Tải bản đầy đủ (.doc) (158 trang)

LUẬN án TIỄN sĩ mối QUAN hệ GIỮA PHÁT HUY dân CHỦ xã hội và TĂNG CƯỜNG kỷ LUẬT TRONG QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.24 KB, 158 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ XHCN và kỷ luật tự giác là thuộc tính bản chất của quân đội kiểu mới.
Sự thống nhất hài hoà giữa dân chủ XHCN và kỷ luật là yêu cầu khách quan để hoàn
thiện thiết chế dân chủ và kỷ luật trong quân đội ta và là nội dung cốt lõi của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và kỷ luật. Sự thống nhất đó có ý nghĩa
như một tư tưởng định hướng, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động để nâng cao sức mạnh
chiến đấu, chất lượng tổng hợp của quân đội ta và giải quyết mối quan hệ giữa phát huy
dân chủ XHCN và tăng cường kỷ luật trong quân đội. Quá trình bảo đảm sự thống nhất
hài hoà giữa dân chủ XHCN và kỷ luật là sự sống còn của quân đội ta. Thế nhưng hiện
nay quá trình đó đang phải đối mặt trực tiếp với những lực cản bắt nguồn từ những
nguyên khách quan và chủ quan khác nhau.
Hiện nay các thế lực thù địch tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là những nguyên tắc, tư tưởng cơ bản bảo đảm
cho dân chủ và kỷ luật phát triển thống nhất biện chứng với nhau như nguyên tắc tập
trung dân chủ; tư tưởng về dân chủ và chuyên chính, dân chủ và pháp luật, kỷ luật
nhằm lái quá trình dân chủ hoá ở nước ta, quân đội ta theo quỹ đạo của CNTB như
đã diễn ra ở Đông Âu, Liên Xô. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa phát huy dân chủ
XHCN và tăng cường kỷ luật trong quân đội ta hiện nay là vấn đề cấp bách, có ý
nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn để tiếp tục khẳng định giá trị khoa học những
nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và kỷ luật
trong điều kiện mới. Chỉ có như vậy, mới có cơ sở khoa học để giữ vững định hướng
XHCN, nâng cao chất lượng hiệu quả của quá trình thực hiện mối quan hệ giữa phát
huy dân chủ XHCN và của tăng cường kỷ luật trong quân đội ta.
Hiện nay, mối quan hệ giữa phát huy dân chủ XHCN và tăng cường kỷ luật
trong quân đội ta đang thường xuyên phải khắc phục những khuynh hướng lệch lạc,
chệch hướng XHCN, vi phạm tư tưởng về sự thống nhất hài hoà giữa dân chủ và kỷ
luật v.v.. những khuynh hướng này do hạn chế về mặt nhận thức, năng lực, do cá nhân
chủ nghĩa, thiếu trách nhiệm, cũng như tàn dư, tập quán của xã hội cũ còn tồn tại
trong mỗi cán bộ, chiến sĩ, sự chống phá của kẻ địch. Thực tế trong suy nghĩ và hành



vi của một số cán bộ, chiến sĩ, ở không ít đơn vị còn biểu hiện đề cao vấn đề dân chủ,
xem nhẹ kỷ luật, dung túng cho thói quen tự do, tuỳ tiện, thiếu trách nhiệm trong
quản lý kỷ luật... hoặc ở một số cán bộ, chỉ huy lại quá đề cao mặt tập trung, kỷ luật, ít
chú trọng đến phát triển dân chủ, dung túng, bao che cho quan liêu, gia trưởng, độc
đoán, chuyên quyền v.v..
Cả hai khuynh hướng trên cùng xuất hiện tiềm ẩn nguy cơ chệch hướng XHCN, xa
rời những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, kìm hãm việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả của mối quan hệ giữa phát huy dân chủ XHCN và tăng cường kỷ luật
trong quân đội ta. Cản trở quá trình củng cố bản chất GCCN, suy giảm sức chiến đấu của
quân đội, tạo kẽ hở cho sự chống phá của kẻ địch. Vấn đề khắc phục có hiệu quả những
khuynh hướng lệch lạc trên có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng quân đội ta
trong tình hình mới. Vì vậy, nghiên cứu mối quan hệ giữa phát huy dân chủ XHCN và
tăng cường kỷ luật trong quân đội ta hiện nay luôn mang tính thời sự nóng bỏng. Đó
cũng là lý do tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Mối quan hệ giữa phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa và tăng cường kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Dân chủ XHCN, kỷ luật tự giác, mối quan hệ giữa chúng là nội dung quan
trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về xây dựng
nền dân chủ và pháp luật XHCN, cũng như giải quyết các vấn đề về dân chủ, về kỷ
luật trong quân đội. Cùng với những tư tưởng trên, nhiều nhà lãnh đạo Đảng, quân
đội cũng có những quan điểm cụ thể chỉ đạo giải quyết những vấn đề về dân chủ, về
kỷ luật trong quân đội.
Từ khi sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng vấn đề dân chủ và kỷ luật,
pháp luật, mối quan hệ giữa hai mặt này càng trở lên quan trọng được nhiều người
quan tâm. Công trình: “Dân chủ kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam” của
Tổng cục Chính trị 1992. Ở công trình này đã luận giải dân chủ và kỷ luật trong sự
thống nhất với nhau, không được nhấn mạnh hoặc tuyệt đối hoá mặt nào. Tư tưởng đó
có ý nghĩa như một nguyên tắc chỉ đạo trong giải quyếtvấn đề dân chủ hoặc kỷ luật
trong quân đội. Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu ở một số lĩnh

vực khác, có liên quan đến mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật. Có thể chỉ ra ở


đây, những công trình tiêu biểu: Giáo sư Trần Xuân Trường, “Một số vấn đề giáo
dục xã hội chủ nghĩa trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 1998.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Quang: “phát triển ý thức chính trị xã hội chủ
nghĩa trong xã hội và quân đội trong thời kỳ mới”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 2001. Luận án Phó tiến sĩ CNCSKH của Hồ Tấn Sáng: “Dân chủ hoá trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, 1991. Luận án Tiến sĩ triết học của
Lê Thanh Thập: “Dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay” 1995.
Liên quan đến đề tài còn có các tác giả như: Hoàng Văn Hảo, “Dân chủ và pháp
chế”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 6/1988; Nguyễn Ngọc Long, “Dân chủ và kỷ luật”,
Tạp chí Cộng sản, số 1/1991; Nguyễn Tiến Phồn, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện
dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý nhà nước”, Tạp chí
Triết học, số 6/1997; Văn Tạo, “Dân chủ và kỷ cương”; “ổn định và phát triển”, Tạp chí
Cộng sản số 13/1998; Nguyễn Tuấn, “Tăng cường dân chủ và kỷ luật trong quân đội
theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nhà trường quân đội, số 3/2001; Nguyễn Văn Tài,
“Giải quyết mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật nhằm phát huy vai trò đội ngũ cán bộ
trong xây dựng quân đội ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 3/2003... Những công trình
trên đã tập trung nghiên cứu từng mặt dân chủ hay kỷ luật mà đã đề cập đến mối quan hệ
giữa chúng ở các lĩnh vực, tổ chức, hoạt động xã hội khác nhau. Mặc dù có sự khác nhau
về cách tiếp cận, nội dung nghiên cứu, nhưng thống nhất ở một điểm, dân chủ và kỷ luật
thống nhất trong tính chỉnh thể, không tách rời, không thiên lệch, tuyệt đối hoá một mặt.
Chính tư tưởng đó đã góp phần quan trọng vào nhận thức, vận dụng giải quyết và nghiên
cứu những vấn đề về dân chủ XHCN, về pháp luật, kỷ luật và cả mối quan hệ giữa chúng
ở các tổ chức, hoạt động khác nhau. Những công trình trên đã thể hiện tính phong phú,
đa dạng của sự nghiên cứu mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật, nhưng chưa có công
trình nào nghiên cứu trực tiếp mối quan hệ giữa phát huy dân chủ XHCN và tăng cường
kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Vì vậy, tác giả cho rằng, luận án đã khai thác một hướng tiếp cận mới về mối
quan hệ giữa dân chủ XHCN và kỷ luật tự giác trong quân đội ta, không có sự trùng
lặp với các công trình của các tác giả đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài


Mục đích: Trên cơ sở luận giải khoa học về lý luận và thực tiễn mối quan hệ
giữa phát huy dân chủ XHCN và tăng cường kỷ luật trong quân đội, luận án đề xuất
một số giải pháp cơ bản giải quyết hiệu quả mối quan hệ này trong xây dựng quân
đội ta hiện nay.
Nhiệm vụ:
1. Luận giải thực chất và đặc điểm mối quan hệ giữa phát huy dân chủ XHCN
và tăng cường kỷ luật trong quân đội ta.
2. Chỉ ra những nhân tố tác động và đánh giá tình hình nhận thức, vận dụng
giải quyết mối quan hệ giữa phát huy dân chủ XHCN và tăng cường kỷ luật trong
quân đội ta hiện nay.
3. Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối
quan hệ giữa phát huy dân chủ XHCN và tăng cường kỷ luật trong quân đội trong
điều kiện, hoàn cảnh mới.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
+ Cơ sở lý luận của luận án là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa dân chủ và
chuyên chính, dân chủ và kỷ luật, kỷ cương; những chỉ thị của Bộ Quốc phòng,
Tổng cục Chính trị về xây dựng, phát triển dân chủ và kỷ luật trong tình hình mới;
những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học về phát huy dân chủ và tăng
cường pháp chế XHCN; về giải quyết vấn đề dân chủ và kỷ luật trong quân đội.
+ Cơ sở thực tiễn là thực trạng tình hình nhận thức, vận dụng giải quyết mối
quan hệ giữa phát huy dân chủ XHCN và tăng cường kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ
trong quân đội ta hiện nay; những thành tựu và hạn chế của hơn 17 năm đổi mới của
quân đội.
+ Phương pháp nghiên cứu của luận án là dựa trên cơ sở phương pháp luận của

chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; luận án sử dụng tổng
hợp các phương pháp cụ thể như: Phân tích - tổng hợp; lôgíc - lịch sử; xử lý thông
tin theo phương pháp xã hội học...
5. Những đóng góp mới về khoa học
+ Làm sâu sắc hơn đặc điểm mối quan hệ giữa phát huy dân chủ XHCN và
tăng cường kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam.


+ Bước đầu khái quát, đánh giá tình hình nhận thức, vận dụng giải quyết mối
quan hệ giữa phát huy dân chủ XHCN và tăng cường kỷ luật trong quân đội ta hiện
nay.
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát
huy dân chủ XHCN và tăng cường kỷ luật trong quân đội ta hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần vào hoàn thiện, phát triển lý luận
khoa học về mối quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính; dân chủ và pháp luật, dân
chủ và kỷ luật nói chung và trong quân đội nói riêng.
Kết quả nghiên cứu còn góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, chiến sĩ về
mối quan hệ giữa phát huy dân chủ XHCN và tăng cường kỷ luật trong quân đội.
Đồng thời giúp cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức được bản chất phản động từ những
luận điệu tuyên truyền về dân chủ của kẻ địch và có thái độ phê phán đúng đắn.
Luận án còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng dạy ở
các học viện, nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu; 3 chương (7 tiết); phần kết luận; danh mục tài liệu
tham khảo và phần phụ lục.
CHƯƠNG 1
THỰC CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT HUY
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ TĂNG CƯỜNG KỶ LUẬT
TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

1.1. Thực chất mối quan hệ giữa phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và
tăng cường kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam
1.1.1. Quan niệm về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường kỷ luật
trong quân đội ta
* Phát huy dân chủ XHCN trong quân đội ta
Dân chủ là vấn đề phức tạp liên quan trực tiếp đến con người và là nhu cầu
không thể thiếu được của cá nhân, cộng đồng xã hội. Dân chủ là khái niệm có nội
dung phong phú, có nhiều tầng bản chất khác nhau, có thể tiếp cận dân chủ từ nhiều
phương diện trong đó dân chủ thường phải đi liền với một thể chế chính trị - nhà


nước cụ thể. Dân chủ trước hết là một hình thức thể chế chính trị - nhà nước của
xã hội thì dân chủ có thể là một hình thức nhà nước, một chế độ chính trị gắn với
một nhà nước tương ứng, một nền dân chủ hoặc một chế độ dân chủ cụ thể. Khi đó
dù một chế độ dân chủ nào cũng được biểu hiện ra bởi nhà nước tương ứng, phù hợp
với nó, nhưng không phải chế độ nhà nước nào cũng là chế độ dân chủ. Chế độ dân
chủ không có gì khác hơn là nhà nước tồn tại trong một xã hội nhất định. Mặt khác,
dân chủ bao giờ cũng dựa trên sự thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của chính quyền
và trên nguyên tắc tự do và bình đẳng. Điều đó cũng có nghĩa dân chủ là quyền lực
thuộc về nhân dân một cách bình đẳng.
Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì luật pháp, mà luật pháp
tồn tại vì con người;... trong khi đó thì dưới những hình thức khác của chế độ nhà
nước con người lại là tồn tại được quy định bởi luật pháp. Dấu hiệu đặc trưng cơ bản
của chế độ dân chủ là như vậy [45, tr.350].
Dân chủ, chế độ dân chủ bao giờ cũng gắn liền với một nhà nước tương ứng,
phù hợp với nó. Cho nên, đã có dân chủ thì dân chủ và pháp luật không thể rời nhau.
Không thể quan niệm về mặt nhà nước loại trừ pháp luật; và cũng không thể
quan niệm về một chế độ dân chủ không có pháp luật, vì pháp luật chính là sự thể
chế hoá dân chủ và chống lại vi phạm dân chủ, pháp luật vừa là biểu hiện của dân
chủ, vừa là biểu hiện của kỷ luật. Có thể có xã hội có pháp luật mà không có dân

chủ, nhưng không thể có xã hội có dân chủ mà lại không có pháp luật [43, tr. 14].
Như vậy, dân chủ bao giờ cũng gắn liền với pháp luật, kỷ luật và pháp luật, kỷ
luật như một mặt đối lập không thể tách rời với dân chủ trong những giai đoạn lịch
sử nhất định.
Dân chủ, tức là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động; nhân dân có địa vị, quyền làm chủ đối với nhà nước; nhân dân là
nguồn gốc của nhà nước. Khi quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân thì
nhà nước đó phải đối mặt trực tiếp với cuộc đấu tranh của nhân dân vì mục
tiêu dân chủ. Với ý nghĩa đó, dân chủ phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa nhà
nước với nhân dân, trong đó nhân dân quyết định sự thay đổi hoặc củng cố nhà
nước. Nếu nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân thì nhà nước đó vững


mạnh bởi nhân dân và ngược lại. Những quan hệ đó phản ánh quan hệ bản chất
của dân chủ, đó là quan hệ bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội trước
pháp luật, quyền lực nhà nước. Quan hệ này phản ánh đầy đủ nhất bản chất của
dân chủ. Nếu không có bình đẳng thì không có dân chủ trong xã hội. Bình
đẳng còn là điều kiện trực tiếp cho tự do, bình đẳng bảo đảm cho con người xã
hội không rơi vào sự “tha hoá” lao động, không có lực lượng xã hội cản trở sự
phát triển tự do của con người. Vì vậy, tự do và bình đẳng cũng là nội dung cốt
lõi, thuộc tính bản chất nhất của dân chủ, đồng thời, nó là nguyên tắc cho xác
định mục tiêu, nội dung xây dựng một nền dân chủ đích thực. Tuy nhiên, tự do
ở đây được hiểu, tự do trên cơ sở nhận thức được cái tất yếu theo chủ nghĩa
duy vật biện chứng quan niệm, không phải tự do tuỳ tiện, tự do vô chính phủ,
vô kỷ luật.
Khi tự do được hiểu trên cơ sở nhận thức được cái tất yếu thì pháp luật của nhà
nước, kỷ luật của một tổ chức xã hội như là cái tất yếu đối với mỗi cá nhân và là điều
kiện cho tự do của các thành viên khác trong xã hội. Như vậy, dân chủ đã bao hàm
thực hành kỷ luật , pháp luật và kỷ luật sẽ bao hàm dân chủ, nếu kỷ luật đó là cái tất
yếu được nhận thức đối với mỗi cá nhân để mọi người tự do.

