tác vào bảo vệ biên giới. Trong đó biện pháp VĐQC là biện pháp
cơ bản, làm cơ sở cho các biện pháp khác. Mỗi biện pháp công tác biên phòng là
một mũi chiến đấu, có đối tượng, lực lượng, phương thức đấu tranh riêng và có
quy luật riêng. Nhưng mỗi biện pháp đều phải lấy chính trị làm gốc, phải quán triệt
và thực hiện nghiêm chỉnh đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Công tác VĐQC tham gia bảo vệ chủ quyền ANBG của đồn biên phòng là
trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ toàn đơn vị, trong đó có đội công tác chuyên
trách, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, sự chỉ huy trực tiếp toàn diện của đồn trưởng
và ban chỉ huy đồn với sự phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền
địa phương và sự chỉ đạo của cơ quan nghiệp vụ cấp trên.
* Từ thực tiễn chiến đâú, xây dựng và trưởng thành của BĐBP đã khẳng
định: “Công tác VĐQC tham gia bảo vệ chủ quyền ANBG của BĐBP là tổng thể
các hoạt động, các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, nghiệp vụ do BĐBP tiến
hành để tuyên truyền, tổ chức hướng dẫn cho nhân dân ở khu vực biên giới tự
nguyện tham gia cùng BĐBP BVĐB, mốc giới, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh
thổ, an ninh, chính trị, trật tự xã hội, chống xâm nhập và vượt biên giới trái phép,
buôn lậu qua biên giới, bảo vệ tài nguyên đất nước, xây dựng biên giới hòa bình,
hữu nghị, hợp tác phát triển với nước láng giềng”[35, 91]
Sự lớn mạnh và trưởng thành của BĐBP hơn 45 năm qua luôn gắn liền với
sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và với vai trò to lớn
của đồng bào các dân tộc vùng biên giới. Đảng ta luôn chỉ đạo công tác VĐQC là
một nhiệm vụ cơ bản thường xuyên, quan trọng, là trách nhiệm của toàn thể đảng
viên, các tổ chức đảng trong BĐBP. Việc vận động thuyết phục quần chúng phục
vụ cách mạng, bảo vệ chủ quyền ANBG Tổ quốc là vấn đề có ý nghĩa quyết định
đến sức mạnh và sự trường tồn của Đảng nói chung của BĐBP nói riêng. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc
là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng
và thế trận an ninh nhân dân” [13, 117].
“Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là
nhiệm vụ trọng yếu của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”[13, 117]. Vì vậy: “Công
tác VĐQC luôn luôn là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược trong mọi thời kỳ của
cách mạng”[8, 251].Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, đồng bào các
dân tộc thiểu số đã đoàn kết chặt chẽ, góp phần to lớn vào sự nghiệp quản lý, bảo
vệ biên cương của Tổ quốc, đánh bại các cuộc xâm lược của kẻ thù.
Trong sự nghiệp quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh BGQG, BĐBP phải
đương đầu với nhiều loại đối tượng, các loại kẻ thù có tổ chức, có âm mưu thâm
độc và thủ đoạn tinh vi xảo quyệt. Để đấu tranh có hiệu quả thì trước hết đồng bào
các dân tộc ở khu vực biên giới là chỗ dựa cơ bản, là sức mạnh vững chắc nhất của
BĐBP trên khắp giải biên cương của Tổ quốc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: Bất kỳ trong tình huống nào, cũng phải bám chắc lấy dân, dựa vào dân để tồn
tại. Đó là cái chìa khóa của mọi thắng lợi.
* Vì vậy đối với công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc của
BĐBP phía Bắc là: một bộ phận cơ bản của công tác VĐQC tham gia bảo vệ chủ
quyền ANBG, bao gồm các hoạt động tuyên truyền, tổ chức hướng dẫn nhân dân ở
khu vực biên giới, nâng cao nhận thức và trình độ giác ngộ, ý thức đầy đủ về quốc
gia, quốc giới, nắm vững đường biên, cột mốc được phụ trách, cơ sở pháp lý của
đoạn đường biên, cột mốc được giao, nắm vững các hiệp định hiệp nghị, quy chế
biên giới. Từ đó, mỗi người tùy theo từng lứa tuổi, từng gia đình ở từng xóm, bản
và điều kiện cụ thể để có hình thức tham gia bảo vệ biên giới thích hợp, nhưng
phải được đặt trong tổng thể sự lãnh đạo, quản lý và điều hành của cấp ủy, chính
quyền cơ sở và đồn biên phòng là nòng cốt.
