Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

tiểu luận học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ ở khoa lý luận chính trị trong các trường đại học hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.88 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................1
1. PGS.TS. Trần Thanh Ái; Đào tạo theo hệ thống tín chỉ - Các nguyên lý, thực trạng và
giải pháp. Nguồn: ..................................................................................21
15. PGS.TS. Cary J. Trexler, Hệ thống tín chỉ tại các trường đại học Hoa Kỳ: Lịch sử phát
triển, Định nghĩa và Cơ chế hoạt động, trong "Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục", số 11/2008
(đăng lại trên trang web tham khảo ngày
22/1/2010).............................................................................................................................22
MỤC LỤC.................................................................................................................................22

1


.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tín chỉ là một phương thức đào tạo tiến bộ trên thế giới, hệ thống này lần
đầu tiên, vào năm 1872 được áp dụng tại Viện Đại học Harvard - Hoa Kỳ, hệ
thống này ra đời như một cách để giải quyết những vấn đề của giáo dục trung
học Hoa kỳ và nó đã đem lại những thành quả to lớn trong nền kinh tế tri thức
và cách đào tạo hiệu quả này đã được nhiều quốc gia học hỏi và áp dụng. Để bắt
kịp với sự tiến bộ của thời đại ,đồng thời nhằm đổi mới giáo dục đại học ở Việt
Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã yêu cầu chuyển đổi từ việc thực hiện chương
trình đào tạo theo nhóm sinh viên được chia thành lớp theo kiểu Đông Âu (Xô
viết) thành việc thực hiện đào tạo theo hệ thống tín chỉ kiểu Hoa Kỳ, bắt đầu từ
năm học 2008-2009 và đòi hỏi phải hoàn tất việc chuyển đổi này trước năm
2012.


Thực hiện theo Quy chế 43 về Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy
theo hệ thống tín chỉ (Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT
ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), Trường đại
học Khoa học Huế nói chung và Khoa Lý luận Chính trị nói riêng đã triển khai
phương thúc đào tạo tiên tiên này kể từ khóa tuyển sinh năm học 2008-2009.
Trải qua một thời gian, đến nay phương thức đào tạo tín chỉ đã mang lại những
thành quả nhất định, nhưng cùng với đó đã và đang tồn tại những vấn đề không
nhỏ. Vì đây là phương thức đào tạo mới nên còn nhiều vấn đề liên quan mà cả
sinh viên và giáo viên vẫn đang lúng túng, vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra lúc
này là cả sinh viên và giáo viên cần có sự trang bị cơ bản về phương thức đào
tạo tín chỉ để quá trình giảng dạy và học tập diễn ra theo đúng tinh thần của nó,
đặc biệt là với đặc thù chuyên ngành lý luận chính trị, làm sao để thích ứng với
điều kiện mới.
2


Tuy vậy trong điều kiện thực hiện đào tạo theo phương thức mới trong
giai đoạn đầu tiên hiện nay, Nhà trường nói chung cũng như Khoa nói riêng
đang cố gắng để vượt qua quá nhiều rào cản và sức ỳ trong quá trình chuyển đổi,
trong quá trình chuyển đổi vẫn đang tồn tại những bất cập trong hoạt động dạy
và học của giáo viên và sinh viên như: cách tính điểm, cách đăng ký học phần,
cách đề nghị phúc khảo, cách cập nhật điểm, tính công bằng trong hoạt động học
tập giữa các sinh viên với nhau, cách tổ chức học nhóm, thảo luận, cách đánh
giá của thầy cô. Các chế tài chính sách về giáo trình, học phí, thực tập, thực
tế...đang còn nhiều vướng mắc. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, phân tích
để làm rõ một cách nghiêm túc thực trạng hiện nay, từ đó đề ra những giải pháp
để quá trình dạy và học theo phương thức mới diễn ra một cách có hệ thống và
thuận lợi hơn. Đồng thời nhằm đưa đến cho giáo viên và sinh viên những kiến
thức chung về phương thức đào tạo tín chỉ, chúng tôi đã chọn đề tài "Học tập
theo phương thức đào tạo tín chỉ ở khoa Lý luận chính trị trong các trường

Đại học hiện nay" để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của giáo viên và sinh viên trong
khoa Lý luận chính trị.
Do hạn chế về thời gian và điều kiện học tập của sinh viên, giới hạn của
đề tài chỉ là tìm hiểu về học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ được thực hiện
đối với sinh viên ở Khoa lý luận Chính trị.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu đề tài này trong bối cảnh ngành giáo dục đại học đang thực
hiện bước chuyển đổi phương thức đào tạo theo hệ tín chỉ, những hiểu biết về
phương thức đào tạo mới này với nhiều thầy, cô giáo và sinh viên còn nhiều bỡ
ngỡ. Nhìn chung, chúng ta bắt đầu tìm kiếm thông tin ở nhiều nguồn khác nhau
về phương thức đào tạo này trên thế giới, việc áp dụng vào các trường đại học
trong nước. Chúng tôi tìm hiểu tổng quan những bài viết về Đào tạo tín chỉ ở các
trường Đại học nước ngoài như: mục tiêu sư phạm của hệ thống đào tạo theo tín
chỉ Mỹ và những gợi ý cho cải cách giáo dục Đại học Việt Nam (Eli Mazur &
Phạm Thị Ly); Hệ thống tín chỉ tại các trường đại học Hoa Kỳ : Lịch sử phát

