Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

khóa luận tốt nghiệp Học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ ở khoa lý luận chính trị trong các trường đại học hiện nay1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.45 KB, 63 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tín chỉ là một phương thức đào tạo tiến bộ trên thế giới, hệ thống này
lần đầu tiên, vào năm 1872 được áp dụng tại Viện Đại học Harvard - Hoa
Kỳ, hệ thống này ra đời như một cách để giải quyết những vấn đề của giáo
dục trung học Hoa kỳ và nó đã đem lại những thành quả to lớn trong nền
kinh tế tri thức và cách đào tạo hiệu quả này đã được nhiều quốc gia học hỏi
và áp dụng. Để bắt kịp với sự tiến bộ của thời đại ,đồng thời nhằm đổi mới
giáo dục đại học ở Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã yêu cầu chuyển đổi
từ việc thực hiện chương trình đào tạo theo nhóm sinh viên được chia thành
lớp theo kiểu Đông Âu (Xô viết) thành việc thực hiện đào tạo theo hệ thống
tín chỉ kiểu Hoa Kỳ, bắt đầu từ năm học 2008-2009 và đòi hỏi phải hoàn tất
việc chuyển đổi này trước năm 2012.
Thực hiện theo Quy chế 43 về Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính
quy theo hệ thống tín chỉ (Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐBGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo), Trường đại học Khoa học Huế nói chung và Khoa Lý luận Chính trị nói
riêng đã triển khai phương thúc đào tạo tiên tiên này kể từ khóa tuyển sinh
năm học 2008-2009. Trải qua một thời gian, đến nay phương thức đào tạo
tín chỉ đã mang lại những thành quả nhất định, nhưng cùng với đó đã và
đang tồn tại những vấn đề không nhỏ. Vì đây là phương thức đào tạo mới
nên còn nhiều vấn đề liên quan mà cả sinh viên và giáo viên vẫn đang lúng
túng, vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra lúc này là cả sinh viên và giáo viên cần
có sự trang bị cơ bản về phương thức đào tạo tín chỉ để quá trình giảng dạy


và học tập diễn ra theo đúng tinh thần của nó, đặc biệt là với đặc thù chuyên
ngành lý luận chính trị, làm sao để thích ứng với điều kiện mới.
Tuy vậy trong điều kiện thực hiện đào tạo theo phương thức mới trong
giai đoạn đầu tiên hiện nay, Nhà trường nói chung cũng như Khoa nói riêng
đang cố gắng để vượt qua quá nhiều rào cản và sức ỳ trong quá trình chuyển
đổi, trong quá trình chuyển đổi vẫn đang tồn tại những bất cập trong hoạt


động dạy và học của giáo viên và sinh viên như: cách tính điểm, cách đăng
ký học phần, cách đề nghị phúc khảo, cách cập nhật điểm, tính công bằng
trong hoạt động học tập giữa các sinh viên với nhau, cách tổ chức học nhóm,
thảo luận, cách đánh giá của thầy cô. Các chế tài chính sách về giáo trình,
học phí, thực tập, thực tế...đang còn nhiều vướng mắc. Vì vậy, đòi hỏi phải
có sự nghiên cứu, phân tích để làm rõ một cách nghiêm túc thực trạng hiện
nay, từ đó đề ra những giải pháp để quá trình dạy và học theo phương thức
mới diễn ra một cách có hệ thống và thuận lợi hơn. Đồng thời nhằm đưa đến
cho giáo viên và sinh viên những kiến thức chung về phương thức đào tạo
tín chỉ, chúng tôi đã chọn đề tài " Học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ
ở khoa Lý luận chính trị trong các trường Đại học hiện nay " để đáp ứng
nhu cầu tìm hiểu của giáo viên và sinh viên trong khoa Lý luận chính trị.
Do hạn chế về thời gian và điều kiện học tập của sinh viên, giới hạn
của đề tài chỉ là tìm hiểu về học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ được
thực hiện đối với sinh viên ở Khoa lý luận Chính trị.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu đề tài này trong bối cảnh ngành giáo dục đại học đang thực
hiện bước chuyển đổi phương thức đào tạo theo hệ tín chỉ, những hiểu
biết về phương thức đào tạo mới này với nhiều thầy, cô giáo và sinh
viên còn nhiều bỡ ngỡ. Nhìn chung, chúng ta bắt đầu tìm kiếm thông
tin ở nhiều nguồn khác nhau về phương thức đào tạo này trên thế giới,


việc áp dụng vào các trường đại học trong nước. Chúng tôi tìm hiểu
tổng quan những bài viết về Đào tạo tín chỉ ở các trường Đại học nước
ngoài như: mục tiêu sư phạm của hệ thống đào tạo theo tín chỉ Mỹ và
những gợi ý cho cải cách giáo dục Đại học Việt Nam (Eli Mazur &
Phạm Thị Ly); Hệ thống tín chỉ tại các trường đại học Hoa Kỳ : Lịch
sử phát triển, Định nghĩa và cơ chế hoạt động
(Trexler C.J.Trexler); Vài nét về hệ thống tín chỉ Đại học Châu Âu (Hà

Dương Tùng).
Trong nước, các công trình nghiên cứu, tài liệu có liên quan đến đề
tài như: Tác giả Hoàng Văn Vân với bài viết "Phương thức đào tạo
tín chỉ: lịch sử, bản chất và những hàm ý cho phương pháp dạy học ở bậc đại học" đã làm rõ : Tín chỉ là một phương thức đào tạo tỏ
ra có nhiều ưu thế so với phương thức đào tạo truyền thống. Ở Việt
Nam cách đây một vài năm đã có một số trường đại học chủ động áp
dụng phương thức đào tạo tiên tiến này. Tuy nhiên, do tính toán chưa
kĩ, chưa có những bước đi phù hợp và nhất là chưa lường trước được
những khó khăn có thể nảy sinh trong quá trình áp dụng cho nên kết
quả của việc áp dụng này thường không theo mong muốn. Với cách đặt
vấn đề như vậy, tác giả trả lời câu hỏi: “Tín chỉ là gì?”, nêu bật những
đặc điểm chính của phương thức đào tạo theo tín chỉ, những lợi thế của
phương thức đào tạo này so với phương thức đào tạo truyền thống và
đề xuất một số gợi ý về phương pháp giảng dạy - học ở bậc đại học
trong hệ thống đào tạo theo tín chỉ, nêu bật vai trò của người dạy và
người học trong hệ hình đào tạo mới, tạo hiệu quả cao trong dạy, học
và nghiên cứu theo phương thức đào tạo theo tín chỉ ở Việt Nam nói
chung và ở ĐHQGHN nói riêng.