- Mục tiêu công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc biên giới là
nhằm giáo dục, nâng cao giác ngộ, ý thức trách nhiệm của đồng bào các dân tộc ở
khu vực biên giới đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền ANBG, làm cho mỗi người
dân trở thành chủ nhân thực sự ở khu vực biên giới, góp phần củng cố đoàn kết dân
tộc, mối quan hệ quân dân càng thêm gắn bó. Qua phong trào quần chúng tham gia
quản lý đường biên, cột mốc biên giới của Tổ quốc, còn góp phần xây dựng cơ sở
chính trị và thúc đẩy các phong trào khác ở địa phương, từ đó thúc đẩy sự phát
triển của nền biên phòng toàn dân lên một bước mới.
Công tác VĐQC tham gia quản lý BVĐB, cột mốc biên giới của BĐBP phía
Bắc là một bộ phận quan trọng trong công tác VĐQC của Đảng và quân đội. Thực
tiễn của sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh BGQG những năm qua đã khẳng định
vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân trong công tác biên phòng. Đặc biệt
từ khi có Quyết định 16 của Chính phủ về “Ngày Biên phòng” đã mở ra bước phát
triển mới của phong trào toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ biên giới. Dưới sự
lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy, chính quyền các địa phương, nhiều phong
trào cách mạng sáng tạo của quần chúng ra đời và mang lại hiệu quả thiết thực
trong hoạt động xây dựng và bảo vệ biên giới như các phong trào: phụ nữ, phụ lão
gương mẫu tham gia chống lấn chiếm biên giới, tổ tàu thuyền, bến bãi an toàn,
đường biên thanh niên làm chủ, giáo dục cảm hóa đối tượng phạm tội tại cộng
đồng, dòng họ, thôn bản chống truyền đạo trái phép... Chính từ sự phát triển phong
phú sinh động của các phong trào trên, nên phong trào quần chúng tham gia quản
lý, BVĐB, cột mốc cần được nhân rộng và nâng cao chất lượng hiệu quả hơn nữa.
Nhận thức sâu sắc những vấn đề trên, BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc xác
định công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc biên giới là một bộ phận
quan trọng của công tác VĐQC tham gia bảo vệ chủ quyền ANBG.
- Chủ thể tiến hành công tác VĐQC là trách nhiệm của mọi cấp, mọi
ngành, của cán bộ, chiến sĩ BĐBP. Ở đồn biên phòng, đội VĐQC là lực lượng
nòng cốt chuyên trách, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, đảng bộ, chi bộ, ban
chỉ huy đồn, mà trực tiếp là đồng chí phó đồn trưởng về chính trị phụ trách công
tác VĐQC.
- Đối tượng VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc rất đa dạng, đó là
nhân dân các dân tộc ở khu vực biên giới, các già làng, trưởng bản, từng hộ gia
đình ở các thôn bản giáp biên, cấp ủy, chính quyền xã và các cơ quan, các ban
ngành đóng trên địa bàn biên phòng. Tùy theo từng đối tượng để có nội dung,
phương pháp, hình thức vận động quần chúng.
- Nội dung cơ bản của công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột
mốc biên giới phía Bắc của BĐBP là tuyên truyền sâu rộng nhân dân khu vực biên
giới quán triệt và tự giác thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, các hiệp định, hiệp nghị, quy chế biên giới, các chủ trương của cấp ủy
địa phương, tình hình thực trạng đường biên giới, mốc quốc giới trên thực địa. Từ
đó để đồng bào các dân tộc nâng cao nhận thức trách nhiệm tham gia quản lý,
BVĐB, mốc giới.
Giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất chống ngoại
xâm của dân tộc Việt Nam, trực tiếp là truyền thống đấu tranh chống bọn phản
động phá hoại biên giới, BVĐB, mốc giới, quê hương, làng bản của nhân dân các
dân tộc ở biên giới.
Tuyên truyền giáo dục ý thức quốc gia, quốc giới. Giáo dục lòng tự hào về
đoàn kết cộng đồng các dân tộc; xây dựng tình đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc
tế, quan hệ láng giềng thân thiện, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị hợp tác
phát triển. Giáo dục nhân dân các dân tộc thường xuyên có ý thức cảnh giác cách
mạng, nhận rõ bản chất âm mưu, thủ đoạn... phá hoại của địch, các bọn phản động,
phần tử xấu, giáo dục và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với các tình huống xẩy ra như
xâm canh, xâm cư, lấn chiếm biên giới, di chuyển cột mốc...