3


triển, Định nghĩa và cơ chế hoạt động (Trexler C.J.Trexler); Vài nét về hệ thống
tín chỉ Đại học Châu Âu (Hà Dương Tùng).
Trong nước, các công trình nghiên cứu, tài liệu có liên quan đến đề tài
như: Tác giả Hoàng Văn Vân với bài viết "Phương thức đào tạo tín chỉ: lịch sử,
bản chất và những hàm ý cho phương pháp dạy - học ở bậc đại học" đã làm rõ :
Tín chỉ là một phương thức đào tạo tỏ ra có nhiều ưu thế so với phương thức đào
tạo truyền thống. Ở Việt Nam cách đây một vài năm đã có một số trường đại
học chủ động áp dụng phương thức đào tạo tiên tiến này. Tuy nhiên, do tính toán
chưa kĩ, chưa có những bước đi phù hợp và nhất là chưa lường trước được
những khó khăn có thể nảy sinh trong quá trình áp dụng cho nên kết quả của
việc áp dụng này thường không theo mong muốn. Với cách đặt vấn đề như vậy,

tác giả trả lời câu hỏi: “Tín chỉ là gì?”, nêu bật những đặc điểm chính của
phương thức đào tạo theo tín chỉ, những lợi thế của phương thức đào tạo này so
với phương thức đào tạo truyền thống và đề xuất một số gợi ý về phương pháp
giảng dạy - học ở bậc đại học trong hệ thống đào tạo theo tín chỉ, nêu bật vai trò
của người dạy và người học trong hệ hình đào tạo mới, tạo hiệu quả cao trong
dạy, học và nghiên cứu theo phương thức đào tạo theo tín chỉ ở Việt Nam nói
chung và ở ĐHQGHN nói riêng.
- Một số tác giả bàn về đào tạo tín chỉ ở Việt Nam như: "Về học chế độ
tín chỉ và việc áp dụng ở Việt Nam" (Nguyễn Hoàng Việt); tác giả Trần Thanh
Nguyên "Hình thành các mô đun dạy học - một trong các hướng đổi mới phương
pháp dạy học trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở đại học"; "Về việc áp dụng
học chế tín chỉ trên thế giới và ở Việt Nam" (Lâm Quang Thiệp); Tổ chức giảng
dạy học tập theo chương trình định sẵn và học chế tín chỉ (Lê Thạc Cán); Tài
liệu, công văn của Bộ giáo dục và Đào tạo về việc thực hiện đổi mới đào tạo
theo hệ thống tín chỉ đối với các trường đại học.
- Chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới Giáo dục đào tạo, được
cụ thể hóa ở các văn bản : Luật giáo dục sửa đổi (được Quốc hội thông qua
20/5/2005): "Về chương trình giáo dục: Đối với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục
đại học có thể được tiến hành theo hình thức tích lũy tín chỉ hay theo niên chế"
4


(Báo Giáo dục và Thời đại, ngày 18/6/2005); Nghị quyết của Chính phủ số
14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại
học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020: "Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển
sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ, tạo điều kiện thuận lợi để người học
tích lũy kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển tiếp tới các cấp
học tiếp theo ở trong nước và ở nước ngoài".
- Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định số 31/2001/QĐBGD&ĐT ngày 30/7/2001 về việc thí điểm tổ chức đào tạo, kiểm tra, thi và
công nhận tốt nghiệp đại học, cao đẳng hệ chính quy theo học chế tín chỉ.

- Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học (ban hành
theo quyết định số 38/2004/QĐ-BGD&ĐT ngày 2/12/2004 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo): "Thực hiện chế độ công nhận kết quả học tập người học
(tích lũy theo học phần); chuyển quy trình tổ chức đào tạo theo niên chế sang
học chế tín chỉ". Quy chế 43/2007; Chỉ thị 53/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục đại học năm học 2007 - 2008; Quy chế
31/2001 và Công văn 1878 hướng dẫn quy chế 31.
- Quy chế đào tạo đại học ở Đại học Quốc gia Hà Nội (ban hành kèm theo
Quyết định số 343/ĐT ngày 10 tháng 9 năm 2007 của Giám đốc Đại học Quốc
gia Hà Nội).
- Chủ trương hướng dẫn, thực hiện theo lộ trình các bước chuyển đổi
phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở Đại học Huế: Kế hoạch triển khai CV số 1124, 9/2007; Triển khai thực hiện "Đề án Đào tạo bậc đại học theo học
chế tín chỉ", Đại học Huế hướng dẫn chuyển đổi chương trình đào tạo hiện hành
phù hợp với phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ để các Trường, Khoa,
Trung tâm trực thuộc Đại học Huế tiến hành chuyển đổi chương trình theo đúng
những quy định chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Đại học Huế. Quy chế
đào tạo đại học ở Đại học Huế và các trường thành viên thuộc Đại học Huế.
Trong tình chung các đơn vị như Khoa Giáo dục chính trị, trường Đại học Sư
phạm, Khoa Kinh tế chính trị thuộc Đại học Huế đã tiến hành tổ chức các Hội
thảo về Đổi mới đào tạo theo hệ thống tín chỉ, với nhiều bài viết của các Thầy
5


