Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHUYỂN DỊCH cơ cấu KINH tế (NGÀNH) ở lâm ĐỒNG và tác ĐỘNG của nó đến xây DỰNG KHU vực PHÒNG THỦ TỈNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.86 KB, 116 trang )

BẢNG NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa tư bản
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Cơ cấu kinh tế
Khu vực phòng thủ
Quân sự- quốc phòng
Lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất
Xã hội chủ nghĩa
Tư bản tư nhân
Tư bản nhà nước

Chữ viết tắt
CNXH
CNTB
CNH, HĐH
CCKT
KVPT
QS- QP
LLSX
QHSX
XHCN
TBTN
TBNN


2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................
3
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU KINH TẾ NGÀNH Ở LÂM ĐỒNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN
XÂY DỰNG KHU VỰC PHÒNG THỦ TỈNH................................................
7
1.1. Cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công
nghiệp

hoá,

hiện

đại

hoá.

7
1.2. Cơ sở thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Lâm Đồng
hiện

nay.
34

1.3. Thực trạng tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Lâm Đồng
đến

xây


dựng

khu

vực

phòng

thủ

tỉnh

hiện

nay.

Chương 2. ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐẨY
MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH Ở LÂM ĐỒNG GẮN
VỚI XÂY DỰNG KHU VỰC PHÒNG THỦ TỈNH ............................................
62
2.1. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh Lâm Đồng gắn
với tăng cường xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh từ nay đến năm 2020.
...............................................................................................................
62
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành ở Lâm Đồng gắn với xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh hiện nay.
...............................................................................................................
75



3

KẾT LUẬN..........................................................................................................
85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................
87
PHỤLỤC


4

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, hiện đại, hiệu quả là vấn
đề có tính quy luật trong sự phát triển của mọi nền sản xuất xã hội. Đây là một
nội dung quan trọng của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và của tỉnh
Lâm Đồng nói riêng. Mục đích là chuyển dịch từ một CCKT kém năng động,
hiệu quả thấp sang một cơ cấu kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Xây dựng
CCKT hợp lý sẽ làm cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững hơn, mở ra
điều kiện khai thác tối đa các nguồn lực, tiềm năng, thế mạnh của các ngành,
vùng và các thành phần kinh tế phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực
hiện thắng lợi mục tiêu: “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới có những biến đổi sâu sắc,
việc xây dựng CCKT của mỗi quốc gia, dân tộc không những phải căn cứ vào
các yếu tố trong nước, mà còn phải tính đến cả các yếu tố bên ngoài, đặc biệt là
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Xu thế này đòi hỏi mỗi quốc gia phải chủ động
phát huy lợi thế cạnh tranh trong quá trình hợp tác và phát triển.
Là một trong 5 tỉnh khu vực miền Trung- Tây Nguyên, Lâm Đồng có vị trí
quan trọng trong phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng của khu vực nam Tây
nguyên và cả nước. Những năm qua, dưới ánh sáng đường lối đổi mới do Đảng ta

khởi xướng và lãnh đạo. Cùng với cả nước, tỉnh đã đạt được những thành tựu
quan trọng trong phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng- an ninh .
Tuy nhiên, do điều kiện vị trí địa lý, điểm xuất phát thấp, kinh tế về
cơ bản là nông nghiệp và du lịch- dịch vụ; thị trường chưa phát triển; các
nguồn lực mới được khai thác bước đầu. Do đó, Lâm Đồng hiện nay vẫn là
một trong những tỉnh nghèo của cả nước. Đời sống một bộ phận nhân dân
trong tỉnh nhất là đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít
người còn gặp nhiều khó khăn; tiềm năng và thế mạnh của tỉnh chưa được


5

khai thác và sử dụng hiệu quả. Bên cạnh đó, tình hình an ninh - chính trị
trên địa bàn tỉnh vẫn diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch thường xuyên
lợi dụng chính sách dân tộc, tôn giáo kích động đồng bào các dân tộc
chống phá chính quyền, xuyên tạc quan điểm và chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước.
Để phấn đấu thoát khỏi tình trạng một tỉnh nghèo, đẩy nhanh nhịp độ tăng
trưởng kinh tế, khai thác tốt những thế mạnh và tiềm năng hiện có, đòi hỏi tỉnh phải
giải quyết nhiều vấn đề, trên tất cả các lĩnh vực : Kinh tế, Chính trị, Văn hoá- xã hội
và Quốc phòng- an ninh…trong đó có chuyển dịch CCKT. Đặc biệt, chuyển dịch
CCKT ngành là nội dung rất quan trọng để phát triển nhanh chóng kinh tế của tỉnh.
Kinh tế với quốc phòng có mối quan hệ biện chứng nhau. Cũng như vậy,
chuyển dịch CCKT (ngành) ở tỉnh Lâm Đồng có ảnh hưởng rất sâu sắc đến
nhiệm vụ xây dựng KVPT tỉnh và ngược lại, xây dựng KVPT tỉnh vững chắc sẽ
tạo ra môi trường ổn định cho kinh tế của địa phương phát triển. Vì vậy, việc
nghiên cứu chuyển dịch CCKT ngành ở Lâm Đồng và tác động của nó đến xây
dựng KVPT tỉnh có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết cả trên phương diện lý
luận và thực tiễn, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
nhằm xác định đúng đắn mục tiêu, phương hướng, tỷ trọng, hình thức và biện

pháp chuyển dịch CCKT ngành, đồng thời gắn quá trình đó với xây dựng KVPT
tỉnh. Với ý nghĩa như vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
(ngành) ở Lâm Đồng và tác động của nó đến xây dựng khu vực phòng thủ
tỉnh hiện nay” làm luận văn cao học, nhằm góp phần vào sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng- an ninh của tỉnh Lâm Đồng.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề chuyển dịch CCKT nói chung và CCKT ngành nói riêng theo
hướng CNH. HĐH từ lâu đã thu hút sự quan tâm, đầu tư nghiên cứu của các tác
giả trong và ngoài quân đội. Trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, nhất là