Với tính cách là nội dung cốt lõi, thuộc tính bản chất nhất của dân chủ, tự do và
bình đẳng là một định hướng giá trị của tiến bộ xã hội của mục tiêu dân chủ, đồng
thời lịch sử phát triển của dân chủ gắn với lịch sử đấu tranh của con người vươn tới
làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình. Đó là cuộc đấu tranh chống lại sự lệ
thuộc vào tự nhiên, vươn lên làm chủ tự nhiên và chống lại những lực lượng xã hội
lạc hậu, phản động chiếm đoạt địa vị, quyền làm chủ chính đáng của con người. Dân
chủ luôn là mục tiêu, động lực trong hoạt động của con người.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, mặc dù không tồn tại chế độ dân chủ theo
nghĩa dân chủ là một hình thức nhà nước (Mác gọi là tiền dân chủ) nhưng những giá
trị dân chủ đã được hình thành và thực thi trên thực tế. Đó là việc thực thi địa vị,
quyền làm chủ cộng đồng thuộc về các thành viên. Trong thời kỳ lịch sử này, trình
độ chinh phục tự nhiên, năng lực làm chủ quá thấp kém, dân chủ mới là sơ khai theo


nghĩa, sự bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội, ở đó không có áp bức, không
có nô dịch hoặc chiếm đoạt quyền của nhau.
Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, trình độ chinh phục tự nhiên của con
người được nâng lên, nhưng quan hệ giữa người và người lại bất bình đẳng rất lớn
trước quyền lực nhà nước. Trong các xã hội này, dân chủ được biểu hiện dưới hình
thức nhà nước tương ứng, nhưng quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân.
Quyền lực đó bị giai cấp thống trị chiếm đoạt, thâu tóm và đẩy nhân dân lao động
xuống địa vị bị trị. “Cùng với sự phân chia giai cấp trong xã hội và với sự áp bức
độc quyền của giai cấp thống trị thì các quyền lực vốn thuộc về nhân dân đã bị giai
cấp thống trị tước đi mất” [7, tr. 3]. Vì vậy, trong các xã hội có giai cấp đối kháng,
dân chủ luôn là ngọn cờ tập hợp lực lượng của giai cấp tiên tiến, nhằm thủ tiêu chế
độ xã hội cũ, cho ra đời chế độ xã hội mới, với nội dung, hình thức dân chủ mới.
Trong xã hội có giai cấp, dân chủ chỉ thực thi cho giai cấp thống trị. Ngay trong xã
hội tư bản, dân chủ tồn tại với tư cách chế độ dân chủ thì quyền lực đó vẫn không
thuộc về GCCN, nhân dân lao động. Mặc dù dân chủ tư sản là một bước tiến dài so
với chế độ quân chủ chuyên chế, nhưng nó không phải là nấc thang cuối cùng,

không phải tương lai vươn tới của nhân loại về dân chủ. Trong xã hội tư bản, những
quyền như: bầu cử tự do trên cơ sở đa nguyên, đa đảng; quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí; quyền tự do biểu tình, quyền chỉ trích chính phủ hoặc tổng thống... dù
sao cũng nói lên những quyền về con người mà trong chế độ quân chủ chuyên chế
không thể có, nhưng cũng phải thấy nhà nước tư sản không tự giác cho không những
quyền đó, mà là kết quả của cuộc đấu tranh của GCCN, nhân dân lao động đã phải
mất hàng trăm năm. Còn về bản chất, thực chất, dân chủ tư sản chưa có nội dung dân
chủ đích thực, với nghĩa toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân lao động.
“Quyền dân chủ, mọi sự chỉ trích... được thực hiện thoải mái, miễn là không đe doạ
quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp tư sản” [9, tr. 57].
Ngọn cờ dân chủ của Đảng Cộng sản trong xã hội tư bản gắn với mục tiêu
CNXH. Sự thắng lợi của cách mạng vô sản, cho ra đời chế độ XHCN, với nội dung
dân chủ XHCN, chế độ dân chủ XHCN. Dân chủ XHCN là nền dân chủ duy nhất


trong các xã hội văn minh đem lại địa vị, quyền làm chủ, quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, nhân dân lao động trên thực tế.
Dân chủ XHCN là bước phát triển mới về chất của lịch sử phát triển dân
chủ, nó kế thừa, phát triển toàn bộ những giá trị dân chủ trong lịch sử và sáng tạo
ra những giá trị mới, mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Dân chủ XHCN đã
thực hiện bước phủ định biện chứng nền dân chủ tư sản và thực hiện hoàn chỉnh
một chu kỳ phát triển (phủ định của phủ định) khẳng định sự phát triển, khẳng
định dân chủ đích thực.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nhiều mặt của chế độ dân chủ nguyên thuỷ tất
nhiên sẽ sống lại, vì lần đầu tiên trong lịch sử những xã hội văn minh, quần chúng
nhân dân vươn lên tham gia một cách độc lập không những vào việc bầu cử và tuyển
cử, mà cả vào việc quản lý hàng ngày nữa. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mọi người
sẽ lần lượt quản lý và sẽ mau quen với tình hình không cần ai quản lý cả [38, tr.
143].
Sự ra đời của nền dân chủ XHCN là sản phẩm tất yếu của lịch sử đấu tranh

vươn tới làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân của con người, trực tiếp là cuộc đấu
tranh của GCCN, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nó là nấc
thang cao nhất của lịch sử phát triển dân chủ.
Như vậy, dân chủ là vấn đề cơ bản, xuyên suốt lịch sử và cũng là thiết yếu, chủ
yếu của đời sống xã hội, con người. Giải quyết những vấn đề về con người, tiến bộ
xã hội, phát triển các tổ chức xã hội, đặc biệt trong xây dựng CNXH, xây dựng
quân đội cách mạng... đều phải bắt đầu và thông qua giải quyết những vấn đề về dân
chủ.
Nghiên cứu về dân chủ, cần thấy dân chủ ở một số nội dung sau:
- Dân chủ vừa có tính giai cấp vừa có tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc.
- Dân chủ đích thực là mọi quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân lao động.
- Tự do và bình đẳng là nội dung cốt lỗi và thuộc tính bản chất của dân chủ.
- Dân chủ gắn với cuộc đấu tranh giải phóng con người, loài người, đưa con
người từ tất yếu đến tự do.
- Dân chủ gắn với chế độ nhà nước.
- Dân chủ và kỷ luật là hai mặt thống nhất.


- Dân chủ biểu hiện ở các quan hệ xã hội, thể hiện sự bình đẳng giữa các thành
viên trong xã hội.
Muốn nghiên cứu, giải quyết vấn đề dân chủ đều phải bắt đầu, thông qua giải
quyết các quan hệ xã hội giữa các thành viên trong một tổ chức, trong xã hội, trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Đồng thời phải trên cơ sở sự thống nhất giữa
quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân, thành viên xã hội và sự công bằng, bình đẳng
trước pháp luật. “Dân chủ thể hiện nhiều mối quan hệ khác nhau, giữa cá nhân và
cộng đồng giữa con người và xã hội trong cả chính trị và kinh tế, trong cả quyền lực,
trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi công dân” [7, tr. 4].
Ở nước ta, dân chủ XHCN được thiết lập từ khi cách mạng dân chủ nhân dân
giành thắng lợi, đi lên CNXH (ở miền Bắc tính từ 1954 và cả nước tính từ sau
1975). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những bước tiến của sự nghiệp xây dựng CNXH

là những nấc thang hoàn thiện nền dân chủ XHCN. Dân chủ XHCN luôn là nội dung
quan trọng trong quan điểm, đường lối của Đảng ta, là thuộc tính bản chất của hệ
thống chính trị đất nước. Bản chất, mục tiêu của dân chủ XHCN được Hồ Chí Minh
khái quát:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền lực đều của dân” [52, tr.698].
Ngay từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, khi nhà nước cách mạng còn là
mục tiêu phấn đấu, trong “yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Véc-xây
(1919) Nguyễn ái Quốc đã đòi phải thay thế chế độ cai trị bằng sắc lệnh không dân
chủ bằng các đạo luật. Chính điều đó đã thể hiện một quan điểm về dân chủ mới.
Khi giành được chính quyền, Người đã trực tiếp soạn thảo bản Tuyên ngôn độc
lập, một văn bản pháp lý có giá trị đóng góp vào nền pháp lý dân chủ và tiến bộ của loài
người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn luận Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (1776);
Tuyên ngôn nhân quyền của nước Pháp (1789), từ quyền con người để khẳng định
quyền tự do, độc lập, dân chủ của một dân tộc: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình bẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do”[49, tr. 1]. Đó là nội dung dân chủ của xã hội mới -