giáo, Cô giáo, các nhà quản lý giáo dục đi vào phân tích ưu điểm, hạn chế, tìm
ra những giải pháp để thực hiện áp dụng hình thức đào tạo này, đặc biệt áp dụng
đổi mới cách giảng dạy và học tập các môn lý luận chính trị trong tình hình hiện
nay.
- Trường Đại học Khoa học đã tổ chức nhiều hoạt động thực hiện các
bước chuyển đào tạo từ hệ niên chế sang hệ tín chỉ : Ban hành Quy chế học vụ
đào tạo hệ chính quy theo học chế tín chỉ; Xây dựng mẫu Đề cương học phần

theo học chế tín chỉ (kèm theo Thông báo 015)
Thông báo 015 (11/1/2008) ban hành hướng dẫn xây dựng đề cương học
phần, phương pháp dạy học và quy trình kiểm tra - đánh giá kết quả học tập phù
hợp với phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ.
Nhà trường và Khoa Lý luận chính trị đã tổ chức các buổi gặp mặt, đối
thoại với sinh viên nhằm phổ biến, tập huấn về hình thức học theo tín chỉ. Vào
tháng 10 năm 2009, Khoa đã tổ chức hội thảo “Về đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đào tạo tín chỉ của Khoa Lý luận chính trị" chỉ ra những khó
khăn, thách thức mà giáo viên, sinh viên gặp phải trong quá trình chuyển đổi, từ
đó có phương hướng, giải pháp cho hoạt động dạy và học của giáo viên và sinh
viên phát triển theo đúng tinh thần tín chỉ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài: Tìm hiểu tổng quan về phương thức đào tạo tín chỉ
nhằm đưa tới cho giáo viên và sinh viên sự hiểu biết về phương thức đào tạo
mới.
Làm rõ thực trạng của việc học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ ở
Khoa Lý luận chính trị, trường Đại học khoa học - Đại học Huế từ đó đề ra
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập chuyên ngành Triết học ở
Khoa Lý Luận chính trị, Trường Đại học khoa học - Đại học Huế.
Nhiệm vụ của đề tài : Làm rõ thực trạng của việc học tập theo phương
thức đào tạo tín chỉ tại Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học khoa học - Đại
học Huế từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập theo
phương thức đào tạo tín chỉ ở Khoa Lý luận chính trị.
6


4. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở các nguyên lý triết học Mác - Lênin với
phương pháp luận là phép biện chứng duy vật.
Phương pháp nghiên cứu đề tài là vận dụng những nguyên tắc tư duy biện
chứng kết hợp với so sánh, phân tích, chú giải, tổng hợp và khái quát hóa.

5. Đóng góp của đề tài
Hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài có những đóng góp sau:
- Đề tài phác thảo những kiến thức cơ bản về hệ thống đào tạo tín chỉ, làm
rõ lịch sử hình thành, phát triển và một số khái niệm liên quan giúp cho giáo
viên và sinh viên hiểu rõ hơn về phương thức đào tạo mới hiện nay.
- Đề tài đã trình bày thực trạng công tác đào tạo tín chỉ đối với chuyên
ngành trong điều kiện mới, đặc biệt đưa ra những đánh giá về phương pháp học
tập rèn luyện của sinh viên khi học theo phương thức tín chỉ.
- Đề tài đã nêu ra những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng học tập
đáp ứng yêu cầu đào tạo tín chỉ ở khoa Lý luận Chính trị.
- Là tài liệu đáng tin cậy cho các khóa đào tạo tín chỉ kế tiếp.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, đề
tài gồm 2 chương. Cụ thể:
- Chương 1: Tổng quan về phương thức đào tạo tín chỉ
- Chương 2 : Thực trạng và giải pháp của việc học tập theo phương
thức đào tạo tín chỉ ở Khoa Lý luận chính trị, Trường
Đại học khoa học - đại học Huế

7


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG THỨC ĐÀO TẠO TÍN CHỈ
1.1. Hệ thống tín chỉ: lịch sử và một số khái niệm
1.1.1 Lịch sử phương thức đào tạo tín chỉ
Phương thức đào tạo tín chỉ là sản phẩm trí tuệ của người Mỹ do Charles
Eliot - Viện trưởng Viện đại học Harvard khởi xướng vào cuối thế kỉ 19, khi ở
Mỹ số lượng học sinh trung học phổ thông ghi danh vào học đại học ngày càng
tăng, gây áp lực không nhỏ cho quá trình xét tuyển của các trường đại học, theo

thời gian, đến nay nó trở thành một thước đo toàn diện trong giáo dục đại học ở
Mỹ.
Vượt ra ngoài biên giới nước Mỹ, đào tạo theo tín chỉ bắt đầu được áp
dụng mạnh mẽ trước hết ở các nước Tây Âu từ những năm 1960 và lan rộng ra
toàn thế giới.
Ở Việt Nam, trước năm 1975 một số trường đại học đã áp dụng học chế
tín chỉ : Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học Thủ Đức … Đại học Bách khoa

