Tải bản đầy đủ (.doc) (224 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ PHÁT TRIỂN KHOA học và CÔNG NGHỆ dân DỤNG gắn với TĂNG CƯỜNG TIỀM lực KHOA học kỹ THUẬT và CÔNG NGHỆ QUÂN sự VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.09 KB, 224 trang )

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ

Viết tắt

Chính trị Quốc gia

CTQG

Công nghệ cao

CNC

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Công nghiệp quốc phòng

CNQP

Khoa học và công nghệ

KH&CN

Khoa học và công nghệ dân dụng

KH&CNDD

Khoa học và công nghệ lưỡng dụng


KH&CNLD

Khoa học và công nghệ quân sự

KH&CNQS

Khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự

KHKT&CNQS

Khu công nghiệp

KCN

Kỹ thuật quân sự

KTQS

Lực lượng sản xuất

LLSX

Nhà xuất bản

Nxb

Quan hệ sản xuất

QHSX


Quân đội nhân dân

QĐND

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

Trang

tr.

Tư bản chủ nghĩa

TBCN

Vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự

VKTBKTQS

Nghiên cứu - phát triển

R&D


2

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU


6

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ DÂN DỤNG GẮN VỚI TĂNG CƯỜNG TIỀM LỰC
KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ QUÂN SỰ VIỆT
NAM

15

1.1 Phát triển khoa học và công nghệ dân dụng gắn với tăng
cường tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự Những vấn đề chung

15

1.2 Kinh nghiệm của một số quốc gia về phát triển khoa học
và công nghệ dân dụng gắn với tăng cường tiềm lực khoa
học kỹ thuật và công nghệ quân sự

50

Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

DÂN DỤNG GẮN VỚI TĂNG CƯỜNG TIỀM LỰC KHOA HỌC
KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ QUÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 Một số thành tựu và hạn chế

65
65


2.2 Nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra

105

Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP VỀ PHÁT TRIỂN KHOA

HỌC VÀ CÔNG NGHỆ DÂN DỤNG GẮN VỚI TĂNG
CƯỜNG TIỀM LỰC KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ CÔNG
NGHỆ QUÂN SỰ VIỆT NAM

131

3.1 Những quan điểm cơ bản chỉ đạo quá trình phát triển
khoa học và công nghệ dân dụng gắn với tăng cường
tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự Việt 131
Nam
3.2 Một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt hơn vấn đề
phát triển khoa học và công nghệ dân dụng gắn với tăng
cường tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự
Việt Nam
142
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

183
185
186



3

PHỤ LỤC

199

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong phát triển KH&CN nói chung,
phát triển KH&CNDD gắn với tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS nói riêng
là hoạt động hết sức quan trọng để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Những năm qua, Đảng, Nhà nước, quân đội ta đã có nhiều
biện pháp chủ động, tích cực tiến hành hoạt động này nhằm xây dựng, phát
triển tiềm lực KHKT&CNQS Việt Nam ngang tầm nhiệm vụ. Là một biện
pháp khả thi, phù hợp với điều kiện của Việt Nam, phát triển KH&CNDD gắn
với tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS đã và đang mang lại những hiệu quả
thiết thực cho việc tăng cường, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Tuy
nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan chi phối, thời gian qua,
chúng ta vẫn chưa xây dựng được tiềm lực KHKT&CNQS thật sự tương xứng
với yêu cầu nhiệm vụ. Điều đó cho thấy, chúng ta cần cố gắng nỗ lực và chủ
động hơn nữa trong thực hiện vấn đề này. Thế nhưng, thực tế không hẳn đang
diễn ra như vậy. Gần đây, một số nghiên cứu đã cảnh báo về hoạt động phát
triển KH&CN ở một số tổ chức kinh tế, KH&CN dường như đang có xu
hướng ngày càng xa rời mục tiêu kết hợp với quốc phòng. Đã xuất hiện, đang
tồn tại tình trạng trình độ KHKT&CNQS Việt Nam lạc hậu hơn so với
KH&CNDD, việc chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ từ dân sự sang quân sự, nhất là trên các ngành, lĩnh vực có liên
quan đến việc duy trì, phát triển hệ thống VKTBKTQS đang gặp nhiều khó

khăn. Tình hình trên nếu không được nhận thức, đánh giá và có giải pháp
khắc phục kịp thời thì phát triển KH&CNDD không những rất khó có thể tạo
nên một bộ phận tiềm tàng mạnh của tiềm lực KHKT&CNQS, mà sự hợp tác,
hỗ trợ của nó cho phát triển bộ phận hiện có cũng như khả năng đảm đương
các nhiệm vụ KTQS của các tổ chức kinh tế, KH&CNDD khi yêu cầu đặt ra


4

cũng sẽ bị hạn chế. Thời bình đã vậy, khi đất nước xảy ra chiến tranh, vấn đề
tạo sức mạnh quân sự để chiến thắng kẻ thù sẽ rất phức tạp và sẽ càng phức
tạp hơn nếu chúng ta đặt vấn đề này trong điều kiện sự phát triển của
KH&CN, bối cảnh toàn cầu hoá, xu thế hội nhập và nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam những năm tới. Có thể nói rằng, quá trình hội
nhập kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá sẽ làm cho áp lực cạnh tranh trong
điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trở
nên gay gắt hơn. Điều đó đương nhiên dẫn đến việc thực hiện kết hợp kinh tế
với quốc phòng nói chung, phát triển KH&CNDD gắn với tăng cường tiềm
lực KHKT&CNQS nói riêng sẽ khó khăn hơn rất nhiều, mặc dù bên cạnh đó
vẫn có những cơ hội lớn. Áp lực cạnh tranh sinh tồn có thể làm cho các hoạt
động phát triển KH&CNDD chỉ còn thuần tuý mang ý nghĩa kinh tế và chính
điều đó sẽ tạo ra những khó khăn lớn hơn nữa để thực hiện phát triển
KH&CNDD gắn với tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS, trong khi yêu cầu
tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS lại đòi hỏi cần đạt đến mức độ ngày càng
sâu hơn. Trong bối cảnh đó, việc quan tâm nghiên cứu và tìm ra các giải pháp
nhằm tăng cường sự gắn kết giữa phát triển KH&CNDD với các yêu cầu về
xây dựng, phát triển tiềm lực KHKT&CNQS Việt Nam là hết sức cần thiết.
Với lý do trên, vấn đề "Phát triển khoa học và công nghệ dân dụng
gắn với tăng cường tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự Việt
Nam" được chọn làm đề tài luận án tiến sĩ kinh tế.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã từng đề cập vai trò của
KH&CN với toàn bộ nền kinh tế - xã hội nói chung, sản xuất vật chất, trong
đó có sản xuất VKTBKTQS nói riêng. Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen
xung quanh vấn đề này được trình bày trong nhiều tác phẩm, nhưng tập trung
nhất ở “Chống Đuy Rinh” (phần lý luận về bạo lực) và phần đầu của “Tư
bản”. Trong “Hải cảng Lữ Thuận thất thủ” (viết năm 1925), V.I.Lênin cũng