6

văn kiện các kỳ Đại hội và các Hội nghị chuyên đề của Ban chấp hành Trung
ương Đảng, quan điểm chung về chuyển dịch CCKT ngành đã được nhiều lần đề
cập ở các mức độ khác nhau. Một số công trình nghiên cứu về CNH, HĐH đã
giành một phần nội dung trình bày về vấn đề chuyển dịch CCKT ngành, trong đó
một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá trình
CNH đã được phân tích. Tuỳ theo từng góc độ và phạm vi đề tài, các công trình
nghiên cứu của họ có thể được in thành sách, những bài hội thảo khoa học, các
luận văn, luận án hoặc đăng ở các tạp chí Trung ương và Địa phương. Một số
công trình khoa học đã được công bố, tập trung nghiên cứu trên một số khía cạnh
như sau:
- Bùi Tất Thắng, Lê Bộ Lĩnh, Nguyễn Ngọc Quang, Phan Sỹ Mẫn, Cù Chí
Lợi, các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ
CNH ở Việt Nam. Nxb Khoa học- xã hội, Hà Nội- 1997. Trong nội dung cuốn
sách này, các tác giả tập trung phân tích một số nhân tố tác động đến chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế như: môi trường quốc tế, lợi thế so sánh của các nguồn lực
trong nước, sự hình thành của cơ chế thị trường và chức năng kinh tế của Nhà
nước. Đồng thời, phản ánh những đặc điểm cơ bản, đặc thù, hiện trạng kinh tế

Việt Nam- một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Việc nêu lên những
đặc điểm này cho phép cách nhìn nhận các vấn đề rõ nét hơn, trong đó có các
chính sách chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ CNH ở nước ta. Tuy
nhiên, những vấn đề nêu trên chưa bao quát đầy đủ những khía cạnh và nội dung
của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, nhất là trong điều kiện nước ta đang mở
rộng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Bên cạnh đó, vấn đề mà các tác giả nghiên
cứu chỉ riêng trong lĩnh vực kinh tế mà chưa gắn kết với nhiệm vụ quốc phòng.
- Lê Du Phong, Nguyễn Thành Độ, chuyển dịch CCKT trong điều kiện hội
nhập với khu vực và thế giới, Nxb CTQG, Hà Nội- 1999. Nội dung cuốn sách đề
cập tương đối hệ thống vấn đề chuyển dịch CCKT nói chung trong điều kiện hội


7

nhập kinh tế quốc tế ở nước ta, phạm vi nghiên cứu rộng, có tính chất khái quát.
Trong đó, đặc biệt là làm rõ những nhân tố tác động đến quá trình chuyển dịch
CCKT cũng như những yêu cầu cơ bản trong điều kiện hội nhập. Vấn đề đi sâu
nghiên cứu kinh tế ngành chỉ được đề cập ở một số góc độ nhất định, chứ chưa
mang tính toàn diện. Đặc biệt là chưa đề cập tới vấn đề xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, chiến tranh nhân dân hay xây dựng KVPT. Tuy vậy, cuốn sách có tính
cập nhật, sát thực với điều kiện hiện nay ở nước ta.
- Lê Minh Vụ, Phát triển kinh tế nông thôn hàng hoá và tác động của
nó đối với nhiệm vụ xây dung lực lượng vũ trang hiện nay. Luận án TS, Học
viện Chính trị- Quân sự. Trong phạm vi luận án này, tác giả tập trung làm rõ
những quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề nông nghiệp, nông
thôn và nông dân trong thời kỳ quá độ lên CNXH, làm rõ thực trạng, những
vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn trong điều kiện
đổi mới cơ chế kinh tế, phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, đề cập khái quát yêu cầu chuyển dịch CCKT nói chung để phát
triển kinh tế nông thôn đa dạng, hiệu quả. Đồng thời, bàn đến sự tác động của

quá trình đó đối với nhiệm vụ xây dựng LLVT nói chung. Tuy nhiên, vấn đề
chuyển dịch CCKT ngành chưa đề cập chi tiết và cụ thể do mục đích và phạm
vi mà tác giả nghiên cứu.
- Vũ Văn Long, Xây dựng CCKT mới và vai trò của nó đối với củng cố
quốc phòng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Luận án TS, Học
viện Chính trị- Quân sự. Hà Nội- 1996. Trong luận án này, tác giả nghiên cứu
nội dung chuyển dịch CCKT nói chung, làm rõ tính quy luật của quá trình
hình thành CCKT mới ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH và dự báo
xu hướng vận động của CCKT trong những năm trước mắt (đến năm 2000).
Trên cơ sở đó, phân tích tác động của quá trình chuyển dịch CCKT với nhiệm
vụ củng cố quốc phòng và vai trò của quân đội nhân dân Việt nam trong xây


8

dựng CCKT. Như vậy, phạm vi mà tác giả đề cập rộng hơn, chứ không đi sâu
nghiên cứu chuyển dịch CCKT trong phạm vi một tỉnh, trong đó chuyển dịch
CCKT ngành không được đề cập kỹ trong luận án.
- Đào Văn Dụng, Chuyển dịch CCKT (Ngành, vùng) theo hướng CNH,
HĐH ở Tỉnh Hà Tây và tác động của nó đến xây dựng KVPT tỉnh trong giai
đoạn hiện nay. Luận văn cao học, khoa học kinh tế chính trị, Học viện Chính
trị- Quân sự, Hà Nội 2000. Trong luận văn này, tác giả đi sâu nghiên cứu cơ
sở lý luận và thực tiễn của chuyển dịch CCKT ngành, vùng trên địa bàn tỉnh
Hà Tây- Một tỉnh trung du, miền núi phía bắc, đánh giá thực trạng và đề ra
các giải pháp gắn với xây dựng KVPT tỉnh Hà Tây. Tuy nhiên, việc nghiên
cứu chuyển dịch CCKT ngành như một chủ đề độc lập thì chưa được đề cập.
Đặc biệt việc làm rõ mối quan hệ giữa quá trình chuyển dịch CCKT ngành
với xây dựng KVPT tỉnh ở một tỉnh Tây nguyên thì chưa được đề cập.
- Đinh Huy Chung, Chuyển dịch CCLĐ trên địa bàn Tỉnh Nam Định và tác
động của nó đến xây dựng KVPT Tỉnh trong điều kiện hiện nay. Luận văn cao