- Một số tác giả bàn về đào tạo tín chỉ ở Việt Nam như: "Về học chế độ
tín chỉ và việc áp dụng ở Việt Nam" (Nguyễn Hoàng Việt); tác giả Trần
Thanh Nguyên "Hình thành các mô đun dạy học - một trong các hướng
đổi mới phương pháp dạy học trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở đại
học"; "Về việc áp dụng học chế tín chỉ trên thế giới và ở Việt Nam"
(Lâm Quang Thiệp); Tổ chức giảng dạy học tập theo chương trình định
sẵn và học chế tín chỉ (Lê Thạc Cán); Tài liệu, công văn của Bộ giáo
dục và Đào tạo về việc thực hiện đổi mới đào tạo theo hệ thống tín chỉ
đối với các trường đại học.
- Chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới Giáo dục đào tạo, được

cụ thể hóa ở các văn bản : Luật giáo dục sửa đổi (được Quốc hội thông
qua 20/5/2005): "Về chương trình giáo dục: Đối với giáo dục nghề
nghiệp, giáo dục đại học có thể được tiến hành theo hình thức tích lũy
tín chỉ hay theo niên chế" (Báo Giáo dục và Thời đại, ngày 18/6/2005);
Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về đổi
mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 2020: "Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo
hệ thống tín chỉ, tạo điều kiện thuận lợi để người học tích lũy kiến thức,
chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển tiếp tới các cấp học tiếp
theo ở trong nước và ở nước ngoài".
- Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định số 31/2001/QĐBGD&ĐT ngày 30/7/2001 về việc thí điểm tổ chức đào tạo, kiểm tra,
thi và công nhận tốt nghiệp đại học, cao đẳng hệ chính quy theo học
chế tín chỉ.
- Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học (ban hành
theo quyết định số 38/2004/QĐ-BGD&ĐT ngày 2/12/2004 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo): "Thực hiện chế độ công nhận kết quả


học tập người học (tích lũy theo học phần); chuyển quy trình tổ chức
đào tạo theo niên chế sang học chế tín chỉ". Quy chế 43/2007; Chỉ thị
53/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về nhiệm vụ trọng tâm của giáo
dục đại học năm học 2007 - 2008; Quy chế 31/2001 và Công văn 1878
hướng dẫn quy chế 31.
- Quy chế đào tạo đại học ở Đại học Quốc gia Hà Nội (ban hành kèm
theo Quyết định số 343/ĐT ngày 10 tháng 9 năm 2007 của Giám đốc
Đại học Quốc gia Hà Nội).
- Chủ trương hướng dẫn, thực hiện theo lộ trình các bước chuyển đổi
phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở Đại học Huế: Kế hoạch
triển khai - CV số 1124, 9/2007; Triển khai thực hiện "Đề án Đào tạo
bậc đại học theo học chế tín chỉ", Đại học Huế hướng dẫn chuyển đổi
chương trình đào tạo hiện hành phù hợp với phương thức đào tạo theo

hệ thống tín chỉ để các Trường, Khoa, Trung tâm trực thuộc Đại học
Huế tiến hành chuyển đổi chương trình theo đúng những quy định
chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Đại học Huế. Quy chế đào tạo
đại học ở Đại học Huế và các trường thành viên thuộc Đại học Huế.
Trong tình chung các đơn vị như Khoa Giáo dục chính trị, trường Đại
học Sư phạm, Khoa Kinh tế chính trị thuộc Đại học Huế đã tiến hành tổ
chức các Hội thảo về Đổi mới đào tạo theo hệ thống tín chỉ, với nhiều
bài viết của các Thầy giáo, Cô giáo, các nhà quản lý giáo dục đi vào
phân tích ưu điểm, hạn chế, tìm ra những giải pháp để thực hiện áp
dụng hình thức đào tạo này, đặc biệt áp dụng đổi mới cách giảng dạy và
học tập các môn lý luận chính trị trong tình hình hiện nay.
- Trường Đại học Khoa học đã tổ chức nhiều hoạt động thực hiện các
bước chuyển đào tạo từ hệ niên chế sang hệ tín chỉ : Ban hành Quy chế


học vụ đào tạo hệ chính quy theo học chế tín chỉ; Xây dựng mẫu Đề
cương học phần theo học chế tín chỉ (kèm theo Thông báo 015)
Thông báo 015 (11/1/2008) ban hành hướng dẫn xây dựng đề cương
học phần, phương pháp dạy học và quy trình kiểm tra - đánh giá kết
quả học tập phù hợp với phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ.
Nhà trường và Khoa Lý luận chính trị đã tổ chức các buổi gặp mặt, đối
thoại với sinh viên nhằm phổ biến, tập huấn về hình thức học theo tín
chỉ. Vào tháng 10 năm 2009, Khoa đã tổ chức hội thảo “Về đổi mới
phương pháp dạy - học phù hợp với đào tạo tín chỉ của Khoa Lý
luận chính trị" chỉ ra những khó khăn, thách thức mà giáo viên,
sinh viên gặp phải trong quá trình chuyển đổi, từ đó có phương
hướng, giải pháp cho hoạt động dạy và học của giáo viên và sinh
viên phát triển theo đúng tinh thần tín chỉ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài: Tìm hiểu tổng quan về phương thức đào tạo tín

chỉ nhằm đưa tới cho giáo viên và sinh viên sự hiểu biết về phương thức đào
tạo mới.
Làm rõ thực trạng của việc học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ ở
Khoa Lý luận chính trị, trường Đại học khoa học - Đại học Huế từ đó đề ra
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập chuyên ngành Triết học
ở Khoa Lý Luận chính trị, Trường Đại học khoa học - Đại học Huế.
Nhiệm vụ của đề tài : Làm rõ thực trạng của việc học tập theo phương
thức đào tạo tín chỉ tại Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học khoa học Đại học Huế từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học
tập theo phương thức đào tạo tín chỉ ở Khoa Lý luận chính trị.
4. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu của đề tài


Đề tài được thực hiện trên cơ sở các nguyên lý triết học Mác - Lênin
với phương pháp luận là phép biện chứng duy vật.
Phương pháp nghiên cứu đề tài là vận dụng những nguyên tắc tư duy
biện chứng kết hợp với so sánh, phân tích, chú giải, tổng hợp và khái quát
hóa.
5. Đóng góp của đề tài
Hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài có những đóng góp sau:
- Đề tài phác thảo những kiến thức cơ bản về hệ thống đào tạo tín chỉ,
làm rõ lịch sử hình thành, phát triển và một số khái niệm liên quan giúp cho
giáo viên và sinh viên hiểu rõ hơn về phương thức đào tạo mới hiện nay.
- Đề tài đã trình bày thực trạng công tác đào tạo tín chỉ đối với chuyên
ngành trong điều kiện mới, đặc biệt đưa ra những đánh giá về phương pháp
học tập rèn luyện của sinh viên khi học theo phương thức tín chỉ.
- Đề tài đã nêu ra những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng học
tập đáp ứng yêu cầu đào tạo tín chỉ ở khoa Lý luận Chính trị.
- Là tài liệu đáng tin cậy cho các khóa đào tạo tín chỉ kế tiếp.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,

