Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Biện pháp tu từ môn phong cách học Tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.63 KB, 21 trang )

II.

CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ NGỮ NGHĨA
1. Điệp ngữ
- Điệp ngữ là nhắc đi nhắc lại một từ, một ngữ trong câu văn, đoạn văn, câu thơ, đoạn

thơ…
- Điệp ngữ vừa để nhấn mạnh ý vừa tạo cho câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn thơ giàu
- âm điệu, giọng văn trở nên tha thiết, nhịp nhàng hoặc hào hùng mạnh mẽ.

Vd: Cũng cờ, cũng biển cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai.

Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
-

Ðiệp ngữ nối tiếp:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai.
( Chinh Phụ Ngâm- Ðặng Trần Côn)

Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu
Những cô gái Thạch Kim, Thạch Nhọn.
Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm
Sách áo mở tung, trắng cả trời chiều



-

Ðiệp ngữ cách quãng:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi
(Tây Tiến- Quang Dũng)



Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ.

Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu
Cô gái ở Thạch Kim, Thạch Nhọn
Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm
Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều.
-

Điệp ngữ chuyển tiếp ( điệp ngữ vòng)
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.

2. Đồng nghĩa kép
- Là phương thức lặp lại từ ngữ đồng nghĩa hay gần nghĩa để nhấn mạnh, xoáy
-

sâu vào một nội dung nhất định.
Đồng nghĩa kép luôn luôn được sự hỗ trợ của điệp ngữ.
Là biện pháp tu từ trong đó người ta dùng phối hợp nhiều từ ngữ cùng nghĩa
hoặc gần nghĩa
Vd:
Xoè bàn tay bấm đốt
Tính đã bốn năm ròng
Người ta bảo không trông
Ai cũng nhủ đừng mong
Riêng em thì em nhớ.


-

Bài thơ "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải xuất hiện một loạt từ đồng
nghĩa gần nghĩa bộc lộ nỗi đau của một tâm hồn thi sĩ một người dân yêu nước
trước cảnh nước mất nhà tan.
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu


Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
Hỏi tên rằng :"Mã Giám Sinh"
Hỏi quê rằng: huyện Lâm Thanh cũng gần...

Đêm nay Bác không ngủ
Bác ơi! Bác chưa ngủ?
Bác vẫn ngồi đinh ninh
Bác thức thì mặc Bác
Đêm nay Bác ngồi đó


Hình ảnh chú bé liên lạc ngây thơ nhí nhảnh vô tư nhưng gan dạ dũng cảm đã
xuất hiện trong tác phẩm với nhiều tên gọi khác nhau gửi gắm những tình cảm
yêu mến tôn trọng khâm phục... của tác giả của người đọc.
Chú bé loắt choắt
Cháu cười híp mí
Lượm ơi!...
Chú đồng chí nhỏ
Trong bài thơ "Đồng chí" với một loạt từ gần nghĩa đồng nghĩa xuất hiện đã
thể hiện tình cảm gắn bó gần gũi của những người lính về quê hương đất nước
về sự vất vả gian lao và về một mục đích chung cao cả...
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính...
3. Liệt kê và tăng cấp
- Phép liệt kê là phương thức xếp đặt một loạt các khái niệm, sự vật, hình ảnh, có


khi chỉ là những tên riếng, những con số lạnh lùng để nó tự nói lên hay tự nó
kích thích trí tưởng tượng của người đọc.
Vd:
-

-

Phép liệt kê không theo cặp và không tăng tiến:
"Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đồi De, núi Hồng."
Phép liệt kê tăng tiến: "Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm,
bâng khuâng, có tiếc thương, ai oán,..."



“Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng
Em đã sống lại rồi, em đã sống!
Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung
Không giết được em, người con gái anh hùng!”
hành động tra tấn tàn bạo dã man của quân thù
Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng
Ðến em thơ cũng hóa những anh hùng
Ðến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí!
 em bé biết đánh giặc, con vật nhỏ bé như con ong cũng biết đánh giặc và
hoa trái vô tri cũng biết đánh giặc
Tăm tăm tình bạn

Chếnh choáng tình đời
Líu lưỡi tình người
Nôn nao thân phận…
Tăng cấp
4. Đột giáng
- Là phương thức diễn đạt tạo ra một cảm giác hụt hẫng mà người đọc không thể
đoán trước được.
Vd: Bắt chước ai ta chúc mấy lời
Chúc cho khắp hết cả trên đời
Vua quan sĩ tử người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.

Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo:
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,


Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
5. Ngoa dụ
- Ngoa dụ còn có tên gọi là phóng đại, khoa trương, thậm xưng, tức là phương
thức cường điệu một mức độ tính chất, đặc điểm nào đó của sự vật.
- Thường được sử dụng trong khẩu ngữ. buồn nẫu ruột, giận sôi gan, bầm gan
tím ruột, mệt đứt hơi, đói rã họng, vỡ mặt, lo sốt vó, người đen như cột nhà
cháy, nói như rồng leo…
Vd: Nhác trông thấy bóng anh đây
Ăn chín lạng hạt ớt thấy ngọt ngay như đường.


“Độc ác thay, trúc Nam sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông hải không rửa sạch mùi”

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”

"răng bàn cuốc"  răng to
...
"Đội trời đạp đất ở đời" (Truyện Kiều)
...
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm đón chàng sang chơi
...
Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biển tung trắng bờ
Ngực lép bốn nghìn năm
Trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên. Tim bỗng hoà mặt trời
...
Lỗ mũi mười tám gánh lông


Chông yêu chống bảo râu rồng trời cho
Đêm nằm thì ngáy o o
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà
Bình thường, gánh là để chỉ một khối khá lớn rơm, rạ, rau, cỏ, chứ ai lại
lấy lông mũi đo bằng gánh bao giờ? Con số mười tám cũng chỉ là con số
tượng trưng, để nói rằng lông mũi của cô gái này quá nhiều một cô gái
không biết chăm chút ngoại hình của mình. Một người con gái như thế, có

lẽ sẽ chịu nhiều chê cười. Tuy nhiên, người chồng của cô lại yêu cô đến
mức ví lông mũi của cô như “râu rồng trời cho”. Rồng là một con vật tất
cả mọi người đều kính trọng. Râu rồng, đương nhiên cũng là một thứ rất
đẹp, rất quý. Còn là thứ “trời cho”. Nghĩa là, anh chồng coi việc cô vợ
mình có lông mũi là việc rất bình thường, thậm chí còn đẹp, còn đáng quý
Trong xã hội phong kiến xưa, người phụ nữ lúc nào cũng phải nhẹ
nhàng, kín đáo. Vậy mà cô gái nằm ngủ lại ngáy o o là ngáy thành tiếng,
ngáy to và kéo dài tư thế ngủ rất xấu, làm phiền đến người ngủ cùng.
Thế nhưng, ông chồng, lại vẫn tiếp tục yêu chiều vợ. Anh chồng dường
như coi tiếng ngáy o o của vợ mình như tiếng đàn, tiếng sáo, nghe rất hay,
rất vui tai, vui nhà.
...
Đi xe máy mà suy rượu thì tính mạng ngàn cân treo sợi tóc.  giúp người
đọc nhận thức được mức độ nguy hiểm một cách cụ thể sinh động
Bài toán này khó quá, nghĩ nát óc mấy tiếng đồng hồ rồi mà vẫn chưa tìm
ra cách giải. diễn đạt khả năng tập trung, suy nghĩ cao độ.
Do dậy muộn, nên dù đã vắt chân lên cổ chạy mà vẫn muộn học.  diễn
đạt sự cố gắng hết mức trong khi chạy, nhằm đạt tốc độ nhanh nhất.
- Nói quá kết hợp với so sánh tu từ
Trên trời mây trắng như bông
Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây
Mấy cô má đỏ hây hây
Đội bông như thể đội mây về làng
..
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nép một, như đường mía lau
- Dùng những từ ngữ phóng đại khác
+ Các từ phóng đại có thể là những từ ngữ mang sẵn ý nghĩa phóng đại: cực
kỳ, vô kể, vô hạn độ, tuyệt diệu, mất hồn, …
+ Các từ ngữ phóng đại có thể là: nhớ đến cháy lòng, cưỡi vỡ bụng,…