học, Học viện Chính trị- Quân sự, Hà Nội, 2002. Trong đó, tác giả tập trung
bàn đến vai trò và tác động của chuyển dịch CCLĐ trong quá trình CNH,
HĐH đối với phát triển kinh tế và xây dựng KVPT tỉnh Nam Định trong thời
gian tái lập tỉnh từ năm 1996 đến nay, tác giả chưa nghiên cứu chuyển dịch
CCKT, nhất là CCKT ngành kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề chuyển dịch CCLĐ là
một nội dung cần làm sáng tỏ trong quá trình chuyển dịch CCKT ngành. Bên
cạnh đó, còn có nhiều tác giả tập trung nghiên cứu phản ánh trên các tạp chí,
thời báo kinh tế… như: Phan Ngọc Mai Phương (2006) “Chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế tỉnh Thái Nguyên theo hướng CNH, HĐH” kinh tế và dự báo,
số 05, tr. 29; Nguyễn Xuân Dũng (2007) “Về giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, chuyên đề cơ sở, số 06;
Lê Thị Phương Mai (2003) “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Hà Tây”, Tạp


9

chí Cộng sản, số 7; Nguyễn Sinh Cúc (2002) “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Tạp chí Cộng sản số 32; Lê Du Phong và
Nguyễn Thành Độ (1999), “Chuyển dịch cơ cấu trong điều kiện hội nhập với
khu vực và thế giới”, Nxb CTQG, Hà nội; Hồng Vinh (1998), “ Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn”, Nxb CTQG, Hà Nội; Phạm Thị Quý (2002), “Chuyển đổi mô hình kinh
tế ở Việt Nam, thực trạng và kinh nghiệm”, Nxb CTQG, Hà Nội; Bùi Tất
Thắng (2006), “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam”, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Xuân Kiên (2006), “Cơ cấu, chính sách thu hút
đầu tư của tỉnh Lâm Đồng”. Kinh tế và dự báo, số 12, tr. 47…
Các công trình nêu trên đã đóng góp đáng kể cả trên phương diện lý luận
và thực tiễn vào quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. Tuy nhiên,
từ trước đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu có tính chất chuyên sâu một
lĩnh vực về sự tác động của chuyển dịch CCKT ngành đến xây dựng KVPT ở tỉnh

Lâm Đồng- Một tỉnh Cao nguyên, miền núi với vị trí địa lý có tính chất đặc thù,
chính thực tế này, đang đặt ra những vấn đề cần được nghiên cứu để làm sáng rõ
những mặt tích cực cùng những mặt hạn chế trong quá trình chuyển dịch CCKT
ngành. Từ đó, làm cơ sở đề xuất một số giải pháp để thực hiện thành công quá
trình chuyển dịch CCKT ngành gắn với xây dựng KVPT tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn chuyển dịch CCKT
ngành ở Lâm Đồng và tác động của nó đến xây dựng KVPT tỉnh hiện nay.
Trên cơ sở đó, trình bày định hướng phát triển, đề xuất một số giải pháp cơ
bản nhằm đẩy mạnh chuyển dịch CCKT (ngành) gắn với tăng cường xây
dựng KVPT trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
*Nhiệm vụ


10

1- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của chuyển dịch CCKT
ngành trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng và sự tác động của quá trình đó đến xây
dựng KVPT tỉnh hiện nay.
2- Khảo sát thực trạng tác động chuyển dịch CCKT ngành ở Lâm Đồng
đến xây dựng KVPT tỉnh.
3- Nêu định hướng, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy quá
trình chuyển dịch CCKT ngành ở Lâm Đồng gắn với xây dựng KVPT tỉnh
trong thời gian tới.
4. Giới hạn của đề tài
Chuyển dịch CCKT là vấn đề rộng lớn, phức tạp bao gồm cả chuyển
dịch CCKT ngành, CCKT vùng, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu kỹ thuật,
cơ cấu lao động…Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn cao học, tác giả chỉ
tập trung bàn về chuyển dịch CCKT ngành ở Lâm Đồng và tác động của quá
trình đó đến xây dựng KVPT trên địa bàn tỉnh hiện nay.

Thời gian khảo sát từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; chủ trương và đường lối Kinh tế - Chính trị - Quân sự của Đảng cộng
sản Việt nam. Đồng thời có tham khảo các công trình nghiên cứu, bài viết của các
nhà khoa học liên quan đến chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH nền kinh tế
quốc dân. Đồng thời bám sát Nghị quyết và các văn bản của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân, Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, sở Công nghiệp, sở
Văn hoá- Thể thao- Du Lịch và Bộ chỉ huy quân sự Tỉnh Lâm Đồng.
- Luận văn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp hệ thống; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; thống kê, so sánh
cùng một số phương pháp khác đang được vận dụng trong nghiên cứu môn khoa học
kinh tế.
6. Ý nghĩa của luận văn


11

- Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn
về chuyển dịch CCKT ngành ở Lâm Đồng gắn với nhiệm vụ xây dựng KVPT
tỉnh.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong các học viện, nhà
trường quân đội, phục vụ cán bộ lãnh đạo địa phương tỉnh Lâm Đồng và
những độc giả quan tâm đến vấn đề chuyển dịch CCKT ngành.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm có phần mở đầu, hai chương(4 tiết), kết luận, các phụ lục và danh
mục tài liệu tham khảo.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH

CƠ CẤU KINH TẾ ( NGÀNH) VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN XÂY
DỰNG KHU VỰC PHÒNG THỦ TỈNH
1.1. Cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tác động của nó đến xây dựng khu vực
phòng thủ tỉnh
1.1.1. Khái niệm và sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
1.1.1.1. Khái niệm chuyển dịch CCKT ngành
Sự phù hợp của QHSX với tính chất, trình độ phát triển LLSX vừa là
qui luật chung, vừa là động lực thúc đẩy nền kinh tế của mọi quốc gia phát
triển. Nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp
kém lại bị tàn phá nặng nề của chiến tranh, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn TBCN. Vì vậy, để xây dựng thành công CNXH, Đảng ta xác định:
“Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức”[1,tr.186]. Trong