Thường xuyên củng cố và phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị ở các xã
biên giới, làm tham mưu cho địa phương để thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính
quyền điều hành, đồn biên phòng là nòng cốt, nhân dân tự quản đường biên, mốc
giới.
Tổ chức và hướng dẫn phong trào quần chúng tham gia quản lý, BVĐB,
mốc giới, thực hiện các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng xã biên
phòng vững mạnh. Xây dựng quy chế phối hợp giữa đồn biên phòng với UBND xã
trong quản lý, bảo vệ đoạn đường biên, cột mốc, tạo thành phong trào quần chúng
tham gia quản lý, bảo vệ biên giới.
- Phương pháp VĐQC: kết hợp vận động quy mô tập thể, đông người
với vận động phân tán, nhỏ lẻ, cá biệt. Vận động thường xuyên, định kỳ với vận
động từng đợt, vận động đột xuất theo tình hình cụ thể. Tiến hành bằng lực lượng
các cấp đơn vị BĐBP, kết hợp lực lượng của cấp ủy, chính quyền địa phương, lực
lượng của hệ thống chính trị, cơ sở chính trị, cơ sở quần chúng, lực lượng của các
cơ quan, ban ngành liên quan và toàn xã hội tham gia.
Quá trình thực hiện, chú ý dựa và kết hợp tham gia thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, các phong trào của địa phương, góp phần cải thiện đời sống nhân dân để
xây dựng, củng cố phong trào quần chúng tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc biên
giới Tổ quốc.
Thực hiện xây dựng phòng ngừa là chính, đấu tranh trấn áp là quan trọng,
thông qua học tập, tuyên truyền, giáo dục, làm cho quần chúng được trang bị nhận
thức mới, ý thức được vai trò, trách nhiệm để tự giác, chủ động tham gia, tạo sự
chuyển biến cho phong trào. Mặt khác, đối với khu vực biên giới chủ yếu gồm
đồng bào các dân tộc ít người, khi triển khai công tác VĐQC cần chú ý những tầng
lớp già làng, già bản, trưởng dòng họ. Chú ý tôn trọng phong tục, tập quán, thực
hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà
nước ta.
Trình tự thực hiện: Trên trước, dưới sau - trong trước, ngoài sau - điểm
trước, diện sau - trọng tâm trước, toàn bộ sau. Cấp ủy, chi bộ, cán bộ đảng viên,
các tổ chức, đoàn thể quần chúng tổ chức học tập, quán triệt trước. Trên cơ sở đó,
có lực lượng hạt nhân tỏa vào từng cụm dân cư, thôn bản giáp biên để giáo dục
chung; đồng thời thực hiện tuyên truyền, giáo dục phạm vi hẹp; phát động giáo dục
cá biệt. Tập trung làm chuyển hóa điểm để tạo lòng tin, tính thuyết phục quần
chúng. Dùng người giác ngộ, tiến bộ thuyết phục cảm hóa người chậm tiến. Dùng
người địa phương, cùng dân tộc thuyết phục người cùng địa phương cùng dân tộc...
Chú ý khai thác yếu tố tương đồng để cổ vũ chuyển hóa nội bộ.
- Hình thức VĐQC:
+ Hình thức cơ bản: Hình thức VĐQC được xác lập trên cơ sở hoàn cảnh,
điều kiện, đặc điểm cụ thể của đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, khả năng của
BĐBP và sự tham gia, phối hợp của nhân dân trong địa bàn. Để xác định và vận
dụng được hình thức VĐQC phù hợp, chủ thể VĐQC phải làm tốt công tác điều
tra, nghiên cứu các yếu tố điều kiện, đặc điểm địa bàn, đường biên, mốc giới, quy
luật hoạt động, đặc điểm tâm lý, trình độ, cá tính... của đối tượng. Trong 45 năm
qua công tác VĐQC của BĐBP thường vận dụng hai hình thức cơ bản.
Một là, VĐQC thường xuyên, là hình thức cơ bản, chủ yếu tiến hành liên tục
mọi thời gian, tuyên truyền, vận động mọi người dân ở biên giới giáo dục mọi đối
tượng; huy động, động viên mọi người tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc biên
giới.
Hai là, VĐQC đột xuất, là hình thức xử lý tình huống khi có tình hình,
nhiệm vụ phát sinh ngoài kế hoạch, chương trình như: có hiện tượng xâm canh,
xâm cư, vượt biên, di chuyển cột mốc... cần vận dụng hình thức này.
+ Hình thức vận động theo chuyên đề.
