2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đang dần chuyển sang một giai đoạn mới là xã hội tri thức,
trong đó trước hết là kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế tri thức, việc sở hữu,
phân phối, sử dụng trí lực và khả năng sáng tạo có ý nghĩa quan trọng nhất.
Theo các nhà kinh điển mác xít, lực lượng sản xuất có thể chia thành lực lượng
sản xuất vật chất và lực lượng sản xuất tinh thần. Lực lượng sản xuất tinh thần
do khoa học, do tri thức tạo nên. Khi chuyển sang nền kinh tế tri thức thì lực
lượng sản xuất tinh thần là chủ yếu và mang lại giá trị gia tăng rất cao. Vì vậy,
xã hội loài người càng phát triển thì vị trí, vai trò của trí thức ngày càng tăng.
Phát huy nguồn lực trí thức là xu thế của thời đại, là một chiến lược phát triển
của các quốc gia. Sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm “từng bước phát triển
kinh tế tri thức” [22, tr. 91] đòi hỏi phát huy hơn nữa vai trò to lớn của đội ngũ
trí thức nước ta trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trí thức KHXH-NV là một bộ phận của đội ngũ trí thức nước ta, trong
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN có vai trò quan trọng
là tổng kết thực tiễn, đi sâu nghiên cứu những vấn đề lớn của đất nước, khu
vực và toàn cầu, giải đáp những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH
và bảo vệ Tổ quốc, cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách phát triển KT-XH, xây dựng con người, phát huy những di
sản văn hoá dân tộc, sáng tạo những giá trị văn hoá mới của Việt Nam.
Trí thức KHXH-NV trong quân đội là một lực lượng đáng kể của trí
thức KHXH-NV quốc gia. Đội ngũ này, với tính cách là nguồn lực phát triển,
phải vận dụng những nhiệm vụ nêu trên vào hoàn cảnh đặc thù của mình, vừa
góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước, vừa trực tiếp hướng tới giải quyết
3
những phát triển mới của xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phù hợp với tổ chức quân sự thời
bình, làm tròn nhiệm vụ, chức năng trong mọi tình huống. Nhận thức ra, góp
phần tích cực giải quyết những phát triển mới về nhiệm vụ, về lực lượng, về
khoa học và nghệ thuật quân sự của nền quốc phòng toàn dân thì nguồn lực trí
thức KHXH-NV trong quân đội phải là lực lượng chủ lực. Vì vậy, phát huy vai
trò nguồn lực trí thức KHXH-NV trong quân đội đang là nhu cầu cấp thiết.
Quá trình phát huy vai trò nguồn lực trí thức KHXH-NV trong quân đội
đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Tuy
nhiên, nguồn lực này trong thời gian qua chưa được phát huy đầy đủ đúng với
vai trò vốn có của nó. Việc xây dựng, quản lý, sử dụng nguồn lực trí thức
KHXH-NV trong quân đội cũng còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém, gây lãng
phí, thất thoát “chất xám”. Tình hình đó đặt ra vấn đề xây dựng và phát huy vai
trò nguồn lực trí thức KHXH-NV trong quân đội hiện nay càng trở nên cấp bách.
Cho nên, nghiên cứu để góp phần xây dựng tốt hơn, quản lý và sử dụng tốt
hơn nguồn lực trí thức KHXH-NV trong quân đội có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Với những lý do trên đây, tác giả
lựa chọn vấn đề: “Phát huy vai trò nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân
văn trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về trí thức và nguồn lực trí
thức dưới những góc độ và quy mô khác nhau, liên quan đến đề tài luận án.
Có thể phân chia các công trình này thành các nhóm sau:
Nhóm vấn đề mang tính chất định hướng cho việc nghiên cứu về trí
thức và công tác trí thức có các công trình: Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp
đổi mới xây dựng đất nước của Đỗ Mười, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
4
1995; “Quan điểm và chính sách của V.I. Lênin đối với trí thức trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa” của Trịnh Quốc Tuấn, Nghiên cứu lý luận, số 4, 1995; Định
hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá
của Phạm Tất Dong (chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001 v.v..