+ Từ ngữ phóng đại có thể thể hiện thông qua những thành ngữ, tục ngữ: ăn
như rồng cuốn, nói như rồng leo, khoẻ như voi, đẹp như tiên, …
6. Nói giảm
- Nói giảm hay còn gọi là khinh từ (nói nhẹ), uyển ngữ (nói vòng), nhã ngữ (nói
thanh nhã), là phương thức diễn đạt tế nhị trong hòa cảnh giao tiếp mà người
nói không tiện nói ra vì sợ quá phũ phàng hoặc sợ xúc phạm đến người nghe.
Diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, nhằm tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ,
nặng nề; tránh thô tục, thiếu lịch sự.
Vd: Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

“Bác đã đi rồi sao Bác ơi!”

“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta”
….
”Bà cụ nắm lấy tay em,rồi hai bà cháu bay vụt lên cao,cao mãi,chẳng còn
đói rét,đau buồn nào đe dọa họ nữa.Họ đã về chầu thượng đế “

Nửa chừng xưa thoắt gẫy cành thiên hương.

Bỗng lèo chớp đỏ
Thôi rồi, Lượm ơi.
Người nằm dưới đất ai ai đó…
Giang hồ mê chơi quên quê hương
7. Phản ngữ

- Là phép nghịch ngữ hay nghịch nghĩa, hay tương phản, tức là phương thức

dùng nghĩa trái ngược để chỉ một sự thật chứa đựng mâu thuẫn.
Vd: Thật thà cũng thể lái trâu
Thương nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng
 Ngày trước đã là lái trâu thì không thể thật thà. Mẹ chồng nàng dâu
thì không thể nào thương nhau. Cách nói ngược ở đây còn hàm ý mỉa
mai khinh bạc
Bao giờ cho đến tháng ba


ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quá hồng nuốt lão tám mươi.
 Nghịch lí XH
“O du kích nhỏ giương cao sung
Thằng Mĩ lênh khênh bước cúi đầu
Ra thế, to gan hơn béo bụng
Anh hùng đâu cứ phải mày râu”
8. Phép lặng
- Hay còn gọi là phép ẩn ngữ hoặc tỉnh lược, là phương thức biểu đạt bằng cách

bỏ trống để người nghe (đọc) suy ra mà tự hiểu không cần diễn đạt bằng lời.
Vd: Tay em cầm một bông hồng
Ðẹp tươi như thể... trắng trong như là ...
Sao anh như thấy thừa ra
Hoặc bông hồng ấy hoặc là chính em .

Chợt nghe tin mà
Ra thế…

Lượm ơi

“Tình trong như đã…Mặt ngoài còn e”

Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về... Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ...
- Phép lặng thường được dùng trong hai trường hợp :
+ Diễn tả sự e thẹn, đau khổ, tiếc thương hay sự uất ức nghẹn ngào không nói
ra được.
Ví dụ: Bác Dương ...thôi đă...thôi rồi...
Nước mây man mác ngậm ngùi ḷng ta!
+ Dùng để châm biếm, đả kích.
Ví dụ: Đă mang tiết xuất gia
Lại đeo thói nguyệt hoa
Sự mô đâu có thế ... Ma!
9. Chơi chữ
- Là phương thức dùng âm thanh, từ ngữ, hàm ý để tạo ra lượng nghĩa mới bất
ngờ thú vị.