Ngoài hai hình thức cơ bản trên, BĐBP còn tiến hành VĐQC theo chuyên
đề, tập trung phục vụ đấu tranh với những đối tượng, giải quyết những vụ việc phát
sinh cụ thể nhằm xây dựng biên giới vững mạnh toàn diện, giữ vững ổn định biên
giới trong đó tập trung các hoạt động:
VĐQC tham gia xây dựng phong trào bảo vệ trị an, BVĐB, mốc giới, thực
hiện quy chế, các hiệp định,. hiệp nghị về biên giới. Đấu tranh chống lấn chiếm
biên giới, khai thác tài nguyên trái phép qua biên giới. Đấu tranh thực hiện quy chế
biên giới ở các cửa khẩu đường bộ. Đấu tranh chống vượt biên di dân tự do, trái
phép. Chống buôn lậu, buôn bán ma túy qua biên giới, đấu tranh chống nhập khẩu
trái phép các loại ấn phẩm đồi trụy. Tổ chức xóa bỏ trồng cây thuốc phiện, vận
động định canh, định cư. Tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng khu vực
phòng thủ...
* Công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc của BĐBP các tỉnh
biên giới phía Bắc tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản.
Một là, tùy tình hình thực tế ở địa bàn, BĐBP cần tiếp tục quán triệt sâu
rộng và chấp hành nghiêm chỉnh các quan điểm cơ bản của Đảng về quần chúng và
công tác quần chúng; nắm vững và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ
chủ quyền ANBG. Đây là nguyên tắc cơ bản quan trọng hàng đầu bảo đảm cho
công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc của BĐBP các tỉnh biên giới
phía Bắc không bị chệch hướng chính trị và không vi phạm pháp luật.
Hai là, phải luôn bám sát và xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đơn
vị và các chủ trương công tác của địa phương, tình hình cụ thể từng đoạn đường
biên, mốc giới để tuyên truyền vận động nhân dân, nghiên cứu bổ sung nội dung
hoạt động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Cấp ủy và chỉ huy từ Bộ Chỉ
huy BĐBP tỉnh đến các đồn biên phòng phải luôn căn cứ vào nhiệm vụ của đơn vị
trong từng giai đoạn, từng thời điểm cụ thể, căn cứ tình hình mọi mặt ở địa bàn và
những chủ trương công tác của địa phương để xác định nội dung, nhiệm vụ tuyên
truyền vận động cho phù hợp, đạt hiệu quả cao.
Ba là, tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, bổ xung hoàn thiện cơ chế chính sách,
cơ chế phối hợp giữa các hộ, xóm, bản sát biên với cấp ủy, chính quyền xã và đồn
biên phòng. Xác định rõ hơn trách nhiệm của quần chúng tham gia quản lý, bảo vệ
biên giới vừa tạo được động lực vật chất, tinh thần nhằm huy động được sức mạnh
tổng hợp của quần chúng để thực hiện tốt phương châm: Ở đâu có đường biên, cột
mốc biên giới ở đó có quần chúng nhân dân bảo vệ. Thực hiện tốt chế độ giao ban,
hội ý giữa chính quyền và các lực lượng ở biên giới, nắm chắc mọi diễn biến tình
hình. Đảm bảo mọi vụ việc xẩy ra trên biên giới phải được phát hiện kịp thời, xử
lý, giải quyết ngay bằng lực lượng tại chỗ, làm dứt điểm, không để kéo dài, phát
sinh lan rộng. Đồng thời đảm bảo củng cố, duy trì phát triển mối quan hệ hợp tác
hữu nghị giữa nhân dân hai bên biên giới.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, thuyết phục với tổ chức thực hiện
các chương trình phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện có hiệu quả, đời sống
nhân dân được nâng cao. Đây là nguyên tắc để chỉ đạo biện pháp tiến hành VĐQC
tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc biên giới. Chỉ khi nào các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội được thực hiện có hiệu quả, đời sống đồng bào các dân tộc ở
khu vực biên giới ổn định thì các hoạt động tuyên truyền, giáo dục thuyết phục của
BĐBP mới được nhân dân tổ chức thực hiện tự quản đường biên, cột mốc khi họ
được giao. Nhân dân khu vực biên giới phải hiểu sâu sắc ý nghĩa chính trị vấn đề
chủ quyền biên giới. Nắm vững, thực hiện tốt các hiệp định, hiệp nghị, quy chế
biên giới đồng thời thấy rõ trách nhiệm quản lý, BVĐB, cột mốc, chủ quyền lãnh
thổ, tài nguyên đất nước, lợi ích quốc gia. Tích cực, tự giác tham gia, bảo vệ chủ
quyền ANBG của Tổ quốc.
* Tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột
mốc của BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, tiêu chí là: “Đặc trưng dấu hiệu làm cơ sở căn
cứ để nhận biết, xếp loại các sự vật, các khái niệm”[38, 1640]. Tiêu chí được thể
hiện ở các chỉ số, thông số, chỉ tiêu dùng làm thước đo, dựa vào đó để so sánh,
đánh giá kết quả hoạt động. Các chỉ số, thông số, chỉ tiêu càng cụ thể, chính xác
bao nhiêu thì việc đánh giá càng chính xác bấy nhiêu. Nhưng để đánh giá hiệu quả
phong trào quần chúng tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc của BĐBP các tỉnh biên
giới phía Bắc, cần phải có một số tiêu chí cụ thể, bao gồm:
Thứ nhất, sự vững mạnh của các chủ thể trong công tác VĐQC tham gia
quản lý, BVĐB, cột mốc của BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc thể hiện ở sự trong
sạch, vững mạnh của tổ chức đảng (trước hết là chi ủy, chi bộ, đảng bộ đồn biên
phòng), sự quan tâm của tổ chức đảng đối với công tác VĐQC tham gia quản lý,
BVĐB, cột mốc thông qua việc thường xuyên đưa nội dung, nhiệm vụ VĐQC
tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc vào các nghị quyết lãnh đạo hàng tháng, quý ra
các nghị quyết chuyên đề khi tập trung lãnh đạo, vai trò của người chỉ huy đồn
biên phòng trong thực hiện nghị quyết của chi bộ, đảng ủy đồn biên phòng. Mọi
cán bộ, chiến sĩ trong đội VĐQC có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, giỏi về
nghiệp vụ VĐQC, nắm chắc đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước, hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc, tổ
chức hướng dẫn nhân dân tham gia quản lý, BVĐB, mốc giới.
Thứ hai, kết quả thực hiện các nội dung, hình thức, biện pháp công tác
VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc của BĐBP phía Bắc được thể hiện công
tác quản lý, nắm tình hình trên biên giới được tăng cường và kịp thời hơn, nhất là
đoạn biên giới đã được đăng ký tự quản. Những hành vi xâm phạm chủ quyền biên
giới xâm canh, xâm cư, lấn chiếm biên giới, đập phá, di dời cột mốc và các dấu
hiệu xác định đường biên giới, làm đường, trồng cây hoặc chôn mồ mả sâu vào đất
ta, xây kè, đập nắn dòng chảy sông suối biên giới... được quần chúng nhân dân
phát hiện và báo cho đồn biên phòng và chính quyền kịp thời. Nhờ đó công tác đấu
tranh ngăn chặn chủ động và chặt chẽ hơn.
Thứ ba, kết quả phong trào quần chúng giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở địa bàn biên phòng được nâng cao. Đồng thời với trách nhiệm tham
gia quản lý, BVĐB, cột mốc biên giới, đồng bào còn tích cực phát hiện đấu tranh
với các hiện tượng di dịch cư tự do, truyền đạo trái phép, buôn lậu qua biên giới,
buôn bán ma túy và hàng quốc cấm, vượt biên chăn thả gia súc, khai thác tài
nguyên trái phép ở hai bên biên giới. Các hiện tượng lạ xẩy ra hoặc người lạ ra vào
địa bàn đều được bà con chủ động phát hiện. ủng hộ BĐBP trong xây dựng đơn vị
vững mạnh, trong xây dựng củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu nghị với nước láng
giềng, với nhân dân bên kia biên giới.
Thứ tư, kết quả kết hợp tốt giữa tăng cường quốc phòng, an ninh với phát
triển kinh tế và ngược lại. Từ yêu cầu đăng ký tự quản lý, BVĐB, cột mốc biên
giới, diện tích canh tác được mở rộng. Nhiều khu vực trên biên giới được khai
hoang, phục hóa. Nhiều nơi phải triển khai thực hiện được việc kết hợp giữa giao
nhận đoạn biên giới với giao nhận nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên, môi trường và quản
lý đồi rừng cho từng hộ, xóm bản giáp biên. Một số nơi cáp ủy, chính quyền địa
phương vận động được các hộ dân phía sau ra cư trú sản xuất giáp các đoạn biên
giới chưa có dân, từng bước bố trí quy hoạch dân cư, quy hoạch phát triển kinh tế
gắn với yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trong khu vực biên giới.