5

đã từng nói về sự phụ thuộc của VKTBKTQS vào kinh tế thông qua việc
phân tích Nhật đổ tiền của, công sức, trí tuệ để chế tạo các chiến hạm. Từ
những năm 1957, khi nói về động viên kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh, ngoài việc động viên ra mặt trận, cần sắp xếp hợp lý các nguồn lực và
thiên di các cơ sở sản xuất công nghiệp về các vùng hẻo lánh. Nhìn chung, tư
tưởng của các nhà kinh điển về các vấn đề có liên quan đến phát triển
KH&CNDD gắn với tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS chưa nhiều. Nhưng,
đó là kim chỉ nam cho hoạt động phát triển KH&CNDD gắn với tăng cường
tiềm lực KHKT&CNQS.
Cách đây vài thập kỷ, ở các nước có nền kinh tế phát triển, có ưu thế về
sức mạnh quân sự như: Mỹ, Nga, Pháp,… đã hầu như không có sự tách rời
giữa vấn đề phát triển KH&CNDD với việc nâng cao khả năng nghiên cứu
thiết kế, chế tạo và khai thác sử dụng hệ thống VKTBKTQS. Nhiều nhà khoa
học là người nước ngoài đã từng nghiên cứu, đề cập đến các khía cạnh khác
nhau xung quanh vấn đề này. Trong số các công trình đã được công bố, một
số đã được dịch ra tiếng Việt, một số rất lớn còn lại được viết bằng nhiều thứ
tiếng khác nhau như: Tiếng Anh, Nga, Pháp và tiếng Đức… Các công trình đã
được dịch ra tiếng Việt thường được đăng tải trên các tạp chí khoa học
chuyên ngành và liên ngành như: Tạp chí “Khoa học Quân sự” của Trung tâm

Thông tin Khoa học - Công nghệ - Môi trường (Bộ Quốc phòng), tạp chí
“Kiến thức quốc phòng hiện đại” của Tổng cục II (Bộ Quốc phòng), Thông
tin Khoa học KTQS của Tổng cục Kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam….
Để tiếp cận với các công trình được viết bằng tiếng nước ngoài khác, có thể
truy cập trên mạng Internet qua webside của các tập đoàn kinh tế lớn (Boeing
của Mỹ, ZiL của Nga…), các trường đại học danh tiếng (Havớt của Mỹ,
Hanovơ của Đức..) hoặc các webside như: balse curity.org,…
Do số lượng các công trình khoa học của các tác giả là người nước ngoài rất
phong phú nên trong luận án này chỉ nêu một vài công trình điển hình. Tháng


6

12/1993, tạp chí “ZVO” (Liên Xô cũ) có bài “Công nghệ sinh học với mục
đích quân sự” của V. Xecgievxki viết về Bộ quốc phòng Mỹ với việc nghiên
cứu ứng dụng những tiến bộ mới trong công nghệ sinh học vào các hoạt động
quân sự để tăng độ bền của các khí tài trên biển hay chế tác các sản phẩm vũ
khí siêu vi trùng. Tháng 10/1986, trên tạp chí “Thông tin Khoa học Quân sự
nước ngoài”,
tác giả Chu Thiện Bách (Trung Quốc) đã dịch bài của nhà nghiên cứu người
Nga G.A Cabacôvich viết về “Đào tạo chuyên gia quân sự trong các trường
đại học dân sự ở Nga”. Trong công trình khoa học này, vấn đề đào tạo chuyên
gia quân sự, trong đó có các chuyên gia thuộc lĩnh vực KTQS ở trên 1000
trường đại học dân sự của Nga đã được tác giả đề cập đến. Tháng 3/1998, tạp
chí “Quân sự hiện đại”, số 3.1998 của Trung Quốc đăng bài “Công nghiệp
quân sự Nhật Bản” của Trịnh Kiệt Quang (công trình này đã được Lê Minh
dịch ra tiếng Việt và đăng trên tạp chí “Quân sự nước ngoài”, số 5/1998). Ở
đó, Trịnh Kiệt Quang đã nêu bật cách thức, biện pháp xây dựng và phát triển
nền công nghiệp quốc phòng Nhật Bản thông qua việc xây dựng tiềm năng đó
trong các tập đoàn kinh tế lớn. Tháng 12/3003, tạp chí "Signal" (Anh) đăng

bài của J. Mactin viết về việc công ty DRS Rugged System tìm kiếm các sản
phẩm điện tử dân dụng, tiến hành gia cố thêm độ bền, tăng độ chính xác rồi
ứng dụng nó vào phát triển hệ thống VKTBKTQS. Tháng 12/3003, tạp chí
“National Air and Space museum” số 12.2003, có bài “Boeing 367 - 80” của
Smithsonian viết về Boeing - một tập đoàn kinh tế lớn của Mỹ, dưới sự trợ
thủ đắc lực của chính phủ đã nghiên cứu, sản xuất thành công các máy bay
chiến đấu C97, B52… cho quân đội Mỹ những năm 1950. Mới đây, một số
công trình nghiên cứu khác của các tác giả người Mỹ đã chỉ ra việc các công
ty của Mỹ đang phát triển các máy tính cầm tay sử dụng chíp Pentium 266
MHZ với màn hình 6 inh-sơ để sử dụng cho các thiết bị bay, lặn có thể tương
tác với các hệ thống máy tính ở các sở chỉ huy… Trên thực tế có thể nhận


7

thấy, các nhà khoa học quân sự nước ngoài rất quan tâm đến việc nghiên cứu
ứng dụng các thành tựu về phát triển KH&CN cho mục đích quân sự. Điều đó
cho thấy, sự thành công của họ trong việc gắn kết giữa phát triển KH&CNDD
với các yêu cầu tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS. Tuy nhiên, một mặt, do
trình độ phát triển của LLSX khác nhau; Mặt khác, đường lối, chiến lược,
nghệ thuật quân sự của các nước đó cũng khác Việt Nam. Cho nên, chúng ta
chỉ có thể tham khảo các công trình đó mà không thể ứng dụng trực tiếp.
Ở nước ta, cũng đã có rất nhiều công trình khoa học xung quanh vấn đề
này. Từ góc độ là các chủ trương, chính sách, luật pháp. Đảng và Nhà nước
ta đã có nhiều nghị quyết, đề án quan trọng định hướng phát triển KH&CN
nói chung, KH&CNDD nói riêng phù hợp với yêu cầu mà sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong từng giai đoạn lịch sử đặt ra. Hơn hai thập niên
qua, Quốc hội và các cơ quan Chính phủ đã ban hành hàng trăm văn bản pháp
quy liên quan đến KH&CN. Nổi bật có: Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII)
về "Định hướng chiến lược phát triển KH&CN trong thời kỳ CNH, HĐH và

nhiệm vụ đến năm 2000''; Chương trình hành động của Bộ Khoa học và Công
nghệ nhằm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII); Quyết định số
343/TTg ngày 23/5/1997 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng đề án quốc
gia: ''Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam đến năm 2020''; Hướng dẫn lộ
trình đổi mới công nghệ cho Bộ Quốc phòng…. Trên cơ sở tư tưởng, quan
điểm của Đảng và Nhà nước, Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng
đã ra các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn nhằm phát triển tiềm lực
KHKT&CNQS Việt Nam. Trong hàng loạt các văn bản đã ban hành, nổi bật
là Nghị quyết số 132/ĐUQSTW ngày 15/5/1996 của Thường vụ Đảng uỷ
Quân sự Trung ương về nhiệm vụ khoa học, công nghệ và môi trường trong
quân đội; Chỉ thị số 462/ CT - QP ngày 26/3/1997 của Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng về thực hiện chỉ thị số 19/ĐUQSTW, kèm theo chương trình hành
động của Bộ Quốc phòng về KH&CN; Nghị quyết số 178/NQ - ĐUQSTW