Nhóm vấn đề nói lên vị trí, vai trò, đặc điểm, động lực sáng tạo của trí
thức trong quá trình cách mạng có các công trình: Vị trí và vai trò của tầng
lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Phạm
Việt Dũng, luận án PTS triết học, Hà Nội, 1988; Động lực của trí thức trong
lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay của Phan Thanh Khôi, luận án PTS triết
học, Hà Nội, 1992; “Vai trò trí thức trong sự nghiệp đổi mới” của Hà Học
Trạc, Khoa học và Tổ quốc, số 1, 1994 v.v..
Nhóm vấn đề về KHXH-NV và trí thức KHXH-NV trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta có các công trình: Khoa học xã hội và nhân văn, mười năm đổi
mới và phát triển của Phạm Tất Dong (chủ biên), NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1997; Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội trong công cuộc
đổi mới ở nước ta của Nguyễn An Ninh, Luận án TS triết học, Hà Nội, 1999;
“Khoa học xã hội và nhân văn với sự nghiệp đổi mới” của Nguyễn Duy Quý,
Công tác Khoa giáo, số 6, 2002 v.v...
Nhóm vấn đề về nguồn lực con người đã có các công trình: “Con người
và nguồn lực con người trong phát triển” (tài liệu dich) trung tâm KHXH-NV
Quốc gia xuất bản, Hà Nội, 1995; Vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của Phạm Minh Hạc (chủ nhiệm), NXB Chính trị Quốc
gia, Hà nội, 1996; “Suy nghĩ về xây dựng nguồn lực con người cho quân đội
trong tình hình hiện nay” của Đức Lê, Quốc phòng toàn dân, số 7, 2001 v.v..
Nhóm vấn đề về trí thức quân đội đã có các công trình: “Mấy ý kiến về
đội ngũ trí thức trong quân đội ta hiện nay”của Nguyễn Hữu An, Quốc phòng
toàn dân, số 4, 1994; “Tăng cường đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn
5
trong lực lượng vũ trang nhân dân ta” của Lê Hồng Quang, Quốc phòng toàn
dân, số 9, 1994; Phát huy nguồn lực đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự
trẻ trong xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay của Nguyễn Minh
Thắng, Luận văn thạc sỹ chủ nghĩa xã hội khoa học, Hà Nội, 2001 v.v…
Tuy nhiên, trên thực tế, dưới góc độ chủ nghĩa xã hội khoa học chưa có một
công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về phát huy vai trò
nguồn lực trí thức KHXH-NV trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án:
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát
huy vai trò nguồn lực trí thức KHXH-NV trong quân đội, đề xuất những định
hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò nguồn lực này trong giai
đoạn cách mạng mới.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về phát huy vai trò nguồn lực trí thức
KHXH-NV trong quân đội.
- Phân tích thực trạng phát huy vai trò nguồn lực trí thức KHXH-NV
trong quân đội và chỉ ra xu hướng phát triển của nguồn lực này.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò
nguồn lực trí thức KHXH-NV trong quân đội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vai trò và phát huy vai trò nguồn lực
trí thức KHXH-NV trong quân đội, chủ yếu trong các cơ quan, viện nghiên
cứu khoa học, các học viện, nhà trường của quân đội nhân dân Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Từ góc độ triết học- xã hội luận án nghiên cứu
quá trình phát huy vai trò nguồn lực trí thức KHXH-NV trong quân đội, chủ
yếu từ cuối những năm 80 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu:
6
Luận án dựa trên cơ sở hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, nguồn lực con người; các văn kiện, nghị quyết của
Đảng cộng sản Việt Nam, của Đảng uỷ quân sự Trung ương, chỉ thị của Bộ quốc
phòng về KH-CN, trí thức và công tác trí thức trong quá trình cách mạng nước ta.
