Tải bản đầy đủ (.doc) (183 trang)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUAN hệ BIỆN CHỨNG GIỮA TRUYỀN THỐNG và HIỆN đại TRONG GIÁO dục đạo đức CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.2 KB, 183 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại là quy luật khách
quan của sự phát triển, trong mọi hình thức và lĩnh vực của nó. Đặc biệt
trong lĩnh vực đời sống văn hóa tinh thần, bao hàm cả sự phát triển đạo
đức, quan hệ này có ý nghĩa vô cùng to lớn, nhất là đối với các nước đang
phát triển và thực sự trở nên cấp bách ở những nước đang đi theo con
đường hiện đại hóa. Trong điều kiện cả nước ta đang thực hiện công cuộc
đổi mới, xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vấn đề truyền
thống, mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại lại được đặt trên một
nhận thức mới - từ góc độ coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển của xã hội, trong đó thanh niên là một bộ phận, một lực lượng vô
cùng quan trọng.
Thanh niên là lực lượng quan trọng, đóng vai trò to lớn đối với
thành công của công cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Đây là một thế hệ, một lớp người năng động và dễ tiếp thu
cái mới nhất trong xã hội, họ cũng là tầng lớp chịu ảnh hưởng lớn nhất của
những điều kiện kinh tế - xã hội mới, của cơ chế thị trường và việc mở rộng
giao lưu quốc tế.
Thực tế cho thấy rằng, hiện nay giới trẻ ít quan tâm đến truyền
thống dân tộc mà có xu hướng sùng bái nước ngoài, thích chạy theo lối sống
hiện đại kiểu phương Tây. Đó cũng là thực trạng chung mà Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm (khóa VIII) đã khái quát: "Tệ sùng
bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối
sống cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc" [24,
tr. 46].



2

Trong tình hình như vậy, công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên
vẫn còn nhiều hạn chế. Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có những chính sách
nhằm gìn giữ và phát huy truyền thống và những giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc, nhưng trong thời gian qua, vẫn còn không ít cách nghĩ,
cách làm lệch lạc trong việc định hướng và giáo dục giới trẻ thái độ đối với
truyền thống dân tộc cũng như xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện
đại. Trong giáo dục đạo đức, đã tồn tại cả hai xu hướng cực đoan: hoặc là
coi nhẹ các giá trị truyền thống mà nhấn mạnh các giá trị hiện đại, hoặc là
quay trở về với truyền thống một cách thái quá. Công tác lý luận chưa làm
rõ nhiều vấn đề nổi lên trong quá trình đổi mới, trong đó có các vấn đề như
xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên trong
giới trẻ.
Vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là, chúng ta cần quán triệt mối
quan hệ biện chứng giữa các giá trị truyền thống và hiện đại trong đạo đức;
từ đó vận dụng mối quan hệ này vào công tác giáo dục đạo đức cho thanh
niên hiện nay. Đó là những vấn đề lớn, hết sức cần thiết mà hoạt động lý
luận và thực tiễn cuộc sống đang đặt ra, là nhiệm vụ của công tác giáo dục
đạo đức cho thanh niên của Đảng, của Nhà nước và của các nhà giáo dục.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài "Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và
hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay" vì
tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn của nó.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mảng đề tài về truyền thống và đạo đức truyền thống được nhiều
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và có nhiều công trình, bài viết có giá
trị. Đó là những công trình như: "Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam" (1980) của GS. Trần Văn Giàu; "Về truyền thống dân tộc" của
GS. Trần Quốc Vượng, (Tạp chí Cộng sản, số 2/1981); "Biện chứng của



3

truyền thống" của GS. Hà Văn Tấn, (Tạp chí Cộng sản, số 3/1981); "Vấn
đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển" của GS.
Nguyễn Trọng Chuẩn, (Tạp chí Triết học, số 2/1998); "Giá trị truyền
thống, nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc"
của PGS. Nguyễn Văn Huyên, (Tạp chí Triết học, số 4/1998)...
Các công trình này tập trung vào những nội dung chủ yếu là truyền
thống và đạo đức truyền thống của dân tộc, về vai trò của chúng trong lịch
sử vẻ vang của dân tộc ta và nhấn mạnh vai trò của truyền thống hiện nay,
khi đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở rộng giao lưu quốc tế.
Về quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, có một số chuyên khảo
như: "Truyền thống và hiện đại trong văn hóa" (1999); "Văn hóa Việt Nam truyền thống và hiện đại" (2000) do Viện Thông tin Khoa học xã hội tổng
hợp và giới thiệu qua các bài viết của các nhà khoa học trong và ngoài
nước về vấn đề này. Gần đây nhất có cuộc hội thảo với chủ đề "Giá trị
truyền thống và những thách thức của toàn cầu hóa" do Viện Triết học của
Việt Nam và Hội đồng Nghiên cứu triết học và giá trị của Mỹ phối hợp tổ
chức tại Việt Nam trong hai ngày 14 và 15 tháng 5 năm 2001. Các bài tham
luận của các nhà khoa học trong và ngoài nước xoay quanh vấn đề nóng hổi
đối với chúng ta là: làm thế nào để vừa giữ được bản sắc dân tộc, vừa loại
bỏ được những truyền thống đã trở nên lỗi thời, lạc hậu và tiếp thu được
những tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm phát huy bản sắc dân tộc trong xu
thế toàn cầu hóa hiện nay. Luận án Tiến sĩ Triết học của NCS Nguyễn Văn
Lý với đề tài: "Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong
quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" cũng đi
theo hướng đó. Còn luận án Tiến sĩ Triết học của NCS Nguyễn Lương
Bằng (2001) "Kết hợp truyền thống và hiện đại trong quá trình đổi mới