8

ngày 16/07/2001 của Thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương về nhiệm vụ
khoa học, công nghệ và môi trường 5 năm (2001-2005).... Nhìn chung, trong
các văn bản đó, vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng trong các hoạt động
KH&CN nói chung, gắn kết giữa phát triển KH&CNDD với tăng cường tiềm
lực KHKT&CNQS nói riêng luôn được đề cập ở những góc độ khác nhau. Tư
tưởng, quan điểm của Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Bộ Quốc phòng đã và
đang mở ra điều kiện, cơ hội mới cho việc xây dựng và phát triển tiềm lực
KHKT&CNQS của đất nước dựa trên cơ sở phát triển kinh tế nói chung, phát
triển KH&CNDD nói riêng. Tuy nhiên, các văn bản có tính pháp quy trên đây
mới đề ra các mục tiêu cụ thể, các định hướng có tính chiến lược… và để hiện
thực hoá các mục tiêu, định hướng đó trong thực tiễn, cần phải có sự tiếp tục
nghiên cứu và đưa ra các giải pháp kiến nghị cụ thể. Trên phương diện các đề
tài nghiên cứu khoa học các cấp. Nhiều nhà khoa học đã có các công trình

nghiên cứu bàn về việc phát triển các ngành, các lĩnh vực KH&CN, trong đó
có các ngành, lĩnh vực KH&CN có vai trò là nền tảng cho việc xây dựng và
phát triển tiềm lực KHKT&CNQS. Kết quả thực hiện các đề tài thuộc chương
trình KH&CN, đề tài độc lập cấp nhà nước, các đề tài cấp bộ, ngành, cơ sở
trong thời gian qua đã nói lên điều đó. Ví dụ như: Đề tài nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ chế tạo máy, mã số KC.05, thuộc chương trình
KH&CN cấp Nhà nước giai đoạn 2001-2005 của Tiến sĩ Nguyễn Quang
Thanh (được phê duyệt theo quyết định số 1765/QĐ - BKHCN ngày
28/9/2004 của Bộ trưởng Bộ KH&CN) đã đề cập đến vấn đề “Nghiên cứu
thiết kế và công nghệ chế tạo cụm hộp số cho các loại xe ô tô thông dụng”. Sự
thành công của đề tài này, ngoài ý nghĩa về kinh tế còn có thể ứng dụng để
thiết kế chế tạo cụm hộp số của các chủng loại xe quân sự. Tuy nhiên, cũng
cần phải thấy rằng, đây là công trình nghiên cứu mang tính chất thuần tuý về
mặt chuyên môn kỹ thuật chứ chưa phải dưới góc độ khoa học xã hội. Thời
gian qua cũng có một số lượng tương đối khá các công trình của các nhà khoa


9

học quân sự đã tập trung nghiên cứu các vấn đề xung quanh phát triển kinh tế
nói chung, KH&CN nói riêng và tác động của nó đến tăng cường củng cố
quốc phòng. Mặc dù vậy, có thể nói vấn đề phát triển KH&CNDD gắn với
tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS vẫn chưa được đề cập một cách cụ thể.
Trên góc độ luận án, luận văn. Điển hình là, luận án Tiến sĩ kinh tế (1998)
của tác giả Trần Trung Tín trực tiếp bàn về "Kết hợp kinh tế với quốc phòng
ở nước ta hiện nay". Công trình đã đề cập một cách tổng thể vấn đề kết hợp
kinh tế với quốc phòng ở nước ta. Nhưng, do tính chất rộng lớn của vấn đề,
tác giả chưa có điều kiện đi sâu từng lĩnh vực cụ thể, trong đó có lĩnh vực
KH&CN mà trực tiếp là sự phát triển của KH&CNDD và gắn kết quá trình
phát triển đó với các yêu cầu về tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS Việt

Nam. Cùng với luận án của tác giả Trần Trung Tín, còn có nhiều công trình
khác đề cập đến vấn đề này dưới góc độ là một giải pháp nhỏ phản ánh sự kết
hợp kinh tế với quốc phòng phù hợp với đối tượng và nội dung nghiên cứu
mà mỗi công trình đó đề cập. Ví dụ, luận án Tiến sĩ Kinh tế (1998) của Trần
Đăng Bộ với đề tài “Kết hợp công nghiệp dân dụng với công nghiệp quốc
phòng” đã nghiên cứu về vấn đề làm thế nào để công nghiệp dân dụng có thể
góp sức vào việc phát triển nền CNQP của Việt Nam. Luận án Tiến sĩ Kinh tế
của Phạm Đức Nhuấn (2002) bàn về “Xây dựng tiềm lực kinh tế quân sự Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay”. Trong công trình khoa học này, vấn đề xây
dựng tiềm lực kinh tế quân sự Việt Nam - một trong những nền tảng để duy
trì, phát triển hệ thống VKTBKTQS - trên cơ sở một nền kinh tế với KH&CN
đóng vai trò động lực được tác giả phân tích một cách khá chi tiết…. Thuộc
loại hình các bài báo khoa học. Ví dụ như, Nguyễn Hương Giang nêu vấn đề
“Nghiên cứu khoa học gắn với thực tiễn phát triển quân đội và đất nước” (Tạp
chí Hoạt động Khoa học, Số10/2003); Trần Thanh Phương đề cập đến “Vai
trò của khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam” (Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, Số 11/2003).... Nhìn chung, có thể


10

nói rằng đã có một số lượng khá lớn các bài báo đề cập ở những góc độ khác
nhau, tuy nhiên, vấn đề phát triển KH&CNDD gắn với tăng cường, củng cố
quốc phòng, xét trên góc độ đảm bảo VKTBKTQS còn rất mờ nhạt và rất cần
được nghiên cứu thêm.
Như vậy, trong khi sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng
KH&CN trên thế giới luôn đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi cần phải nghiên
cứu kịp thời để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, có thể nói rằng, vấn đề "Phát
triển khoa học và công nghệ dân dụng gắn với tăng cường tiềm lực khoa học
kỹ thuật và công nghệ quân sự Việt Nam" đang là đơn đặt hàng của thực tiễn

mà hiện chưa có công trình khoa học nào thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn quân sự trực tiếp nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển KH&CNDD gắn với tăng
cường tiềm lực KHKT&CNQS. Trên cơ sở đó, đề xuất quan điểm cơ bản và
giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt hơn vấn đề phát triển KH&CNDD gắn với
tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh
quốc phòng, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới.
Nhiệm vụ:
- Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển KH&CNDD gắn với tăng
cường tiềm lực KHKT&CNQS Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng phát triển KH&CNDD gắn với tăng cường tiềm
lực KHKT&CNQS Việt Nam giai đoạn từ 1990 đến nay.
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm tăng
cường sự gắn kết giữa phát triển KH&CNDD với các yêu cầu về xây dựng và
phát triển tiềm lực KHKT&CNQS đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:


11

Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là hoạt động kết hợp kinh tế với
quốc phòng trong phát triển KH&CN, trực tiếp là phát triển của KH&CNDD
trong mối liên hệ với tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS Việt Nam. Nghiên
cứu của luận án sẽ tập trung vào trọng tâm là sự gắn kết giữa quá trình phát triển
KH&CNDD với các yêu cầu về xây dựng và phát triển tiềm lực KHKT&CNQS
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, các góc độ nhìn nhận khác có liên
quan được đề cập ở mức độ cần thiết để phục vụ cho mục đích và nhiệm vụ

nghiên cứu. Việc khảo sát thực tiễn chủ yếu được tiến hành trong phạm vi hoạt
động của các tổ chức kinh tế lớn, các tổ chức KH&CN có liên quan chặt chẽ đến
việc xây dựng và phát triển tiềm lực KHKT&CNQS, thời gian từ 1990 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về kết hợp
kinh tế với quốc phòng nói chung, trong các hoạt động phát triển KH&CNDD
nói riêng; các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng uỷ Quân sự Trung ương,
Bộ Quốc phòng về phát triển KH&CNQS cũng như các vấn đề khác có liên
quan đến củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.
Việc nghiên cứu đề tài này được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đề tài có sử
dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phân tích, tổng hợp… phương
pháp chuyên gia và tham khảo một số công trình khoa học đã được công bố.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Bàn luận một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn phát
triển khoa học và công nghệ dân dụng gắn với tăng cường tiềm lực khoa học
kỹ thuật và công nghệ quân sự Việt Nam trong tình hình mới.
- Đề xuất những quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo cho
mỗi bước tiến của KH&CNDD, ngoài ý nghĩa về kinh tế là thiết thực góp
phần tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS của đất nước.


12

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Luận án làm phong phú thêm những vấn đề lí luận và thực tiễn về kết
hợp kinh tế với quốc phòng, đồng thời đáp ứng một phần yêu cầu thực tiễn
tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS ở nước ta hiện nay.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, định hướng nghiên cứu,

giảng dạy kinh tế chính trị, kinh tế quân sự và nhiều môn khoa học khác trong
các nhà trường, kể cả các trường ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, các công trình khoa học của tác giả đã được
công bố, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 3 chương, 6 tiết.


13

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ DÂN DỤNG GẮN VỚI TĂNG CƯỜNG TIỀM LỰC
KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ QUÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Phát triển khoa học và công nghệ dân dụng gắn với tăng cường
tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự - Những vấn đề chung
1.1.1. Khái niệm và cơ sở khoa học về phát triển khoa học và công nghệ
dân dụng gắn với tăng cường tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự
1.1.1.1. Khái niệm về phát triển khoa học và công nghệ dân dụng gắn
với tăng cường tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự
Để xây dựng khái niệm này, phải bắt đầu từ việc làm rõ về khoa học và
công nghệ dân dụng cũng như phát triển khoa học và công nghệ dân dụng
Hiện nay, trong rất nhiều tài liệu, “khoa học” được coi là “hệ thống tri
thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy”; “công
nghệ” được hiểu là “tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết,
công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”[85,
tr.8]. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, bản thân KH&CN luôn là một thể thống
nhất và có thể được nhìn nhận trên các góc độ khác nhau. Từ phương diện
khoa học kinh tế chính trị, có thể nhận thấy, KH&CN là một bộ phận cấu
thành LLSX, được kết tinh trong con người, vật hoá trong tư liệu sản xuất và
biểu hiện ở các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Với tính chất là một trong các

nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển, KH&CN có ảnh hưởng trực tiếp
đến vấn đề phân công lao động xã hội, nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu
quả của quá trình lao động, cũng như việc sử dụng các nguồn lực trong quá
trình sản xuất vật chất, tạo ra tiến bộ và văn minh nhân loại. Bên cạnh đó,
KH&CN còn là một yếu tố trực tiếp góp phần tạo ra sức mạnh quân sự trong


14

chiến tranh, các hoạt động quốc phòng. Sự phát triển của KH&CN là nguồn gốc
của các “công cụ” mới, làm thay đổi đường lối chiến lược, nghệ thuật quân sự…
Hệ thống KH&CN có thể được phân loại theo những tiêu chí rất khác
nhau. Thông thường hệ thống KH&CN bao gồm: Khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội, khoa học kỹ thuật, khoa học y dược và các lĩnh vực công nghệ gắn
liền với các thành tựu thuộc các lĩnh vực khoa học đó. Tuy nhiên, nếu theo
đặc tính môi trường khám phá, áp dụng các tri thức KH&CN, người ta có thể
quan niệm hệ thống KH&CN bao gồm: KH&CNDD và KH&CNQS. Khoa
học và công nghệ dân dụng là một bộ phận hợp thành của nền KH&CN có
mục tiêu hướng tới đáp ứng các nhu cầu dân sinh như: Ăn, ở, mặc, sinh hoạt,
… Về cấu trúc, KH&CNDD bao gồm toàn bộ các lĩnh vực KH&CN theo như
cách phân loại thông thường. Có một điều rất đáng lưu ý ở đây là, “công
nghệ” trong KH&CNDD cũng rất rộng, trong đó không loại trừ cả những
công nghệ thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Tuy nhiên, do thực tế
của sự phát triển, người ta chỉ mới nói nhiều đến “công nghệ” trong các hoạt
động sản xuất vật chất và dịch vụ với mục tiêu là tạo ra những phương tiện kỹ
thuật và phương pháp công nghệ thích hợp. Ở luận án này, KH&CNDD chủ
yếu được xem xét dưới góc độ đó và đây cũng chính là các ngành, lĩnh vực
KH&CN thuộc nền kinh tế quốc dân có thể ứng dụng vào việc duy trì và phát
triển hệ thống VKTBKTQS. Thực tiễn cho thấy, nhu cầu của đời sống dân
sinh luôn được đặt ra ngày càng cao và chỉ có thể được đáp ứng bằng một nền

kinh tế liên tục tăng trưởng, phát triển với KH&CN là động lực. Vì thế, hoạt
động phát triển KH&CNDD luôn diễn ra hàng ngày, hàng giờ xung quanh
chúng ta. "Phát triển" là: “Biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp
đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [147, tr.743]. Theo tinh thần
của khoản 3, điều 2, chương 1 Luật Khoa học và Công nghệ được Quốc hội
khoá X thông qua ngày 9/6/2000, hoạt động KH&CN nói chung, KH&CNDD
nói riêng bao gồm: Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (Reasearch