TP.HCM đã khôi phục nó từ năm 1993 và tiếp theo đó lần lượt trường Đại học
Đà Lạt, Đại học Cần Thơ, Đại học Thuỷ sản Nha Trang, trường Đại học Bách
khoa Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hồ Chí Minh...vv
Thực hiện theo Quy chế 43 về Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy
theo hệ thống tín chỉ (Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT
ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), năm 2008,
Đại học Huế chuyển từ đào tạo hệ niên chế sang đào tạo theo hệ tín chỉ, Đại học
Khoa học - Đại học Huế nói chung và Khoa lý luận nói riêng cũng đã chuyển
đổi từ khóa tuyển sinh năm học 2008-2009.
1.1.2 Một số khái niệm về đào tạo tín chỉ
• Tín chỉ
Tín chỉ là đại lượng dùng để đo khối lượng kiến thức, kĩ năng của một
môn học mà người học cần phải tích lũy trong một khoảng thời gian nhất định
8


thông qua các hình thức: (1) học tập trên lớp; (2) học tập trong phòng thí
nghiệm, thực tập hoặc làm các phần việc khác (có sự hướng dẫn của giáo viên);
và (3) tự học ngoài lớp như đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề hoặc chuẩn
bị bài.
• Giờ tín chỉ
Mỗi tiết học được quy định 50 phút được tính là một giờ tín chỉ. Một tín

chỉ được coi như một tiết lên lớp mỗi tuần trong vòng 15 tuần. Vậy nếu môn học
này có 3 tiết lên lớp mỗi tuần trong vòng 15 tuần chẳng hạn, thì được công nhận
là 3 tín chỉ.
• Học phần
Học phần là khối lượng kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho sinh viên
tích luỹ trong quá trình học tập. Phần lớn học phần có khối lượng từ 2 đến 4 tín
chỉ, nội dung được bố trí giảng dạy trọn vẹn và phân bố đều trong một học kỳ.
• Giờ tự học của sinh viên trong đào tạo tín chỉ
Trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, một tín chỉ quy định 30 giờ chuẩn
bị cá nhân. Như vậy cứ 1 tiết lên lớp thì sinh viên phải dành ít nhất 2 giờ tự học,
tự nghiên cứu. Tự học sẽ kích thích sinh viên tìm hiểu bản chất vấn đề, vận dụng
được lý thuyết vào thực tiễn, nâng cao khả năng biện luận, phân tích, tổng hợp,
so sánh.
• Thảo luận:
Thảo luận nhóm là phương pháp học tập thực sự tích cực nhất của sinh
viên. Để chuẩn bị cho seminar sinh viên phải tự tìm kiếm tri thức trong sách
giáo khoa và tài liệu tham khảo, tự phân tích tổng hợp và vận dụng tri thức đã có
để giải quyết nhiệm vụ. Qua đó sinh viên phát triển mạnh được phương pháp tự
học, phương pháp nhận thức khoa học, phương pháp tự nghiên cứu, rèn luyện
được tư duy sáng tạo.
1.2. Tổng quan về chương trình đào tạo theo phương thức đào tạo tín
chỉ ở khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Khoa học Huế
1.2.1. Mục tiêu đào tạo cử nhân triết học theo phương thức tín chỉ

9


Mục tiêu của chương trình đào tạo cử nhân ngành Triết học là trang bị cho
sinh viên hệ thống những kiến thức cơ bản, cơ sở, chuyên sâu của ngành triết
học, giúp sinh viên nắm vững lập trường, quan điểm, phương pháp tư duy khoa

học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, để họ có thể vận dụng
tương đối tốt vào việc nhận thức và giải quyết những vấn đề hiện thực xã hội;
đồng thời, có khả năng hội nhập với khoa học triết học thế giới.
1.2.2. Nội dung chương trình đào tạo ngành Triết học
1.2.2.1. Khái quát nội dung chương trình đào tạo
Tổng số tín chỉ phải tích lũy: 121 tín chỉ, bao gồm:
- Khối kiến thức giáo dục đại cương

: 38 tín chỉ

- Khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp : 74 tín chỉ,
- Khối kiến thức thực tập, kiến tập

: 01 tín chỉ

-Khóa luận tốt nghiệp

: 07 tín chỉ

1.2.2.2 Khung chương trình đào tạo chi tiết

10


Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA VIỆC HỌC TẬP
THEO PHƯƠNG THỨC ĐÀO TẠO TÍN CHỈ Ở KHOA LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ, TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC - ĐẠI HỌC HUẾ
2.1. Thực trạng của việc học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ ở
khoa lý luận chính trị, Đại học khoa học - Đại học Huế

2.1.1. Thực trạng nguồn nhân lực và cơ sở vật chất của Khoa Lý luận
chính trị hiện nay
Khoa Lý luận chính trị hiện có 32 CBGD, gồm 1 PGS, 3 TS, 24 ThS, 5
CN, 10 GVC; Khoa Lý luận Chính trị có 4 bộ môn chuyên môn: Bộ môn Bộ
môn Triết học với 14 CBGD; Bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học với 7 CBGD;
Bộ môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam với 7 CBGD; Bộ môn Tư tưởng Hồ
Chí Minh có 6 CBGD.
Về cơ sở vật chất, hiện Khoa Lý luận chính trị có 1 văn phòng khoa, có 1
phòng sử dụng chung cho Ban chủ nhiệm Khoa. Có 1 phòng sử dụng chung, chủ
yếu là phòng đọc tư liệu cho sinh viên, họp các tổ bộ môn, trong đó có: 2 tủ
đựng tư liệu; 1 tủ chứa bài thi học phần của sinh viên. Các phương tiện, thiết bị
không nhiều: với 5 bộ máy vi tính để bàn, 1 máy tính xách tay, 1 máy ảnh.
Như vậy, có thể thấy được điều kiện cơ cấu tổ chức, đặc biệt cơ sở vật
chất của một đơn vị Khoa còn rất nhiều hạn chế gây ra những khó khăn trong
công tác giảng dạy, học tập của giảng viên và sinh viên.
Thư viện khoa hiện lưu trữ khoảng 280 khóa luận tốt nghiệp sinh viên, 60
niên luận thạc sĩ, với 750 đầu sách chuyên ngành, ngoài ra còn có nhiều báo, tạp
chí.
2.1.2. Thực trạng về tổ chức lớp học phần và lớp chuyên ngành
Lớp học được tổ chức theo loại hình lớp học phần tức là dựa vào khối
lượng học tập của sinh viên ở từng học kỳ là chủ yếu. Sinh viên được tự chọn
giáo viên, tự sắp xếp thời khóa biểu phù hợp với từng cá nhân, phòng học không