giáo dục - đào tạo ở Việt Nam hiện nay" phân tích mối quan hệ giữa truyền


4

thống và hiện đại và sự vận dụng mối quan hệ này trong một lĩnh vực hoạt
động cụ thể là giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, về mối quan
hệ giữa truyền thống và hiện đại trong đạo đức và giáo dục đạo đức còn có
ít công trình đề cập tới.
Khi nghiên cứu về đối tượng thanh niên, gần đây có một số công
trình có đề cập đến sự phát triển đạo đức và định hướng giá trị đạo đức cho
thanh niên như: TS Thái Duy Tuyên về "Sự biến đổi định hướng giá trị của
thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường", (Tạp chí Triết học,
số 1/1995); Trần Xuân Vinh (Viện Thanh niên) về "Sự biến đổi một số giá
trị cơ bản của thanh niên Việt Nam hiện nay", (Tạp chí Triết học, số 1/ 1995);
Chuyên khảo "Những phương pháp tiếp cận thanh niên hiện nay" (1999)
và Luận án PTS Triết học của Dương Tự Đam (1996) "Định hướng giá trị
của thanh niên sinh viên trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay"; các
cong trình nghiên cứu chuyên sâu và bài viết của PGS.TS Đặng Cảnh
Khanh về đối tượng thanh niên cũng như một số luận án, luận văn khác
bước đầu đã đưa ra những nhận xét, đánh giá về thế hệ trẻ Việt Nam, về vai
trò và đặc điểm phát triển đạo đức và về những thay đổi trong sự phát triển
đạo đức, lối sống của họ trong điều kiện mới.
Tuy nhiên, đề tài giáo dục đạo đức cho thanh niên, nhất là giáo dục
theo hướng kết hợp các giá trị truyền thống và hiện đại còn ít được quan
tâm nghiên cứu, mặc dù đây là một vấn đề hết sức cấp thiết trong điều kiện
hiện nay. Luận án hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu
một trong những khía cạnh của vấn đề lớn đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là làm rõ hơn mối quan hệ giữa truyền thống

và hiện đại trong sự phát triển đạo đức, vận dụng mối quan hệ này vào hoạt
động giáo dục đạo đức cho thanh niên; từ đó đề xuất một số phương hướng


5

và giải pháp chủ yếu kết hợp truyền thống và hiện đại nhằm xây dựng đạo
đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong
sự phát triển đạo đức và trong giáo dục đạo đức
- Phân tích đặc điểm và xu hướng biến đổi về đạo đức của thế hệ
thanh niên Việt Nam hiện nay và thực trạng công tác giáo dục đạo đức cho
thanh niên theo hướng kết hợp truyền thống và hiện đại; từ đó rút ra những
vấn đề cần giải quyết.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp chủ yếu trong giáo dục
đạo đức cho thanh niên theo hướng kết hợp truyền thống và hiện đại.
4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Nội dung vấn đề mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại nói chung
rất rộng. Tuy nhiên, luận án này chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong lĩnh
vực đạo đức và giáo dục đạo đức cho thanh niên. Các phương hướng và
giải pháp đưa ra cũng chỉ thuộc phạm vi này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng Cộng sản
Việt Nam có liên quan đến đạo đức, mối quan hệ giữa truyền thống và hiện
đại trong đạo đức và giáo dục đạo đức cho thanh niên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện trên cơ sở
vận dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,

điều tra xã hội học...


6

Luận án có tham khảo các công trình nghiên cứu khoa học, các báo
cáo, tổng kết của Trung ương Đoàn và Hội Liên hiệp thanh niên... có liên
quan đến vấn đề này.
6. Đóng góp mới của luận án
- Góp phần làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và
hiện đại trong sự phát triển đạo đức và việc vận dụng nó vào công tác giáo
dục đạo đức cho thanh niên;
- Khái quát thực trạng và những vấn đề đặt ra trong công tác giáo
dục đạo đức cho thanh niên theo hướng kết hợp truyền thống và hiện đại;
- Nêu lên những luận cứ khoa học cho việc đề xuất một số giải pháp
kết hợp chúng trong hoạt động giáo dục đạo đức cho thanh niên hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong việc nghiên cứu một số vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế
thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đồng thời có thể đóng
góp về mặt lý luận cho việc hoạch định chính sách thanh niên - cụ thể là
trong công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án gồm 3 chương, 6 tiết.


7

Chương 1

TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG ĐẠO ĐỨC
VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC

1.1. KHÁI NIỆM TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG ĐẠO ĐỨC

1.1.1. Truyền thống và đạo đức truyền thống
Truyền thống luôn là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu từ nhiều khía cạnh. Nói một cách ngắn gọn, thì truyền thống là
"Thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác" [94, tr. 1017].
Theo Từ điển Bách khoa Triết học của Liên Xô, thì từ "truyền thống"
(bắt nguồn từ tiếng Latinh là traditio - có nghĩa là sự chuyển giao, lưu truyền
lại), được hiểu là các yếu tố của di sản văn hóa và xã hội được chuyển từ
thế hệ này sang thế hệ khác và được bảo tồn, gìn giữ lâu dài trong các xã
hội, giai cấp hay nhóm xã hội nhất định. Truyền thống bao gồm các đối
tượng của di sản xã hội (các giá trị vật chất và tinh thần), quá trình kế thừa
xã hội, các phương thức của nó. Trong truyền thống có các quy định, các
tiêu chuẩn hành vi, các giá trị tư tưởng, thói quen, tập tục... của các xã hội
nhất định.
Với tư cách là một yếu tố thuộc di sản văn hóa và xã hội, truyền
thống được hiểu một cách cụ thể hơn: "Truyền thống là tập hợp những tư
tưởng và tình cảm, những thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của
một cộng đồng người nhất định được hình thành trong lịch sử và đã trở nên
ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác" [48, tr. 30].
GS. Nguyễn Trọng Chuẩn cũng cho rằng: "Nói đến truyền thống là
nói đến phức hợp những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen, những


8


phong tục, lối sống, cách ứng xử, ý chí... của một cộng đồng người đã hình
thành trong lịch sử, đã trở nên ổn định và được truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác" [10, tr. 16].
Như vậy, truyền thống mà chúng tôi đề cập đến ở đây là một vấn đề
thuộc phạm vi văn hóa, tinh thần, đặt trong mối quan hệ với hiện đại được
hiểu như là tập hợp những tư tưởng, tình cảm, thói quen, tập quán, lối sống
và cách ứng xử của một cộng đồng người nhất định, được hình thành và
phát triển trong lịch sử, đã trở nên ổn định và lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Ta thường nói: truyền thống yêu nước của dân tộc Việt
Nam, truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của người Việt Nam, truyền
thống lao động cần cù hay truyền thống nhân ái, thương người, "lá lành
đùm lá rách"... của dân tộc ta. Truyền thống là tinh hoa đã được chắt lọc
qua thử thách của thời gian và được nâng cao dần theo trình độ phát triển
mọi mặt của con người và xã hội mà không xa rời nguồn cội. Trải qua hàng
ngàn năm lịch sử, những truyền thống đó đã tạo nên bản sắc của dân tộc
Việt Nam, tâm hồn và bản lĩnh của con người Việt Nam.
Truyền thống mang các đặc trưng cơ bản như: tính cộng đồng, tính
ổn định và tính lưu truyền.
Tính cộng đồng của truyền thống thể hiện ở chỗ, truyền thống bao giờ
cũng là truyền thống của một cộng đồng nhất định nào đó. ở Việt Nam, tính
cộng đồng biểu thị tập trung ở ba kết cấu xã hội chủ yếu là: nhà - làng - nước.
Nhà (gia đình - dòng họ): vừa là tế bào xã hội, vừa là đơn vị sản
xuất trong nền kinh tế tiểu nông. "Nhà" Việt Nam là kiểu gia đình phụ hệ,
hay là cả một dòng họ, đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc nuôi dạy
và giáo dục con cái, hình thành nhân cách và các phẩm chất đạo đức ban
đầu cho các thế hệ, nhất là thế hệ trẻ.
Làng: là tập hợp nhiều gia đình tụ cư trong một khu vực địa lý nhất
định. Làng Việt Nam là một cấu trúc cộng đồng gồm nhiều cấp độ, quan