XHCN. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân ta trong các cuộc
kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, nội dung dân chủ XHCN trong tư
tưởng của Người ngày càng được hoàn thiện, bổ sung, cụ thể hoá. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân làm chủ” [59,
tr.251] v.v..
Lịch sử cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân chủ luôn là mục
tiêu, động lực, ngọn cờ tập hợp lực lượng và vấn đề xây dựng nền dân chủ, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân là một nội dung chủ yếu trong đường lối quan điểm của
Đảng, tại các kỳ Đại hội Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH của Đảng đã khẳng định: “Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà

nước của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo”[17, tr.19]. Đó là tư
tưởng cơ bản xuyên suốt của Đảng ta về xây dựng nền dân chủ ở nước ta.
Tư tưởng về dân chủ XHCN của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta luôn
thống nhất với chuyên chính, pháp luật và kỷ luật. Sự thống nhất đó thể hiện sâu sắc
luận điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về giai cấp, đấu tranh giai cấp, về nhà nước,
nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Muốn có dân chủ thực sự, phải chuyên chính thực sự, nếu không
bọn xấu sẽ làm hại nhân dân. Muốn chuyên chính thực sự, phải thật sự dân chủ với
nhân dân ”[57, tr. 29].
Quân đội ta, bộ phận của xã hội, của kiến trúc thượng tầng XHCN, dân chủ
XHCN cũng là thuộc tính bản chất của quân đội ta. Dân chủ XHCN được biểu hiện
sinh động trong các quan hệ và hoạt động của quân đội. Đó là những quan hệ cơ
bản, những nguyên tắc, cơ chế hoạt động bảo đảm quyền làm chủ thuộc về cán bộ,
chiến sĩ. “Dân chủ trong quân đội là một bộ phận hữu cơ của dân chủ xã hội chủ
nghĩa, là sự vận dụng nền dân chủ đó vào những điều kiện của một tổ chức quân sự”
[97, tr. 19].
Quan hệ giữa Đảng và quân đội là quan hệ cơ bản quyết định bản chất GCCN
của quân đội ta. Đây là quan hệ giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo như quan hệ giữa Đảng
và các tổ chức xã hội khác, nhưng quan hệ giữa Đảng và quân đội là quan hệ giữa
lãnh đạo với tổ chức xã hội đặc biệt- quân đội, công cụ bạo lực của nhà nước


XHCN. Mặc dù là công cụ bạo lực của nhà nước XHCN, nhưng quân đội ta không
phải là công cụ được sử dụng để đàn áp nhân dân như quân đội tư sản, mà là công
cụ để bảo vệ chế độ, bảo vệ địa vị, quyền làm chủ cho nhân dân, đồng thời có địa vị
chính trị như các tổ chức xã hội khác đối với quyền lực nhà nước. Đảng ta đại biểu
lợi ích trung thành cho dân tộc, giai cấp, ngoài lợi ích dân tộc, giai cấp, Đảng không
có lợi ích nào khác. Cho nên, quan hệ giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo không đại diện
cho đặc quyền, đặc lợi, địa vị chính trị khác nhau, đối lập nhau giữa Đảng và quân

đội.
Dân chủ bao giờ cũng gắn liền với sự bình đẳng về chính trị giữa các thành
viên trong xã hội, trong một tổ chức xã hội. Trong quân đội ta, quan hệ giữa cán bộ
và chiến sĩ, giữa các quân nhân là quan hệ trên tình hữu ái giai cấp, quan hệ của
những người cùng địa vị làm chủ trong quân đội. Quan hệ giữa cán bộ và chiến sĩ
là quan hệ giữa mệnh lệnh và phục tùng, mọi mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, của
người chỉ huy, chiến sĩ phải chấp hành vô điều kiện. Nhưng sự phục tùng đó không
phải thụ động, mù quáng một chiều như quân đội của giai cấp thống trị, mà trên cơ
sở giác ngộ cách mạng, tự giác, ý thức được tính tất yếu và nghĩa vụ của mỗi quân
nhân đối với nhiệm vụ chung. Sự khác nhau về cấp bậc, chức vụ giữa cán bộ với
chiến sĩ không phải đại diện đặc quyền, đặc lợi, địa vị chính trị khác nhau, mà do
sự phân công, giao trách nhiệm của Đảng, của tổ chức vì lợi ích chung.
Trong quân đội ta, cán bộ và chiến sĩ có những nhiệm vụ và quyền hạn nhất định
do Đảng và Nhà nước trao cho, nhưng không phải như sĩ quan của một quân đội tư
sản đế quốc, giai cấp đặc quyền, vượt lên trên hết, chiến sĩ không phải là kẻ nô lệ, làm
thuê và đánh thuê, phục tùng mù quáng. Cán bộ, chiến sĩ trong quân đội ta là những
chiến sĩ tự giác của giai cấp, của dân tộc, đều bình đẳng về chính trị và nhân cách, đều
là chủ nhân của quân đội [81, tr. 15].
Quan hệ giữa quân đội và nhân dân là quan hệ máu thịt. Đây là thuộc tính bản
chất của quân đội ta. Bởi vì, cán bộ, chiến sĩ từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà
chiến đấu. Điều đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nhấn mạnh, chú trọng
trong xây dựng quân đội ta. Lợi ích và địa vị giữa nhân dân và quân đội là thống
nhất, trên cơ sở lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp được tôn trọng.


Những quan hệ trên phản ánh nội dung, bản chất dân chủ XHCN . Ở đó không
có sự khác biệt, đối lập nhau về lợi ích, địa vị chính trị, đặc quyền, đặc lợi, tức là
giữa các thành viên trong xã hội, trong mỗi tổ chức xã hội đều bình đẳng. Điều đó
nói lên giá trị nhân đạo, nhân văn của các quan hệ này, đồng thời dân chủ đã bao
hàm kỷ luật tự giác, kỷ luật của GCCN. “Bản thân nguyên tắc bình đẳng trong nội

dung khái niệm dân chủ cũng nói lên sự thống nhất giữa dân chủ và kỷ luật” [43, tr.
48 ]. Sự nghiệp xây dựng quân đội ta nói chung, hoàn thiện dân chủ XHCN trong
quân đội nói riêng không thể không phát huy những quan hệ đó một cách thiết thực,
khoa học.
Dân chủ bao giờ cũng là một thể chế chính trị, gắn liền với nhà nước cụ thể,
dân chủ đi đôi với chuyên chính, pháp luật, vì vậy, dân chủ XHCN trong quân đội ta
cũng biểu hiện ở một thiết chế tương ứng, phù hợp với tổ chức xã hội đặc thù - tổ
chức quân sự,. Ở đó, quyền làm chủ thuộc về cán bộ, chiến sĩ; mỗi quân nhân luôn
có sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ; dân chủ được tổ chức, lãnh đạo chặt
chẽ; dân chủ luôn thống nhất với kỷ luật quân đội. Dân chủ XHCN trong quân
đội là dân chủ XHCN gắn với kỷ luật quân sự,...
Dân chủ XHCN trong quân đội ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức, cơ chế hoạt
động giữa các tổ chức bảo đảm cho quyền làm chủ thuộc về cán bộ, chiến sĩ. Dân
chủ XHCN là dân chủ có tổ chức, có lãnh đạo, tuân thủ theo nguyên tắc của chủ
nghĩa Mác-Lênin, không phải dân chủ tự do, vô tổ chức. Tổ chức và hoạt động
của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo nguyên tắc tất cả quyền
lực thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia,
nhưng có sự phân công rành mạch giữa các quyền, các tổ chức phù hợp với cơ
chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, được vận dụng vào xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam... Các nguyên tắc và cơ chế hoạt động này vừa là điều
kiện, vừa là nội dung của dân chủ XHCN, đồng thời được vận dụng, cụ thể hoá
vào xây dựng quân đội, hoàn thiện dân chủ XHCN trong quân đội. Đó là thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ trong tổ chức đảng, mà còn thực
hiện nguyên tắc này trong xây dựng và hoạt động của bộ máy các tổ chức chỉ


huy, tổ chức quần chúng, các hoạt động thanh tra, kiểm tra và giải quyết các mối
quan hệ giữa lãnh đạo và phục tùng, cấp trên và cấp dưới, bộ phận và toàn bộ.
Việc thực hiện các nguyên tắc và cơ chế hoạt động trên vừa bảo đảm tính tổ chức,