Vd: Con công đi chùa làng kênh
Nó nghe tiếng cồng nó kềnh cổ lại.
- Có nhiều hình thức chơi chữ: Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm, chữ viết, từ
vựng, cú pháp...Bài thơ Tình hoài của Lê Ta là một ví dụ về cách chơi chữ
bằng phương tiện ngữ âm (điệp thanh):
Trời buồn làm gì trời rầu rầu
Anh yêu em xong anh đi đâu?
Lắng tiếng gió, suối, thấy tiếng khóc

Một bụng một dạ một nặng nhọc
Ảo tưởng chỉ để khổ để tủi
Nghĩ mãi gỡ mãi lỗi vẫn lỗi
Thương thay cho em căm thay anh
Tình hoài càng ngày càng tày đình.
- Một số kiểu chơi chữ thường gặp:
+ Dùng từ gần nghĩa để chơi chữ…
Nửa đêm, giờ tí, canh ba
Vợ tôi, con gái, đàn bà, nữ nhi
+ Dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa:
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non.
+ Dùng lối nói lái:
Mang theo một cái phong bì
Trong đựng cái gì, đựng cái đầu tiên.
+ Dùng từ đồng âm:
Bà già đi chợ Cầu Đông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?
Thầy bói xem quẻ nói rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn!

Hỡi cô cắt cỏ bên sông
Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây
 Nhãn lồng: tên một loại nhãn nổi tiếng ngon, ngọt, mát bổ, chàng trai lém lỉnh đã
khéo léo vận dụng để trêu chọc cô bạn gái rằng hãy chạy sang đây (lồng sang sông!)
”còn trời còn nước còn non
còn cô bán riệu anh còn say sưa”
Say sưa, nghĩa gốc: say rượu; nghĩa 2: say đắm cô hàng rượu

10. Nói lái

- Là cách chơi chữ bằng cách đánh tráo phụ âm đầu, vần và thanh điệu để tạo

nên một hiệu quả vui đùa, trào lộng.


Vd: Cam sành nhỏ lá thanh ương
Ngọt mật thanh đường nhắm lớ bớ anh
Thanh ương là tuổi mong chờ
Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà.

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió thành ra phải lộn lèo!

Nhắc bạn những thương tình nhạn bắc
Trông đời chỉ thấy cảnh trời đông
Đêm thâu tiếng dế đâu thêm mãi
Công khó chờ nhau biết có không
một dị bản khác:
Dòng châu lai láng, đĩa dầu chong
Công khó đợi chờ, biết có không ?
Nhắc bạn thêm thương người nhạn bắc
Trông đời ngao ngán giữa trời đông
Hoặc một bài thơ khác:
Đời chua, bậu cứ thử đùa chơi
Chơi ngổ xong rồi, kiếm chỗ ngơi
Bến đậu thênh thang, mời bậu đến
Ngồi đây say tít, ngất ngây đời.




Hành đảo ngữ kể từ GIẢI PHÓNG
Thi ca làm PHỎNG DÁI niêm vần
Muốn in báo phải làm đầy tớ
Nhưng ta nào phải kẻ lòn trôn
Ta nào phải là ông Hàn Tín Phò Lưu Bang phản bạn lừa thầy
KỸ SƯ vì thế thành CƯ SĨ
THẦY GIÁO từ đây chịu THÁO GIÀY
Họp ĐỒNG CHÍ thấy toàn ĐÌ, CHỐNG
XÔ VIẾT ngày nay khoái XIẾT VÔ
Hình treo LỘNG KIẾNG như LIỆNG CỐNG
Ðể thằng TO DỰ hét TỰ DO
Chú đeo BẢNG ĐỎ mà BỎ ĐẢNG
Mượn SAO VÀNG che đậy SANG GIÀU
CĂNG BỒNG nhờ nói CÔNG BẰNG nhỉ
LƯU MANH nào lại chẳng LANH MƯU?
Theo CHÍNH PHỦ ai ngờ CHÚ PHỈNH
Vào CHIẾN KHU thì bị CHÚ KHIÊNG
Mồm ĐÁNH MỸ mà tâm ĐĨ MÁNH
TIỀN ĐÂU? chú chặn họng ĐẦU TIÊN
GIÁO CHỨC đói meo đành DỨT CHÁO
Làm NHÀ THƠ vô bót NHỜ THA