11


cố định gây khó khăn trong việc tập trung lớp học. Giáo viên chủ nhiệm giữ vai
trò cố vấn, vai trò của ban cán sự lớp trở nên mờ nhạt.
Với lớp sinh hoạt chuyên ngành, vai trò của cố vấn học tập hết sức quan
trọng. Cơ cấu ban chấp hành, ban cán sự lớp hoạt động tích cực, đồng bộ, có

vai trò liên kết giữa các thành viên trong lớp, là cầu nối hiệu quả với Chi đoàn,
Khoa và Nhà trường trong việc thực hiện các kế hoạch đã đề ra.
2.1.3 Thực trạng về việc học tập của sinh viên các lớp chuyên ngành
- Về việc nắm bắt quy định, quy chế đào tạo tín chỉ của sinh viên
Theo điều tra, phần lớn chỉ nắm được một số thông tin rất cơ bản liên quan đến
việc cách quy điểm theo hệ số 4, điểm tích lũy, các lớp học phần. Việc đăng ký
học phần của nhiều sinh viên trong thời gian qua đã có một số vấn đề tồn tại như
sau: không đăng ký học phần hoặc đăng ký trễ so với thời gian quy định; không
theo dõi kết quả đăng ký học phần sau khi Nhà trường xét duyệt.
+

Về việc nắm bắt cách tính điểm

Điểm học phần là tổng của điểm đánh giá quá trình và điểm thi kết thúc học
phần nhân với trọng số tương ứng. Điểm học phần làm tròn đến một chữ số thập
phân, sau đó được chuyển thành điểm chữ như sau:
a. Loại đạt:
A (8,5 - 10) Giỏi
B (7,0 - 8,4) Khá
C (5,5 - 6,9) Trung bình
D (4,0 - 5,4) Trung bình yếu
b. Loại không đạt:
F (dưới 4,0) Kém
Cách tính điểm trung bình chung:
1. Để tính điểm trung bình chung học kỳ và điểm trung bình chung tích lũy, mức
điểm chữ của mỗi học phần phải được quy đổi sang điểm số như sau:
A tương ứng với 4
B tương ứng với 3
C tương ứng với 2
12



D tương ứng với 1
F tương ứng với 0
2. Điểm trung bình chung học kỳ và điểm trung bình chung tích lũy được tính
theo công thức sau và được làm tròn đến 2 chữ số thập phân: theo công thức:
điểm môn x số tín chỉ
rồi tổng điểm các môn như vậy chia cho tổng số tín chỉ.
Bằng tốt nghiệp đại học, cao đẳng được cấp theo ngành đào tạo chính.
Hạng tốt nghiệp được xác định theo điểm trung bình chung tích lũy của
toàn khoá học.
Đây cũng là điều cơ bản nhất trong quy chế đào tạo tín chỉ nhưng không
phải sinh viên nào cũng nắm vững, ảnh hưởng đến sự nỗ lực, cố gắng trong quá
trình rèn luyện tích lũy điểm học phần của bản thân sinh viên.
+ Về việc nắm bắt quy định phúc khảo
Nếu muốn phúc khảo, khiếu nại về điểm học phần, sinh viên nộp đơn xin phúc
khảo cho Khoa phụ trách học phần đó trong khoảng thời gian 1 tuần sau khi biết
điểm.
Ở Khoa, số lượng sinh viên đề nghị phúc khảo tập trung ở các học phần
Nguyên lý cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin 2 và Tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng đa
phần điểm phúc khảo trùng với điểm chấm lần 1. Điều này phản ánh sự chấm
điểm trung thực, chính xác, có trách nhiệm của giảng viên khoa lý luận chính trị.
- Về việc tự học
Đào tạo theo tín chỉ đòi hỏi thời lượng tự học của sinh viên chiếm 2/3 so
với giờ học trên lớp. Nhưng sinh viên tự học thời tín chỉ vẫn có tư tưởng và thói
quen học tập chưa phù hợp. Đào tạo tín chỉ với việc giảm thời lượng lên lớp
không phải là giảm yêu cầu học tập. Tuy vậy, một số lớn sinh viên chưa hiểu
được điều này, nên không phải sinh viên nào cũng sử dụng thời gian dôi ra để tự
học, tự nghiên cứu. Thực tế, sau năm đầu tiên khi nhà trường áp dụng mô hình
đào tạo mới, 107 sinh viên đã bị buộc thôi học và trả về địa phương theo quyết

định của ĐH Huế, trong đó có 1 sinh viên của khoa Lý luận chính trị.