tính kỷ luật, vừa bảo đảm quyền làm chủ của cán bộ, chiến sĩ được thực thi trên
thực tế.
Hoạt động và quan hệ giữa tổ chức đảng, chỉ huy, tổ chức quần chúng trong
quân đội phù hợp với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ. Mặc dù trong quân đội, cơ chế mệnh lệnh, phục tùng mang tính trội, nhưng
cơ chế đó không những không hạn chế dân chủ, mà còn tạo điều kiện, phát huy
quyền làm chủ của cán bộ, chiến sĩ. Bởi vì, kỷ luật quân đội ta là kỷ luật tự giác,
kỷ luật của tổ chức gồm những quân nhân cùng có quyền làm chủ. Việc thực thi
cơ chế này vừa bảo đảm cho kỷ luật được củng cố, tăng cường, vừa bảo đảm
quyền làm chủ của cán bộ, chiến sĩ được thực thi: “Dân chủ trong quân đội ta là
dân chủ có tổ chức. Cán bộ, chiến sĩ thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua
hoạt động của các tổ chức (lãnh đạo, chỉ huy, quần chúng). Vì vậy, để thực hiện
dân chủ trong đơn vị không thể không phát huy vai trò các tổ chức trong đơn vị
[35, tr. 56].
Dân chủ XHCN có vai trò to lớn đối với việc củng cố tổ chức, phát huy nhân tố
con người, tích cực hoá hoạt động của họ trong các phong trào cách mạng. Vì vậy,
phát huy dân chủ XHCN nói chung và trong quân đội nói riêng là vấn đề có tính
nguyên tắc trong xây dựng quân đội ta.
Theo Từ điển Tiếng Việt, phát huy có nghĩa là: “Làm cho cái hay, cái tốt toả tác
dụng và tiếp tục nẩy nở ngày càng nhiều” [106, tr. 768]. Như vậy, phát huy bao giờ
cũng trên cơ sở cái hay, cái tốt, cái giá trị đã được xác lập, đồng thời là quá trình sáng
tạo ra các giá trị mới. Đó là biện chứng của quá trình phát triển.
Nền dân chủ XHCN bao gồm hai yếu tố: Các giá trị dân chủ từ nền dân chủ tư
sản để lại, được sàng lọc, khôi phục, lưu giữ, nâng cao; các giá trị dân chủ được sáng
lập thêm, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội XHCN. Cả hai hoà nhập trong lý


luận và thực tiễn, từ đó xuất hiện một nền dân chủ ở trình độ cao hơn - dân chủ
XHCN [84, tr. 6].
Phát huy dân chủ XHCN cũng phải trên cơ sở những giá trị của nó đã được

xác lập. Đó là quá trình làm cho những giá trị của dân chủ XHCN không ngừng
phát triển, trở thành động lực chính trị trong phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, thúc đẩy quá trình hoàn thiện nền dân chủ XHCN và cách mạng XHCN.
Giá trị dân chủ XHCN biểu hiện ở mục tiêu, vai trò của nó đối với giải
phóng con người, đưa họ từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do; đưa họ
từ địa vị nô lệ, làm thuê lên địa vị làm chủ chân chính; hình thành và phát triển
ở con người ý thức và năng lực làm chủ xã hội. C.Mác đã khẳng định, thực
chất của dân chủ là ở chỗ quyền lực thực tế thuộc về nhân dân, là nhân dân tự
quản lấy xã hội của mình, xã hội được quản lý bởi nhân dân. Toàn bộ những
nội dung đó phản ánh bản chất nhân đạo, nhân văn của dân chủ XHCN.
Dân chủ XHCN là thuộc tính bản chất của quân đội ta, những giá trị dân
chủ XHCN được thể hiện sinh động trong các quan hệ, hoạt động, tổ chức quân
đội. Sự nghiệp xây dựng quân đội ta nói chung, quá trình nâng cao sức mạnh
chiến đấu của quân đội ta nói riêng, luôn đòi hỏi phải phát huy dân chủ XHCN.
Phát huy dân chủ XHCN trong quân đội không phải là một khái niệm trừu
tượng, mà có nội dung toàn diện, cụ thể. Phát huy dân chủ XHCN trong quân
đội là một hình thức biểu hiện đặc thù của phát huy dân chủ XHCN trong lĩnh
vực hoạt động quân sự.
Phát huy dân chủ XHCN trong quân đội là quá trình làm cho các giá trị dân
chủ XHCN phát triển và hiện thực hoá một cách trực tiếp, phổ biến trong các
lĩnh vực hoạt động của quân đội và có vai trò ngày càng tăng đối với tích cực
hoá hoạt động của cán bộ, chiến sĩ, nâng cao sức mạnh tổng hợp của quân đội.
Các giá trị của dân chủ XHCN có nội dung toàn diện, do tính chất đặc thù của
tổ chức quân sự quy định. Các giá trị của dân chủ XHCN thể hiện ở các nội dung cơ
bản sau:
- Dân chủ về chính trị, mọi quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng được
quán triệt và chấp hành đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước,
nghị quyết của các cấp uỷ Đảng, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên và nhiệm vụ của



đơn vị. Quá trình tham gia vào các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, cán
bộ, chiến sĩ có quyền đề đạt tâm tư nguyện vọng chính đáng của cá nhân; được tôn
trọng quyền công dân và nhân cách; được đóng góp ý kiến phê bình về sự lãnh đạo
của tổ chức đảng, công tác quản lý điều hành của chỉ huy và phẩm chất đạo đức của
cán bộ, đảng viên; được bình xét khen thưởng, kỷ luật, phát hiện, báo cáo những
hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội.
- Dân chủ về quân sự và chuyên môn, mọi quân nhân đều được thảo luận nắm
vững các nhiệm vụ, mệnh lệnh, ý định, quyết tâm và kế hoạch tổ chức thực hiện của
chỉ huy. Tham gia ý kiến và hiến kế vào các biện pháp thực hiện nhiệm vụ, chấp
hành kỷ luật và có trách nhiệm thực hiện chỉ thị mệnh lệnh của người chỉ huy theo
chức trách, nhiệm vụ của mình.
- Dân chủ về kinh tế, mọi quân nhân đều được biết về quyền lợi, tiêu chuẩn,
chế độ được hưởng về vật chất, văn hoá tinh thần, các khoản thu từ tăng gia sản
xuất, sử dụng quỹ vốn, chính sách khi ra quân, về hưu... có quyền kiểm tra, giám sát
việc bảo đảm tiêu chuẩn chế độ của mình. Các chế độ, tiêu chuẩn đều phải được
công khai theo quy định.
Như vậy, dân chủ XHCN trong quân đội cũng bảo đảm sự tham gia của các
quân nhân vào các lĩnh vực, hoạt động của quân đội với tư cách là người làm chủ
thật sự. Sự tham gia đó trên cơ sở sự bình đẳng về chính trị giữa cán bộ và chiến sĩ...
Đó cũng là những giá trị của dân chủ XHCN trong quân đội. Nó phản ánh tính ưu
việt, giá trị nhân đạo, nhân văn, tiến bộ của dân chủ trong quân đội ta. Tuy nhiên, tổ
chức và hoạt động của quân đội có tính đặc thù, những giá trị của dân chủ XHCN
trong quân đội được thể hiện với nét riêng của nó. Đó là việc vừa bảo đảm quyền
làm chủ của cán bộ, chiến sĩ, vừa phù hợp với yêu cầu bí mật quân sự.
Thực hiện chính trị, kinh tế, quân sự dân chủ là những nội dung sinh động
của đường lối quần chúng trong quân đội ta. Việc gì đáng giữ bí mật trong
phạm vi nào đó thì phải giữ; còn nói chung thì mọi việc đều cần đưa ra quần
chúng bàn bạn trên tinh thần: trước khi quyết định một vấn đề gì nên trưng
cầu ý kiến của quần chúng; sau khi quyết định rồi thì đưa ra quần chúng bàn
bạc, giải quyết thi hành [82].



Động lực của phát huy dân chủ XHCN là ở việc thực hiện các nội dung dân
chủ ấy. Cũng như các tổ chức xã hội khác, động lực chính trị tinh thần của phát huy
dân chủ XHCN trong quân đội được kết hợp chặt chẽ với động lực từ lợi ích vật
chất. Tuy nhiên, lao động quân sự gắn liền với sự hy sinh, thì không có sự đãi ngộ
về vật chất nào có thể bù đắp được sự hy sinh đó. Trong khi không xem nhẹ khuyến
khích về vật chất, thì động lực chính trị tinh thần là nhân tố quyết định sức mạnh
chiến đấu của quân đội. Chỉ có trên cơ sở giác ngộ chính trị, ý thức, năng lực làm
chủ cao, cán bộ, chiến sĩ mới có nhận thức đúng đắn về bạn và thù, không mơ hồ
giai cấp, không lẫn lộn phải, trái, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, quyết chiến và
quyết thắng mọi kẻ thù xâm lược. Vì vậy, phát huy dân chủ XHCN, đặc biệt dân chủ
trên lĩnh vực chính trị là cơ sở trực tiếp để nâng cao sức mạnh chiến đấu trên mặt
trận chính trị - tư tưởng, trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc hiện nay,
để bảo vệ chính quyền, chế độ mới.
Phát huy dân chủ XHCN trong quân đội là quá trình làm cho những tư tưởng
về dân chủ XHCN có vai trò ngày càng tăng đối với phát triển phẩm chất, năng lực
làm chủ của cán bộ, chiến sĩ. Để tích cực hoá hoạt động của cán bộ, chiến sĩ phải
nâng cao giác ngộ về dân chủ XHCN. Quá trình đó liên quan trực tiếp đến giáo dục
chính trị tư tưởng trong quân đội. Chất lượng, hiệu quả của giáo dục dân chủ XHCN
là cơ sở cho phát huy dân chủ XHCN trong quân đội. Trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, những giá trị của dân chủ tư sản và của XHCN luôn là trọng tâm của cuộc
đấu tranh trên lĩnh vực chính trị tư tưởng. Dân chủ XHCN không thể phát huy khi tư
tưởng về nó không được cán bộ, chiến sĩ nhận thức đầy đủ. Khi cán bộ, chiến sĩ
không nhận thức được sự khác nhau căn bản giữa dân chủ tư sản và dân chủ XHCN,
không thấy được tính ưu việt và sự hơn hẳn về trình độ phát triển của dân chủ
XHCN so với dân chủ tư sản thì không tích cực hoá được hoạt động của các quân
nhân. Như vậy, phát huy dân chủ XHCN trong quân đội là quá trình chuyển hoá
những giá trị của dân chủ XHCN vào phát triển phẩm chất, năng lực làm chủ và
củng cố niềm tin, ý chí của cán bộ chiến sĩ trong hoạt động.