THIÊN TÀI không đủ THAI TIỀN hả?
CẤT ĐUỐC về quê CUỐC ĐẤT à!
KHIẾN CHÁN ta làm thơ KHÁNG CHIẾN
Gào THI ĐUA chú bịp THUA ĐI
LÀM THƠ mà LỜ THAM mới nhục

THÌ CẤY cày mất đất THẤY KỲ
LÃNH TỤ sạch nhờ ôm TỦ LẠNH BẨN NGƯỜI DO bác BỎ NGƯỜI
DÂN
BÁC ĐI quá sớm thành BI ĐÁT
NGHỆ SĨ tụi con NGHĨ XỆ quần…

Một chai mai chột, coi chừng!
Nhị chai nhai chị tưng tưng ngà ngà
Ba chai là bai nghe cha!
Bốn chai cẩn thận kẻo mà bái chôn
Ngũ chai ngai chủ hùng hồn
Sáu chai sai cháu bếp cồn luộc tôm!

làng vọng còn hơn cái lọng vàng
Mang sơ tấm áo, chớ mơ sang
Nhắn bạn lên non đừng bắn nhạn
Hang lỗ tìm vào bắt hổ lang

Nam Bắc toàn dân quy thượng chính
Á Âu thế giới kính tu mi.


 Tình cảm của toàn dân từ Nam chí Bắc đều quy phục người vĩ nhân

chân chính. Tình cảm của nhân dân thế giới vô cùng kính phục đấng tu
mi nam tử.
 Chính, Mi nói lái thành Chí Minh, tên Cụ Hồ.
11. Dẫn ngữ:
- Là phương thức vay mượn danh ngôn, tục ngữ, điển cố, thơ văn, ……đã làm


cho lí lẽ thêm vững chắc, màu sắc thêm phong phú.
Vd: Thâm nghiêm kín cổng cao tường
Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh.

III.


Sản xuất mà không tiết kiệm. Chẳng khác nào gió vào nhà trống

Rằng mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường
CÁC PHƯƠNG TIỆN TU TỪ VÀ BIỆN PHÁP TU TỪ CÚ PHÁP
1. Những kiểu câu thường gặp trong khẩu ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật.
a. Câu đơn đặc biệt.
- Là những câu thông báo một hiện tượng, sự vật nào đó, không chia ra các
thành phần và không hướng về một đối tượng giao tiếp cụ thể nào đó.
Vd: Một đèo…một đèo…lại một đèo

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nển cũ lâu đài bóng tịch dương
Loại câu này có thể hiểu thoe nhiều cách:
+ Lối xưa xe ngựa giờ chỉ còn hình bóng trong hồn thu thảo
+ Lối xưa xe ngựa không còn mà chỉ còn hồn thu thỏa
+ Xưa là lối xe ngựa giờ đây chỉ còn hồn thu thỏa
b. Kiểu câu lược chủ nghĩa
- Kiểu câu này còn gọi là kiểu câu không đề. Trưởng hợp chủ thể, đối tượng
giao tiếp và cái được nói đến nằm trong cảnh huống, người nói có thể có
chủ ngữ những lại có thể nhưng lại có thể phục hồi khi cần thiết.
Vd: Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ

Buồn trông con nhện chăng tơ
chỉ những trạng thái sự việc kéo dài không dứt, gây cách hiểu mập mờ,
nhiều nghĩa
c. Kiểu câu ẩn chủ ngữ, có màu sắc tu từ
- Là câu không thể xác định và cũng không thể phục nguyên chủ ngữ.
Vd: Hãy xung phong! Hỡi mùa xuân 67 anh hùng!


..
Hãy gầm lên như sấm sét đùng đùng
Tất cả pháo!
Và xông lên chiến sĩ!
d. Những câu biến đổi hình thái
• Câu hỏi – khẳng định người hỏi chỉ nhằm mục để khẳng định một ý kiến
nào đó chứ không phải để người nghe người đối thoại thông tin điều mình
muốn biết.
Vd: Vì sao ngày một thanh tân?
Vì sao người lại mến thân hơn nhiều?
Vì sao cuộc sống ta yêu
Mỗi giây mỗi phút, sớm chiều thiết tha?