12

những năm trước mắt (2006-2010) nhiệm vụ chủ yếu đặt ra là, giải phóng và
phát triển mạnh mẽ LLSX, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực tạo bước đột
phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế[2, tr. 186]. Như
vậy, điều đó cũng có nghĩa là, phải tạo lập mối quan hệ đồng bộ, hợp lý giữa các
bộ phận cấu thành nền kinh tế nước ta, phải cân đối sự phát triển giữa các ngành,
các thành phần, các vùng kinh tế và phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội từng địa phương, từng vùng, theo hướng khai thác có hiệu quả
tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương cũng như trên phạm vi cả nước.
Nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm phát triển
LLSX, đưa tới sự thay đổi về mặt kỹ thuật- công nghệ trong toàn bộ nền
kinh tế theo hướng hiện đại, đồng thời xây dựng một CCKT hợp lý, cho
phép khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng trong nước và quốc tế, qua đó
củng cố, hoàn thiện QHSX mới theo định hướng XHCN. Do đó, chuyển

dịch CCKT ngành trong quá trình CNH, HĐH đòi hỏi hoạt động nổ lực,
chủ động, có kế hoạch của Nhà nước và nhân dân lao động để thúc đẩy quá
trình CNH, HĐH và phát triển kinh tế - xã hội.
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu
rộng đối với tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới trong đó có nước ta.
CNH, HĐH nhằm trang bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại cho nền
kinh tế; Đồng thời, chuyển dịch CCKT từ phiến diện, lạc hậu, ít hiệu quả
sang CCKT đa dạng, năng động và hiệu quả cao. Đó là cơ cấu kinh tế theo
mô hình công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công lao động
và hợp tác quốc tế sâu rộng. Tuy nhiên, điều đó phải xuất phát từ điều kiện
cụ thể ở mỗi địa phương mà đề ra mục tiêu, phương hướng và cách thức
chuyển dịch cho phù hợp.
CCKT ngành, là tổng thể các ngành kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng
của chúng, cùng mối quan hệ hữu cơ giữa các ngành đó trong nền kinh tế quốc


13

dân. Nó phản ánh mối quan hệ tỷ lệ về số lượng và chất lượng giữa các ngành
cấu thành nền kinh tế và có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự thay đổi cấu trúc và
mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành tiến đến một cơ cấu hiện đại, hợp lý chính là sự
chuyển dịch CCKT ngành theo hướng CNH, HĐH. Đây không chỉ đơn thuần là
sự thay đổi vị trí, mà là sự biến đổi cả về chất lượng và số lượng giữa các ngành.
Sự chuyển dịch CCKT ngành thực chất là sự điều chỉnh lại cơ cấu, tỷ trọng giữa
các ngành nhằm hướng đến thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đã xác định.
Nội dung của chuyển dịch CCKT ngành theo hướng CNH, HĐH đòi hỏi phải
kết hợp được cả yếu tố khách quan và chủ quan nhằm hình thành một cơ cấu
kinh tế ngành hợp lý, đưa nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững. Thiếu sự kết
hợp nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan đều làm chậm quá trình phát triển
nền kinh tế nước ta.

Về lý luận cũng như thực tiễn chuyển dịch CCKT ngành, trên những
góc độ tiếp cận khác nhau tất yếu có những nhận thức khác nhau. Có quan
niệm cho rằng, chuyển dịch CCKT ngành trong quá trình CNH, HĐH là quá
trình làm thay đổi cấu trúc và các mối liên hệ giữa các ngành kinh tế theo yêu
cầu của CCKT. Đó là quan điểm đúng, vì nó chỉ ra đặc trưng cốt lõi của quá
trình chuyển dịch CCKT ngành là quá trình làm thay đổi cấu trúc và các mối
quan hệ của các ngành trong nền kinh tế. Đồng thời, chỉ ra mối quan hệ giữa
CCKT ngành với CCKT. Song quan điểm trên chưa đầy đủ, bởi chưa bao
quát được nội hàm của quá trình chuyển dịch CCKT với quá trình CNH,
HĐH, quan niệm đó dẫn đến cách hiểu chuyển dịch CCKT ngành là nội dung
của chuyển dịch CCKT nói chung, diễn ra một cách tự phát và phụ thuộc vào
chuyển dịch CCKT. Nghĩa là chuyển dịch CCKT đến đâu thì chuyển dịch
CCKT ngành đến đó, do đó chưa thấy được tính độc lập tương đối và sự tác
động trở lại của chuyển dịch CCKT ngành đối với chuyển dịch CCKT. CCKT
nói chung được tạo bởi hai mặt lao động; kỹ thuật - công nghệ. Trong thực tế,


14

có khi chuyển dịch CCKT diễn ra mạnh mẽ do các yếu tố vật chất - kỹ thuật
công nghệ tăng lên tuyệt đối, nhưng vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể về sự
chuyển dịch của các ngành kinh tế và tỷ trọng giữa các ngành đó. Vì vậy, sự
chuyển dịch CCKT ngành trong nhiều trường hợp chưa rõ nét. Điều này dễ
nhận thấy trong các ngành, nhất là ngành nông nghiệp, nông thôn ở nhiều tỉnh
trong thời gian qua. Ngược lại, có trường hợp chuyển dịch CCKT ngành lại
diễn ra một cách đồng bộ với chuyển dịch CCKT làm thúc đẩy quá trình
chuyển dịch CCKT, nên cách hiểu trên cũng chưa thấy được vai trò tích cực,
chủ động của nhân tố chủ quan con người trong quá trình đó. Mặt khác, quan
niệm trên cũng chưa thấy được nội dung, yêu cầu của chuyển dịch CCKT
ngành trong điều kiện đất nước đẩy mạnh CNH, HĐH. Bởi lẽ, trong quá trình