Phát huy dân chủ XHCN trong quân đội là quá trình vừa tạo ra môi trường dân
chủ lành mạnh, vừa đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ phải phát huy quyền làm chủ của mình.


Quá trình này gắn liền với việc không ngừng củng cố các mối quan hệ cơ bản của
quân đội và tuân thủ, vận dụng sáng tạo những nguyên tắc, cơ chế dân chủ XHCN
phù hợp với tổ chức, hoạt động của quân đội. Việc củng cố các quan hệ giữa Đảng
và quân đội, giữa quân đội và nhân dân, giữa cán bộ và chiến sĩ trên tình hữu ái giai
cấp sẽ bảo đảm cho các quan hệ bình đẳng về chính trị giữa các quân nhân được
thực hiện. Cùng với nó là việc tuân thủ, vận dụng sáng tạo các nguyên tắc, cơ chế
làm chủ XHCN sẽ bảo đảm cho dân chủ XHCN trong quân đội giữ vững bản chất
GCCN, thiết chế dân chủ XHCN được vững chắc, tổ chức quân đội mang đặc trưng,
nội dung dân chủ XHCN sâu sắc. Đó là quá trình tạo ra môi trường dân chủ lành
mạnh, những giá trị dân chủ XHCN được khẳng định, nẩy nở trên thực tế.
Phát huy dân chủ XHCN trong quân đội là quá trình không ngừng đáp ứng
những nhu cầu về dân chủ của cán bộ, chiến sĩ. Con người dù được sống và hoạt
động ở lĩnh vực nào đều có nhu cầu về dân chủ. Mặc dù hoạt động trong lĩnh vực
quân sự, những nhu cầu về dân chủ của cán bộ, chiến sĩ vẫn không ngừng nâng cao
cùng với sự phát triển của xã hội. Quân đội ta là quân đội dân chủ, cán bộ, chiến sĩ
không phải là người đánh thuê, họ là chủ nhân của quân đội, có nhu cầu chính đáng
về dân chủ. Sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ trong chế độ ta và quân đội ta quy
định nhu cầu về dân chủ, về quyền lợi, quyền làm chủ cũng như nhu cầu thực hiện
nghĩa vụ của mỗi quân nhân đều chính đáng như nhau. Quá trình đáp ứng nhu cầu
về dân chủ cho cán bộ, chiến sĩ là động lực chính trị to lớn đối với tính tích cực tự
giác của họ. Khi cán bộ, chiến sĩ được hưởng ngày càng nhiều thành quả của dân
chủ XHCN đem lại thì sức mạnh từ nhân tố con người được nhân lên gấp bội.
Phát huy dân chủ XHCN trong quân đội còn là quá trình làm cho những giá trị
dân chủ XHCN lớn mạnh, trở thành bao trùm, phổ biến trong các quan hệ, hoạt động
của quân đội. Những giá trị dân chủ XHCN trong quân đội không thể nẩy nở, phát
huy nếu không đẩy lùi, chiến thắng những hiện tượng tiêu cực, tàn dư lạc hậu của xã

hội cũ và sự xâm nhập của dân chủ tư sản vào quân đội. Trong thời kỳ quá độ lên
CNXH luôn có sự đấu tranh giữa giá trị dân chủ tư sản và dân chủ XHCN giữ địa vị
thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Đặc biệt hiện nay, CNĐQ và các thế lực
thù địch tìm mọi cách tuyên truyền giá trị dân chủ tư sản vào xã hội và quân đội,


phát huy dân chủ XHCN trong quân đội là quá trình làm cho những giá trị dân chủ
XHCN phát triển trở thành bao trùm, phổ biến trong đời sống quân đội để những
hiện tượng tiêu cực không có mảnh đất hiện thực tồn tại. Đó là quá trình đấu tranh
khắc phục đẩy lùi tư tưởng dân chủ tư sản đang hàng ngày, hàng giờ lây nhiễm vào
đời sống quân đội.
Phát huy dân chủ XHCN trong quân đội có vai trò cực kỳ to lớn đối với tích
cực hoá hoạt động của cán bộ, chiến sĩ, củng cố tổ chức, nâng cao sức mạnh chiến
đấu của quân đội. Vì thế nghiên cứu phát huy dân chủ XHCN trong quân đội không
thể tách rời với quá trình tăng cường kỷ luật trong quân đội ta.
* Tăng cường kỷ luật trong quân đội ta
Kỷ luật là thuộc tính bản chất của tất cả các tổ chức xã hội, điều kiện cơ bản cho
các tổ chức xã hội vững mạnh, phát triển. Kỷ luật là tổng thể các quy định có tính bắt
buộc đối với hoạt động của các thành viên trong tổ chức, để bảo đảm chặt chẽ” [106,
tr. 519]. Như vậy, sự bắt buộc là thuộc tính chung của kỷ luật, không có bắt buộc thì
không có kỷ luật. Ở các tổ chức xã hội khác nhau, sự bắt buộc của kỷ luật khác nhau.
So với các tổ chức xã hội khác, kỷ luật quân đội có sự bắt buộc cao nhất, bắt buộc của
kỷ luật quân sự, kỷ luật trong chiến tranh. Kỷ luật quân đội bắt buộc mọi quân nhân
phải tuân thủ, chấp hành vô điều kiện. Trong lịch sử quân đội đã tồn tại hai loại kỷ
luật khác nhau, trái ngược nhau. Kỷ luật quân đội của giai cấp thống trị, sự bắt buộc
dựa trên cơ sở ép buộc, cưỡng bức và kỷ luật của quân đội cách mạng, mang bản chất
GCCN, sự bắt buộc dựa trên cơ sở tự giác.
Quân đội ta là quân đội cách mạng, kỷ luật quân đội ta là: “Tổng thể những
quy định bắt buộc mọi quân nhân phải quán triệt để chấp hành , nhằm tạo ra sự
thống nhất cao trong hành động, bảo đảm cho quân đội phát huy được sức mạnh,

hoàn thành chức năng và nhiệm vụ trong mọi hoàn cảnh, tình huống. Nội dung của
kỷ luật được ghi rõ trong Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ,
chế độ qui tắc, mệnh lệnh, chỉ thị của quân đội. Kỷ luật quân đội ta là kỷ luật tự
giác nghiêm minh, được xây dựng, duy trì trên cơ sở giác ngộ cách mạng, bản lĩnh
và năng lực hoàn thành nhiệm vụ của mỗi quân nhân, cùng với việc giáo dục, tổ
chức chặt chẽ và thưởng phạt nghiêm minh” [105, tr. 448].