Cơ sở thực tiễn của luận án là tình hình quốc tế, sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội, hoạt động KH-CN, các tư liệu tổng kết,
các công trình khoa học, các số liệu thống kê và kết quả điều tra xã hội học
của tác giả ở một số đơn vị trong và ngoài quân đội.
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu như: phân tích- tổng hợp; lôgíc- lịch sử; quy nạp, diễn dịch;
đối chiếu, so sánh; điều tra xã hội học; nghiên cứu tư liệu và thu thập thông
tin... để làm sáng tỏ góc độ chính trị -xã hội của vấn đề.
6. Cái mới về mặt khoa học của luận án:
- Luận án bước đầu khái quát khái niệm “nguồn lực trí thức KHXH-NV
trong quân đội”, chỉ ra những đặc trưng, vai trò của nó và thực chất phát huy
vai trò nguồn lực trí thức KHXH- NV trong quân đội.
- Đánh giá được tình hình hiện thực việc phát huy vai trò nguồn lực trí
thức KHXH-NV trong quân đội và dự báo xu hướng phát triển của nguồn lực
này trong những năm tới.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò
nguồn lực trí thức KHXH-NV trong quân đội ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.
- Luận án góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình
phát huy vai trò nguồn lực trí thức KHXH-NV trong quân đội hiện nay.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa
học và giảng dạy những nội dung có liên quan; góp thêm cơ sở cho việc
7
hoạch định chủ trương, biện pháp của lãnh đạo, chỉ huy các cấp để xây dựng
và phát huy vai trò nguồn lực trí thức KHXH-NV trong quân đội.
8. Kết cấu của luận án:
Luận án có 196 trang, gồm phần Mở đầu, 3 chương (6 tiết), Kết luận,
Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.
8
Chương 1
NGUỒN LỰC TRÍ THỨC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRONG QUÂN ĐỘI- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Trí thức và nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn
trong quân đội
1.1.1. Trí thức và trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong quân đội
* Trí thức.
Thuật ngữ “trí thức” được dùng ở nhiều nước trên thế giới và có nguồn
gốc từ tiếng La tinh: “Intelligentia” là trí lực, trí thức (Intelligens có nghĩa là
thông minh, hiểu biết, có trí tuệ). Thuật ngữ này trở nên thông dụng từ những
năm nửa sau của thế kỷ XIX, dùng để chỉ những người có học thức, học vấn cao.
Trong từng giai đoạn lịch sử, ở mỗi quốc gia có những quan điểm và
cách tiếp cận khác nhau về khái niệm “trí thức”. Theo Ja.Tchepanxki thì hiện
nay có đến trên 60 định nghĩa về “trí thức” [12, tr. 107-108]. Theo định nghĩa
trong Đại từ điển Bách khoa Xô viết: “Trí thức là tầng lớp xã hội của những
người làm nghề nghiệp bằng lao động trí óc, chủ yếu là lao động phức tạp,
sáng tạo, là phát triển và phổ biến văn hoá” [12, tr. 109]. Trong Từ điển Triết
học có ghi: “Trí thức- tập đoàn xã hội gồm những người làm nghề lao động trí
óc. Giới trí thức bao gồm: kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật sư, nghệ sỹ,
thầy giáo và người làm công tác khoa học, một bộ phận lớn viên chức”[103,
tr. 598]. Trong Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học viết: “Trí thức- một
nhóm xã hội bao gồm những người chuyên làm nghề lao động trí óc phức tạp
và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao động đó”[102, tr. 360].
Nhìn chung, các định nghĩa “trí thức” thường đề cập tới một số dấu
hiệu cơ bản: là một tầng lớp xã hội; lao động trí óc sáng tạo; phát triển và phổ
biến văn hoá; có trình độ học vấn cao. Tuy nhiên, không thể căn cứ một cách
9
máy móc và giản đơn vào các dấu hiệu cơ bản ấy để xác định người đó có
phải là trí thức hay không.