đẩy mạnh CNH, HĐH chuyển dịch CCKT ngành không chỉ có mối quan hệ
chặt chẽ với CCKT mà còn có quan hệ chặt chẽ với quá trình đổi mới khoa
học- công nghệ. Như vậy, quan niệm trên cũng mới chỉ thấy được sự thay đổi
cấu trúc về mặt số lượng, chưa thấy được sự thay đổi về mặt chất lượng của
các ngành. Bên cạnh đó cũng cần thấy rằng, chuyển dịch CCKT ngành bao
giờ cũng nhằm mục đích nhất định và thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Do đó, để quá trình chuyển dịch CCKT ngành đạt hiệu quả cao, đòi hỏi phải
có sự kết hợp nỗ lực chủ quan của chủ thể trên cơ sở nhận thức đúng đắn quy luật
khách quan và điều kiện cụ thể của hoàn cảnh chi phối. Như vậy, với những điều
kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia, từng địa phương ở mỗi thời kỳ lịch sử khác
nhau, nội hàm của quá trình chuyển dịch CCKT ngành cũng không giống nhau.
Qua phân tích các quan niệm nêu trên, cho phép khẳng định: nội hàm của
quá trình chuyển dịch CCKT ngành theo hướng CNH, HĐH là quá trình sắp xếp,
bố trí lại số lượng, chất lượng cùng tỷ trọng giữa các ngành nhằm chuyển dịch
CCKT ngành từ trạng thái lạc hậu, mất cân đối, năng suất, chất lượng thấp sang
trạng thái hợp lý, năng động, hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Vì vậy, theo tác giả:


15

chuyển dịch CCKT ngành là quá trình hoạt động nỗ lực, tự giác, có tổ chức, có kế
hoạch của con người trên cơ sở vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, nhằm
làm thay đổi cấu trúc và mối quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận cấu thành CCKT
ngành trong nền kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch
vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, trên cơ sở áp dụng công nghệ, phương tiện,
phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra hiệu quả kinh tế- xã hội cao, đảm bảo cho
nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy với quan niệm trên, chuyển dịch CCKT ngành theo hướng
CNH, HĐH là quá trình tác động tự giác, có tổ chức, có kế hoạch của Đảng,
Nhà nước và Nhân dân. Đó cũng chính là quá trình kết hợp chặt chẽ giữa

nhân tố khách quan và chủ quan; trong đó nhân tố khách quan quyết định nội
dung, nhân tố chủ quan quyết định kết quả.
Chuyển dịch CCKT ngành theo hướng CNH, HĐH thực chất là quá
trình tạo sự cân đối mới về số lượng, chất lượng và tỷ trọng giữa các ngành,
các bộ phận cấu thành CCKT ngành trong nền kinh tế. Do đó, vấn đề chuyển
dịch CCKT ngành là rất rộng lớn, không chỉ diễn ra giữa các ngành mà còn
ngay trong từng ngành kinh tế.
Tác dụng của chuyển dịch CCKT ngành không chỉ đơn thuần là giảm
số lượng, tỷ trọng ở ngành này; tăng số lượng, tỷ trọng của ngành khác. Điều
quan trọng là góp phần thúc đẩy CCKT ngành theo hướng CNH, HĐH, xây
dựng một CCKT đa dạng, năng động, mở cửa, phù hợp với mô hình CNH
hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà
trong nước sản xuất có hiệu quả, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Chuyển
dịch CCKT ngành trong quá trình CNH, HĐH góp phần làm tăng số lượng,
chất lượng trong các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm tỷ trọng trong
ngành nông nghiệp. Đồng thời, tạo ra sự thay đổi lớn về chất trong cơ cấu và
trình độ phát triển ở các ngành, tạo điều kiện tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao,


16

bền vững ở các ngành, các thành phần, các vùng và trong toàn bộ nền kinh tế.
Do đó, chuyển dịch CCKT ngành còn có ý nghĩa đẩy nhanh quá trình thay thế
lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, với khoa học- kỹ thuật
công nghệ hiện đại, tạo năng suất cao. Thực hiện vừa có tính chất tuần tự các
bước cơ giới hoá, tự động hoá ở các ngành, vừa đi tắt, đón đầu những ngành,
những lĩnh vực có tính chất mũi nhọn của nền kinh tế, tạo ra động lực thúc
đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, quá
trình chuyển dịch CCKT ngành còn có tác dụng tạo việc làm, giảm thất

nghiệp, xoá đói, giảm nghèo, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tăng cường tiềm lực
quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Với ý nghĩa đó, việc chuyển dịch CCKT ngành không phải thụ động
ngồi chờ cho quá trình CNH, HĐH hoàn thành rồi mới tiến hành hoặc phụ
thuộc hoàn toàn vào chuyển dịch CCKT nói chung, mà quá trình đó phải diễn
ra đồng thời, tạo sự đồng bộ với các quá trình chuyển dịch CCKT, CNH,
HĐH, phát triển giáo dục- đào tạo và khoa học công nghệ. Do đó, quá trình
chuyển dịch đòi hỏi phải có sự phối hợp, nổ lực của mọi cấp, mọi ngành, mọi
người. Chỉ có cách tiếp cận đó mới có thể thực hiện được mục tiêu mà Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X đề ra, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Trong CCKT nói chung, CCKT ngành giữ vai trò quan trọng nhất.
Chuyển dịch CCKT ngành và chuyển dịch CCKT tuy không hoàn toàn trùng
hợp, song về nội dung có những điểm giống nhau. Về thực chất, là phân công
lại lao động, làm thay đổi cấu trúc bên trong giữa các ngành và trong từng
ngành, làm thay đổi tỷ trọng giữa các bộ phận cấu thành CCKT. Tuy nhiên,
chuyển dịch CCKT ngành nói chung là phản ánh sự phát triển LLSX và sự