Tội ác còn chuyển rung bao thớ thịt
Tiếng gươm đưa thấu đến não cân ta
Có phải chăng còn trào bao suối huyết ?
Có phải chăng còn dội tiếng đầu sa ?
Có phải ta vừa giành được non sông, có phải ?
Có phải chớp mắt nhìn trời đất đã về ta ?
Có phải ba chục năm trời hay mới hôm qua?
Cấu trúc ”Có phải + (P)?” là câu hỏi khẳng định. Ở đây tất cả đều hướng
về cùng một nội dung, đều cùng khẳng định nhấn mạnh thêm cho duy nhất

một câu trả lời.
Câu hỏi tu từ thường có ý nghĩa khẳng định: làm cho hình tượng
văn học đẹp đẽ lên gấp bội:
Em là ai? Cô gái hay nàng tiên?
Em có tuổi hay không có tuổi?
Mái tóc em đây hay là mây là suối?
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông?
Thịt da em hay là sắt là đồng
• Câu hỏi –cảm thán là những câu hỏi không phải để hỏi mà để bộc lộ một
tâm tư ,nỗi lòng hoặc là ngạc nhiên, chán nản, mỉa mai,…
- Thường dùng từ: biết bao, biết mấy, biết bao nhiêu, làm sao, chưa, chừng
nào, thế nhằm biểu thị sắc thái cảm xúc, không hề yêu cầu trả lời.
Ví dụ: Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?

Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?


Câu hỏi - phủ định, hỏi nhưng để phủ định. Kiểu câu này dùng từ hỏi như:
ai, gì, mấy, sao, nào, bao nhiêu, bao giờ, có đâu, có phải hoặc dùng những
danh ngữ có định tố hỏi: gì, nào.
Ví dụ: Đèn tối thế này ai mà học được?
Hàng này ngoài chợ thiếu gì?

Có phải tôi muốn chê anh đâu?
Than ôi thời oanh liệt nay còn đâu?
(Thế Lữ)
..

Tiền tao có phải vỏ hến đâu mà quăng cho mày bây giờ?
(Ngô Tất Tố)
• Câu hỏi – gợi ý,
-

Vd: Em không nghe mùa thu?
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
(Lưu Trọng Lư)

Em không nghe mùa thu
Em không nghe rạo rực
Em không nghe rạo rực
Cứ mỗi câu hỏi là có âm thanh của mùa thu. Đó là tiếng lòng thổn thức
của người chinh phụ


Câu khẳng định – nghi vấn, là kiểu câu khẳng định nhưng lại tỏ thái độ
hoài nghi điều được khẳng định. Đây là những câu hỏi không phải để hỏi
mà thực chất là để diễn tả cảm xúc dạt dào.
Ví dụ:
Em là ai? Cô gái hay nàng tiên?
Em có tuổi hay không có tuổi?
Mái tóc em đây hay là mây là suối?
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông?
Thịt da em hay là sắt là đồng?
(Tố Hữu)

Khi lũ chúng quay đi

Mắt trừng còn doạ dẫm
- Thằng này là cộng sản
Không đứa nào được chôn


Không đứa nào được chôn?
Lũ chúng vừa quay lưng
Chiếc quan tài sơn son
Đã đưa anh về mộ
e. Kiểu câu đẳng thức
- Là kiểu câu biến thể trong đó có thể thay đổi thành phần câu theo công thức.
V là C hoặc B là C-V
Vd: Ban đê rét nhất  Rét nhất là ban đêm
Chỗ này xem rõ nhất  xem rõ nhất là chỗ này

Hay nói ầm ĩ
Là con vịt bầu
Hay hỏi đâu đâu
Là con chó vện
Hay chăng dây điện
Là con nhện con
Ăn no quay tròn
Là cối xay lúa

Mặt trời là trái tim anh
Mặt trăng vành vạnh là tình của em
Thức là ngày, ngủ là đêm
Nghiêng nghiêng hai mái – hai miền quê xa
Ở đây là tấm lòng ta
Sông dài núi rộng cũng là ở đây