Trong xã hội, tuỳ theo mối quan hệ của các giai tầng với tư liệu sản xuất,
vai trò tổ chức xã hội đối với lao động mà các giai cấp, các tầng lớp xã hội có vị
trí, vai trò khác nhau. Trí thức không có quan hệ riêng và trực tiếp với sở hữu tư
liệu sản xuất và càng không đại biểu cho một phương thức sản xuất độc lập nào
cả. Cho nên, trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội. Trong
xã hội có giai cấp, trí thức với tính cách là cộng đồng- tầng lớp, luôn của một
giai cấp nhất định, mà trước hết là của giai cấp thống trị đã đào tạo ra họ, bắt họ
tiếp thu hệ tư tưởng của mình và lao động sản xuất tinh thần phụ thuộc vào sản
xuất vật chất và sức mạnh kinh tế. Cho nên, V.I. Lê nin đã từng khẳng định:
“Nếu không nhập cục với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số không
mà thôi”. [45, tr.552]. Trong từng chế độ xã hội, giai cấp thống trị muốn hoàn
thành sứ mệnh lịch sử nhất thiết phải tạo dựng cho mình một tầng lớp trí thức.
Vì vậy, chế độ xã hội Chiếm hữu Nô lệ có tầng lớp trí thức chủ nô; chế độ xã hội
Phong kiến có tầng lớp trí thức phong kiến; chế độ xã hội Tư bản chủ nghĩa có
tầng lớp trí thức tư sản; chế độ xã hội XHCN có tầng lớp trí thức vô sản.
Trí thức là người lao động trí óc, nhưng không phải người lao động
trí óc nào cũng là trí thức. “Người trí thức cũng giống như những người lao
động bình thường có mặt ở mọi nơi, mọi chốn, tham gia nhiều nghề nghiệp
khác nhau, duy chỉ có một điểm khác ở chỗ họ hướng sự nghiệp lao động
của mình chủ yếu bằng lao động trí tuệ hoặc bằng tư duy sáng tạo mang
tính chất cá thể và thường có cá tính” [12, tr. 126]. Vì vậy, họ phải là người
có trí tuệ và năng lực tư duy sáng tạo, có trình độ học vấn cao và chuyên
môn sâu nhất định. Trình độ học vấn ấy đòi hỏi tới mức nào là tuỳ thuộc
vào thời đại, vào điều kiện KT-XH và văn hoá của mỗi quốc gia, dân tộc.
Ngày nay người ta đã cơ bản thống nhất rằng, để có khả năng trở thành trí
10
thức phải có trình độ học vấn ít nhất ở bậc cao đẳng, đại học. Để có mức
học vấn này, có thể là tự học (không có bằng cấp), nhưng phần lớn là được
đào tạo từ các trường cao đẳng, đại học... và tốt nghiệp, được nhận các
bằng cấp khoa học khác nhau.
Học vấn, bằng cấp chỉ là một dấu hiệu, một điều kiện cần chứ chưa đủ
để trở thành trí thức. Vì nhiều khi bằng cấp không tương xứng với trình độ
vốn có, ngay cả những người trình độ học vấn cao với nhiều bằng cấp nhưng
vẫn không đóng vai trò của người trí thức do họ không vươn tới mức độ lao
động kiểu trí thức. Ngược lại, có những người không có bằng cấp nhưng tự
học hỏi vươn lên có được tri thức cần thiết và đảm nhiệm được nhiệm vụ của
người trí thức, tham gia lao động sáng tạo như: nghiên cứu khoa học, sáng
tác văn học- nghệ thuật, giảng dạy, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận,
nghiên cứu ứng dụng khoa học- công nghệ... nên đã trở thành trí thức, thậm
chí còn trở thành nhà trí thức lớn.
Do vậy, điều chủ yếu nhất để nói lên trí thức khác với bộ phận lao động
xã hội khác là ở kiểu lao động của họ. Đó là lao động trí óc, lao động sáng
tạo khoa học.