đề tài gồm 2 chương. Cụ thể:
- Chương 1: Tổng quan về phương thức đào tạo tín chỉ
- Chương 2 : Thực trạng và giải pháp của việc học tập theo phương
thức đào tạo tín chỉ ở Khoa Lý luận chính trị, Trường
Đại học khoa học - đại học Huế


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG THỨC ĐÀO TẠO TÍN CHỈ
1.1. Phương thức đào tạo tín chỉ: lịch sử và một số khái niệm
1.1.1. Lịch sử phương thức đào tạo tín chỉ
Phương thức đào tạo tín chỉ là sản phẩm trí tuệ của người Mỹ do
Charles Eliot - Viện trưởng Viện đại học Harvard khởi xướng vào cuối thế
kỉ 19, khi mà ở Mỹ số lượng học sinh trung học phổ thông ghi danh vào học
đại học ngày càng tăng, gây áp lực không nhỏ cho quá trình xét tuyển của
các trường đại học. Hệ thống tín chỉ, do đó, được thiết kế ra để ghi lại và giải
thích một cách tường minh năng lực học tập của học sinh trung học phổ
thông, giúp các chuyên viên trong các phòng đào tạo của các trường đại học
có căn cứ tin cậy để tuyển chọn được những sinh viên có chất lượng theo
những chuẩn mực mà trường đại học của mình đề ra, và chương trình này
được tài trợ bởi tổ chức phi chính phủ rất có quyền lực có tên là Quỹ
Carnegie Vì sự Tiến bộ trong Chất lượng Giảng dạy (Carnegie Foundation
for the Advancement of Teaching). Đại học Harvard là trường đầu tiên trên
thế giới áp dụng phương thức đào tạo này vào năm 1872. Từ đó, hệ thống tín
chỉ dần dần thâm nhập vào các trường đại học, lúc đầu chỉ để ghi lại điểm số
của các môn học lựa chọn, sau đó, do áp lực của các nhà tài trợ, các tổ chức
từ thiện yêu cầu phải làm rõ hay lượng hóa năng lực chuyên môn và kĩ năng
nghề nghiệp của sinh viên và hiệu quả đào tạo của trường đại học, hệ thống
tín chỉ được mở rộng ra tất cả các môn học thuộc các khối kiến thức khác
trong chương trình đại học và trở thành một phương thức đào tạo chính thức,



thay thế cho phương thức đào tạo truyền thống mà những thế hệ cha ông của
người Mỹ mang đến từ châu Âu.
Tuy mới được phát triển hơn một thế kỉ, nhưng cũng có nhiều quan
điểm khác nhau về nguồn gốc và tiến trình phát triển phương thức đào tạo
theo tín chỉ ở Mỹ. Bốn học giả Raunger, Row, Piper và West (1969) đã chia
lịch sử phát triển hệ thống tín chỉ thành ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1 (1873 – 1908): sự bất mãn ngày càng gia tăng đối với
quá trình xét tuyển vào đại học và với những mối quan hệ về học thuật giữa
giáo dục phổ thông và giáo dục đại học.
- Giai đoạn 2 (1908 - 1910): đề xuất và thực thi một đơn vị đo chuẩn
mực cho các môn học thuộc chương trình trung học phổ thông, làm cơ sở
cho việc tuyển chọn sinh viên vào các trường đại học.
- Giai đoạn 3 (1910 đến nay): áp dụng đơn vị giờ tín chỉ Carnegie, sự thịnh
hành, phát triển của đơn vị giờ tín chỉ Carnegie và tác động của nó vào
chương trình trung học và đại học ở Mỹ.
Mặt khác, nhà nghiên cứu Gerhad (1955, dẫn theo Shedd 2003) lại
chia tiến trình phát triển phương thức đào tạo theo tín chỉ ở Mỹ ra thành hai
giai đoạn:
- Giai đoạn 1 (từ những năm 1870 đến những năm 1880): sự xuất hiện của
hệ thống tín chỉ ở trung học phổ thông, các trường đại học bắt đầu đo hiệu
xuất giảng dạy và học tập theo môn học và theo các đơn vị giờ học.
- Giai đoạn 2 (khoảng cuối thế kỉ 19 đến nay): các trường trung học và đại
học giao đơn vị tín chỉ cho các môn học và xác định những điều kiện tốt
nghiệp theo tín chỉ.


Từ một góc nhìn khác, nhà nghiên cứu giáo dục người Mỹ Jesica M.
Shedd (2003) cho rằng hệ thống đào tạo theo tín chỉ ở Mỹ có nguồn gốc từ

ba nguyên nhân. Thứ nhất, nhu cầu cần phải xử lí sự đa dạng và sự gia tăng
về số lượng học sinh trung học phổ thông ghi danh vào học ở các trường đại
học trong khi vẫn duy trì những tiêu chuẩn về học thuật. Thứ hai, động cơ
thay đổi xuất phát ngay trong nội bộ hệ thống giáo dục đại học Mỹ, thực sự
muốn có một cuộc cải cách về giáo dục đại học với những chương trình đại
học “mở”, chứa đựng những môn học mà xã hội cần, có độ “mềm dẻo” nhất
định để người học có thể chọn những chuyên ngành phù hợp, những môn
học họ thấy cần thiết để phục vụ cho phát triển nghề nghiệp trong tương lai,
một kiểu chương trình khác về cơ bản với chương trình đào tạo truyền thống
với những đặc điểm “đóng” và “khô cứng” được mang đến từ Châu Âu
trong đó người học vào trường và ra trường đồng loạt, không có bất kì sự lựa
chọn nào khác về chuyên ngành và về các môn học. Thứ ba, áp lực từ những
tổ chức và cá nhân từ bên ngoài trường đại học: chính phủ, các nhà tài trợ,
các nhà sử dụng nguồn lực sinh viên tốt nghiệp, v.v. buộc các trường đại học
phải có những đơn vị đo chất lượng dạy - học tường minh hơn, có trách
nhiệm hơn.
Theo thời gian, từ lúc tín chỉ khởi đầu được thiết kế ra để chuẩn hóa
những thước đo khả năng học tập của học sinh phổ thông trung học, đáp ứng
số lượng học sinh trung học phổ thông ghi danh vào học đại học ngày càng
tăng, đến nay nó đã được phát triển và trở thành một hệ thống đào tạo, một
thước đo toàn diện trong giáo dục đại học ở Mỹ.
Vượt ra ngoài biên giới nước Mỹ, đào tạo theo tín chỉ bắt đầu được áp
dụng mạnh mẽ trước hết ở các nước Tây Âu từ những năm 1960. Trước đó,
chương trình truyền thống trong các trường đại học ở châu Âu, đặc biệt là ở