15

and Development gọi tắt là các hoạt động nghiên cứu – phát triển, viết tắt là
R&D), các hoạt động dịch vụ KH&CN, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến
kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và các hoạt động khác nhằm mục đích phát triển
KH&CN. Trên tinh thần đó, phát triển KH&CNDD là sự biến đổi về số
lượng và chất lượng một tập hợp các hoạt động KH&CN nhằm tìm kiếm và
áp dụng các tri thức KH&CN mới vào thực tiễn, tạo ra một năng lực mới của
nền sản xuất xã hội, hướng tới một nền kinh tế phát triển, đáp ứng ngày càng
tốt hơn các nhu cầu của con người. Hoạt động phát triển KH&CNDD diễn ra
trong các viện nghiên cứu, các cơ sở đào tạo nhân lực KH&CN, các cơ sở
công nghiệp, … thuộc nền kinh tế quốc dân, trên cơ sở năng lực của các tổ
chức KH&CN cũng như cá nhân các nhà khoa học và hoạt động tổ chức, quản
lý của nhà nước. Để tiến hành các hoạt động phát triển KH&CNDD thường
phải dựa vào 5 yếu tố: Nhân lực (Men), máy móc thiết bị (Machine), vật liệu
(Material), tiền đầu tư (Money) và quản lý (Management) - gọi tắt là 5M. Cho
nên, đây là quá trình phát triển có liên quan trực tiếp với việc đào tạo, sử dụng
nguồn nhân lực KH&CN, trang bị các loại vật chất cho các hoạt động R&D,
đầu tư tài chính của nhà nước, các tổ chức kinh tế, KH&CN, trong từng
ngành, trên từng lĩnh vực cụ thể cũng như trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế và
cơ chế chính sách về KH&CN của nhà nước. Cuối cùng, cho dù kết quả của

các hoạt động phát triển KH&CNDD phụ thuộc nhiều yếu tố, nhưng có điều rất
chắc chắn là nó dẫn tới sự thay đổi tỷ trọng đóng góp vào thu nhập quốc dân
của các ngành, vùng, thành phần kinh tế, cũng như làm biến đổi năng lực của
các tổ chức kinh tế, KH&CN và của quốc gia xét cả trên góc độ kinh tế cũng
như tạo ra sức mạnh quân sự để tiến hành chiến tranh hay các hoạt động quốc
phòng [Phụ lục 1, 2].
Để đi đến khái niệm trung tâm cũng cần làm rõ quan niệm về tiềm lực
khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự; tăng cường tiềm lực khoa học kỹ
thuật và công nghệ quân sự.


16

Bộ phận của nền KH&CN mà mục tiêu của nó là hướng vào đáp ứng các
nhu cầu quân sự phục vụ cho chiến tranh hay các hoạt động quốc phòng là
KH&CNQS. Về cấu trúc, KH&CNQS bao gồm: Khoa học nghệ thuật quân
sự, khoa học xã hội và nhân văn quân sự, khoa học kỹ thuật quân sự… và các
lĩnh vực công nghệ được ứng dụng vào hoạt động quân sự. Điều đó cho thấy,
KHKT&CNQS là một bộ phận của KH&CNQS. Theo “Từ điển Bách khoa
quân sự Việt Nam”: “Khoa học kỹ thuật quân sự là lĩnh vực nghiên cứu các
phương tiện KTQS và các giải pháp KTQS dùng để chuẩn bị và tiến hành
chiến tranh. KHKTQS bao gồm: Lý luận về tính toán, thiết kế, chế tạo
phương tiện KTQS mới hoặc cải biên, cải tiến trang bị KTQS đã có; Lý luận
về khai thác và đảm bảo kỹ thuật với phương tiện KTQS đã có trong biên
chế... Lý luận về tính toán, thiết kế, chế tạo trang bị kỹ thuật, nghiên cứu để
tạo ra những mẫu phương tiện KTQS mới, đáp ứng yêu cầu chiến- kỹ thuật đề
ra hoặc cải biên, cải tiến phương tiện KTQS hiện có để đáp ứng yêu cầu
chiến- kỹ thuật mới. Thông thường những thành tựu khoa học, công nghệ mới
nhất được nghiên cứu vận dụng vào quân sự để tạo ra các phương tiện KTQS
có ưu thế trong đấu tranh vũ trang. Lý luận về khai thác và bảo đảm kỹ thuật

nghiên cứu khai thác có hiệu quả phương tiện KTQS, duy trì tính năng chiến kỹ thuật, độ tin cậy, tuổi thọ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của vũ khí, phương
tiện KTQS.” [136, tr.423]. Vì “khoa học” và “kỹ thuật” hay “công nghệ” không
tách rời nhau, cho nên, từ các vấn đề trên, có thể nhận thấy: Khoa học kỹ
thuật và công nghệ quân sự là một lĩnh vực thuộc KH&CNQS chuyên nghiên
cứu về các phương tiện chiến tranh, cụ thể là nghiên cứu và giải quyết các
vấn đề về duy trì, phát triển, khai thác sử dụng hệ thống VKTBKTQS cũng
như đảm bảo VKTBKTQS cho các lực lượng chiến đấu và sẵn sàng chiến
đấu.
Hiện nay, có nhiều cách nói khác nhau về "tiềm lực". Nhưng, có thể coi
"tiềm lực" (Potential hoặc Potentiality) là sức mạnh tiềm tàng, khả năng còn


17

chưa bộc lộ ra, sẵn sàng trở thành sức mạnh nếu được khai thác. Nói cách
khác tiềm lực là khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động để tạo
thành sức mạnh nhằm thực hiện một nhiệm vụ nhất định. Như vậy, có thể
khẳng định: Tiềm lực KHKT&CNQS là khả năng về KH&CN của đất nước
có thể huy động vào việc duy trì, phát triển và làm chủ quá trình khai thác sử
dụng hệ thống VKTBKTQS theo yêu cầu của chiến tranh hay các hoạt động
quốc phòng. Tiềm lực KHKT&CNQS được tích hợp trong hai khả năng: Hiện
có và tiềm tàng. Khả năng hiện có của tiềm lực KHKT&CNQS là thực lực về
KHKT&CNQS mà quân đội đang nắm giữ để duy trì, phát triển và làm chủ hệ
thống VKTBKTQS theo yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Phần năng lực
KHKT&CNQS đang được dự trữ trong quân đội và khả năng có thể huy động
các tổ chức kinh tế, KH&CN thuộc nền kinh tế quốc dân tham gia giải quyết
các nhịêm vụ KTQS là khả năng tiềm tàng. Tiềm lực KHKT&CNQS được
đặc trưng bằng nguồn nhân lực, vật lực, tài lực, tin lực, tổ chức và sự phân bố
các nguồn lực này trong nền kinh tế cũng như trên các địa bàn thuộc lãnh thổ
theo yêu cầu chiến thuật, nghệ thuật quân sự. Trên phương diện các tổ chức

xã hội, tiềm lực KHKT&CNQS được biểu hiện ở năng lực của hệ thống các
cơ quan R&D về KHKT&CNQS của quân đội, các cơ sở đào tạo nhân lực
KTQS, hệ thống CNQP và các cơ quan, đơn vị, các tổ chức KH&CN thuộc
nền kinh tế quốc dân trong việc tham gia nghiên cứu, hỗ trợ cho sự phát triển
của KHKT&CNQS hoặc giải quyết các nhiệm vụ KTQS khi được động viên.
Các khả năng của tiềm lực KHKT&CNQS có thể chuyển hoá cho nhau, nếu
các yếu tố cấu thành tiềm lực KHKT&CNQS đạt đến một ngưỡng nhất định.
Điều này được minh chứng bằng việc các tổ chức KH&CNDD có thể tham
gia các nhiệm vụ R&D hệ thống VKTBKTQS và ngược lại. Có thể nói rằng,
tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS là sự tăng lên về khả năng nghiên cứu
thiết kế, chế tạo, bảo dưỡng, sửa chữa và khai thác sử dụng hệ thống
VKTBKTQS của một đất nước theo yêu cầu chiến tranh hay các hoạt động