Thứ năm, thông qua công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc
biên giới, sẽ củng cố khối đại đoàn kết giữa các dân tộc, chống lại âm mưu chia rẽ,
lôi kéo của kẻ thù, phát động thành phong trào quần chúng tích cực ủng hộ và bảo
vệ các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng, bảo vệ cán bộ, đảng viên
và các thành viên của các đoàn thể đó. Tình cảm giữa cán bộ chiến sĩ biên phòng
với đồng bào các dân tộc càng gắn bó với nhau hơn; tình cảm quân dân, tình cảm
của tuyến sau đối với tuyến trước ngày càng tăng cường.
Trên những tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác VĐQC tham gia quản lý
BVĐB, cột mốc biên giới, đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ biên phòng phía Bắc phải nhận
thức đúng tiêu chí, những yếu tố tác động, dự báo những thuận lợi, khó khăn,
những vấn đề mới nảy sinh. Từ đó lựa chọn những phương thức tác động cho phù
hợp nhằm hạn chế những thiếu sót khuyết điểm, phát huy ưu điểm, khai thác tối đa
mọi lợi thế để làm cho hiệu quả không ngừng được nâng lên.
1.2. Thực trạng và kinh nghiệm công tác vận động quần chúng tham
gia quản lý, bảo vệ đường biên, cột mốc của bộ đội biên phòng các tỉnh biên
giới phía Bắc
1.2.1. Thực trạng công tác vận động quần chúng tham gia quản lý, bảo vệ
đường biên, cột mốc của bộ đội biên phòng các tỉnh biên giới
phía Bắc
* Kết quả đạt được:
- Công tác tuyên truyền vận động đồng bào các dân tộc thiểu số ở khu
vực biên giới tham gia quản lý, bảo vệ đường biện, cột mốc biên giới.
+ Lãnh đạo, chỉ huy các cấp của BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc nhận
thức đúng đắn về vai trò, vị trí công tác quần chúng và công tác VĐQC tham gia
quản lý BVĐB, cột mốc biên giới.
BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc luôn nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò,
tầm quan trọng của công tác quần chúng nói chung và công tác VĐQC tham gia
bảo vệ chủ quyền ANBG. Lãnh đạo, chỉ huy các cấp, trực tiếp là các đồn biên
phòng nhận rõ tính chất phức tạp và yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền
ANBG trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết 11 ngày 8/8/1995 của Bộ
Chính trị “Về xây dựng BĐBP trong tình hình mới”. Trong những năm qua, cấp ủy
và chỉ huy các cấp của BĐBP các tỉnh phía Bắc luôn quán triệt sâu sắc quan điểm
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy,
Bộ Tư lệnh BĐBP về công tác quần chúng nói chung và công tác VĐQC tham gia
quản lý, BVĐB, cột mốc biên giới nói riêng. Từ nhận thức trên, để tiếp tục thực
hiện Quyết định 16/HĐBT ngày 22/2/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) lấy ngày 3/3 hàng năm là “Ngày Biên phòng” và Chỉ thị 394/TTg ngày
23/4/1994 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện “Ngày Biên
phòng”. Căn cứ Chỉ thị số 17 của Bộ Tư lệnh BĐBP về “Tăng cường đổi mới công
tác VĐQC, xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh trong tình hình mới”.
Đặc biệt Nghị quyết 8b của BCHTW Đảng khóa VI (ngày 27/3/1990) về “Đổi mới
tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân”. Quán triệt và thực hiện tinh
thần các Nghị quyết của trên. Đảng ủy và chỉ huy BĐBP các tỉnh biên giới phía
Bắc đã kịp thời đề xuất, tham mưu với tỉnh ủy, UBND các tỉnh Lai Châu, Lào Cai,
Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh xác định phương hướng, mục tiêu,
nội dung cụ thể giúp lãnh đạo các địa phương phối hợp, triển khai tổ chức thực
hiện các hoạt động VĐQC trong thời kỳ đổi mới. Đặc biệt khi tình hình biên giới
phía Bắc có bước phát triển tích cực nhiều mặt, mối quan hệ đoàn kết hữu nghị với
nhân dân bên kia biên giới được củng cố. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, công
tác quản lý, BVĐB, mốc giới vẫn nảy sinh nhiều phức tạp. Từ thực trạng trên, Bộ
Tư lệnh BĐBP đã chỉ đạo các cục và biên phòng các tỉnh nghiên cứu, vận dụng mô
hình hiệu quả Cao Bằng thực hiện “Phong trào quần chúng tự quản đường biên, cột
mốc biên giới”. Hội nghị rút kinh nghiệm tổ chức “Phong trào quần chúng tự quản
đường biên, cột mốc biên giới” 5 năm (1997 - 2002) được tiến hành ngày
30/8/2002 tại Cao Bằng nhằm kiểm điểm, đánh giá những mặt được và chưa được
về việc tổ chức VĐQC tham gia tự quản lý, BVĐB, cột mốc biên giới.