Lao động sáng tạo của trí thức là đi tìm bản chất và phát hiện quy luật của
sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan, đưa lại những tri thức khoa học
mới, tiến bộ và hữu ích, phổ biến và nghiên cứu ứng dụng những tri thức khoa
học vào thực tiễn để nâng cao chất lượng hoạt động mọi mặt của đời sống xã
hội, dự báo tương lai và đưa ra phương hướng, biện pháp nhằm phát triển xã hội.
Lao động sáng tạo của trí thức được thực hiện trên nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội. Sản phẩm lao động sáng tạo cũng rất đa dạng
phong phú, mang tính kế thừa nhưng không lặp lại và có giá trị xã hội. Những
sản phẩm lao động sáng tạo là những giá trị tinh thần. Nó được sáng tạo ở
trình độ tư duy lý luận, là một nấc thang mới của nhận thức mang tính khoa
11
học chứ không dừng lại ở mức kinh nghiệm, là sự phản ánh sâu sắc hơn bản
chất của sự vật, hiện tượng.
Tính xã hội hoá của lao động sáng tạo khoa học ngày càng tăng, thể
hiện ở sự phát triển nhanh về số lượng trí thức và sự hợp tác lao động khoa
học giữa trí thức của các ngành, các lĩnh vực trong phạm vi quốc gia, quốc tế
ngày càng nhiều. Thế nhưng, một trong những đặc điểm hoạt động của trí
thức vẫn không đổi, đó là tính độc lập cá nhân cao. Sau khi có những nhiệm
vụ cụ thể, từng người trí thức vận động tư duy, tìm tòi, trăn trở, sáng tạo... để
có được những sản phẩm khoa học.
Trí thức chân chính phải là người thực học, để có thực lực và thực tài,
có năng lực tự đào tạo một cách chủ động, sáng tạo, có cấu trúc nhân cách
đức- tài hoàn chỉnh, có phương pháp và bản lĩnh của một nhân cách khoa học,
là những chủ thể của một nhân cách khoa học với sự hài hoà giữa lý tưởng
nghề nghiệp chuyên môn với lý tưởng chính trị, thể hiện qua thái độ lao động,
trong tư duy khoa học, trong đạo đức, lối sống. Trí thức là người lao động
sáng tạo ra tri thức, ra các giá trị văn hoá tinh thần, thuộc về những đại diện
ưu tú cho trí tuệ của dân tộc, cho phẩm chất trọng chân lý và trọng đạo lý.
Trong cách mạng vô sản, nhất là sau khi đã giành chính quyền, giai cấp
công nhân nhất định phải xây dựng tầng lớp trí thức mới cho mình, bằng cách
cải tạo, bồi dưỡng trí thức cũ và đào tạo trí thức mới. Đội ngũ trí thức mới
ngày càng đông đảo, có thế giới quan vô sản, có phẩm chất đạo đức cách
mạng, có kiến thức khoa học, chuyên ngành cần thiết, có bản lĩnh, phương
pháp và ý thức trách nhiệm cao trong hoạt động khoa học. Họ có môi trường
xã hội và những điều kiện thuận lợi để cống hiến tài năng sáng tạo của mình
cho cách mạng, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Như vậy, trí thức là một tầng lớp xã hội, có trình độ học vấn cao (ngày
nay ít nhất là ở bậc cao đẳng, đại học hoặc tương đương), lao động trí óc,
12
sáng tạo khoa học, phổ biến và nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học trong
hoạt động thực tiễn, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của
đời sống xã hội.
* Trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong quân đội
KHXH-NV là một nhóm các ngành khoa học có nhiệm vụ nghiên cứu
những quy luật hình thành, hoạt động và phát triển của xã hội và con người,
của mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với môi trường
tự nhiên và xã hội [90, tr. 20]. Đây là một lĩnh vực khoa học rất đặc thù.