9

hệ... liên kết chặt chẽ với nhau. Trong lịch sử dân tộc, làng Việt Nam là
đơn vị cộng đồng tạo ra sức mạnh liên kết trong lao động sản xuất, trong
đời sống tinh thần, trong việc giáo dục, dạy dỗ con em.
Sau làng, nước là cộng đồng lớn bao trùm, tập hợp nhiều làng,
nhiều vùng, nhiều tộc. Nước Việt Nam ta đã hình thành và phát triển rực rỡ
từ hàng ngàn năm nay và mang những cái tên thể hiện lòng tự hào dân tộc
như: Đại Việt, Đại Nam, Việt Nam... Các cộng đồng nhà - làng - nước là
nơi tiếp nhận, gìn giữ và lưu truyền qua ngàn đời các truyền thống của dân
tộc và truyền lại cho con cháu.
Truyền thống dân tộc được hình thành dần dần qua các hoạt động
lịch sử của con người. Sau khi hình thành, nó mang tính ổn định tương đối.
Ổn định vì khi nói đến truyền thống, là ta nói đến một cái gì đó lâu dài, ít
thay đổi. Nếu không có các yếu tố ổn định thì truyền thống không còn là
truyền thống nữa. Như truyền thống yêu nước, truyền thống lao động cần
cù, tiết kiệm, truyền thống hiếu học... đã trở thành bản tính của con người
Việt Nam từ xưa tới nay. Tuy nhiên, tính ổn định đó chỉ là tương đối vì bản
thân truyền thống cũng có quá trình hình thành, phát triển theo thời gian,
trong những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Mỗi khi những điều kiện đó
thay đổi thì truyền thống cũng có những thay đổi cho phù hợp, có mặt được
kế thừa và phát triển, có mặt không còn mang tính tích cực nữa sẽ bị đào
thải và loại bỏ, và những truyền thống mới sẽ lại được hình thành...
Truyền thống khi đã hình thành, trở nên ổn định thì sẽ được gìn giữ
và truyền từ đời nay sang đời khác. Truyền thống bắt nguồn từ lịch sử,
nhưng không phải mọi thứ thuộc về lịch sử đều là truyền thống, mà chỉ có
những gì được sao phỏng, được kế thừa, được lưu truyền thì mới được gọi
là truyền thống. Truyền thống được lưu giữ, được kế thừa sẽ tạo nên bản
sắc của cả dân tộc. Bản sắc dân tộc ta là những nét riêng, độc đáo, đã tạo
nên một dân tộc Việt Nam không thể hòa lẫn vào các dân tộc khác. Trở lại



10

với quá khứ xa xôi hàng ngàn năm trước, trong suốt gần 1000 năm bị
phong kiến Trung Quốc đô hộ, kẻ địch đã không thể đồng hóa được dân tộc
ta, chính vì ta đã gìn giữ được bản sắc của dân tộc, bảo vệ được những giá
trị văn hóa, tinh thần mà cha ông ta để lại. Hay như trong các cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ gần đây, mặc dù bọn thực dân,
xâm lược tìm mọi cách phá hoại nền văn hóa dân tộc và bản sắc dân tộc ta,
nhưng chúng đã không thể thực hiện được mục đích đó. Một dân tộc Việt
Nam, sau bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, vẫn đứng vững được như ngày
hôm nay, là vì đã luôn gìn giữ, phát huy được bản lĩnh, bản sắc dân tộc
mình và trao truyền nó từ đời này cho đời khác.
Về giá trị truyền thống. Theo quan điểm lịch sử và biện chứng, ở
một thời điểm lịch sử nhất định, truyền thống bao giờ cũng có tính hai mặt:
mặt tích cực và mặt tiêu cực. Mặt tích cực bao gồm những yếu tố ưu việt,
tiến bộ, phù hợp và thúc đẩy sự phát triển của xã hội, góp phần gìn giữ bản
sắc dân tộc; còn mặt tiêu cực là hiện thân của sức ỳ, của sự bảo thủ, lạc
hậu, có ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển của xã hội. Hai mặt mâu thuẫn
đó cùng tồn tại song song trong di sản truyền thống và có khi đan xen,
chồng chéo lên nhau. Tuy nhiên, khi nói đến giá trị truyền thống là ta muốn
nói tới những mặt tốt đẹp, mặt tích cực, là đặc trưng cho bản sắc dân tộc
trong truyền thống và đã trở nên ổn định, lâu bền, có khả năng trao truyền
lại qua không gian và thời gian, là những gì mà chúng ta cần duy trì và phát
triển. "Nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện,
nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái
hay, cái đẹp, là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người hành động và
vươn tới" [10, tr. 16]. Hơn nữa, "không phải mỗi cái gì tốt thì mới được gọi
là giá trị, mà phải là những cái tốt phổ biến, cơ bản, có nhiều tác dụng tích

cực cho đạo đức luân lý, có cả tác dụng hướng dẫn sự nhận định và hướng


11

dẫn sự hành động, thì mới được mang danh là giá trị truyền thống" [27, tr.
50].
Vai trò của truyền thống đối với sự hình thành đạo đức mới
Truyền thống có vai trò rất to lớn trong việc hình thành và giữ vững
nhân cách, phẩm chất của mỗi con người, giữ gìn bản sắc, cốt cách của mỗi
dân tộc và trong xây dựng nền đạo đức mới. Khi phê phán các quan điểm
đối lập và khẳng định quan điểm của mình về sự phát triển của lịch sử nói
chung và về vai trò của truyền thống nói riêng, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin cũng đã khẳng định rằng:
Lịch sử chẳng qua chỉ là sự nối tiếp của những thế hệ
riêng rẽ trong đó mỗi thế hệ đều khai thác những vật liệu, những
tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả các thế hệ trước để
lại, do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động được
truyền lại, trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt
khác, lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn
toàn thay đổi [60, tr. 65].
Truyền thống là cái chung của cả một cộng đồng nào đó nhưng nó
lại tồn tại cụ thể trong mỗi cá nhân, được biểu hiện qua tâm lý, đạo đức, lối
sống, phong cách, phương pháp, kỹ năng hoạt động... của từng con người
cụ thể. Việc chuyển tải truyền thống từ thế hệ này qua thế hệ khác cũng do
con người thực hiện, bằng cách "đầu tiên bằng ngôn ngữ nói, bằng ký ức cá
nhân và ký ức tập thể rồi sau đó bằng ngôn ngữ viết" [101, tr. 28]. Giáo dục là
phương thức bảo tồn và phát huy hệ thống giá trị chung của cả loài người,
là phương tiện quan trọng nhất để chuyển tải và trao truyền các giá trị
truyền thống, đào tạo những con người mang các giá trị truyền thống và

sáng tạo các giá trị mới. Đó là con đường đặc trưng nhất để con người tồn
tại và phát triển.