13


Cơ sở vật chất của Khoa vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tự học của phần
lớn sinh viên.
Hiện nay đa số sinh viên tín chỉ vẫn còn xa lạ với việc tự hoạch định nội
dung học tập, và quản lý quá trình tự học, nhiều sinh viên sử dụng không đúng
mục đích thời gian tự học đã được thiết kế trong chương trình, phần lớn thời
gian dành cho các hoạt động riêng như: đi làm thêm, học thêm văn bằng hai, các
hoạt động vui chơi, giải trí, và không loại trừ những hoạt động xấu khác.
Bên cạnh đó, giảng viên vẫn chưa có biện pháp để kiểm tra, đánh giá việc
tự học và tự nghiên cứu của sinh viên.
Mặt khác, trong tự học, đối với sinh viên, khó nhất của học tín chỉ là phải
áp dụng phương pháp học tích cực.
Sinh viên vẫn chưa có kỹ năng và sáng tạo trong khi đọc tài liệu, chỉ giới
hạn trong những tài liệu mà giáo viên giới thiệu. Khả năng đọc hiểu, phân tích,
tổng hợp để nắm được nội dung cốt lõi các tác phẩm kinh điển chuyên ngành nói
riêng và các nội dung học phần nói chung còn hạn chế.
- Về việc học trên lớp
Đối với lớp học phần, có thể nhận thấy rất rõ ràng sinh viên không chuyên
triết học, không thích học, hay nặng hơn là chán học các bộ môn Mác - Lênin
nói chung bởi nó không phù hợp với những đòi hỏi đặc thù của từng chuyên
ngành. Việc dạy và học bị rút ngắn nên ngay cả những nội dung cơ bản nhất của
chương trình đã quá sơ sài so với yêu cầu cần phải có thì người giảng cũng
không kịp truyền thụ hết, chương trình học khô cứng và y hệt nhau cho mọi đối
tượng thuộc các chuyên ngành khác nhau nên học các lớp học phần chung về
chuyên đề Triết học bao giờ cũng khá thiệt thòi trong việc lĩnh hội hàm lượng
kiến thức trang bị cho sinh viên chuyên ngành.

Đối với lớp chuyên ngành, việc đảm nhận nhiệm vụ đào tạo sinh viên
chuyên ngành Triết học, với các chuyên đề chuyên sâu, trình độ nâng cao theo
chương trình đào tạo, thời gian đào tạo, chất lượng đào tạo luôn được Khoa lập
kế hoạch khá cụ thể, triển khai đến sinh viên chuyên ngành. Về cơ bản, đa số
Giảng viên đã nắm được yêu cầu, cách thức, nhiệm vụ cho một bài giảng tín chỉ.
14


Những khó khăn nhất đối với sinh viên chuyên ngành đó là : Về giáo
trình, tài liệu môn học; Về khả năng nắm bắt vấn đề của người học; Về tính chủ
động, tự học, tự đọc tài liệu của sinh viên; Về khả năng làm việc nhóm; Đặc biệt
là khả năng tiếp cận các tác phẩm kinh điển triết học. Bên cạnh đó khả năng sinh
viên chuyên ngành rất hạn chế về cách học theo phương thức tín chỉ, rất thụ
động, lười học, không chịu khó tìm kiếm và đọc tài liệu, chỉ đọc một số tác
phẩm mà giáo viên giới thiệu với mục đích kiểm tra, làm bài tập; sinh viên quá
quen với nếp học cũ, thích học dễ, thi dễ.
- Về việc kiểm tra, thi kết thúc học phần
Hình thức thi giữa học phần và thi kết thúc học phần chủ yếu là hình thức
thi tự luận, một số môn thi được sử dụng tài liệu. Hình thức thi này vô tình tạo
cho sinh viên sự thụ động, sau khi thi xong sinh viên quên ngay kiến thức vừa
học.
2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng học tập theo phương thức đào tạo
tín chỉ ở Khoa Lý luận chính trị
Thứ nhất, sinh viên nắm vững quy chế, quy định đào tạo tín chỉ
Sinh viên có thể tham khảo thông qua các văn bản của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, của Đại học Huế, của trường Đại học Khoa học. Trong đó cần chú ý
nhất đến thang điểm mới và việc đăng ký học phần nhằm tránh cho sinh viên
phải tích lũy số tín chỉ quá nặng trong 1 học kỳ, ảnh hưởng đến điểm trung bình.
Thứ hai, sinh viên lập kế hoạch học tập
Sinh viên cần thiết lập kế hoạch học tập của mình cho từng học phần, học

kỳ, năm học, kế hoạch học tập phù hợp với từng môn học, thời gian và đặc điểm
tâm lý của bản thân, phải thực tế và linh hoạt, không thể lập một kế hoạch mà
trong đó mỗi công việc đều quy định thời gian cụ thể.
Thứ ba, chuẩn bị tài liệu và phương tiện theo sự hướng dẫn của
giảng viên
Để chuẩn bị bài kỹ trước mỗi buổi học, bên cạnh giáo trình môn học, mỗi
sinh viên cần chủ động sưu tầm tài liệu, thông tin trên các phương tiện; với các
yêu cầu cụ thể như: sinh viên sẽ trả lời những câu hỏi nào? Sử dụng phương tiện
15