Trên thực tế, có khi khoa học xã hội được tách ra thành một nhóm ngành
khoa học riêng bên cạnh khoa học nhân văn. UNESCO đã phân loại khoa học
thành 6 nhóm ngành như sau: khoa học tự nhiên và khoa học chính xác; khoa
học kỹ thuật; khoa học nông nghiệp; y học; khoa học xã hội; khoa học nhân
văn và nghệ thuật. Do sự gần nhau về đối tượng nghiên cứu, phương pháp
nghiên cứu và mục đích thực tiễn..., ở Việt Nam hiện nay, khoa học xã hội và
khoa học nhân văn được xếp chung vào một nhóm ngành gọi là KHXH- NV.
KHXH- NV có vai trò quan trọng không những đối với sự phát triển
kinh tế và tiến bộ xã hội, mà còn đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên và
khoa học kỹ thuật. Nó tác động tới hệ tư tưởng, thế giới quan, nhân sinh quan
của toàn xã hội; định hướng cho tư duy, lối sống và hành vi của các thành viên
trong cộng đồng, nâng cao năng suất lao động, xây dựng môi trường văn hoá- xã
hội, đề cao những giá trị nhân văn nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống con
người.
Trí thức KHXH-NV là một bộ phận của đội ngũ trí thức nước ta, là
những người lao động trí óc trong lĩnh vực sáng tạo, truyền bá và ứng dụng
tri thức KHXH-NV trong đời sống xã hội, có tri thức sâu, rộng về xã hội và về
con người. Họ vừa là người lao động sáng tạo khoa học trong lĩnh vực
KHXH-NV vừa là người tham gia các hình thức hoạt động chính trị- xã hội
13
và đào tạo lớp trí thức mới cho đất nước. Họ có phẩm chất chính trị, đạo đức,
trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, yêu cầu của nhiệm vụ KHXH-NV trong giai đoạn cách mạng mới.
Trí thức KHXH-NV trong quân đội là một bộ phận của đội ngũ trí
thức KHXH-NV quốc gia, một bộ phận của trí thức quân đội, là người lao
động trí óc, sáng tạo, phổ biến và nghiên cứu ứng dụng tri thức KHXH-NV
trong quân đội, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có
trình độ học vấn ở bậc cao đẳng, đại học trở lên, có tri thức sâu, rộng về xã
hội quân đội và về con người quân nhân.
Trí thức KHXH-NV trong quân đội là một nhóm quân nhân đặc thù, bao
gồm: cán bộ nghiên cứu KHXH-NV, giảng viên KHXH-NV và những cán bộ
làm các công tác khác trong lĩnh vực KHXH-NV của quân đội. Họ là những sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng làm công tác
chuyên môn, nghiệp vụ theo chức trách, nhiệm vụ được giao và tham gia lao
động trí óc sáng tạo, phổ biến và ứng dụng KHXH-NV trong quân đội.
Trí thức KHXH-NV trong quân đội, ngoài những đặc điểm chung với
trí thức KHXH-NV nước ta, còn có những đặc trưng riêng do điều kiện sống
và hoạt động trong môi trường quân sự tạo nên.