12

"Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội" [60, tr. 65]. Truyền thống là một trong những yếu tố cấu
thành các quan hệ xã hội, vì vậy nó góp phần vào việc hình thành bản chất
con người, thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Truyền thống là cơ sở vững chắc để hình thành nên các giá trị mới
ở con người.
- Truyền thống là nền tảng tinh thần có tác dụng ngăn chặn, hạn chế
những hiện tượng xấu, tiêu cực trong đời sống xã hội và xây dựng các mối
quan hệ tốt đẹp giữa người với người.
- Truyền thống là cái "bộ lọc" nhằm giữ sự phát triển đúng hướng,
điều tiết các mối quan hệ và chọn lọc các giá trị trong quá trình giao lưu
văn hóa với nước ngoài, tránh được sự đồng hóa của văn hóa ngoại bang và
gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Truyền thống là cội nguồn tạo ra sức mạnh nội sinh của cả dân
tộc, của mỗi cộng đồng dân cư, của mỗi dòng họ, mỗi gia đình và mỗi một
con người.
- Truyền thống là nền tảng thúc đẩy quá trình hiện đại hóa của đất
nước, là ngọn nguồn, là động lực làm nên tinh thần và sức sống của dân
tộc. Bởi vì trong truyền thống văn hóa của dân tộc cũng có nội dung phản
ánh thời đại, có nội dung phản ánh tính dân tộc và tính nhân loại... Các giá
trị truyền thống là những "hạt nhân hợp lý", có vai trò như những đòn bẩy
của xã hội trong tiến trình hiện đại hóa.
Trong hệ thống giá trị văn hóa, tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam ta thì nổi bật nhất là đạo đức truyền thống. Đạo đức truyền thống

"đã được gìn giữ và nâng cao từ đời này qua đời khác trở thành một tình
cảm sâu sắc, một lẽ sống của toàn thể nhân dân, một niềm tự hào cao quý ở
mỗi người" [40, tr.71].


13

Vậy đạo đức truyền thống được chúng ta hiểu như thế nào?
Đạo đức nói chung là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, là tập hợp
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi và đánh
giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã
hội; chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh
của dư luận xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của cá nhân và lợi ích của cộng đồng.
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, tôn giáo,
nghệ thuật, khoa học... đạo đức phản ánh tồn tại xã hội. Sự xuất hiện của ý
thức đạo đức là do nhu cầu khách quan của sự phát triển nhận thức, của đời
sống xã hội, trước hết là do nhu cầu phối hợp, tương trợ lẫn nhau trong lao
động sản xuất, trong việc phân phối sản phẩm xã hội, trong đấu tranh... Đạo
đức thay đổi tùy theo sự thay đổi của tồn tại xã hội. Cùng với sự phát triển
của sản xuất, của tiến bộ xã hội, những qui tắc, chuẩn mực, phạm trù đạo
đức... theo đó cũng tăng lên, phản ánh đời sống xã hội ngày càng phong
phú, đa dạng hơn, trở thành một trong những phương thức điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội, điều chỉnh hành vi con người sao cho phù hợp với yêu
cầu của xã hội. Ăngghen viết: "Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo
đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội
lúc bấy giờ" [59, tr. 161].
Phê phán các quan điểm siêu hình về một nền đạo đức vĩnh cửu, đặt
lên trên mọi sự khác biệt về giai cấp và dân tộc, bất chấp mọi sự thay đổi
về thời gian và điều kiện lịch sử - kinh tế, Mác, Ăngghen, Lênin luôn nhấn
mạnh tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại của đạo đức. Từ khi xã hội

phân chia thành giai cấp và phát triển trong sự đấu tranh giai cấp, đạo đức
luôn là đạo đức của giai cấp. Từ xã hội cổ đại cho đến xã hội hiện đại ngày
nay, từ giai cấp chủ nô đến giai cấp địa chủ phong kiến, từ giai cấp tư sản
đến giai cấp vô sản mỗi giai cấp đều có nền đạo đức riêng của mình. Vì


14

vậy, chúng ta "không tin vào đạo đức vĩnh viễn và chúng ta bóc trần tất cả
những sự dối trá của các câu chuyện hoang đường về đạo đức vĩnh viễn"
[53, tr. 371]. Khi bàn về các kiểu đạo đức trong thời đại chúng ta, Ăngghen
cũng nêu lên ba thứ đạo đức: đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản và đạo
đức cộng sản chủ nghĩa, tiêu biểu cho ba giai cấp cũng như ba thời đại khác
nhau.
Bên cạnh tính giai cấp và thời đại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin cũng nhấn mạnh về sự khác nhau giữa các dân tộc trong các
quan điểm, chuẩn mực đạo đức. Sự khác nhau này được qui định bởi những
điều kiện lịch sử, văn hóa, tập quán, tâm lý... dân tộc khác nhau, nhất là
trong các điều kiện kinh tế khác nhau. Đặc trưng về mọi mặt của mỗi dân
tộc hình thành nên truyền thống đạo đức của dân tộc đó. Ăngghen đã viết:
"Từ dân tộc sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những
quan niệm về thiện và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái
ngược hẳn nhau" [59, tr. 135]. Sự khác nhau này đặc biệt rõ nét trong quan
niệm về đạo đức giữa các dân tộc phương đông và các dân tộc phương Tây.
Thừa nhận tính giai cấp, tính dân tộc, chủ nghĩa Mác cũng không hề
phủ nhận giá trị phổ biến toàn nhân loại của đạo đức. Những giá trị đạo đức
phổ biến toàn nhân loại như lòng nhân ái, sự công bằng, trung thực, tôn
trọng chính nghĩa... thì dân tộc nào, thời đại nào cũng coi trọng và nội dung
lớn nhất, phổ quát nhất mà mọi thuyết đạo đức cần phải hướng tới là lòng
nhân đạo, nhân ái và sự tự do, giải phóng của con người. Đó chính là cơ sở

của nền đạo đức của giai cấp vô sản.
Nếu như truyền thống - như đã đề cập ở trên - là những gì đã được
hình thành và phát triển lâu dài trong lịch sử dân tộc, đã trở nên ổn định và
lưu truyền từ đời này qua đời khác, thì đạo đức truyền thống là những
quan điểm, quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực, hành vi ứng xử, thói quen,
tập quán... đạo đức đã có từ lâu đời và được trao truyền từ thế hệ này sang