17

biến đổi giữa các ngành hay cơ cấu ngành ở tất cả các quốc gia, kể cả quốc
gia có nền kinh tế phát triển hay chưa phát triển; còn chuyển dịch CCKT
ngành trong thời kỳ CNH, HĐH phản ánh sự phát triển của LLSX và QHSX ở
các quốc gia đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH.
Chuyển dịch CCKT ngành theo hướng CNH,HĐH ở nước ta vừa là kết
quả của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nhưng lại vừa là nhân tố tích cực
thúc đẩy quá trình đó, góp phần đưa nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát
triển bền vững. Đây là vấn đề có tính qui luật của các quốc gia đi từ nền sản

xuất nhỏ lên sản xuất lớn và đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH.
Lâm Đồng đang cùng cả nước đẩy mạnh CNH, HĐH. Những năm qua,
việc chuyển dịch CCKT nói chung và chuyển dịch CCKT ngành nói riêng đã
đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên nhìn tổng thể, kết quả đạt
được chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của tỉnh, tốc độ chuyển
dịch CCKT ngành còn diễn ra chậm.
Từ những bài học kinh nghiệm thành công và chưa thành công, Đại hội
Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ VIII, nhiệm kỳ (2006- 2010) xác định “Tiếp
tục đổi mới toàn diện, tạo bước đột phá, tăng tốc phát triển kinh tế, nâng cao
đời sống mọi mặt của nhân dân, đưa Lâm Đồng thoát khỏi tình trạng chậm
phát triển…đầu tư phát triển ngành du lich- dịch vụ trở thành ngành kinh tế
động lực; đầu tư công nghiệp chế biến và những lĩnh vực công nghiệp có lợi
thế; phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao gắn với công nghiệp chế
biến và xuất khẩu, phấn đấu tạo ra bước chuyển dịch tích cực về CCKT theo
hướng CNH, HĐH” [3, tr. 42]. Như vậy có nghĩa là quá trình chuyển dịch
CCKT ngành ở tỉnh Lâm Đồng luôn gắn bó chặt chẽ với quá trình CNH,
HĐH và không thể nằm ngoài quá trình CNH, HĐH.
1.1.1.2. Sự cần thiết chuyển dịch CCKT ngành theo hướng CNH, HĐH


18

Chuyển dịch CCKT ngành “ là một trong những nội dung chủ yếu của
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Nó phản ánh trình độ, tính chất và hiệu
quả của sự phát triển”[4, tr.3] Với ý nghĩa đó, chuyển dịch CCKT ngành
theo hướng CNH, HĐH trên phạm vi cả nước nói chung và tỉnh Lâm Đồng
nói riêng diễn ra là một tất yếu khách quan, bắt nguồn từ những lý do sau đây:
Thứ nhất, do yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH
Đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm đổi mới, nâng cao trình độ khoa học, kỹ
thuật- công nghệ theo hướng hiện đại, đồng thời xây dựng một CCKT hợp lý

theo hướng tăng tỷ trọng ở các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng
ngành nông nghiệp. Quá trình đó, một mặt làm giảm số lượng và quy mô ngành
nông nghiệp. Mặt khác, làm tăng quy mô, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch
vụ, du lịch. Theo đó, cơ cấu vùng, cơ cấu khoa học- công nghệ, cơ cấu lao động
cũng chuyển dịch theo. Bởi lẽ, quá trình CNH, HĐH bao hàm cả sự thay thế lao
động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, với phương thức, phương tiện
tiên tiến, hiện đại, tạo năng suất cao. Từ thực tế đó, đòi hỏi tất yếu phải chuyển
dịch CCKT ngành theo hướng hiện đại mới có thể triển khai thành công quá
trình CNH, HĐH, thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, từng bước chuyển
sang nền kinh tế tri thức.
Thứ hai, do yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
Kinh tế thị trường là hình thức kinh tế tiến bộ, là trình độ phát triển cao
của kinh tế hàng hoá. Kinh tế tri thức được vận hành cả ở chế độ TBCN và
XHCN, là thành tựu chung của nhân loại. Kinh tế thị trường, đòi hỏi phải phát
huy tính năng động, sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh mới có thể tạo
ra các sản phẩm hàng hoá có số lượng nhiều, chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu
trong nước và nước ngoài. Theo đó, các ngành nghề trong nền kinh tế cũng được
chuyển dịch theo hướng hiện đại nhằm nâng dần quy mô và tỷ trọng để khai thác
tốt nhất lợi thế ngành, vùng, khoa học - công nghệ và nguồn lao động. Phát triển


19

kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm tạo sự phát triển cân đối giữa các
ngành, vùng, phát huy lợi thế làm cho kinh tế phát triển nhanh, bền vững, đồng
thời khắc phục những khuyết tật của thị trường và cơ chế thị trường. Trong đó
tăng cường hơn nữa vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, chuyển dịch CCKT ngành sẽ được chuyển
dịch về số lượng, chất lượng giữa các ngành góp phần duy trì sự ổn định và tăng

trưởng nhanh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .
Thứ ba, xuất phát từ thực tiễn chuyển dịch CCKT ngành theo hướng
CNH, HĐH ở tỉnh Lâm Đồng những năm qua.
Thực tiễn ở nước ta, các tỉnh có tiềm năng để phát triển cùng một lúc
ngành du lịch, ngành lâm nghiệp và ngành nông nghiệp, đặc biệt là nông
nghiệp công nghệ cao chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Lâm Đồng là một
trong những tỉnh có lợi thế đó. Nói đến Lâm Đồng là nói đến tiềm năng phát
triển ngành du lịch, ngành lâm nghiệp, ngành nông nghiệp, trong đó rau và
hoa là nổi tiếng nhất. Rau, Hoa ở Lâm Đồng không chỉ có mặt trên thị trường
trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Ngoài ra, Lâm Đồng còn có
nhiều tiềm năng và thế mạnh khác để phát triển ngành công nghiệp khai thác,
chế biến khoáng sản, thuỷ điện (nhất là thuỷ điện vừa và nhỏ) và ngành chăn
nuôi. Mặc dù có những tiến bộ, song so với cả nước Lâm Đồng vẫn là tỉnh
nghèo, tốc độ chuyển dịch CCKT và CCKT ngành còn chậm, tăng trưởng
kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của địa phương.
Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ VII nhiệm kỳ
(2006-2010) đánh giá “ Quy mô kinh tế còn nhỏ, chất lượng tăng trưởng,
hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; CCKT chủ yếu vẫn là sản xuất nông
nghiệp chưa chuyển được theo hướng dịch vụ, chưa phát huy hết lợi thế
so sánh trong từng ngành, từng địa bàn…sản xuất nông nghiệp chưa phát