Kỷ luật quân đội ta là một hình thức của pháp luật XHCN mang bản chất của
pháp luật đó. Việc chấp hành kỷ luật quân đội của cán bộ, chiến sĩ về thực chất là
chấp hành pháp luật nhà nước XHCN. “ Kỷ luật quân sự là sự tuân thủ nghiêm
chỉnh những yêu cầu của pháp luật nhà nước, điều lệnh quân đội, chỉ thị, mệnh lệnh
của cấp trên, nhằm tạo nên sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất cao bảo đảm cho quân
đội hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ được giao trong mọi điều kiện tình huống”
[79, tr. 56].
Mặc dù cũng là sự thể chế hoá pháp luật XHCN, nhưng khác với kỷ luật của các
tổ chức xã hội khác, kỷ luật quân đội ta với hệ thống quy định, điều lệnh, điều lệ... khá
chặt chẽ và toàn diện, đồng thời tính nghiêm minh cũng thể hiện ở trình độ cao nhất.
Cán bộ, chiến sĩ chấp hành kỷ luật một cách vô điều kiện, nhanh chóng, chính xác,
mau lẹ, kịp thời trong mọi điều kiện tình huống, kể cả lúc gay go quyết liệt nhất của
chiến tranh theo yêu cầu của hoạt động quân sự.
Kỷ luật quân đội ta là kỷ luật tự giác. Tính tự giác và tính nghiêm minh trong
kỷ luật của quân đội ta không làm hạn chế nhau, mà thống nhất và bảo đảm cho
nhau phát triển. Tính nghiêm minh của kỷ luật quân đội ta thể hiện ở việc xử phạt
nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm kỷ luật, cưỡng bức đối với các quân nhân
không tự giác chấp hành. Sự cưỡng bức và tính tự giác trong kỷ luật quân đội ta
luôn thống nhất với nhau, bổ trợ cho nhau.
Ai cũng biết kỷ luật cách mạng là sự thống nhất hữu cơ giữa tự nguyện và
cưỡng bức. Không có tự nguyện thì không có kỷ luật cách mạng. Nhưng không
có cưỡng bức thì cũng không thành kỷ luật. Cưỡng bức là cần thiết vì trình độ

giác ngộ của mọi người không đều nhau, vì để loại trừ những nhân tố tiêu cực,
vì nó có tác dụng bổ trợ cho mặt tự giác [26, tr. 118].
Sự khác nhau căn bản giữa kỷ luật quân đội ta với kỷ luật quân đội tư sản là ở
tính tự giác. Kỷ luật quân đội của GCTS dựa trên sự áp bức giai cấp, buộc binh lính
phải phục tùng thụ động, mù quáng. GCTS rất sợ sự giác ngộ cách mạng của nhân
dân lao động, của binh lính, cho nên kỷ luật quân đội của chúng chỉ mang tính
cưỡng bức đơn thuần. Một vua Phổ thế kỷ XVIII phải thừa nhận: “Nếu quân lính
của chúng ta hiểu được tại sao chúng ta đánh nhau, thì chúng ta sẽ không thể tiến


hành được một cuộc chiến tranh nào cả” [29, tr. 61]. Để có được kỷ luật quân đội
một cách nghiêm minh, GCTS phải sử dụng biện pháp cưỡng ép, bắt buộc một chiều
như trừng phạt nặng nề, nhục hình, kích thích hiếu chiến, thậm chí cả biện pháp mê
tín, tôn giáo...
Tính tự giác của kỷ luật quân đội ta bắt nguồn từ sự giác ngộ cách mạng, mục
tiêu lý tưởng chiến đấu. Khi mỗi quân nhân ý thức được chấp hành nghiêm kỷ luật
là quyền và nghĩa vụ của người quân nhân, ý nghĩa và giá trị của nó đối với sự tiến
bộ xã hội, nâng cao sức mạnh của quân đội vì lợi ích chung thì việc chấp hành kỷ
luật trở nên tự giác. “Điểm khác nhau giữa kỷ luật của quân đội ta với kỷ luật của
quân đội đế quốc là ở chỗ tự giác” [11, tr. 26].
Kỷ luật của quân đội ta là kỷ luật của tổ chức xã hội bao gồm những quân nhân
có cùng địa vị làm chủ, trên tình hữu ái giai cấp, cho nên sự công bằng, bình đẳng
trước kỷ luật là một tất yếu, nội dung bản chất của kỷ luật quân đội ta. Đó là kỷ luật
của quân đội dân chủ, kỷ luật bao hàm nội dung dân chủ XHCN. Dân chủ bao giờ
cũng là sự bình đẳng về địa vị giữa các thành viên trong mỗi tổ chức, trong xã hội.
Cán bộ và chiến sĩ trong quân đội ta không đại diện cho những giai cấp có địa vị, đặc
quyền, đặc lợi khác nhau, đối lập nhau, vì thế, kỷ luật quân đội là kỷ luật của những
người cùng địa vị, cùng có quyền làm chủ như nhau. Hình thức xử phạt không ưu ái
cho cán bộ và tăng nặng cho chiến sĩ. Đó là biểu hiện ở sự thưởng phạt nghiêm minh,
công bằng, công khai trước tập thể: “Về kỷ luật phải thưởng phạt cho công minh, chỉ

vì yêu mà thưởng, ghét mà phạt. Ai hẩu với mình thì dùng, ai trực tính nói ngay thì
bỏ” [51, tr. 480]. Hơn nữa, khi xét kỷ luật không phải là sự trừng phạt đơn thuần, mà
còn phải làm cho quân nhân nhận thức rõ khuyết điểm và định hướng để họ tiến bộ.
Tính tự giác, sự công bằng, bình đẳng trước kỷ luật giữa các quân nhân phản ánh tính
ưu việt của kỷ luật quân đội ta - kỷ luật mới trong lịch sử quân đội.
Tăng cường có nghĩa là làm cho mạnh thêm, nhiều thêm. Cho nên, tăng cường
kỷ luật là vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng quân đội ta. Tăng cường kỷ luật
trong quân đội ta phải bắt đầu và chủ yếu từ nội dung bản chất và giá trị ưu việt của
kỷ luật.


Tăng cường kỷ luật trong quân đội ta là quá trình không ngừng nâng cao
trình độ và tính hiệu lực của kỷ luật, làm cho nó có sức mạnh trong chi phối,
kiểm soát và điều chỉnh mọi hoạt động của các tổ chức, đơn vị và mỗi quân
nhân.
Nâng cao trình độ tự giác, tính nghiêm minh, sức mạnh của kỷ luật luôn là
mục tiêu trực tiếp trong xây dựng quân đội ta. Kỷ luật càng nghiêm minh thì
sức mạnh của kỷ luật càng lớn và ngược lại. Sức mạnh của kỷ luật quân đội ta
là ở tính nghiêm minh luôn giữ vững trong mọi điều kiện, tình huống, trên cơ
sở sự tự giác chấp hành, tạo ra sự thống nhất về ý chí và hành động, triệu
người như một. Tăng cường kỷ luật quân đội ta phản ánh quan hệ giữa yêu cầu
khách quan của chính quy hoá, hiện đại hoá quân đội với chủ thể thực hiện,
chấp hành là các tổ chức và các quân nhân. Vì vậy, tăng cường kỷ luật là quá
trình nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc chuyển hoá những nội dung, yêu
cầu khách quan của chính quy hoá, hiện đại hoá quân đội vào mỗi quân nhân,
với tư cách vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của tăng cường kỷ luật. Đó là quá
trình làm cho vai trò điều chỉnh của kỷ luật đối với hoạt động các tổ chức, suy
nghĩ và hành vi các quân nhân ngày càng cao.
Cùng với sự phát triển của quân đội, những quy định trong hệ thống điều lệnh,
điều lệ, kỷ luật không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Quá trình áp dụng những

quy định đó vào các hoạt động quân đội để kỷ luật đi vào cuộc sống, thể hiện vai trò
điều chỉnh của nó đối với các chủ thể trong quân đội.
Quá trình chính quy hoá quân đội là quá trình áp dụng đồng bộ các chế độ, điều
lệnh, điều lệ vào cuộc sống quân ngũ, làm cho các chế độ, điều lệnh, điều lệ trở
thành thói quen của mỗi tập thể quân nhân và từng cá nhân cán bộ, chiến sĩ, từ chỗ
quân nhân chưa tự nguyện đến tự nguyện chấp hành, từ chỗ cảm thấy bị cưỡng ép
chấp hành đến cảm thấy một nhu cầu chính trị tinh thần của người chiến sĩ đối với
nghĩa vụ và trách nhiệm của mình [100, tr. 33].
Chất lượng, hiệu quả của quá trình chuyển hoá đó, phản ánh tính hiệu lực của
kỷ luật quân đội. Kỷ luật quân đội càng đi sâu vào đời sống quân đội thì tăng cường
kỷ luật càng cao, vai trò điều chỉnh của kỷ luật càng lớn.