2. Các kiểu câu thường gặp trong phong cách khoa học và chinh luận, báo chí, tin
tức.
a) Kiểu câu tường giải
- Là kiểu câu giải thích một khái niệm, một thuật ngữ khoa học.
- Vd:
- Yêu cầu: sử dụng một số từ ngữ đã biết hoặc 1 số từ ngữ có nghĩa hẹp hơn để
làm sáng rõ 1 thuật ngữ mới.
b) Kiểu câu miêu tả sự kiện
- Kiểu câu này thường có kết cấu quen thuộc như sau:
Thời gian + địa điểm + sự kiện
(1)
(2)
Trong đó 1 và 2 có thể thay đổi vị trí cho nhau
-

Vd:
Dùng mở đầu cho các nguồn tin. Kiểu câu này có thể mở rộng hoặc rút gọn các
thành phần câu:
Vd:


c) Các kiểu câu phán đoán
- Đây là những câu ghép:

-

+ Câu nhân quả : do (tại, vì, bởi,..)…… , nên…….
+ Câu điều kiện: nếu (hễ, miễn,..)……., thì……..
+ Câu nhượng bộ: tuy (đã, thà)…….., nhưng…..
+ Câu mục đích – sự kiện: Để……..cần………

Đây là kiểu câu có tính chất trung hóa về mặt phong cách học.
Vd:

3. Các biện pháp tư từ cú pháp
a. Phép dùng cú pháp sóng đôi (điệp cú pháp)
- Mục đích: nhấn mạnh ý nghĩa 1 thông báo hoặc để triển khai theo hướng đối
-

lập hay bổ sung.
Biến thể: điệp nguyên vẹn, điệp bộ phận, điệp có từ láy và không có từ láy,…
Vd: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ.

Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
Xin vì chàng rũ lớp phong sương
Vì chàng tay chuốc chén vàng
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng
Giở khăn lệ chàng trông từ tấm
Đọc thơ sầu chàng thẩm từng câu
Câu vui đổi với câu sầu
Rượi khà cùng kể trước sau mọi lời
Sẽ rót vơi lần lần từng chén
Sẽ ca dần rén rén đòi liên
Liên ngâm đối ẩm từng phen
Cùng chàng sẽ kết mối duyên đến già
Sức mạnh của phép sóng đôi làm cho tình cảm tuôn chảy dào dạt, như
thể không dừng được. Cái hay của phép này là làm cho ý tứ, tình cảm tuôn
chảy thành dòng mạnh mẽ nhất quán.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông ngọn cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh


Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Bốn lần ngồi trông dồn dập hẳn càng khơi sâu nỗi buồn và cũng đưa nỗi
đau lưu lạc lên tới đỉnh điểm. Phép sóng đôi đạc biệt đắc dụng trong miêu
tả tâm trạng đau đớn dồn dập:
Lần lần thỏ bạc ác vàng
Xót người trong hội đoạn trường đòi cơn!
Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho cho hại, cho tàn cho cân!
Đã đày vào kiếp phong trần
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!
Nỗi đau xót đã chuyển thành sự đay nghiến số phận bất công tai ác. Một
chữ “cho” đem lại một chữ hồng nhan, thì liền đó lại có bốn chữ “cho” tàn
hại, vùi dập tới tấp. Nói là cho cân nhưng cân làm sao được! Thà rằng
đừng cho hồng nhan cho rồi! Chữ “đã đày” láy lại chữ “đã cho” ở trên,
nhưng lại nói toạc cái ý “cho” ấy là “đày”, và đã đày thì thế nào cũng “Sao
cho sỉ nhục một lần mới thôi!” Thật không lời nào nói hơn được nỗi đau
xót của người mang chữ hồng nhan!
Phép sóng đôi cũng đắc dụng trong việc miêu tả sự đam mê:
Sinh càng một tỉnh mười mê
Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân!
Khi gió gác, khi trăng sân
Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ
Khi hương sớm, khi trà trưa