20

triển toàn diện, còn mang tính tự phát, công nghệ chế biến sau thu hoạch
phát triển chậm, các cơ sở công nghiệp có quy mô nhỏ, thiết bị lạc hậu,
trình độ quản lý còn hạn chế. Du lịch là thế mạnh nhưng phát triển chưa
tương xứng, chủ yếu mới khai thác các di tích và cảnh quan thiên nhiên
nhiên sẵn có, kém hấp dẫn” [5, tr. 30]. Do đó, chuyển dịch CCKT ngành
ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay là nhiệm vụ vừa mang tính cấp thiết vừa có

tính lâu dài để khai thác, phát huy các thế mạnh và tiềm năng của địa
phương phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng- an ninh.
Thứ tư, do yêu cầu tăng cường sức mạnh xây dựng KVPT tỉnh
Lâm Đồng là tỉnh nằm ở phía Nam Tây Nguyên, nếu xét dưới góc độ
kinh tế thuộc vùng Đông Nam bộ. Xét ở góc độ quân sự, tỉnh có vị trí chiến
lược trên địa bàn Tây Nguyên và liên hoàn với các tỉnh ven biển miền trung.
Với ý nghĩa đó, Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ VII, nhiệm kỳ (20062010) xác định “ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân
dân vững chắc gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; tập trung vào các
vấn đề nhạy cảm, khu vực trọng điểm..” [6, tr. 39].
Thực hiện yêu cầu đó, việc tăng cường sức mạnh KVPT tỉnh ở Lâm
Đồng phải đồng thời với việc nâng cao sức mạnh các nhân tố chính trị - tinh
thần, kinh tế, văn hoá- xã hội và quân sự. Trong đó, chuyển dịch CCKT
ngành là một nhiệm vụ quan trọng nhằm tạo ra tiềm lực kinh tế - chính trị
cho xây dựng KVPT tỉnh, tạo sự cân đối mới về số lượng, chất lượng, tỷ trọng
giữa các ngành, phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, thúc đẩy kinh tế
phát triển bền vững, tăng cường ổn định chính trị - xã hội, củng cố lòng tin
của nhân dân, tạo nguồn lực cho xây dựng KVPT tỉnh.
1.1.2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.2.1. Nội dung chuyển dịch CCKT nói chung


21

Cơ cấu kinh tế nói chung bao gồm: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu
thành phần, cơ cấu lao động và cơ cấu khoa học- công nghệ. Như vậy, cơ cấu
kinh tế là một phạm trù rộng lớn, phức tạp. Chỉ riêng về cơ cấu ngành kinh
tế, khi nghiên cứu người ta chỉ thường phân tích theo 3 nhóm ngành chính là:
- Nhóm ngành nông nghiệp: bao gồm các ngành nông – lâm- ngư nghiệp
- Nhóm ngành công nghiệp: bao gồm ngành công nghiệp và xây dựng

- Nhóm ngành dịch vụ: bao gồm thương mại, bưu điện và du lịch
Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố
hợp thành nó không cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc sự
thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần do sự xuất
hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố
cấu thành CCKT là không đồng đều. Việc chuyển dịch CCKT phải dựa trên
một CCKT hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch CCKT là cải tạo cơ cấu
cũ, lạc hậu, chưa hợp lý để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ
sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp
hơn”[7, tr. 15].
Như vậy, xét về nội dung chuyển dịch CCKT nói chung và CCKT
ngành nói riêng, tuỳ từng điều kiện cụ thể, mỗi nước đề ra nội dung chuyển
dịch CCKT khác nhau. Với nước ta, theo quan điểm của Đảng, điểm mấu
chốt trong chuyển dịch CCKT những năm trước mắt là tạo sự chuyển dịch
thật sự CCKT nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển nông - lâm - ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới, đó chính là
cơ sở để xoá đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, đảm bảo
cho tính bền vững của quá trình CNH, HĐH. Cùng với chuyển dịch CCKT
nông nghiệp, nông thôn, phải tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp, mở rộng
kinh tế dịch vụ, phát triển công nghiệp chế biến và công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu. Phát triển có lựa chọn một số ngành sản xuất tư liệu sản


22

xuất, khai thác chế biến khoáng sản, trước hết là các ngành sản xuất tư liệu sản
xuất cho nông nghiệp - lâm nghiệp và ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu.
Việc xây dựng CCKT trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta chính là quá
trình chuyển dịch sang một CCKT năng động, hiệu quả cao. Theo đó, kết thúc

thời kỳ quá độ phải hình thành một nền kinh tế công nghiệp hiện đại với CCKT
công nghiệp- nông nghiệp và dịch vụ gắn với phân công lao động và hợp tác quốc
tế.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã định hướng những
nội dung chuyển dịch CCKT trên những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân. Theo đó, hiện nay
và những năm tới phải coi vấn đề nông nghiệp nông thôn và nông dân có tầm
chiến lược đặc biệt quan trọng.
Hai là, phát triển nhanh công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao
chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hoá.
Ba là, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại.
Bốn là, tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ
Năm là, tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh
tế đối ngoại. [8, tr. 190, 204].
1.1.2.2. Nội dung chuyển dịch CCKT ngành theo hướng CNH, HĐH
Trên cơ sở nội dung Đại hội X nêu trên, tỉnh Lâm Đồng cũng chuyển
dịch theo hướng đó. Tuy nhiên, sự chuyển dịch CCKT ngành ở Lâm Đồng có
những nét riêng, được quy định bởi điều kiện địa lý, khí hậu, lịch sử, tài
nguyên nhân văn của tỉnh để phát triển những ngành có tính chất mũi nhọn
mà các địa phương khác không có như : du lịch- dịch vụ, lâm nghiệp, công
nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản…Quá trình chuyển dịch phải đảm bảo