Tây Âu hầu như do giáo viên quyết định. Nó có xu hướng áp đặt, có rất ít
khả năng cho người học lựa chọn các môn học. Hơn 40 quốc gia châu Âu có
các các cơ sở đào tạo đại học, vì vậy việc áp dụng phương thức đào tạo theo
tín chỉ cũng khác nhau. Trong nhiều nước, đặc biệt là các nước bắc Âu các

chương trình đại học được mô tả theo tín chỉ tương đương với những gì
được mô tả trong các chương trình đại học ở Mỹ. Ở Phần Lan chẳng hạn, độ
dài của các chương trình cử nhân được tính theo tín chỉ (opintoiikko, nghĩa
đen là "tuần học tập"). Một tín chỉ (1 tuần học tập) gồm khoảng 40 giờ làm
việc trong đó bao gồm các hoạt động như giảng bài của giáo viên và các
hình thức hoạt động khác như thảo luận, làm bài tập, cemin, tự học ở nhà
hay trong thư viện, v.v.. Số tín chỉ một sinh viên tích lũy để được cấp bằng
cử nhân là 120. Thụy Điển cũng phát triển hệ thống điểm tín chỉ (poang) dựa
trên hệ thống điểm tín chỉ của Mỹ trong đó một tín chỉ bao gồm khoảng 40
giờ học tập và số lượng tín chỉ một sinh viên phải tích lũy để được cấp bằng
cử nhân là 120 – 140. Hệ thống tín chỉ ở các nước như Hà Lan, Na Uy và
Iceland cũng tương tự như vậy, với khối lượng học tập của sinh viên trên
một học kì được tính theo đơn vị tín chỉ (vettall) ở Na Uy, điểm học tập
(studiepunten) ở Hà Lan và tín chỉ học tập (namseiningar) ở Iceland. Tuy
nhiên, ở Iceland, do phần nhiều lượng thời gian học tập được thực hiện trong
bóng tối, cho nên việc học toàn thời được tính là 50 giờ một tuần chứ không
phải là 40 như các nước khác.
Ở Pháp, người ta cũng sử dụng đơn vị tín chỉ (unite de valeur – nghĩa
đen là đơn vị giá trị) để đo khả năng hoàn thành công việc học tập của sinh
viên theo học kì cho cả khối những môn học bắt buộc và khối những môn
học lựa chọn. Ở Anh, một mặt áp dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ, mặt
khác chủ trương môđun hóa toàn bộ chương trình đào tạo đại học.


Các nước khác ở Tây Âu như Đức và Bồ Đào Nha mới chỉ tổ chức
chương trình đào tạo của họ và những yêu cầu để lấy bằng theo các môn học
với những giá trị tính theo tín chỉ. Các nước còn lại như Italia, Tây Ban Nha
và các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu cũng bắt đầu chủ
trương chuyển phương thức đào tạo truyền thống sang phương thức đào tạo
theo tín chỉ.

Với chủ trương đa dạng hóa giáo dục đại học để hướng tới một “xã
hội tri thức châu Âu”, năm 1992 Hệ thống chuyển đổi tín chỉ Châu Âu
(European Credit Transfer System – ECTS) được phát động. Đây là một
chương trình thí điểm kéo dài trong 6 năm, thu hút sự tham gia của 145
trường đại học, tập trung vào 5 khu vực học thuật: quản trị kinh doanh, hóa
học, lịch sử, cơ khí, và y học. Sau 6 năm, ECTS phát triển mạnh và đã được
mở rộng vượt ra khỏi chương trình thí điểm, thu hút sự tham gia của nhiều
trường đại học, nhiều ngành khoa học. Đến nay số lượng thành viên tham
gia vào Hệ thống ECTS đã lên đến con số hàng nghìn.
Ở Châu Á, tín chỉ cũng được áp dụng mạnh mẽ, bắt đầu từ Nhật Bản,
Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia, Indonesia,
Phillipine, Trung Quốc. Phương thức đào tạo theo tín chỉ cũng được áp dụng
mạnh mẽ ở các nước thuộc Khối Liên hiệp Anh ở Nam Thái Bình Dương
như Australia, New Zealand, v.v...
Ở Việt Nam, trước năm 1975 một số trường đại học chịu ảnh hưởng
của Mỹ tại Miền Nam Việt Nam đã áp dụng học chế tín chỉ : Viện Đại học
Cần Thơ, Viện Đại học Thủ Đức … Đại học Bách khoa TP.HCM đã khôi
phục nó từ năm 1993 và tiếp theo đó lần lượt trường Đại học Đà Lạt, Đại
học Cần Thơ, Đại học Thuỷ sản Nha Trang, trường Đại học Bách khoa Hà
Nội, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hồ Chí Minh, v.v..


Thực hiện theo Quy chế 43 về Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính
quy theo hệ thống tín chỉ (Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐBGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo), năm 2008, Đại học Huế chuyển từ đào tạo hệ niên chế sang đào tạo
theo hệ tín chỉ, Đại học Khoa học - Đại học Huế nói chung và Khoa lý luận
nói riêng cũng đã chuyển đổi từ khóa tuyển sinh năm học 2008-2009.
Việc áp dụng hệ thống đào tạo theo tín chỉ phản ánh quan điểm lấy
người học làm trung tâm, người học là người tiếp nhận kiến thức nhưng
đồng thời cũng là người chủ động tạo kiến thức, hướng tới đáp ứng những

nhu cầu của thị trường lao động ngoài xã hội. Nó cho phép họ chọn trong số
những môn học được thiết kế trong chương trình, nhiều trong số những môn
học đó có thể thay thế được với nhau và hữu ích như nhau.
Như vậy ta có thể khẳng định rằng tín chỉ là một phương thức đào tạo
có nhiều ưu thế so với phương thức đào tạo truyền thống. Những lợi thế của
phương thức đào tạo theo tín chỉ sau chỉ cho chúng ta thấy sự tất yếu của
việc chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ:
Thứ nhất: Trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, tự học, tự nghiên
cứu của sinh viên được coi trọng, được tính vào nội dung và thời lượng của
chương trình. Đây là phương thức đưa giáo dục đại học về với đúng nghĩa
của nó: người học tự học, tự nghiên cứu, giảm sự nhồi nhét kiến thức của
người dạy, và do đó, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học.
Thứ hai: Độ mềm dẻo và linh hoạt của chương trình. Chương trình
được thiết kế gồm một hệ thống những môn học lớn hơn số lượng các môn
học hay số lượng tín chỉ được yêu cầu; do vậy sinh viên có thể chọn những
môn học phù hợp với mình.
Thứ ba: Sinh viên được cấp bằng khi đã tích lũy được đầy đủ số lượng
tín chỉ do trường đại học quy định; như thế họ có thể hoàn thành những điều