15

thế hệ khác. Đạo đức truyền thống Việt Nam là bản sắc của dân tộc Việt
Nam, là cốt lõi của đời sống văn hóa, tinh thần của chúng ta. Đó không
phải là một cái gì thiên định, mà được hình thành và được bồi đắp qua hàng
thế kỷ cho đến ngày nay, trong những điều kiện địa lý lịch sử đặc biệt của
dân tộc ta.
Trước hết là từ hoàn cảnh địa lý tự nhiên của đất nước. Nước ta tuy
nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, có sông dài biển rộng, giàu tài nguyên thiên
nhiên, nhưng khí hậu cũng rất khắc nghiệt: bão lụt, hạn hán, thiên tai xảy ra
thường xuyên. Truyền thuyết về các trận giao chiến giữa Sơn Tinh - Thủy
Tinh cũng nói lên phần nào sự gay gắt của cuộc đấu tranh với thiên nhiên
này. Các cuộc đấu tranh kiên trì, bền bỉ chống những thử thách khắc nghiệt
của thiên nhiên và cải tạo thiên nhiên có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành
các phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam.
Bên cạnh hoàn cảnh địa lý khắc nghiệt là điều kiện lịch sử rất đặc
trưng bằng các cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ chống ngoại xâm. Các cuộc
đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giữ làng, giữ nước liên tục trong lịch sử là
yếu tố quan trọng tạo ra những truyền thống đẹp của dân tộc Việt Nam, tạo
ra những phẩm chất đạo đức quý báu, các giá trị tinh thần của con người
Việt Nam. Trong các cuộc chiến tranh, kẻ thù của chúng ta thường là
những nước lớn, đông và mạnh hơn ta gấp bội lần. Vì vậy, các lãnh tụ dân

tộc luôn phải động viên sức mạnh toàn dân, toàn dân tộc tham gia đánh
giặc, cứu nước. Và con người Việt Nam từ trước tới nay, trong mỗi một
cuộc kháng chiến chống giặc, đều lấy sức mạnh của tinh thần yêu nước,
của trí tuệ, của lòng mưu trí dũng cảm làm vũ khí chiến thắng kẻ thù. Thực
tế lịch sử đã hun đúc nên con người Việt Nam với những phẩm chất đạo
đức tốt đẹp đã trở thành truyền thống, và lịch sử cũng chứng minh rằng, các
giá trị đạo đức, tinh thần truyền thống đó quả là có sức mạnh to lớn mà kẻ
thù không thể nào đè bẹp được.


16

Sự hình thành các phẩm chất đạo đức, tinh thần truyền thống của
dân tộc ta, con người Việt Nam ta cũng chịu ảnh hưởng của nhiều trào lưu
tư tưởng, văn hóa xâm nhập từ bên ngoài vào. Phật giáo, Nho giáo, Đạo
giáo từ Trung Quốc, Ấn Độ được du nhập vào ta từ rất sớm. Thế kỷ XVII,
thực dân Pháp tìm cách truyền bá tư tưởng Thiên chúa giáo từ phương Tây
sang. Và cuối cùng là sự truyền bá và thắng lợi của tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa
xã hội của nước ta hiện nay. Các trào lưu trên ảnh hưởng đến sự hình thành
và phát triển đạo đức truyền thống dân tộc ta với nhiều mức độ khác nhau.
Ảnh hưởng của đạo Phật đối với đạo đức truyền thống Việt Nam là
ở chỗ, các tăng phái Phật giáo truyền bá tư tưởng từ bi cứu khổ cứu nạn, tư
tưởng vị tha, lòng yêu thương con người (như yêu thương bản thân mình),
một tình thương bao la dành cho đồng loại và mọi sinh vật sống. Những
đức tốt mà Phật giáo tuyên truyền làm sâu đậm thêm những đức tốt vốn có
của dân ta. Trong lịch sử đạo Phật được truyền vào nước ta từ rất sớm và
trong suốt hai triều đại lớn là Lý, Trần, nó đã trở thành quốc đạo. Sang triều
Lê, Nguyễn, tuy không còn là quốc đạo nữa, nhưng đạo Phật vẫn có ảnh
hưởng rộng rãi trong các tầng lớp dân cư.

Kế đến là ảnh hưởng của đạo Nho. Đạo Nho xâm nhập vào nước ta
gần như cùng thời với đạo Phật. Về cơ bản, đây là một hệ thống quan điểm
về thế giới, về xã hội và con người, là một học thuyết chính trị - đạo đức xã hội hướng đến mục tiêu "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Trong
mọi vấn đề, Nho giáo lấy đạo đức làm gốc, làm xuất phát điểm, đề cao vai
trò và tác dụng của đạo đức trong xã hội và trong lịch sử. Các triều đình
phong kiến căn cứ vào tư tưởng và tinh thần đạo Nho mà ra luật lệ, quy tắc
và "gây phong tục". Trong năm sáu trăm năm thịnh đạt và thống trị về tư
tưởng, Nho giáo - mà chủ yếu là đạo đức Nho giáo - có ảnh hưởng mạnh


17

mẽ đến các quan điểm và đời sống đạo đức của dân ta. Qua các nhà Nho mà lúc này rất được coi trọng - và sự dạy dỗ của họ, đạo đức Nho giáo cứ
thấm dần vào nền đạo đức truyền thống dân tộc ta. Những nội dung cơ bản
của học thuyết đạo Nho: tam cương, ngũ thường cũng đã đi vào đời sống,
quan hệ, cách đối nhân xử thế hàng ngày của người dân Việt Nam. Tuy
nhiên, nền đạo đức truyền thống Việt Nam, tuy bị ảnh hưởng sâu sắc của
quan điểm đạo đức Nho giáo, vẫn có bản sắc riêng của mình.
Đạo Giáo Trung Quốc du nhập vào Việt Nam một thời gian ngắn
sau Phật giáo. Về ảnh hưởng của nó đối với sự hình thành và phát triển của
đạo đức truyền thống Việt Nam, chỉ có thể nhận ra một điều là nó góp thêm
cho dân ta tinh thần đoàn kết thân ái, đem lại cho người nông dân ý thức
gắn bó, tinh thần chống áp bức đô hộ khi có thời cơ.
Như vậy, xét cho cùng, dù Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo đều có
ảnh hưởng đến đạo đức truyền thống Việt Nam, nhưng yếu tố quyết định
đến nội dung và bản sắc của nền đạo đức truyền thống đó chính là cuộc đấu
tranh chống lại thiên nhiên khắc nghiệt, chống lại các kẻ thù xâm lược,
cuộc đấu tranh sinh tồn hàng ngàn năm của dân tộc... Giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc là do chính cộng đồng người Việt ta tạo dựng nên, phát
triển và bù đắp thêm mãi cho đến ngày nay.