Tăng cường kỷ luật trong quân đội ta không có nghĩa làm thay đổi bản chất
kỷ luật, ngược lại, nó làm cho bản chất kỷ luật tự giác không ngừng được củng cố.
Củng cố bản chất kỷ luật và tăng cường kỷ luật trong quân đội ta luôn thống nhất
với nhau. Tăng cường kỷ luật trong quân đội ta là quá trình nâng cao trình độ giác
ngộ cách mạng, ý thức và hành vi kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ để vai trò điều chỉnh,
tính hiệu lực của kỷ luật ngày càng cao đối với củng cố bản chất kỷ luật.
Bản chất kỷ luật không thay đổi, nhưng yêu cầu của kỷ luật có sự thay đổi theo
sự phát triển về mọi mặt của quân đội, nhất là trình độ tổ chức và trình độ trang thiết
bị. Vì vậy, vấn đề kỷ luật của quân đội ta hiện nay không thể tách rời trình độ giác
ngộ chính trị và trình độ tổ chức, kỷ luật của quân đội ta [14, tr. 40].
Bản chất kỷ luật của quân đội ta là kỷ luật tự giác, nâng cao tính tự giác trong
chấp hành kỷ luật không phải chỉ là biện pháp, mà còn là nội dung cơ bản của tăng
cường kỷ luật. Nâng cao tính tự giác vừa củng cố được bản chất của kỷ luật, vừa
nâng cao được trình độ, tính nghiêm minh của kỷ luật, kỷ luật tự giác nghiêm minh.
Bởi vì, trình độ tự giác trong chấp hành kỷ luật càng cao thì tính hiệu quả trong điều
chỉnh của kỷ luật càng lớn, thể hiện tính hiệu lực của kỷ luật càng được nâng lên.
Tính tự giác càng cao, sự cưỡng bức của kỷ luật sẽ bị thu hẹp dần và sức mạnh của

kỷ luật không ngừng được nhân lên.
Mục tiêu cơ bản của tăng cường kỷ luật trong quân đội ta là đảm bảo tính
nghiêm minh của kỷ luật trong mọi điều kiện, tình huống, đặc biệt trong chiến tranh.
Sự ác liệt của chiến tranh vẫn có thể làm cho thói quen hành vi kỷ luật vốn ổn định
trong thời bình mà không được giữ vững trong chiến tranh, nếu sự giác ngộ cách
mạng, tính tự giác chưa cao. Vì vậy, tăng cường kỷ luật trong quân đội phải là quá
trình nâng cao giác ngộ cách mạng, tính tự giác cho cán bộ, chiến sĩ để họ chấp hành
nghiêm kỷ luật từ sự thôi thúc nội tâm.
Chiến tranh là một thử thách gay go nhất đối với tinh thần kỷ luật của mỗi
cán bộ, chiến sĩ. Nếu họ không có trình độ giác ngộ giai cấp cao, sẵn sàng hy
sinh cả tính mệnh để phục vụ lợi ích giai cấp và dân tộc, làm sao mà có thể chấp
hành được kỷ luật chiến đấu một cách nghiêm túc, có sáng kiến được[14, tr. 40].


Tăng cường kỷ luật trong quân đội ta là quá trình thường xuyên liên tục,
mọi lúc, mọi nơi. Thói quen hành vi kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ không thể có
ngay một sớm, một chiều, mà là quá trình rèn luyện thường xuyên, liên tục,
bền bỉ, dẻo dai. Đó là quá trình bảo đảm tính thường trực, sẵn sàng chiến đấu
không một phút lơi lỏng, để không bị bất ngờ trước âm mưu, thủ đoạn xâm
lược của kẻ địch; khả năng thích ứng kịp thời với điều kiện chiến tranh có thể
xẩy ra bất cứ lúc nào và đủ điều kiện duy trì tính nghiêm minh của kỷ luật
trong chiến tranh ác liệt. Như vậy, tăng cường kỷ luật là quá trình duy trì kỷ
luật nghiêm minh sát thực tế chiến đấu ngay cả trong thời bình một cách
thường xuyên, liên tục. “Quân đội nhân dân chúng ta phải giữ kỷ luật cho
nghiêm, đừng vì thời bình mà coi nhẹ kỷ luật” [56, tr. 245].
Tăng cường kỷ luật trong quân đội ta là quá trình tích cực, tự giác, mang tính
tổng hợp. Chất lượng, hiệu quả của tăng cường kỷ luật phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
mà những yếu tố đó tác động đồng thuận theo một xu hướng thống nhất. Nó có vai
trò to lớn đối với chính quy hoá, hiện đại hoá và nâng cao sức mạnh chiến đấu của
quân đội. Để tăng cường kỷ luật trong quân đội có chất lượng, hiệu quả phải giải

quyết nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ, trong đó mối quan hệ giữa phát huy dân chủ
XHCN và tăng cường kỷ luật mang tính bao trùm, phổ biến và cơ bản nhất.
Như vậy, phát huy dân chủ XHCN và tăng cường kỷ luật là những khái niệm
phản ánh quá trình liên tục, dưới sự tác động của chủ thể, thúc đẩy quá trình hoàn
thiện dân chủ XHCN, nâng cao trình độ kỷ luật tự giác. Đó là những phương thức,
hình thức tích cực hoá hoạt động của cán bộ, chiến sĩ ở các lĩnh vực khác nhau.
1.1.2. Thực chất mối quan hệ giữa phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và
tăng cường kỷ luật trong quân đội ta
Mối quan hệ giữa phát huy dân chủ XHCN và tăng cường kỷ luật là do mối
quan hệ giữa dân chủ XHCN và kỷ luật quân đội quy định. Đó là hai mặt trong tính
chỉnh thể thống nhất và quy định bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta.
Dân chủ và kỷ luật không phải là những phạm trù gạt bỏ lẫn nhau mà chính là
làm điều kiện cho nhau. Trong quân đội, dân chủ phải được thể hiện trong tất cả các


lĩnh vực hoạt động. Đồng thời, dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, mà kỷ luật quân sự là
kỷ luật sắt, mọi mệnh lệnh phải được chấp hành tuyệt đối nghiêm minh [97, tr. 19].
Quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật trong quân đội ta là quan hệ của hai mặt, mà
mặt này tồn tại không thể thiếu mặt kia và ngược lại. Dân chủ XHCN có những nội
dung của kỷ luật tự giác và kỷ luật tự giác cũng bao hàm một số yếu tố của dân chủ
XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “kỷ luật trong dân chủ, dân chủ phải có kỷ
luật” [60, tr. 466].
Tiếp cận mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật trong quân đội ta là tiếp cận sự
tương tác của hai mặt trong tính chỉnh thể thống nhất, mặt này là hình thức biểu hiện
cụ thể của mặt kia. Sự phân biệt giữa chúng sẽ giúp cho việc nhận thức đúng hình
thức biểu hiện, cơ chế vận hành của mỗi mặt. Trên thực tế không bao giờ có dân chủ
mà không gắn với nó là một hình thức kỷ luật và ngược lại.
Bản thân kỷ luật cũng đã phải thể hiện tinh thần dân chủ... đứng về phương
diện này mà xét, vi phạm kỷ luật cũng tức là vi phạm dân chủ.
Dân chủ phải dưới sự chỉ đạo của tập trung... dân chủ phải nhằm củng cố kỷ

luật, đứng về mặt này mà xét, vi phạm dân chủ hoặc dân chủ “quá trớn” cũng là làm
suy yếu kỷ luật, vi phạm kỷ luật [14, tr. 38]. Vì vậy mối quan hệ giữa dân chủ
XHCN và kỷ luật tự giác không có gì khác hơn là sự tương tác của hai mặt, mà sự
tác động của mặt này phải đáp ứng yêu cầu của mặt kia. Sự tác động của dân chủ
XHCN đến kỷ luật tự giác phải theo yêu cầu của kỷ luật, phải bảo đảm cho kỷ luật
được tăng cường. Đồng thời, sự tác động của kỷ luật đến dân chủ cũng phải đáp ứng
đòi hỏi của dân chủ, phải bảo đảm cho dân chủ XHCN được phát huy. Điều đó, tự
đặt ra một yêu cầu phải bảo đảm sự thống nhất hài hoà giữa hai mặt này với nhau.
Sự thống nhất đó đối lập với quan hệ mà sự tương tác tạo ra sự thiên lệch, tuyệt đối
hoá một mặt thống nhất hài hoà là một trạng thái lý tưởng của sự thống nhất biện
chứng giữa hai mặt dân chủ XHCN và kỷ luật tự giác trong quân đội ta. Vì vậy, quy
mô, trình độ phát triển của một mặt, sự tác động của mặt này đến mặt kia không phải
tuỳ tiện, mà chịu chi phối của yêu cầu về sự thống nhất hài hoà với nhau.
Kỷ luật và dân chủ quan hệ chặt chẽ với nhau... kỷ luật phải dựa trên cơ sở dân
chủ... Dân chủ phải dưới sự chỉ đạo của tập trung... kỷ luật và dân chủ đều nhằm


×