kiện để được cấp bằng tùy theo khả năng (thời gian, kinh tế, sức khỏe, v.v.)
của cá nhân.
Thứ tư: Phương thức đào tạo theo tín chỉ phản ánh được những mối
quan tâm và những yêu cầu của người học và nhu cầu của các nhà sử dụng
lao động.
Thứ năm: Phương thức đào tạo theo tín chỉ hầu như đã trở thành phổ
biến ở nhiều nước trên thế giới. Chuyển sang phương thức đào tạo theo tín
chỉ sẽ tạo được sự liên thông giữa các cơ sở đào tạo đại học trong và ngoài
nước. như vậy áp dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ sẽ khuyến khích sự
di chuyển của sinh viên, mở rộng sự lựa chọn học tập của họ, làm tăng độ

minh bạch của hệ thống giáo dục, và giúp cho việc so sánh giữa các hệ thống
giáo dục đại học trên thế giới được dễ dàng hơn.
Đối với công tác quản lý, phương thức đào tạo theo tín chỉ cũng có
nhiều ưu thế, đó là: nó vừa là thước đo khả năng học tập của người học, vừa
là thước đo hiệu quả và thời gian làm việc của giáo viên; nó là cơ sở để các
trường đại học tính toán ngân sách chi tiêu, nguồn nhân lực; là cơ sở để báo
cáo các số liệu của trường đại học cho các cơ quan cấp trên và các đơn vị
liên quan; là một phương tiện để giám sát bên ngoài, để báo cáo và quản lí
hành chính.
Để sinh viên cũng như giáo viên có thể hiểu, tiếp cận với hệ thống đào
tạo tín chỉ, trước hết cần phải làm sáng rõ những thuật ngữ liên quan, thông
qua những chủ trương, quy chế chúng tôi tập trung làm rõ một số khái niệm
về tín chỉ.

1.1.2 Một số khái niệm về đào tạo tín chỉ


• Tín chỉ
Trong kho tàng các tư liệu nghiên cứu, có khoảng hơn 60 định nghĩa
về tín chỉ. Có định nghĩa coi trọng khía cạnh định tính, có định nghĩa coi
trọng khía cạnh định lượng, có định nghĩa nhấn mạnh vào chuẩn đầu ra của
sinh viên, có định nghĩa lại nhấn mạnh vào các mục tiêu của một chương
trình học. Một định nghĩa về tín chỉ được các nhà quản lí và các nhà nghiên
cứu giáo dục ở Việt Nam biết đến nhiều nhất là của học giả người Mỹ gốc
Trung Quốc James Quann thuộc Đại học Washington. Trong buổi thuyết
trình về hệ thống đào tạo theo tín chỉ tại Đại học Khoa học Công Nghệ Hoa
Trung, Vũ Hán mùa hè năm 1995, học giả James Quann trình bày cách hiểu
của ông về tín chỉ như sau:
Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một
người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm (1) thời gian

lên lớp; (2) thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc
khác đã được quy định ở thời khóa biểu; và (3) thời gian dành cho đọc sách,
nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài...; đối với các môn học
lí thuyết một tín chỉ là một giờ lên lớp (với hai giờ chuẩn bị bài) trong một
tuần và kéo dài trong một học kì 15 tuần; đối với các môn học ở studio hay
phòng thí nghiệm, ít nhất là 2 giờ trong một tuần (với 1 giờ chuẩn bị); đối
với các môn tự học, ít nhất là 3 giờ làm việc trong một tuần.
(Bản dịch của Bộ giáo dục và Đào tạo)
Theo Quy chế 43 về Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ
thống tín chỉ (Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày
15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) : Tín chỉ được
sử dụng để tính khối lượng học tập của sinh viên. Một tín chỉ được qui định
bằng 15 tiết học lý thuyết, 30 – 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận;


45 – 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 – 60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ
án tốt nghiệp. Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm,
để tiếp thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá
nhân.
Từ định nghĩa trên, kết hợp với nghiên cứu những định nghĩa khác về
tín chỉ và thực tế đào tạo của đơn vị, tín chỉ được cụ thể hóa như sau:
Tín chỉ là đại lượng dùng để đo khối lượng kiến thức, kĩ năng của một
môn học mà người học cần phải tích lũy trong một khoảng thời gian nhất
định thông qua các hình thức: (1) học tập trên lớp; (2) học tập trong phòng
thí nghiệm, thực tập hoặc làm các phần việc khác (có sự hướng dẫn của giáo
viên); và (3) tự học ngoài lớp như đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề
hoặc chuẩn bị bài v.v. Tín chỉ còn được hiểu là khối lượng lao động của
người học trong một khoảng thời gian nhất định trong những điều kiện học
tập tiêu chuẩn.
Tín chỉ được làm rõ qua bảy điểm sau đây:

Thứ nhất: Hoạt động dạy - học được tổ chức theo ba hình thức: Lên
lớp, thực hành và tự học tương ứng với ba kiểu giờ tín chỉ: Giờ tín chỉ lên
lớp, giờ tín chỉ thực hành và giờ tín chỉ tự học. Theo đó một giờ tín chỉ lên
lớp bao gồm 1 tiết (50 phút) giáo viên giảng bài và 2 tiết sinh viên tự học;
một giờ tín chỉ thực hành bao gồm 2 tiết giáo viên hướng dẫn, giúp đỡ sinh
viên thực hành thực tập và 1 tiết sinh viên tự học; một giờ tín chỉ tự học bao
gồm 3 tiết sinh viên tự học.
Thứ hai: Trong ba kiểu giờ tín chỉ, lượng kiến thức sinh viên thu được
có thể khác nhau nhưng để thuận lợi cho việc tính toán thì ba kiểu giờ tín chỉ
này được coi là có giá trị ngang nhau.