Đạo đức truyền thống Việt Nam, vì có nguồn gốc xuất phát như
vậy, nên cũng có những cách biểu hiện rất đặc biệt, thể hiện ở những đặc
điểm sau: Thứ nhất, đó là sự đúc kết những kinh nghiệm tu dưỡng, kinh
nghiệm ứng xử, được rút gọn trong những câu ca dạo tục ngữ hoặc trong
những bài gia huấn. Thứ hai, nhân dân ta đã xây dựng hình ảnh những nhân
vật, những hiện tượng đạo đức qua các câu chuyện cổ tích thần kỳ hay cổ
tích thế sự, thừa nhận các nhân vật trong các truyện nôm, chèo, kịch và
diễn xướng dân gian khi tư tưởng và hành vi đạo đức của họ phản ánh được


18

lý tưởng đạo đức của quần chúng. Thứ ba, rất trân trọng và đề cao những tấm
gương người thực, việc thực trong lịch sử và trong cuộc sống hàng ngày;
ngược lại phê phán và đả kích gay gắt những nhân vật và hành vi trái đạo
đức. Một đặc điểm quan trọng nữa là, tư tưởng đạo đức truyền thống Việt
Nam không phải là một thứ định lý bất biến, không hề thay đổi mà luôn có
sự phát triển theo thời gian. Điều này càng đòi hỏi chúng ta phải có thái độ
đúng đắn khi xem xét nó.
Các nhà nghiên cứu, khi nói về truyền thống dân tộc, chủ yếu là nói
về đạo đức truyền thống. Về nội dung của đạo đức truyền thống, GS. Nguyễn
Hồng Phong cho rằng, tính cách dân tộc gần như là tất cả nội dung của giá
trị đạo đức truyền thống, bao gồm: tính tập thể - cộng đồng; trọng đạo đức;
cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu
chuộng hòa bình, nhân đạo; lạc quan [75, tr. 453- 454].
G.S Vũ Khiêu cũng khẳng định, trong những truyền thống quý báu
của dân tộc, nổi bật nhất là truyền thống đạo đức và cho rằng, truyền thống
đạo đức cao đẹp của dân tộc ta bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn
kết, lao động cần cù và sáng tạo, tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và
quí trọng con người, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ

thống giá trị đạo đức của dân tộc [40, tr. 71].
G.S Trần Văn Giàu, trong chuyên khảo "Giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc Việt Nam" viết: "Hễ nói đến giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc ta là nói: Yêu nước, Cần cù, Anh hùng, Sáng tạo, Lạc quan,
Thương người, Vì nghĩa". Trong đó: "Tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị
của các giá trị là yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước là tư tưởng chủ yếu, là sợi
chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử của dân tộc Việt Nam" [27, tr. 94].
Các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta cũng đưa ra quan điểm về các
giá trị đạo đức - tinh thần truyền thống của dân tộc. Hồ Chí Minh, sinh thời
là người rất coi trọng và đề cao truyền thống dân tộc. Người viết: "Nhân


19

dân ta sẵn có truyền thống tốt đẹp là lao động cần cù, sinh hoạt giản dị, lại
có tinh thần yêu nước nồng nàn. Chúng ta cần phát huy truyền thống và
tinh thần ấy" [64, tr. 349].
Nghị quyết của Bộ Chính trị "Về một số định hướng lớn trong
công tác tư tưởng hiện nay" nhấn mạnh:
Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc
Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc,
đạo lý "thương người như thể thương thân", đức tính cần cù,
vượt khó, sáng tạo trong lao động... Đó là nền tảng và sức mạnh
tinh thần to lớn để nhân dân ta xây dựng một xã hội phát triển,
tiến bộ, công bằng, nhân ái [22, tr. 19].
Dựa vào tiêu chí xác định giá trị đạo đức, từ quan điểm của Đảng ta
cũng như của các nhà khoa học, có thể khái quát nội dung của các giá trị
đạo đức truyền thống chủ yếu của dân tộc ta bao gồm:
- Chủ nghĩa yêu nước
- Lòng nhân ái thương người

- Tinh thần đoàn kết cộng đồng
- Đức tính yêu lao động, cần cù, tiết kiệm
- Tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo
- Đức tính khiêm tốn, giản dị, trung thực, lạc quan...
Yêu nước là tình yêu quê hương đất nước, là lòng trung thành với
Tổ quốc và nhân dân, là phục vụ cho lợi ích của Tổ quốc và nhân dân bằng
những hành động cụ thể, thiết thực.
Dân tộc nào cũng có lòng yêu nước. Tuy nhiên, lòng yêu nước đó
được hình thành như thế nào, hình thức, nội dung và mức độ biểu hiện của
nó ra sao lại phụ thuộc vào điều kiện đặc thù của mỗi dân tộc.


20

Lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam có những
đặc điểm riêng nổi bật. Thứ nhất, dân tộc ta xuất hiện từ rất sớm, từ thời
thượng cổ - từ khi nước ta có tên gọi là Văn Lang. Thứ hai, quá trình lịch
sử lâu dài của nước ta trải qua rất nhiều cuộc đấu tranh chống ách đô hộ,
chống kẻ thù xâm lược từ bên ngoài mà thường là những kẻ thù mạnh hơn
ta gấp bội lần. Lịch sử đó đã tạo ra và hun đúc mãi tinh thần yêu nước. Từ
trong lịch sử, tình cảm yêu nước của cha ông ta thể hiện ở tinh thần bám trụ
kiên cường nơi quê cha đất tổ, tinh thần dân tộc quyết tâm bảo vệ nòi giống
Lạc Hồng, bảo vệ nền độc lập tự do của đất nước và giữ gìn, bảo vệ nền
văn hóa dân tộc. Không phải dân tộc nào trên thế giới cũng có được phong
tục tốt đẹp như dân tộc ta: hàng năm, cứ đến ngày mồng mười tháng ba thì
mọi người dân đất Việt lại hướng về nơi quê cha đất tổ, hướng về ngày giỗ
Tổ Hùng Vương - ngày giỗ chung của cả dân tộc.
Trong thời kỳ hơn một nghìn năm Bắc thuộc, dưới ách đô hộ của
các thế lực phong kiến phương Bắc, các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta
liên tiếp nổ ra; mặc dù thường là bị thất bại, nhưng cuộc này thất bại thì