18

quốc phòng. Về lý thuyết, tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS có thể thực
hiện bằng nâng cao khả năng hiện có, khả năng tiềm tàng hoặc cả hai khả
năng. Trên thực tế, tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS được áp dụng trong
suốt thời gian chuẩn bị, tiến hành chiến tranh và gắn liền với nó là sự tăng lên
về số lượng, chất lượng các yếu tố cấu thành tiềm lực KHKT&CNQS trong cả
khu vực kinh tế dân sự và kinh tế quân sự. Theo đối tượng, mục đích, nhiệm
vụ đã đề ra, luận án sẽ bàn đến sự gia tăng các yếu tố cấu thành tiềm lực
KHKT&CNQS trong khu vực kinh tế dân sự, trực tiếp là trong sự phát triển
của KH&CNDD. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, mục tiêu nghiên cứu của
luận án là tìm các biện pháp làm gia tăng các yếu tố đó nhưng không phải
quân sự hoá nền kinh tế, mà dừng lại ở việc tăng cường dự trữ khả năng tiềm
tàng của tiềm lực KHKT&CNQS nhằm sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu thực
tiễn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra.
Hoạt động phát triển KH&CNDD luôn được diễn ra trong nền sản xuất

xã hội với mục đích góp phần tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho đời
sống dân sinh. Hoạt động này có thể gắn kết được với các yêu cầu về xây
dựng và phát triển tiềm lực KHKT&CNQS là do KH&CNDD, KHKT&CNQS
có sự giống nhau về chất và tương đồng về đối tượng nghiên cứu. Thực tế cho
thấy, hai lĩnh vực KH&CN này đều là các bộ phận hợp thành của nền
KH&CN quốc gia, chúng được xây dựng và phát triển trên cơ sở ứng dụng tri
thức khoa học cơ bản vào thực tiễn các hoạt động khác nhau của con người.
Thực tế còn cho thấy, có những thành tựu nghiên cứu chỉ được ứng dụng
trong thực tiễn sản xuất vật chất hay chiến đấu, nhưng cũng có những khám
phá có thể ứng dụng được cho cả hai lĩnh vực. Chính điều này đã làm cho sự
phân loại hệ thống KH&CN bao giờ cũng chỉ mang tính chất tương đối, có
một vùng giao thoa nhất định giữa KH&CNDD với KH&CNQS, đó là
KH&CNLD - một bộ phận của nền KH&CN bao gồm các ngành, các lĩnh vực
mà thành tựu phát triển của chúng có thể vận dụng cho cả phát triển kinh tế và


19

tăng cường củng cố quốc phòng. Nếu phân tích sâu hơn vấn đề này, có thể
nhận thấy, KH&CNDD, KHKT&CNQS còn có sự tương đồng về đối tượng
nghiên cứu. Nhiệm vụ chủ yếu của KH&CNDD là hướng tới sản xuất vật chất
và dịch vụ bằng con đường tạo ra những phương tiện kỹ thuật và phương
pháp công nghệ thích hợp. Đối tượng nghiên cứu của KHKT&CNQS là việc
tạo ra, duy trì sức sống cho các “công cụ” và phương tiện để tiến hành chiến
tranh hay các hoạt động quốc phòng. Mặc dù các công cụ và phương tiện
được dùng trong sản xuất và chiến đấu có sự khác nhau về hình dáng, mẫu
mã... Nhưng, có rất nhiều công cụ, phương tiện để tiến hành chiến tranh hay
các hoạt động quốc phòng có nguồn gốc hay được chế tạo trên cùng một cơ
sở nguyên lý với công cụ và phương tiện dùng trong sản xuất vật chất, cũng
như đời sống dân sinh. Ví dụ, để sản xuất ra máy bay quân sự hay máy bay

dân dụng, người ta đều phải dựa vào khoa học cơ bản như: Toán, lý, hoá… và
những tiến bộ trong lĩnh vực cơ khí động lực, sức bền vật liệu,… Ngày nay,
người ta cũng khó có thể tìm thấy một loại VKTBKTQS nào không hàm chứa
trong nó những thành tựu nghiên cứu của KH&CNDD. Sự giống nhau về chất
và tương đồng về đối tượng nghiên cứu của KH&CNDD, KHKT&CNQS tất
yếu dẫn đến sự giống nhau về chuyên môn nghiệp vụ của nhân lực, cơ sở vật
chất kỹ thuật để tiến hành các hoạt động KH&CN ở các tổ chức kinh tế,
KH&CN thuộc nền kinh tế quốc dân cũng như các tổ chức KH&CN đảm
nhiệm việc duy trì và phát triển hệ thống VKTBKTQS trong quân đội. Điều đó
chứng tỏ các tổ chức kinh tế, tổ chức KH&CNDD, trực tiếp là các tổ chức có
chuyên môn gần với KTQS có khả năng nhất định trong việc tham gia các
hoạt động KTQS và ngược lại. Trên thực tế, người ta đã vận dụng vấn đề này
để xây dựng và phát triển tiềm lực KHKT&CNQS dựa vào sự phát triển của
KH&CNDD hoặc thực hiện phát triển một số ngành, lĩnh vực KH&CNDD
với sự trợ giúp của các tổ chức KHKT&CNQS. Điều rất đáng lưu ý ở đây là
tính chất lưỡng dụng của KH&CN đã tạo nên chất keo quan trọng đảm bảo


20

được cả lợi ích riêng và lợi ích chung khi các hoạt động KH&CNDD,
KHKT&CNQS xâm nhập vào nhau để có thể làm nên điều kỳ diệu đó. Những
phân tích trên đây cho thấy, có thể thực hiện được việc gắn kết giữa phát triển
KH&CNDD với các yêu cầu về xây dựng và phát triển tiềm lực
KHKT&CNQS mà một trong 2 mặt của sự gắn kết là phát triển KH&CNDD
gắn với tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS.
Trong ngôn ngữ tiếng Việt, “gắn” có nhiều nghĩa và được sử dụng trong
những trường hợp khác nhau. Về mặt học thuật, “gắn” được hiểu là: “có quan hệ
hoặc làm cho có quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau” [147, tr.359]. Việc
“gắn” hoặc “gắn kết” giữa phát triển KH&CNDD với tăng cường tiềm lực