Thứ ba: Một tín chỉ gồm 15 giờ tín chỉ, thực hiện trong một học kỳ,
kéo dài 15 tuần, mỗi tuần 01 giờ tín chỉ.
Thứ tư: Có thể có môn học chỉ gồm một kiểu giờ tín chỉ, nhưng có thể
có những môn học nhiều hơn một kiểu giờ tín chỉ.
Thứ năm: Người học trong phương thức đào tạo theo tín chỉ được cấp
bằng theo hình thức tích luỹ đủ tín chỉ.
Thứ sáu: Người học được cấp bằng không chỉ phụ thuộc vào số tín chỉ
tích luỹ được mà còn phụ thuộc vào điểm trung bình chung qui định cho
từng học kỳ, từng kiểu văn bằng.
Thứ bảy: Trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, tự học được xem
như một thành phần hợp pháp trong cơ cấu giờ học của sinh viên, những nội
dung tự học cũng được đưa vào thời khoá biểu và đưa vào các bài kiểm tra,
bài thi.
Như vậy với khái niệm tín chỉ đã nhấn mạnh đến vai trò quyết định
của sinh viên, được đo lường bằng toàn bộ thời gian tự học của sinh viên
(chủ động tìm kiếm kiến thức liên quan bài học trước và sau khi lên lớp, tự
học chủ động ngay trên lớp dưới sự hướng dẫn của giảng viên, tự nắm bắt
nội dung bài học trong giờ thảo luận nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo

viên).
Để sinh viên tự học tốt và nhận thức được các vấn đề khoa học thì vai
trò của giảng viên cũng hết sức quan trọng, ngoài việc chuyển tải kiến thức,
thầy cô còn tập trung vào việc hướng dẫn, giao nhiệm vụ cho sinh viên tự
tìm kiếm kiến thức mở rộng ở bên ngoài lớp học. Các hoạt động học tập của
sinh viên sẽ được giảng viên liên tục định hướng, uốn nắn, đánh giá trong
suốt quá trình học tập. Đào tạo tín chỉ giảm áp lúc thi hết môn cho sinh viên
và được thay thế bằng việc đánh giá trong cả quá trình học tập, bao gồm sự
chuyên cần, các tiết thảo luận, khả năng suy luận, tư duy sáng tạo...sẽ kích


thích sự ham học, say mê hiểu biết, khả năng học hiểu thấu đáo mọi vấn đề,
học tập theo hướng nghiên cứu có hệ thống.
• Giờ tín chỉ
Mỗi tiết học được quy định 50 phút được tính là một giờ tín chỉ. Một
tín chỉ được coi như một tiết lên lớp mỗi tuần trong vòng 15 tuần. Vậy nếu
môn học này có 3 tiết lên lớp mỗi tuần trong vòng 15 tuần chẳng hạn, thì
được công nhận là 3 tín chỉ.
• Học phần
Học phần là khối lượng kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho
sinh viên tích luỹ trong quá trình học tập. Phần lớn học phần có khối lượng
từ 2 đến 4 tín chỉ, nội dung được bố trí giảng dạy trọn vẹn và phân bố đều
trong một học kỳ. Kiến thức trong mỗi học phần phải gắn với một mức trình
độ theo năm học thiết kế và được kết cấu riêng như một phần của môn học
hoặc được kết cấu dưới dạng tổ hợp từ nhiều môn học. Từng học phần được
ký hiệu bằng một mã số riêng do trường quy định.
Có hai loại học phần chính: học phần bắt buộc và học phần tự chọn.
Trong đó học phần bắt buộc là học phần chứa đựng những nội dung kiến
thức chính yếu của mỗi chương trình và bắt buộc sinh viên phải tích lũy; học
phần tự chọn là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức cần thiết,

nhưng sinh viên được tự chọn theo hướng dẫn của trường nhằm đa dạng hoá
hướng chuyên môn hoặc được tự chọn tuỳ ý để tích luỹ đủ số học phần quy
định cho mỗi chương trình. Ngoài ra còn có học phần thay thế, học phần
tương đương.
• Giờ tự học của sinh viên trong đào tạo tín chỉ
Trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, tự học, tự nghiên cứu của
sinh viên được coi trọng, được tính vào nội dung và thời lượng của chương
trình. Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết lý thuyết, 30 - 45 tiết thực


hành, thí nghiệm hoặc thảo luận và 30 giờ chuẩn bị cá nhân. Như vậy cứ 1
tiết lên lớp thì sinh viên phải dành ít nhất 2 giờ tự học, tự nghiên cứu. Tự
học sẽ kích thích sinh viên tìm hiểu bản chất vấn đề, vận dụng được lý
thuyết vào thực tiễn, nâng cao khả năng biện luận, phân tích, tổng hợp, so
sánh. Đọc tài liệu trước khi lên lớp sinh viên có thể nắm được từ 30 – 60%
các kiến thức thuộc về mục tiêu bài giảng, nắm được bao nhiêu còn tùy
thuộc vào từng bài học, tùy thuộc vào năng lực, sức tập trung của từng sinh
viên. Các vấn đề còn chưa nắm được, chưa hiểu được sẽ trở thành vấn đề
đặc biệt quan tâm trong giờ học có giảng viên hướng dẫn.
• Giờ thảo luận của sinh viên trong đào tạo tín chỉ
Seminar hay thảo luận nhóm là phương pháp học tập thực sự tích cực
nhất của sinh viên. Để chuẩn bị cho seminar sinh viên phải tự tìm kiếm tri
thức trong sách giáo khoa và tài liệu tham khảo, tự phân tích tổng hợp và
vận dụng tri thức đã có để giải quyết nhiệm vụ. Qua đó sinh viên phát triển
mạnh được phương pháp tự học, phương pháp nhận thức khoa học, phương
pháp tự nghiên cứu, rèn luyện được tư duy sáng tạo.
Sinh viên đại diện hoặc được chỉ định sẽ báo cáo thảo luận trước lớp
hoặc nhóm, hình thức báo cáo có thể nói trước lớp, trình bày trên bảng, trình
chiếu hoặc kết hợp các hình thức trên. Sinh viên của nhóm sẽ phát biểu để
bổ sung báo cáo cho đầy đủ hoặc trả lời các phản biện của sinh viên các

nhóm khác. Điều đó rèn luyện tư duy sáng tạo, ý thức hợp tác, tinh thần tập
thể, rèn luyện kỹ năng diễn đạt các vấn đề khoa học trước đám đông.
Giảng viên theo dõi buổi thảo luận, ghi nhận những ý kiến đúng, uốn
nắn quan niệm sai lầm, định hướng thảo luận để sinh viên tự tìm ra được
những kết luận cần thiết và đánh giá, kết luận buổi thảo luận. Trong seminar,
thảo luận nhóm có thể cho điểm để đánh giá và khuyến khích sinh viên học
tập. Sinh viên nào nắm vững vấn đề được phân công sẽ được điểm cao, sinh