cuộc khác lại bùng lên. Tinh thần yêu nước của nhân dân ta không lúc nào
nguội tắt, cha ông ta luôn bám trụ kiên cường, giữ làng, giữ đất, gắn bó với
mồ mả tổ tiên, với nơi chôn rau cắt rốn. Không những thế, ông cha ta còn
bền bỉ đấu tranh chinh phục tự nhiên, xây dựng cuộc sống, giữ gìn những
phong tục tập quán có từ buổi đầu dựng nước. Đến năm 938, Ngô Quyền
chiến thắng vang dội quân Nam Hán, trở về đóng đô ở Cổ Loa, xưng vương
và dân tộc ta bắt đầu một thời kỳ quốc gia phong kiến độc lập lâu dài. Và
sau hơn một nghìn năm, dân tộc Văn Lang đã không bị tiêu diệt, nền văn
hóa dân tộc không bị đồng hóa mà quốc gia Văn Lang lại được khôi phục
và phát triển cao hơn.
Trong điều kiện tồn tại nhà nước phong kiến độc lập, nhân dân ta
bắt tay vào xây dựng đất nước. Công cuộc khai khẩn đất đai, mở mang bờ


21

cõi cùng với việc xây dựng các công trình trị thủy, phát triển sản xuất nông
nghiệp, mở mang ngành nghề... đã góp phần hình thành nên một nền kinh
tế tự chủ và ngày càng lớn mạnh hơn. Trên nền tảng đó, nhà nước phong
kiến được củng cố và phát triển với đầy đủ các thiết chế chính trị, quân sự,
văn hóa... Ý thức dân tộc cũng nhờ đó mà được củng cố và tăng cường.
Nạn ngoại xâm là nguy cơ thường xuyên trong lịch sử phát triển của
dân tộc. Chỉ tính riêng trong thế kỷ thứ XIII, đời Trần, trong vòng 30 năm,
nước Đại Việt ta phải liên tiếp đương đầu với ba cuộc xâm lược khổng lồ
của giặc Nguyên Mông và cả ba lần đều chiến thắng oanh liệt. Gần đây, từ
giữa thế kỷ XIX đến năm 1975, dân tộc ta lại phải đương đầu với ba đế
quốc lớn mạnh nhất thế giới là đế quốc Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ.
Chính lòng yêu nước và tinh thần dân tộc sâu sắc đã giúp dân ta vượt qua
được tất cả những thử thách đó, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Tinh
thần yêu nước đã trở thành chủ nghĩa yêu nước - thành một hệ thống nhận

thức và ứng xử, một truyền thống đạo đức đẹp đẽ nhất, xuyên suốt trong
lịch sử dân tộc ta.
Truyền thống yêu nước của nhân dân ta bao giờ cũng đi cùng với
lòng thương yêu và quý trọng con người, nhất là người lao động. Yêu nước
- thương nòi, hai nội dung luôn gắn bó chặt chẽ trong đạo đức truyền thống
của người Việt Nam.
Lòng nhân ái, thương người của cha ông ta bắt nguồn từ lối sinh hoạt
gần gũi, thân thiết của họ trong cộng đồng làng - xã ở nông thôn, từ các
mối quan hệ dòng tộc ở nơi cư trú từ thời xưa và được củng cố sâu sắc
thêm qua quá trình chung lưng đấu cật khai phá giang sơn và giữ gìn đất
nước.
Lòng thương yêu và quý trọng con người của người Việt Nam thể
hiện sâu sắc trong tình cảm của những thành viên trong một gia đình, mở


22

rộng trong quan hệ giữa gia đình và làng xóm, từ đó thấm đượm ra cả cộng
đồng dân tộc. Người Việt Nam lấy tình thương yêu làm nền tảng cho cách
đối nhân xử thế của mình, thường trọng tình hơn trọng lý. Trong quan hệ
giữa người với người, tình cảm luôn có vị trí đặc biệt: Tình ruột thịt, tình
vợ chồng, tình anh em, tình đồng bào, đồng chí... Tư tưởng "thương người
như thể thương thân" được nhân dân ta coi trọng và gìn giữ, trao truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Thương yêu và quý trọng con người, đề cao
con người với lòng tự hào chân chính về sức mạnh và vẻ đẹp cao quý của
nó là phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc ta.
Vì yêu thương và quý trọng con người nên khi bị áp bức, bị chà
đạp, nhân dân ta luôn sẵn sàng đứng lên đấu tranh, giành lại quyền sống
cho mình. Trong suốt quá trình lịch sử luôn đứng trước âm mưu bị xâm
lược và đồng hóa, nhân dân ta hiểu rằng, quyền sống của mình gắn liền với

vận mệnh của Tổ quốc và của dân tộc. Nước không có độc lập thì dân
không thể có tự do và hạnh phúc. Cho nên thương yêu con người trước hết
là phải thương nước và cứu nước, biết xả thân vì nước. Trong xã hội phong
kiến, chống lại ách áp bức, bất công và những ràng buộc khắt khe của xã
hội phong kiến, của đạo đức phong kiến cũng chính là đem lại quyền sống
và hạnh phúc cho con người.
Lòng thương người truyền thống của cha ông ta trong lịch sử còn
bao hàm cả sự khoan dung, vị tha ngay cả với kẻ thù hay với những kẻ lầm
đường lạc lối. Tư tưởng "lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để
thay cường bạo" mà Nguyễn Trãi đã khái quát lên trong Bình Ngô đại cáo
là sự thể hiện đỉnh cao của truyền thống nhân ái ấy.
Truyền thống nhân ái của dân tộc là cơ sở của tinh thần hữu nghị
đối với các dân tộc và lòng yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta. Trong
quan hệ với các nước láng giềng, nhân dân ta luôn tôn trọng và đề cao tình
hòa hiếu, tận dụng cơ hội để giữ được hòa bình, tránh xung đột. Truyền


23

thống ấy còn bao hàm cả tinh thần lạc quan, tin tưởng ở sức mạnh của con
người, sức mạnh của chính nghĩa và ở tương lai của dân tộc. Đó cũng chính
là nguồn sức mạnh tinh thần giúp nhân dân ta có thể vượt qua mọi khó
khăn thử thách và vươn lên làm chủ cuộc sống của mình.
Lòng nhân ái thương người là một trong những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam. Nó gắn liền với tinh thần
anh dũng chiến đấu chống ngoại xâm, chống lại sự bất công và chà đạp lên
cuộc sống con người; nó thấm đậm tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau
trong cuộc sống của con người Việt Nam; nó thể hiện lòng yêu chuộng hòa
bình và hữu nghị, tinh thần lạc quan yêu cuộc sống và tin tưởng ở sức
mạnh và tương lai dân tộc.