KHKT&CNQS là có thể nhưng cần thấy rằng đây không phải là các quá trình
tự thân, cho nên để khả năng đó trở thành hiện thực, nhất thiết phải thông qua
hoạt động nỗ lực chủ quan của con người. Trên tinh thần đó, sự gắn kết giữa
phát triển KH&CNDD với các yêu cầu về tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS
không thể thiếu vai trò của Đảng, Nhà nước, quân đội, các tổ chức kinh tế, tổ
chức KH&CNDD cũng như cá nhân các nhà khoa học. Trên cơ sở nhận thức rõ
các vấn đề khách quan, chính các chủ thể này là người hoạch định các chiến
lược, chính sách, tổ chức thực hiện, cũng như quyết định hiệu quả của hoạt động
phát triển, gắn kết đã nêu. Từ những phân tích trên, cho phép rút ra kết luận:
Phát triển KH&CNDD gắn với tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS là một
trong các mặt hoạt động kết hợp kinh tế với quốc phòng, là hoạt động nỗ lực
chủ quan của Đảng, Nhà nước, quân đội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức
KH&CNDD và cá nhân các nhà khoa học trong việc biến đổi số lượng, chất
lượng các hoạt động KH&CN phục vụ phát triển kinh tế xã hội, đồng thời
hướng tới nâng cao khả năng của quốc gia về nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và
làm chủ quá trình khai thác sử dụng, đảm bảo VKTBKTQS cho các lực lượng
vũ trang nhân dân, góp phần tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc”. Cần thấy rằng, phát triển KH&CNDD gắn với tăng cường tiềm lực


21

KHKT&CNQS bao gồm hai mặt hoạt động diễn ra đồng thời, đó là phát triển
KH&CNDD và sự gắn kết quá trình phát triển đó với các yêu cầu về xây
dựng, phát triển tiềm lực KHKT&CNQS. Theo lô gíc, việc gắn (hoặc gắn kết)
giữa A và B được tiến hành trên cơ sở mối quan hệ 2 chiều: A gắn với B và
ngược lại. Vì vậy, phát triển KH&CNDD gắn với tăng cường tiềm lực
KHKT&CNQS chỉ là một trong hai chiều của sự gắn kết A, B. Bản chất của
“gắn” không làm cho cái này loại trừ cái kia mà ngược lại, làm cho mối quan
hệ giữa chúng trở nên chặt chẽ hơn. Hoạt động phát triển, gắn kết giữa

KH&CNDD với các yêu cầu về xây dựng và phát triển tiềm lực
KHKT&CNQS cũng không vì sự tiến bộ của riêng KH&CNDD hay
KHKT&CNQS mà vì sự phát triển của cả hai lĩnh vực. Ở đó, các hoạt động
phát triển KH&CN do các tổ chức kinh tế, KH&CNDD cũng như cá nhân các
nhà khoa học tiến hành theo yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội có tính
đến vấn đề tăng cường củng cố quốc phòng, cụ thể là nâng cao
khả năng nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và làm chủ quá trình khai thác, đảm
bảo VKTBKTQS của đất nước. Thông qua thực hiện phát triển KH&CNDD
gắn với tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS để cải thiện “nguồn nguyên liệu”
cho các hoạt động R&D KHKT&CNQS. Bên cạnh đó, làm cho các tổ chức
kinh tế, KH&CNDD cũng như cá nhân các nhà khoa học có khả năng nhất
định trong việc tham gia các hoạt động có liên quan đến duy trì, phát triển,
khai thác sử dụng hệ thống VKTBKTQS để họ có thể hỗ trợ, hợp tác với các
lực lượng đảm nhiệm công tác KHKT&CNQS của quân đội nhằm giải quyết
tốt hơn các vấn đề KTQS trong thời bình và sẵn sàng tham gia các nhiệm vụ
KTQS khi đất nước có chiến tranh. Như vậy, phát triển KH&CNDD gắn với
tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS, ngoài mục tiêu về kinh tế là hướng tới
việc tạo ra khả năng tiềm tàng của tiềm lực KHKT&CNQS ngày càng vững
mạnh, dự trữ sâu và rộng trong nền kinh tế quốc dân để khi cần có thể chuyển
hoá, huy động được cho hoạt động KTQS. Trên tinh thần đó, có thể coi phát


22

triển KH&CNDD gắn với tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS là một biểu
hiện sinh động của việc kế thừa và vận dụng sáng tạo chính sách “Ngụ binh ư
nông” (Giấu quân trong dân) trong thời đại mới, khi mà KH&CN đang ngày
càng chiếm giữ vai trò quan trọng hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Từ những phân tích trên, nhận thấy, thực chất phát triển
KH&CNDD gắn với tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS là một trong các

hoạt động kết hợp kinh tế với quốc phòng trên lĩnh vực phát triển KH&CN,
có mục tiêu tạo ra và “giấu” khả năng nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, làm chủ
quá trình khai thác sử dụng, đảm bảo VKTBKTQS của đất nước trong nền
kinh tế quốc dân, trực tiếp là trong sự phát triển của các ngành kinh tế, các
lĩnh vực KH&CN có quan hệ chuyên môn gần với KTQS.
Hoạt động KH&CN có mối quan hệ mật thiết với thực tiễn sản xuất và
chiến đấu. Điều đó cho thấy, phát triển KH&CNDD gắn với tăng cường tiềm
lực KHKT&CNQS có sự phụ thuộc vào trình độ phát triển của LLSX, tính chất
tiến bộ của QHSX và sự vững mạnh của kiến trúc thượng tầng cùng với đường
lối phát triển kinh tế xã hội, chiến lược quốc phòng, nghệ thuật quân sự của mỗi
quốc gia…. Bên cạnh đó, hoạt động phát triển, gắn kết còn luôn được đặt trong
môi trường kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội nhất định. Chính những yếu tố
đó sẽ tác động đến mục tiêu, phương hướng, hiệu quả của hoạt động phát
triển, gắn kết. Đối với nước ta, vấn đề phát triển LLSX, nâng cao năng suất lao
động xã hội, xây dựng thành công QHSX mới, xây dựng nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân cũng như vấn đề chủ động hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới trong bối cảnh toàn cầu hoá… có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
hoạt động phát triển KH&CNDD gắn với tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS.
1.1.1.2. Cơ sở khách quan của phát triển khoa học và công nghệ dân
dụng gắn với tăng cường tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự


23

Phát triển KH&CNDD gắn với tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS mặc
dù là hoạt động chủ quan của con người nhưng hoạt động đó được tiến hành
trên cơ sở các căn cứ khoa học, không chủ quan duy ý trí.
Một là: Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, ảnh
hưởng lẫn nhau giữa kinh tế với chiến tranh hay các hoạt động quốc phòng
và việc giải quyết mối quan hệ đó trong thực tiễn.