viên không tham gia hoặc không nắm vững vấn đề thảo luận sẽ được điểm
thấp hoặc chỉ được điểm trong phần báo cáo chung của nhóm. Cho điểm như
vậy vừa khuyến khích được tinh thần làm việc tập thể của các thành viên
trong nhóm vừa cá thể hóa được quá trình học tập của từng sinh viên.
1.2. Tổng quan về chương trình đào tạo theo phương thức đào
tạo tín chỉ ở khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Khoa học Huế
Khoa Lý luận Chính trị - Trường Đại học Khoa học Huế được thành
lập ngày 15 tháng 09 năm 1995, theo Quyết định số 55/QĐ-TC của Giám
đốc Đại học Huế trên cơ sở hợp nhất các bộ môn Mác - Lênin của các
trường: Đại học Tổng hợp Huế, Đại học Sư phạm Huế, Đại học Y khoa Huế,
Đại học Nông lâm Huế và Đại học Nghệ thuật Huế với nhiệm vụ trung tâm
là giảng dạy các môn Lý luận Chính trị cho sinh viên, giảng dạy triết học
chương trình sau đại học cho cao học, nghiên cứu sinh không chuyên Triết,
đào tạo cử nhân và thạc sĩ Triết học (kể cả liên kết đào tạo các loại hình
trong cả nước). Cùng với nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục tuyên truyền
đường lối của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước là nghiên cứu
khoa học.
Với chủ trương bắt kịp với tiến trình tri thức của thời đại, Đảng và nhà
nước đã chủ trương đổi mới nền giáo dục Đại học,và được hướng dẫn qua
các văn bản, quy định của Bộ giáo dục và đào tạo, nhất là quy chế
43/2007/QĐ-BGDĐT - Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy

theo hệ thống tín chỉ, Đại học Huế đã triển khai "Đề án đào tạo bậc đại học
theo học chế tín chỉ" (tháng 4 /2008) yêu cầu "Giai đoạn trước mắt và trung
hạn (2007-2010), Đại học Huế cùng các trường thành viên, khoa trực thuộc
tích cực chuẩn bị các điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất, học hỏi, tiếp thu
những kinh nghiệm của các đơn vị trong nước đã và đang đào tạo theo hệ
thống tín chỉ để tiến hành thực hiện theo kiểu cuốn chiếu bắt đầu từ khóa


tuyển sinh năm 2008 và tiếp tục cho những khóa sau. Kết hợp nhuần nhuyễn
việc tổ chức đào tạo tín chỉ và đào tạo niên chế kết hợp tích lũy học phần
theo Quy chế 25 như hiện nay ở các khóa tuyển sinh trước. Trong giai đoạn
quá độ này, các đơn vị đào tạo vừa làm vừa hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng,
phương pháp nghiệp vụ, quy trình quản lý,… để đến năm 2010, toàn bộ Đại
học Huế đào tạo theo học chế tín chỉ triệt để.".
Thực hiện theo quy định của Bộ giáo dục và đào tạo, Đại học Huế, từ
khóa học 2008 - 2009, Khoa Lý luận Chính trị cùng với Đại học Khoa học
đã chuyển đổi phương thức đào tạo từ đào tạo niên chế sang học chế tín chỉ
từ khóa K32. Hiện Khoa có 4 lớp (Triết K32, Triết K33, Triết K34, Triết
K35) với 167 sinh viên.
1.2.1. Mục tiêu đào tạo cử nhân triết học theo phương thức tín chỉ
Mục tiêu của chương trình đào tạo cử nhân ngành Triết học là trang bị
cho sinh viên hệ thống những kiến thức cơ bản, cơ sở, chuyên sâu của ngành
triết học, giúp sinh viên nắm vững lập trường, quan điểm, phương pháp tư
duy khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, để họ có
thể vận dụng tương đối tốt vào việc nhận thức và giải quyết những vấn đề
hiện thực xã hội; đồng thời, có khả năng hội nhập với khoa học triết học thế
giới.
Thứ nhất, về kiến thức: Cử nhân Triết học được cung cấp một cách hệ
thống, khoa học các kiến thức về lý luận chung, chuyên ngành, nghiệp vụ
của ngành Triết học cũng như của một số khoa học liên ngành.

Thứ hai, về kỹ năng: Cử nhân Triết học có kỹ năng nghiên cứu, giảng
dạy các môn khoa học triết học; có kỹ năng xử lý các công việc có tính chất
quản lý công trong các tổ chức chính trị - xã hội
Thứ ba, về năng lực: Cử nhân Triết học có thể làm việc trong các lĩnh
vực giảng dạy, nghiên cứu các khoa học triết học và các môn lý luận Mác –


Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, có thể tham gia vào các lĩnh vực
hoạt động khác của thực tiễn xã hội. Cử nhân Triết học có thể tiếp tục học
lên bậc sau đại học (bậc thạc sĩ, tiến sĩ) để trở thành những chuyên gia có
trình độ cao trong các lĩnh vực: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Lịch
sử triết học, Logic học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Mỹ học, Đạo đức học,
Tôn giáo học; có thể tiếp tục nghiên cứu ở một số ngành khoa học tự nhiên
và xã hội.
Thứ tư, về thái độ: Cử nhân Triết học là những người có phẩm chất
chính trị và đạo đức tốt, lập trường tư tưởng vững vàng, trung thành với Tổ
quốc, với lợi ích của nhân dân, dân tộc; sẵn sàng, nhiệt tình công tác, sáng
tạo, khắc phục khó khăn để hoàn thành công việc.
1.2.2. Nội dung chương trình đào tạo ngành Triết học
1.2.2.1. Khái quát nội dung chương trình đào tạo
Tổng số tín chỉ phải tích lũy: 121 tín chỉ, bao gồm:
- Khối kiến thức giáo dục đại cương :38 tín chỉ (Không tính các môn
học GDTC và GDQP), trong đó:
+Kiến thức lý luận chính trị

: 10 tín chỉ

+Khoa học tự nhiên

: 11 tín chỉ


+Khoa học xã hội và nhân văn

: 10 tín chỉ

+Ngoại ngữ không chuyên

: 07 tín chỉ

- Khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp : 74 tín chỉ, trong đó:
+Khối kiến thức cơ sở khối ngành

: 16 tín chỉ

. Bắt buộc:

12 tín chỉ

. Tự chọn:

04 tín chỉ

+ Khối kiến thức cơ sở của ngành

: 32 tín chỉ

. Bắt buộc:

24 tín chỉ


.Tự chọn:

08 tín chỉ


+Khối kiến thức chuyên ngành

: 26 tín chỉ

.Bắt buộc :

18 tín chỉ

. Tự chọn:

08 tín chỉ

- Khối kiến thức thực tập ,kiến tập

: 01 tín chỉ

-Khóa luận tốt nghiệp

: 07 tín chỉ

1.2.2.2 Khung chương trình đào tạo chi tiết

SỐ

MÃ HỌC


TT

PHẦN

TÊN HỌC PHẦN

SỐ

DỰ

TÍN

KIẾN

CHỈ

KH
GD

A
I
1
2
3
II
4
5
6
7

8
III
9
10
11
12
13
IV
14
15
16
V
VI
B
VII
17

KIẾN THỨC GIÁO DỤC ĐẠI CƯƠNG
Kiến thức lý luận chính trị (10)
CTR1015 Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
CTR1022 Tư tưởng Hồ Chí Minh
CTR1033 Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Khoa học tự nhiên (11)
TIN1013 Tin học đại cương
TOA1132 Toán cao cấp
VLY1012 Vật lý đại cương
SIN1012
Sinh học đại cương
MTR1012 Môi trường và phát triển
Khoa học xã hội và nhân văn (10)