gì để phục vụ cho việc học tập? để khi tiến hành bài học trên lớp thì giảng viên
và sinh viên cùng làm việc tránh tình trạng độc thoại của giảng viên.
Thứ tư, việc nghe giảng và ghi chép
- Chuẩn bị nghe giảng: Sinh viên cần làm tốt công tác chuẩn bị, nên bắt
đầu từ việc xem lại bài ghi lần trước . Khi nghiên cứu nội dung bài mới, những
vấn đề khó hoặc chưa hiểu, sinh viên nên ghi chép lại để khi nghe giảng sẽ chú ý
hơn và nếu bài giảng chưa giải thích rõ sinh viên cần trao đổi với thầy, cô hoặc
bạn bè.
- Nghe giảng và ghi chép trên lớp : khi nghe giảng, sinh viên phải hoạt
động tư duy hết sức tích cực, khẩn trương để có thể nắm được những vấn đề
giảng viên gợi mở, trình bày.
Đối với các môn Lý luận chính trị, cần đảm bảo tính chính xác và tính
logic của các quan điểm, luận cứ, luận chứng…Vì vậy, bài ghi của sinh viên
phải chính xác, đảm bảo yêu cầu về kiến thức và tính logic của bài học. Tuy
nhiên, cách ghi bài của mỗi sinh viên có thể khác nhau, tùy thuộc vào vốn hiểu
biết và sự vận dụng sáng tạo của mỗi sinh viên.
Thứ năm, thu thập kiến thức từ giáo trình và tài liệu
- Sinh viên phải biết lựa chọn sách, báo, tạp chí, văn kiện, nghị quyết...
phù hợp với từng bài học.

- Sinh viên cần xác định rõ mục đích đọc tài liệu: Đọc để tìm hiểu toàn bộ
nội dung cuốn sách; để tìm hiểu một vấn đề; sưu tầm tài liệu bổ sung cho những
vấn đề mà mình đang nghiên cứu… hoặc thu thập thông tin để giải quyết một
vấn đề thực tiễn nào đó.
- Đọc tài liệu để hiểu sâu kiến thức cơ bản của từng bài, từng chương và
tiến tới cả học phần.
*Đối với hoạt động Đoàn, Hội
Xây dựng "mô hình chi đoàn mềm dẻo" để thích ứng với sự biến đổi của
lớp học.
2.2.2 Một số kiến nghị về giải pháp

16


- Nhà trường cần bổ sung, hoàn chỉnh các quy định, hướng dẫn đào tạo
theo hệ thống tín chỉ cho phù hợp với tình hình thực tế của Nhà trường. Mở rộng
đối tượng sinh viên có nhu cầu tích lũy lại các học phần để cải thiện điểm và sử
dụng thang điểm chữ nhiều mức.
- Nhà trường tiếp tục quán triệt những vấn đề cơ bản, cốt lõi trong đào tạo
theo hệ thống tín chỉ cho cán bộ, giảng viên, sinh viên nhằm tạo ra sự đồng
thuận và thích ứng cao của các chủ thể đối với phương thức đào tạo mới này.
- Nhà trường cần khuyến khích công tác xây dựng hệ thống học liệu cho
các ngành đào tạo, tiến tới tất cả các học phần đều có giáo trình, tài liệu tham
khảo cho sinh viên.
- Nhà trường cần sửa đổi cơ chế quản lý tài chính theo hướng khoán chi
cho các đơn vị, nhằm đảm bảo thu chi minh bạch, hợp lý. Trao học bổng cho
sinh viên cần kịp thời nhằm khích lệ tinh thần, tạo sự hứng khởi để sinh viên có
động lực phấn đấu, thi đua trong học tập và rèn luyện.
- Khoa cần đẩy mạnh các sinh hoạt chuyên môn, học thuật tập trung vào
vấn đề tổ chức dạy học theo hệ thống tín chỉ như:

Để việc tự học, tự nghiên cứu đạt kết quả cao, bản thân sinh viên cần
được cung cấp hệ thống học liệu và bồi dưỡng phương pháp tự học, tự nghiên
cứu.
- Để khắc phục tình trạng thụ động trong học tập của sinh viên, Khoa cần
cử giảng viên cố vấn là người có tâm huyết, có kinh nghiệm trong quản lý đào
tạo và giảng dạy, nắm vững quy trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ và hệ thống
môn học thuộc chuyên ngành.
Cố vấn học tập được xem là một mắt xích trong sợi dây chuyền đào tạo
theo hệ thống tín chỉ. Cố vấn học tập cần giúp đỡ sinh viên, khi các sinh viên
đăng ký học, học ngành hai, học tích lũy lại các học phần bị điểm F hoặc D để
cải thiện điểm trung bình chung tích lũy…
- Đối với sinh viên Triết học, Khoa lý luận chính trị:
Thứ nhất, yêu cầu nắm vững quy định, quy chế đào tạo tín chỉ.

17


Thứ hai, cần tích cực học tập, sử dụng đúng thời gian tự học để nghiên
cứu, học tập góp phần nhằm cao chất lượng trong đào tạo tín chỉ.
Thứ ba, tích cực tham gia các hoạt động phong trào của Đoàn Thanh niên,
Hội Sinh viên trong điều kiện mới.