Kinh tế không chỉ là nguyên nhân suy đến cùng nảy sinh các xung đột giai
cấp dẫn đến chiến tranh, quốc phòng, mà còn là nguồn cung cấp nhân, vật lực,
tài chính... cho việc tiến hành các hoạt động đó. Ngược lại, chiến tranh, quốc
phòng cũng có sự tác động trở lại đối với nền kinh tế. Ngoài sự tàn phá, có thể
gây ra những hậu quả hết sức nặng nề, tiêu dùng các nguồn lực, sản phẩm của
nền kinh tế mà không trực tiếp quay trở lại quá trình tái sản xuất... chiến tranh,
quốc phòng còn ảnh hưởng đến phương hướng, tốc độ phát triển và cơ cấu của
nền kinh tế. Trên một góc độ nào đó, chính mối quan hệ chặt chẽ này đã buộc
các yếu tố, bộ phận, quá trình phát triển nội tại thuộc các hoạt động kinh tế,
chiến tranh, quốc phòng,... phải có sự gắn kết chặt chẽ với nhau. Phát triển
KH&CNDD - một hoạt động đóng vai trò chủ chốt, nằm trong nội tại phát triển
kinh tế; tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS - một vấn đề thiết yếu của chiến
tranh, quốc phòng cũng không nằm ngoài vấn đề có tính quy luật đó. Mối quan
hệ kinh tế, chiến tranh, quốc phòng có thể coi là cơ sở khoa học của phát triển
KH&CNDD gắn với tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS. Tuy nhiên, để có sự
khẳng định chắc chắn hơn về vấn đề này, cần nhận thấy 3 vấn đề sau:
Thứ nhất, nếu kinh tế cung cấp các nguồn lực cho chiến tranh, quốc
phòng thì phát triển KH&CNDD tạo ra điều kiện, tiền đề để xây dựng và phát
triển tiềm lực KHKT&CNQS. Thật vậy, với vai trò là một yếu tố cấu thành
LLSX, phát triển KH&CNDD luôn tạo ra một năng lực mới cho nền sản xuất xã
hội. Với một nền kinh tế phát triển, ngân sách cho các hoạt động xã hội nói
chung, xây dựng, phát triển tiềm lực KHKT&CNQS nói riêng được nâng cao,


24

trên cơ sở đó, nó góp phần tăng cường tiềm lực KHKT&CNQS. Trên thực tế,
vấn đề không hẳn dừng lại ở đó. Kết quả của các hoạt động phát triển
KH&CNDD còn tạo ra những thành tựu KH&CN mới có thể vận dụng vào việc
nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, làm chủ quá trình khai thác sử dụng, đảm bảo

VKTBKTQS, cũng như tạo ra đội ngũ các nhà khoa học, hệ thống các tổ chức
KH&CN của nền kinh tế quốc dân có khả năng ngày càng cao hơn trong việc hỗ
trợ, tham gia các nhiệm vụ KTQS. Ở một góc độ khác, nhận thấy, để xây dựng và
phát triển tiềm lực KHKT&CNQS, cần phải có tiền, các nhà khoa học cần phải
có cái để ăn, các nhu yếu phẩm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày và điều
kiện nghiên cứu như các trang thiết bị, máy móc… Chính quá trình phát triển
kinh tế nói chung, KH&CNDD nói riêng đã tạo nên những điều kiện đó. Rõ
ràng, nếu như kinh tế cung cấp các nguồn lực cho chiến tranh, quốc phòng thì
phát triển KH&CNDD tạo ra điều kiện, tiền đề cho việc xây dựng và phát triển
tiềm lực KHKT&CNQS.
Thứ hai, nếu chiến tranh, quốc phòng có sự tác động trở lại đối với kinh
tế thì vấn đề xây dựng và phát triển tiềm lực KHKT&CNQS cũng luôn có đòi
hỏi riêng đối với sự phát triển của KH&CNDD. Việc nghiên cứu thiết kế, chế
tạo cũng như làm chủ quá trình khai thác sử dụng VKTBKTQS thường được
tiến hành trên nền tảng một tiềm lực KHKT&CNQS, trong khuôn khổ bộ
phận kinh tế quân sự phụ thuộc vào sự phát triển của kinh tế dân sự, trực tiếp
là sự phát triển của KH&CNDD. Với mỗi nền kinh tế, ở một trình độ phát
triển của LLSX với những bước tiến đạt được về KH&CN nói chung,
KH&CNDD nói riêng, người ta chỉ có thể tạo dựng được một tiềm lực
KHKT&CNQS tương ứng. Tuy nhiên, trong mỗi hoàn cảnh cụ thể, với mỗi
nước việc xây dựng và phát triển tiềm lực KHKT&CNQS luôn có những đòi
hỏi riêng và chính đòi hỏi riêng này lại đặt ra những yêu cầu mới đối với phát
triển kinh tế cũng như KH&CNDD với vai trò là nền tảng. Sở dĩ thế là vì
VKTBKTQS là các sản phẩm đặc biệt của quá trình sản xuất vật chất nói


25

chung, sản xuất quân sự nói riêng. Việc sản xuất, khai thác sử dụng chúng
thường được tiến hành trên cơ sở các tri thức KH&CN tiên tiến của thời đại,

với những quy trình công nghệ và các đặc tính cần có của vật liệu… Trong
thời kỳ chuẩn bị chiến tranh thế giới lần thứ II, để sản xuất được các loại xe
tăng, máy bay, tầu chiến lớn nhằm thực hiện ý đồ dùng "Chiến tranh chớp
nhoáng" bóp nghẹt đối phương, Đức đã phải chuyển hướng nền kinh tế sang
phát triển một cách hết sức mạnh mẽ các cơ sở thuộc lĩnh vực cơ khí chế tạo.
Hoặc sau chiến tranh thế giới lần thứ II, để thực hiện chiến thuật "Trả đũa ồ
ạt", Mỹ đã thúc đẩy sự ra đời hàng loạt các cơ sở công nghiệp hạt nhân, điện
tử….Trong chương trình “chiến tranh giữa các vì sao”, hàng loạt các viện
nghiên cứu lớn của Mỹ được đầu tư để tham gia nghiên cứu các loại
VKTBKTQS mới như tên lửa tầm xa, vũ khí hạt nhân…
Thứ ba, nếu phát triển KH&CNDD không gắn với tăng cường tiềm lực
KHKT&CNQS thì chức năng cung cấp các nguồn lực cho chiến tranh, quốc
phòng của nền kinh tế bị ảnh hưởng. Ngược lại, nếu tăng cường tiềm lực
KHKT&CNQS không dựa trên nền tảng phát triển kinh tế nói chung,
KH&CNDD nói riêng thì không thể thực hiện được. Trên thực tế, các loại vật
chất, trang thiết bị cần thiết cho việc tiến hành chiến tranh hay các hoạt động
quốc phòng đều được cung cấp từ phía nền kinh tế trên cơ sở trình độ phát
triển của LLSX và tính chất của QHSX, đúng như Ph.Ăngghen đã viết:
“Không có gì lại phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế hơn là chính ngay
quân đội và hạm đội. Vũ trang, biên chế, tổ chức, chiến thuật, chiến lược phụ
thuộc trước hết vào trình độ sản xuất đạt được trong một thời điểm nhất định
và vào phương tiện lưu thông”[3, tr.235]. Tuy nhiên, một mặt, do các nhu
cầu vật chất, gắn liền với nó là các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cần thiết cho
việc tiến hành chiến tranh hay các hoạt động quốc phòng rất đa dạng. Cho
nên, mỗi ngành, lĩnh vực của nền kinh tế chỉ có thể tham gia đáp ứng các
nhu cầu đó ở một phạm vi nhất định, tuỳ thuộc vào khả năng, điều kiện của


×