Tinh thần đoàn kết cộng đồng cũng là một trong những giá trị đạo
đức truyền thống quý báu của nhân dân ta, là nguồn sức mạnh nội sinh của
dân tộc ta từ xưa đến nay.
Tinh thần đoàn kết của cha ông ta được bắt nguồn từ lòng yêu nước
và là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước. Với những điều kiện lịch sử, tự
nhiên và xã hội đặc trưng của đất nước thì tinh thần đoàn kết, ý thức cộng
đồng là điều kiện tất yếu để bảo vệ dân tộc, bảo vệ nòi giống, giúp dân ta
vượt qua được những thử thách khắc nghiệt. Từ kinh nghiệm thực tế và lịch
sử ông cha ta đã khái quát lên rằng: "Một cây làm chẳng nên non, Ba cây
chụm lại nên hòn núi cao".
Lịch sử lâu dài chống giặc ngoại xâm và dựng xây đất nước của dân
tộc ta chứng minh rằng, đứng trước những kẻ thù xâm lược hùng mạnh và
trước những đe dọa khắc nghiệt của thiên nhiên mà dân ta không đoàn kết
lại thì nhất định vận nước sẽ bị gian nguy, sự nghiệp giữ nước và dựng xây
đất nước sẽ chịu thất bại. Thất bại nhanh chóng của nhà Hồ trong cuộc
kháng chiến chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV là một minh chứng tiêu


24

biểu. Vua quan triều Hồ đã bị thất bại chỉ vì nội bộ lục đục, nhân dân bất
bình, vì "chính sự phiền hà, để trong nước lòng dân oán hận". Ngược lại, ba
lần chiến thắng oanh liệt quân Nguyên của vua tôi nhà Trần lại là bài học
sâu sắc về tinh thần đoàn kết, trên dưới một lòng, vua - tôi, quân - dân như
một. Lịch sử đã ghi lại hai cuộc hội nghị nổi tiếng thời đó là hội nghị Diên
Hồng và hội nghị Bình Than. Mục đích của hai cuộc hội nghị này là làm
cho quyết tâm "Sát Thát" trở thành quyết tâm chung của toàn dân - từ vua
quan, vương hầu đến tất cả đồng bào miền xuôi, miền núi. Nhà Trần cũng huy
động các bậc bô lão - những người đại biểu cho sức mạnh của nhân dân cùng
khẳng định tư tưởng "quyết đánh" và truyền tư tưởng đó cho toàn dân. Bài

"Hịch tướng sĩ" bất hủ của Trần Hưng Đạo ra đời lúc đó cũng là lời kêu gọi
đoàn kết và lòng quyết tâm đánh giặc. Khi sắp từ giã cõi đời, Trần Hưng Đạo
còn tâm huyết dặn lại vua Trần: "Khoan thư sức dân, lấy kế bền gốc sâu rễ
là thượng sách giữ nước".
Đức tính yêu lao động, cần cù, tiết kiệm là giá trị đạo đức lâu đời
của nhân dân ta. Chính điều kiện khó khăn trong lao động sản xuất và kiếm
sống đã hình thành nên đức tính này ở người Việt Nam. Lao động không
chỉ là điều kiện tất yếu của quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài
người nói chung, của dân tộc ta nói riêng mà còn là môi trường rèn luyện
và phát triển những năng lực và phẩm chất tinh thần của con người.
Trải qua hàng ngàn đời nay, ý thức quý trọng lao động, chống lại
thói lười biếng đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt Nam. Thấu hiểu giá
trị của lao động, rằng lao động cần cù là nguồn gốc của mọi thứ của cải và
cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc, người dân lao động luôn "thức khuya dậy
sớm", "một nắng hai sương" để làm cho "tấc đất" trở thành "tấc vàng".
Giáo dục lòng yêu lao động và tinh thần lao động cần cù là một nội dung
mà thế hệ cha anh luôn quan tâm rèn luyện cho con em mình. Họ rất khinh
ghét sự lười biếng và thói ỷ lại "há miệng chờ sung".


25

Lao động cần cù gắn liền với tinh thần tiết kiệm. Trong điều kiện
thiên nhiên khắc nghiệt, thường xuyên thay đổi, năng suất lao động của nền
sản xuất nông nghiệp luôn thấp kém, người lao động luôn phải đương đầu
với mọi khó khăn thì tiết kiệm là một trong những biện pháp thiết yếu để
bảo đảm cuộc sống. Đời nọ trải qua đời kia, cần kiệm đã trở thành thói
quen và phẩm chất sống của dân ta.
Tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam thể hiện
rất rõ nét và lâu dài trong lịch sử dân tộc.

Trong lịch sử của nền giáo dục nước ta, luôn tồn tại song song hai
dòng giáo dục: dòng giáo dục chính thống thông qua hệ thống tổ chức nhà
trường, chế độ học tập, chế độ thi cử, các nề nếp và thể thức chung...; dòng
giáo dục dân gian hình thành và phát triển từ trong hoạt động sinh hoạt vật
chất và tinh thần của nhân dân. Đó là các hình thức sinh hoạt văn hóa, tín
ngưỡng cộng đồng, các lễ hội và trò chơi dân gian, là giáo dục gia đình,
dòng họ, giáo dục phong tục tập quán... Truyền thống hiếu học của dân tộc
ta được minh chứng qua sự trường tồn, liên tục của cả hai dòng giáo dục
này, thể hiện ở những đặc điểm sau:
Thứ nhất, ở tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn về
mọi mặt để học tập. Tinh thần này đã đi sâu vào tâm lý, thói quen, phong
tục tập quán của người dân. Dù trong nhà miếng cơm, manh áo còn chưa
đủ, nhưng các bậc phụ huynh vẫn tạo mọi điều kiện cho con em họ được đi
học. Có những nhà, cả cha con, anh em đều đi học; có những dòng họ đời
nào cũng có người học hành đỗ đạt và làm quan; có những vùng quê nổi
tiếng là địa linh nhân kiệt, là đất học... Trong lịch sử, đã có nhiều tấm
gương hiếu học nổi tiếng và đã thành danh như Cao Bá Quát, Nguyễn Văn
Siêu, Lê Quý Đôn...
Thứ hai, truyền thống hiếu học của dân tộc thể hiện ở tinh thần tự
học, tinh thần học suốt đời, học mọi lúc mọi nơi, học từ trong gia đình cho


×