18


KÊT LUẬN
Như vậy, thực hiện học chế tín chỉ là một điều tất yếu trong lộ trình đổi
mới giáo dục đại học ở Việt Nam. Đây cũng là cơ hội để trường Đại học Khoa
học Huế cùng với khoa Lý luận chính trị thay đổi mô hình giảng dạy để trở
thành một hệ thống dựa trên mục tiêu học tập, đặt trọng tâm vào việc học tập

của sinh viên. Để đạt hiệu quả tốt trong đào tạo tín chỉ phải có sự cố gắng chuẩn
bị nỗ lực từ nhiều phía: nhà trường, giảng viên, sinh viên nhưng quyết định đến
chất lượng, kết quả học tập cốt lõi vẫn là sinh viên.
Đứng trước những vấn đề nảy sinh như: chương trình học, áp dụng công
nghệ thông tin trong quản lý, huấn luyện cho nhân viên và giảng viên về hệ tín
chỉ, cố vấn cho sinh viên, xây dựng chương trình học và ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý học của sinh viên....thì yêu cầu học tập của sinh viên vẫn
luôn được đặt lên hàng đầu. Sinh viên cần hết sức chủ động, biết cách tự đánh
giá khả năng học tập của mình để từ đó sự lựa chọn một phương pháp học tập
phù hợp, đúng đắn thì mới có được kết quả cao trong học tấp và rèn luyện.
Trong đó với đặc trưng chuyên ngành lý luận, trước hết sinh viên Triết cần hiểu
rõ bản chất của học chế tín chỉ để đề ra cho mình được một phương pháp tự học
đúng đắn và những kỹ năng cần có trong điều kiện mới.
Với đề tài "Học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ ở Khoa Lý luận
chính trị trường Đại học khoa học- Đại học Huế" bước đầu chúng tôi làm
sáng rõ những vấn đề liên quan đến phương thức đào tạo tín chỉ, tìm hiểu những
bước đi đầu tiên trong Khoa Lý luận chính trị, từ đó đề ra những giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng học tập của sinh viên chuyên ngành triết học.
Với đề tài này, chúng tôi hy vọng đây là một tài liệu có ích giúp giáo viên
và sinh viên hiểu rõ hơn về phương thức đào tạo mới. Đặc biệt, đối với sinh viên
Triết học, các bạn sẽ tìm được cho mình một phương pháp học tập phù hợp đáp
ứng với thực tiễn đào tạo hiện nay.

19


20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS. Trần Thanh Ái; Đào tạo theo hệ thống tín chỉ - Các nguyên lý, thực
trạng và giải pháp. Nguồn: .
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Nxb. CTQG Hà Nội, 2009.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình Những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Nxb. CTQG Hà Nội, 2009.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 43/2007/QĐ-BGD&ĐT
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. Nxb. CTQG Hà
Nội, 2009.
6. GS.TS Lê Thạc Cán; Tổ chức giảng dạy và học tập theo chương trình định
sẵn và theo học chế tín chỉ; Bài viết cho Tọa đàm về đào tạo theo tín chỉ ở
ĐHQGHN (4/2006).
7. TS. Nguyễn Kim Dung; Đào tạo theo hệ thống tín chỉ: Kinh nghiệm thế giới
và thực tế ở Việt Nam. Bài viết cho hội thảo "Đào tạo theo tín chỉ" do trường ĐH
Huflit tổ chức năm 2005.
Nguồn />8. Đại học Huế, Trường Đại học Khoa học, Niên giám 2008-2009.
9. Đại học Huế, Trường Đại học Khoa học, Niên giám 2009-2010.
10. PGS.TS Trần Kim Đỉnh; Đào tạo các môn lý luận chính trị theo tín chỉ Những bước đi đầu tiên. Nguồn />11. Nguyễn Tấn Hùng; Đào tạo tín chỉ ở nước ta hiện nay: ưu điểm, một số bất
cập và biện pháp thực hiện, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng số 5 (40).2010, tr.148 - 154.
12. Luật Giáo dục sửa đổi ( được Quốc hội thông qua 20/5/2005)
13. Phạm Thị Ly, Hệ thống tích luỹ và chuyển đổi tín chỉ Châu Âu và phương
thức hội nhập của Việt Nam, trong "Kỷ yếu Hội thảo khoa học Đào tạo liên
thông theo hệ thống tín chỉ, Ban liên lạc các trường đại học và cao đẳng Việt
Nam", 2008.
21


14. Th.S Đinh Thị Phòng; Giảng dạy triết học đáp ứng yêu cầu đào tạo tín chỉ
chuyên ngành triết học ở trường Đại học khoa học, thực trạng và giải pháp. Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Đại học Khoa học Huế, 2010.

15. PGS.TS. Cary J. Trexler, Hệ thống tín chỉ tại các trường đại học Hoa Kỳ:
Lịch sử phát triển, Định nghĩa và Cơ chế hoạt động, trong "Tạp chí
Nghiên cứu Giáo dục", số 11/2008 (đăng lại trên trang web
tham khảo ngày 22/1/2010).

MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................1
1. PGS.TS. Trần Thanh Ái; Đào tạo theo hệ thống tín chỉ - Các nguyên lý, thực trạng và
giải pháp. Nguồn: ..................................................................................21
15. PGS.TS. Cary J. Trexler, Hệ thống tín chỉ tại các trường đại học Hoa Kỳ: Lịch sử phát
triển, Định nghĩa và Cơ chế hoạt động, trong "Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục", số 11/2008
(đăng lại trên trang web tham khảo ngày
22/1/2010).............................................................................................................................22
MỤC LỤC.................................................................................................................................22

22



×