Đảng ủy và Bộ Chỉ huy BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc đã phối hợp với
cấp ủy chính quyền địa phương thống nhất các phương án và cách thức tiến hành
công tác VĐQC tham gia bảo vệ chủ quyền ANBG nói chung và quần chúng tham
gia quản lý, BVĐB, cột mốc biên giới nói riêng. Cụ thể đảng ủy BĐBP Lạng Sơn
đã làm tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lạng Sơn ra Nghị quyết số 03 ngày
7/10/1993 về “Củng cố và xây dựng vùng biên giới vững mạnh toàn diện”, UBND
tỉnh Lạng Sơn ra công văn số 161/CV-UB về “Giao đường biên, cột mốc cho nhân
dân các thôn, bản giáp biên phối hợp cùng BĐBP quản lý, bảo vệ”. Đây là một chủ
trương lớn của địa phương, nhằm tiếp tục thực hiện tốt 5 nội dung “Ngày Biên
phòng”, thông qua phong trào quần chúng tự quản đường biên, cột mốc biên giới ở
từng thôn, bản đến từng hộ gia đình ở khu vực giáp biên giới.
Đảng ủy - Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh Lào Cai đã tham mưu cho Tỉnh ủy,
UBND tỉnh quán triệt Nghị định 34/NĐ-CP của Chính phủ, Chỉ thị 15/1998/CTTTg của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 179/TT của Bộ Quốc phòng hướng dẫn
quy chế khu vực biên giới đất liền. Từ đó, UBND tỉnh ra chỉ thị về tiếp tục đẩy
mạnh “Ngày Biên phòng”, giao cho BCH Biên phòng chỉ đạo các đồn biên phòng
chủ động làm tham mưu cho huyện ủy, UBND huyện biên giới đề ra kế hoạch cụ
thể cho 26 xã giáp biên tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia quản lý, BVĐB,
cột mốc biên giới.
Ở tỉnh Hà Giang, từ năm 1997 BCH Biên phòng đã chỉ đạo các đồn biên
phòng làm tham mưu cho 34 xã biên giới giao đất, giao rừng, đường biên, cột mốc
biên giới cho các xóm bản và gia đình ở sát biên quản lý và bảo vệ.
Ở Quảng Ninh, thực hiện Chỉ thị 15/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính
phủ, BCH Biên phòng đã chỉ đạo Tiểu khu 5 làm tham mưu cho Thị ủy thị xã
Móng Cái ra chỉ thị về “Tăng cường chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, củng cố
quốc phòng- an ninh xã Hải Sơn”. Tháng 5/2000 xã Hải Sơn và Đồn Biên phòng
15 đã tổ chức lễ ký kết “Phong trào quần chúng tự quản đường biên, cột mốc biên
giới” ở 7 thôn bản trong xã.
Tỉnh Lai Châu và Điện Biên có tuyến biên giới với Trung Quốc dài 311 km
và tuyến biên giới Lào dài 363 km. Từ năm 1998 BCH Biên phòng đã chỉ đạo các
đồn biên phòng 289, 297, 311 làm điểm tổ chức phong trào quần chúng tự quản
đường biên, cột mốc biên giới để rút kinh nghiệm chỉ đạo chung.
Căn cứ thực trạng tình hình tuyến biên giới phụ trách, Tỉnh ủy Cao Bằng đã
ra Chỉ thị số 25/CT-TW ngày 21/2/1995 về việc “Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động
ngày biên phòng” trong địa bàn tỉnh Cao Bằng, đồng thời chỉ đạo cấp ủy, chính
quyền các cấp đẩy mạnh thực hiện các nội dung “Ngày Biên phòng”. Chỉ thị 25 đã
nhấn mạnh “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền VĐQC, đồng thời phát động sâu
rộng, phong trào quần chúng nhân dân các xã, xóm giúp biên giới trực tiếp nhận
từng đoạn đường biên, cột mốc để cùng phối hợp với BĐBP quản lý, bảo vệ và coi
đó như là đất đai, tài sản của từng gia đình, từng xóm, bản không thể để mất
được”.
Từ thực trạng bố trí dân cư trong khu vực để giao cho từng hộ gia đình, từng
xóm nhận bảo vệ từng đoạn đường biên, cột mốc để phối hợp với đồn biên phòng
quản lý, bảo vệ và coi đó như là đất đai, tài sản của từng xóm, bản, từng hộ gia
đình.