LUA1012 Pháp luật Việt Nam đại cương
XHH1012 Xã hội học đại cương
LIS1012
Văn hóa Việt Nam đại cương
LIS1012
Lịch sử văn minh thế giới
TLH1012 Tâm lý học đại cương
Ngoại ngữ không chuyên (7)
ANH1013 Anh văn căn bản 1
ANH1022 Anh văn căn bản 2
ANH1032 Anh văn căn bản 3
GDTC
Giáo dục thể chất (học trong 5 học kỳ)
GDQP
Giáo dục quốc phòng (học trong 5 tuần lễ)
KIẾN THỨC GIÁO DỤC CHUYÊN NGHIỆP
Kiến thức cơ sở khối ngành (16)
Học phần bắt buộc
ANH2013 Anh văn chuyên ngành

38
10
5
2
3
11
3
2
2
2

2
10
2
2
2
2
2
7
3
2
2
74
16
12
3

HK2
HK4
HK3
HK1
HK1
HK2
HK2
HK2
HK1
HK1
HK3
HK3
HK2
HK1

HK2
HK3

HK4


18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
VIII
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40

41
42
43
44
45
IX
46
47
48
49
50
51
52
53

TRI2013
Lôgíc hình thức
TRI2022
Tôn giáo học đại cương
LIS2012
Dân tộc học đại cương
LIS1042
Cơ sở văn hóa Việt Nam
Học phần tự chọn (chọn 4 trong 12 tín chỉ)
NNH1012 Cơ sở ngôn ngữ học (*)
CTR1042 Chính trị học đại cương (*)
CTR2022 LS các học thuyết kinh tế (*)
CTR2032 LS tư tưởng XHCN (*)
CTR2042 LS Phong trào công nhân (*)
CTR2052 Phương pháp luận NCKH (*)

Khối kiến thức cơ sở của ngành (32)
Học phần bắt buộc
TRI3012
Đạo đức học đại cương
TRI1012
Mỹ học đại cương
TRI3022
LSTH Ấn độ cổ - trung đại
TRI3033
LSTH Trung Quốc cổ - trung đại
TRI3042
LS tư tưởng Việt Nam
TRI3052
LSTH Hy Lạp - La Mã cổ đại
TRI3063
LSTH Tây Âu trung - cận đại
TRI3072
LSTH cổ điển Đức
TRI3082
Sự RĐ&PT của triết học MLN
TRI3092
Một số trào lưu THPT hiện đại
TRI3102
Những vấn đề triết học trong KHTN
Học phần tự chọn (8 trong 14 tín chỉ)
TRI3112
PPL nghiên cứu LSTH (*)
TRI3122
Lịch sử mỹ học (*)
CTR3012 Lịch sử tư tưởng chính trị (*)

CTR3022 Chuyên đề Kinh tế chính trị (*)
CTR3032 Chuyên đề CNXHKH(*)
CTR3042 Chuyên đề Lịch sử ĐCSVN (*)
CTR3052 Chuyên đề Xây dựng Đảng (*)
Khối kiến thức chuyên ngành(26)
Học phần bắt buộc
TRI4012
Lôgíc biện chứng
TRI4023
Triết học nâng cao 1
TRI4033
Triết học nâng cao2
TRI4042
Một số tác phẩm TH của Mác, Ăngghen, Lênin 1
TRI4052
Một số tác phẩm TH của Mác, Ăngghen, Lênin 2
TRI4062
LS phép biện chứng mácxít
TRI4072
PP giảng dạy triết học
TRI4082
Chuyên đề Hình thái kinh tế - xã hội và sự nhận thức
con đường lên CNXH ở Việt Nam
Học phần tự chọn (chọn 8 trong 18 tín chỉ)

3
2
2
2
4/12

2
2
2
2
2
2
32
24
2
2
2
3
2
2
3
2
2
2
2
8/14
2
2
2
2
2
2
2
18
2
3

3
2
2
2
2
2
8/18

HK2
HK4
HK4
HK5
HK5
HK5
HK5
HK5
HK5
HK5

HK4
HK1
HK2
HK3
HK4
HK2
HK3
HK4
HK5
HK6
HK5

HK6
HK6
HK6
HK6
HK6
HK6
HK6

HK5
HK6
HK7
HK6
HK7
HK5
HK7
HK6


54
55

TRI4092
TRI4102

Chuyên đề CMKH-KT và LLSX hiện đại (*)
2
Chuyên đề Nhận thức luận và Phương pháp nhận 2

HK7
HK7


56

TRI4112

thức khoa học (*)
Chuyên đề Vấn đề con người trong TH phương Tây 2

HK7

57
58
59
60
61
62
C
63
64
D
65

hiện đại (*)
TRI4122
Chuyên đề Tư tưởng triết học Phật giáo (*)
TRI4132
Chuyên đề Tư tưởng triết học Nho giáo (*)
TRI4142
Chuyên đề Tư tưởng triết học Việt Nam (*)
TRI4152

Chuyên đề Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh (*)
TRI4162
Chuyên đề Đạo đức học (*)
TRI4172
Chuyên đề Lý luận tôn giáo (*)
THỰC TẬP, KIẾN TẬP
TRI3131
Thực tập kiến tập
TRI4181
Thực tập tốt nghiệp
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TRI4197
Khóa luận tốt nghiệp
Tổng cộng

2
2
2
2
2
2
2
1
1
7
7
121

HK7
HK7

HK7
HK7
HK7
HK7
HK6
HK7
HK8

Như vậy, với phương thức đào tạo mới sinh viên phải tích lũy đủ 121
tín chỉ trong toàn bộ khóa học mới có thể tốt nghiệp. Trải qua 3 năm đầu
trong lộ trình thực hiện Đề án đổi mới Giáo dục Đại học Việt Nam 2006 2020, Khoa Lý luận chính trị đã dần từng bước biến đổi để thích hợp với yêu
cầu mới, song bên cạnh đó cũng cần có nhiều mặt hạn chế, đòi hỏi sự nỗ lực
cố gắng của cả thầy và trò. Ở đây, chúng tôi sẽ đi sâu vào thực trạng của
việc học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ của sinh viên Khoa Lý luận
Chính trị, tìm ra những vấn đề làm được và chưa làm được, từ đó đề ra
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập chuyên ngành lý luận
chính trị trong điều kiện mới.


×