Bàn vây điểm nước, đường tơ hoạ đàn
Miệt mài trong cuộc truy hoan
Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình
Bốn chữ khi, bốn cặp tiểu đối, hai chữ càng đã tạo một nhịp điệu truy
hoan triền miên, dồn dập không biết bao nhiêu lần, không biết bao nhiêu
thời gian đã trôi qua trong các cuộc chơi ấy, không ai tính được đã có bao
nhiêu là cuộc chơi, chỉ biết một cuộc mê chơi miệt mài, triền miên liên tục.
Tả như thế là cực tả. Đến khi độc chiếm được Thuý Kiều rồi, Thuý Kiều
được tự do rồi, mối tình càng say sưa, phép sóng đôi của tác giả cũng tràn
trề cảm hứng:
Một nhà sum họp trúc mai
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông
Hương càng đậm, lửa càng nồng
Càng sôi vẻ ngọc, càng hồng màu sen
Sáu chữ càng, ba cặp tiểu đối đã tạo thành cái nhịp điệu say sưa tưởng
chừng như là vĩnh viễn, không chỉ là nhân vật say sưa mà ngôn từ cũng


say sưa, tác giả cũng say sưa, và do đó mà có sức truyền thần say đắm.
Nhưng phép sóng đôi này càng đắc dụng khi thể hiện trong lời nói, ý nghĩ
của nhân vật, làm cho cái dòng cảm xúc trong tâm hồn tràn cả ra ngoài lời.
Chẳng hạn đây là lời dạy của mụ Tú Bà đối với cô Kiều:
Này con thuộc lấy làm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời
Khi khoé hạnh, khi nét ngài
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa ...
Đều là nghề nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nết mới là người soi.

Hai chữ vành, ba chữ cho, bốn chữ khi với năm cặp tiểu đối đã tạo thành
cái say sưa nghề nghiệp của Tú Bà, hễ động đến sự chơi là mụ ta không
thể dừng lại được, không thể bình tĩnh được!
b. Phép nhấn mạnh các thành phần câu
• Dùng các từ “thì”, “là”, “mà”,…tăng ngữ điệu nhấn mạnh
- Thì: có chức năng ngăn cách chủ và vị ngữ
- Là: có chức năng ngắt các thành phần câu, ngắt câu và nó có chức năng của hệ
từ (động từ)
- Mà: có chức năng của kết từ: Do…..mà (nên). Ở đây chỉ xét “mà” như là 1
kiểu từ dùng để nhấn mạnh chủ ngữ hoặc vị ngữ.
Vd: Anh mời thì tôi đến
Muốn đi thì đi nhanh lên
“Người mà đến thế thì thôi
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi”
• Phép nhấn mạnh các thành phần câu (đảo ngữ)
- Đảo vị ngữ trước chủ ngữ:
Vd: Đã tan tác những bóng thù hắc ám
Đã sáng lại trời thu tháng tám
..
Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,
Bút thần khôn vẽ cảnh tiếu sơ,
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
- Đảo bổ ngữ của động từ ra trước câu:
Vd: Cho cuộc đời cho Tổ quôc thâan yêu
Ta đã làm gì và được bao nhiêu
- Đặt bổ ngữ của câu lên trước (trạng ngữ)
d) Tách các thành phần câu
- Tách các thành phần câu, nâng các thành phần câu đó là những “câu”, “(ngữ)
trực thuộc” và “câu dưới bậc” là 1 biện pháp quan trọng.



- Vd:
4. Biện pháp dùng giải ngữ
- Hay còn gọi là phụ chú ngữ, tức là thành phần phụ nhằm giải thích ý nghĩa của

1 từ hay 1 ngữ để cụ thể hóa hay để nhấn mạnh 1 nét nghĩa nào đó mà người
nói hay người viết muốn truyền đạt.
Vd: Cô bé nhà bên (có ai ngờ)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương quá đi thôi)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...
5. Phép thể hiện tình thái của câu bằng các phụ ngữ (hay tiểu từ) (XEM
SGK/246)



×