Phong trào đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của cấp ủy, chính quyền cơ
sở và lực lượng đông đảo quần chúng tham gia. Từ kết quả trên, nhân kỷ niệm 38
năm ngày truyền thống BĐBP (3/3/1997) UBND tỉnh đã chỉ đạo triển khai phong
trào ra diện rộng. Đến tháng 5 năm 1997, 13 đồn biên phòng và 6 huyện: Thạch
An, Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Thông Nông, Bảo Lạc, Hà Quảng đã triển khai, phong
trào ở hầu khắp 42 xã và 145 xóm sát biên trên toàn tuyến biên giới tỉnh Cao Bằng.
Như vậy, trong những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực
hiện của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, vai trò làm tham mưu tích cực
của các đơn vị BĐBP tuyến biên giới phía Bắc, mọi cán bộ, chiến sĩ đều được học
tập quán triệt và nhận thức đầy đủ về vị trí vai trò của quần chúng tham gia quản
lý, BVĐB, cột mốc biên giới. Nên phong trào quần chúng tham gia quản lý,
BVĐB, cột mốc biên giới đã phát triển trên diện rộng, đến nay đã có 8.770 hộ của
124/161 xã biên giới thuộc địa bàn của 50/66 đồn biên phòng. Có 1.024/1.463 km
đường biên, 263/314 cột mốc chính, 34/71 cột mốc phụ được quần chúng nhân dân
đăng ký bảo vệ. Đây là hoạt động tích cực, có nội dung thiết thực tạo điều kiện để
phát huy vai trò quan trọng của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ chủ
quyền ANBG của Tổ quốc.
+ Công tác tuyên truyền vận động đồng bào các dân tộc ở khu vực biên giới
tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc của BĐBP phía Bắc. Trước yêu cầu mới của sự
nghiệp bảo vệ chủ quyền ANBG, BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc đã nắm vững
và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng ta về vai trò của quần chúng. Mặt khác, kế thừa và phát triển những kinh
nghiệm của ông cha ta trong bảo vệ biên giới, nên đã tổ chức vận động nhân dân
làm nên “Lũy thép biên phòng” và nâng cao sự tham gia ấy lên trình độ tự giác và
sáng tạo hơn. Sức mạnh của đồng bào các dân tộc ở khu vực biên giới là rất to lớn,
nhưng sức mạnh đó chỉ được phát huy khi họ được giác ngộ và được tổ chức lại.
Do đó, có thể nói, công tác VĐQC tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc biên giới của
BĐBP là sự vận dụng sáng tạo, hình thức giáo dục, tổ chức thích hợp để đưa nhân
dân các dân tộc trực tiếp tham gia bảo vệ chủ quyền, ANBG có hiệu quả cao.
Những năm qua, BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc đã tập trung tuyên truyền
cho quần chúng nhân dân ở khu vực biên giới thấy rõ tính đúng đắn, tính ưu việt
của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Từ đó tạo ra sự đồng tâm, nhất
trí, củng cố niềm tin của quần chúng với Đảng, Nhà nước và cấp ủy, chính quyền
địa phương, tự giác chấp hành và thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, chính sách
của Đảng. Đồng thời, thông qua công tác VĐQC để tuyên truyền, phổ biến đồng
bào các dân tộc ở khu vực biên giới thấy rõ âm mưu, thủ đoạn các thế lực phản
động phá hoại biên giới. Từ đó nâng cao tinh thần cảnh giác, động viên đồng bào
phát hiện, tố cáo các hành vi vi phạm biên giới, nâng cao ý thức trách nhiệm, nghĩa
vụ công dân trong tham gia bảo vệ biên giới. Trên cơ sở nhận thức được trách
nhiệm, nhân dân tích cực tổ chức thực hiện các nội dung đã cam kết. Qua công tác
tuyên truyền vận động đồng bào tham gia quản lý, BVĐB, cột mốc biên giới cho
thấy hiệu quả công tác nắm tình hình, phát hiện vụ việc được nhanh chóng hơn,
thông tin sớm cho lực lượng chuyên trách và các lực lượng hợp đồng xử lý, ngăn
chặn.
Các đồn biên phòng trên tuyến biên giới phía Bắc đã kết hợp chặt chẽ nhiều
hình thức tuyên truyền như tổ chức các hội nghị quán triệt chủ trương của UBND
tỉnh, huyện và phổ biến kế hoạch, nội dung, phương pháp triển khai thực hiện việc