23

sự cân đối, phù hợp giữa các ngành bảo đảm tính ổn định có hiệu quả kinh tế xã hội cao, gắn kết chặt chẽ giữa quá trình chuyển dịch CCKT với nhiệm vụ,
nội dung xây dựng KVPT tỉnh; gắn nội dung chuyển dịch CCKT ngành của
tỉnh với khu vực và cả nước, phấn đấu đến năm 2010 ngành công nghiệp và
xây dựng chiếm tỷ trọng 25-26%; Dịch vụ chiếm 26-27%; Nông- Lâm- Thuỷ

sản chiếm 20-21%; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng chiếm 26-27%; Tổng kim
ngạch xuất khẩu phải đạt 900-950 USD; tăng bình quân hàng năm từ 14-16%;
đưa tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hằng năm từ 13- 14% [9, tr. 44]. Do
Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng đã đề ra. Cụ thể nội dung chuyển dịch đối
với từng ngành như sau:
+ Đối với ngành công nghiệp
Tập trung nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng, thu hút đầu tư vào các khu,
cụm công nghiệp; gắn phát triển công nghiệp với nông nghiệp và bảo vệ môi
trường, tạo điều kiện thu hút đầu tư thực hiện các dự án, nhất là về thuỷ điện vừa
và nhỏ; các tổ hợp khai thác...vì đó là những thế mạnh của địa phương, ưu tiên
phát triển công nghiệp chế biến có lợi thế về nguyên, vật liệu và thị trường,
khuyến khích phát triển các ngành, nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống.
+ Đối với ngành nông- lâm nghiệp
Do điều kiện khí hậu và đất đai rất thích hợp cho phát triển ngành nông
nghiệp và lâm nghiệp, vì vậy cần tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ
cao nhằm nâng cao giá trị sản phẩm trên một đơn vị diện tích. Lựa chọn một
số ngành, hàng lớn có lợi thế phát triển trên cơ sở hình thành các vùng nguyên
liệu, đầu tư thâm canh gắn với công nghiệp chế biến và sản xuất hàng xuất
khẩu, đưa nhanh các tiến bộ khoa học- công nghệ mới vào sản xuất, đặc biệt
là giống mới, công nghệ mới sau thu hoạch để nâng cao chất lượng sản phẩm,
tổng kết các mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao để nhân ra diện
rộng. Phát triển nhanh ngành chăn nuôi nhằm tăng tỷ trọng chăn nuôi trong cơ


24

cấu sản xuất nông nghiệp, trong đó coi trọng phát triển chăn nuôi bò sữa và bò thịt
cao sản gắn với công nghiệp chế biến, quy hoạch các khu chăn nuôi tập trung.
Đẩy mạnh xã hội hoá nghề rừng, khuyến khích các thành phần kinh tế
trồng rừng nguyên liệu, phát triển vốn rừng hiện có. phát triển ngành nghề

tiểu, thủ công nghiệp gắn với tiêu thụ hàng hoá cho nông dân, tăng cường
công tác khuyến nông, khuyến lâm, chuyển giao khoa học- kỹ thuật làm tăng
năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh, xây dựng một số mô
hình nông thôn kiễu mẫu theo hướng CNH, HĐH.
+ Đối với ngành du lịch, dịch vụ
Đây là thế mạnh nhất của địa phương. Do đó, phải huy động tối đa
nguồn lực trong nước và nước ngoài để phát triển toàn diện ngành du lịch với
tốc độ nhanh, khai thác hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái,
truyền thống văn hoá, lịch sử. Đa dạng hoá các sản phẩm du lịch, chú trọng
phát triển các loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, hội nghị, hội thảo, tham
quan…gắn với các khu bảo tồn, vườn quốc gia, các khu danh lam, thắng cảnh,
di tích lịch sử ở địa phương.
Tập trung đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại, siêu thị tại
thành phố Đà Lạt. Đồng thời, nâng cấp hệ thống chợ trung tâm huyện, thị
trấn và các chợ nông thôn. Đa dạng hoá và có chiến lược phát triển các
ngành dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ vận tải…Đó là những nội dung
căn bản trong chuyển dịch CCKT ngành ở tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn
hiện nay và những năm tiếp theo.
Việc xác định nội dung chuyển dịch CCKT ngành ở Lâm Đồng như
trên sẽ có sự gắn kết với quá trình và nội dung chuyển dịch CCKT của đất
nước. Nội dung chuyển dịch đó thể hiện rõ nét đặc thù của một tỉnh đang đẩy
mạnh sự nghiệp CNH, HĐH. CCKT nói chung và CCKT ngành nói riêng


25

đang trong quá trình chuyển dịch sang một CCKT năng động, hiệu quả, năng
suất, chất lượng cao phù hợp với tiềm năng và thế mạnh của địa phương.
Cùng với cả nước, quá trình chuyển dịch CCKT ngành ở Lâm Đồng
trong những năm gần đây đang diễn ra theo xu hướng tiến bộ; tập trung phát

triển những ngành có ưu thế, phát triển các ngành hàng hoá chuyên canh phù
hợp với tiềm năng và lợi thế đất đai, khí hậu và tài nguyên nhân văn của một
vùng đất có khí hậu ôn đới. Gắn phát triển sản xuất hàng hoá với thị trường,
đẩy mạnh chuyển dịch CCKT nông thôn theo hướng đa dạng và toàn diện,
đầu tư phát triển và củng cố các ngành nghề truyền thống. Đẩy mạnh công tác
khuyến nông, khuyến lâm, ứng dụng mạnh mẽ khoa học- công nghệ, nâng cao
năng lực sản xuất gắn với công nghệ chế biến và tiêu thụ sản phẩm, tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Tuy nội dung chuyển dịch CCKT ngành ở tỉnh Lâm Đồng mang những
nét chung của cả nước, song cũng có những đặc thù riêng của một tỉnh miền
núi, cao nguyên. Việc xác định nội dung chuyển dịch CCKT ngành đúng đắn
sẽ trực tiếp tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội, quốc phòng- an ninh
không chỉ ở phạm vi địa phương mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của vùng và
cả nước. Do đó, chuyển dịch CCKT ngành ở tỉnh Lâm Đồng phải tiến hành theo
lộ trình thích hợp, đúng quy luật khách quan mới có thể đạt hiệu quả cao.
1.1.3. Nội dung tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến xây dựng khu vực phòng thủ
tỉnh qua thực tiễn ở Lâm Đồng
1.1.3.1. Quan điểm của Đảng ta về khu vực phòng thủ và nội dung xây
dựng khu vực phòng thủ tỉnh Lâm Đồng
Xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững chắc để bảo
vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một bộ phận quan trọng trong tư duy


×