Trước hết, trí thức KHXH-NV trong quân đội có đối tượng nghiên
cứu đặc thù. Họ không chỉ nghiên cứu con người- xã hội nói chung mà còn
lấy vấn đề xã hội và con người- quân nhân trong quân đội, trong hoạt động
quân sự làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Hoạt động quân sự có quy luật
riêng, bởi lẽ lao động quân sự là loại hình lao động đặc biệt, con người luôn
gắn với vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự tạo nên sức mạnh để chiến thắng kẻ
thù. Động lực chủ yếu của con người- quân nhân không phải là lợi ích kinh
tế mà là tinh thần yêu nước, trình độ giác ngộ chính trị, tinh thần trách
nhiệm và nghĩa vụ đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Mối quan hệ xã hội
14
trong quân đội là mối quan hệ tập trung thống nhất cao, nhiều người phục
tùng một người theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Chính điều này qui định
tính đặc thù của KHXH-NV trong quân đội. Nếu người trí thức khoa học kỹ
thuật quân sự chủ yếu nghiên cứu chế tạo, cải tiến, bảo quản và sử dụng có
hiệu quả vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự thì người trí thức KHXH-NV
trong quân đội lại chủ yếu nghiên cứu khám phá những quy luật và những
vấn đề có tính quy luật, những yêu cầu, những nội dung về chiến tranh nhân
dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân dân Việt
Nam; xây dựng và phát huy nhân tố con người trong quân đội, xây dựng sức
mạnh chính trị- tinh thần, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; quan
điểm sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật trong hoạt động quân sự; nghiên cứu
những vấn đề mới về tư tưởng và tâm lý, về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền
lợi của người quân nhân, về cơ chế và chính sách trong quân đội. Như vậy,
nghiên cứu những vấn đề xã hội và con người- quân nhân trong quân đội,
trong hoạt động quân sự là nét đặc thù của trí thức KHXH-NV trong quân
đội.
Hai là, trí thức KHXH-NV trong quân đội vừa có phẩm chất của người
quân nhân cách mạng, vừa có phẩm chất của người cán bộ KHXH-NV. Mỗi
nghề nghiệp đều có phẩm chất riêng của mình. Phẩm chất của người trí thức
KHXH-NV trong quân đội được đặc trưng bởi chức năng nghề nghiệp của họ.
Tuy nhiên, nó là một bộ phận hữu cơ thể hiện đầy đủ yêu cầu nội dung của phẩm
chất người quân nhân cách mạng, nhưng lại mang đậm dấu ấn KHXH-NV. Vì
vậy, phẩm chất của người trí thức KHXH-NV trong quân đội là sự cụ thể hoá
phẩm chất người quân nhân cách mạng ở ngành KHXH-NV trong quân đội.
Người trí thức KHXH-NV trong quân đội được chuẩn bị những phẩm
chất phản ánh tính đặc thù khoa học mà mình nghiên cứu. Họ có bản lĩnh
chính trị vững vàng; trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và nhân
15
dân; có tinh thần trách nhiệm, ý chí quyết tâm cao, dũng cảm, đoàn kết, kỷ
luật tự giác nghiêm minh, đức tính trung thực, cẩn thận, tỉ mỷ, kiên trì và
nhân văn trong hoạt động khoa học; có tâm huyết với nghề nghiệp, say mê
nghiên cứu sáng tạo, cống hiến cho KHXH-NV trong quân đội. Những phẩm
chất đó là sự phản ánh nhân cách người trí thức KHXH-NV trong quân đội.
Với nhân cách ấy, ở cương vị “nhà khoa học”, hay cương vị “người
lính”, người lãnh đạo, chỉ huy trong chiến đấu, huấn luyện quân sự, lao động
sản xuất và công tác, người trí thức KHXH-NV trong quân đội đều có thể
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, căng thẳng và nguy hiểm, sẵn sàng hy sinh
cả tính mạng của mình để lao động sáng tạo khoa học và hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ được giao. Nếu không, họ sẽ không có đủ bản lĩnh, ý chí
quyết tâm, tinh thần trách nhiệm để giải quyết những vấn đề khoa học mà
mình theo đuổi, nói gì đến sáng tạo văn hoá, đấu tranh phê phán những hiện
tượng sai trái trong và ngoài quân đội.
Thực tế cho thấy, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, có biết bao trí thức KHXH-NV trong quân đội đã bám sát thực tiễn
hoạt động quân sự, vừa cầm súng để chiến đấu, vừa cầm bút để sáng tạo khoa
học ngay trên chiến trường. Nhiều công trình khoa học, dự án, nhiều tác phẩm
văn học, nghệ thuật có giá trị to lớn đã thấm máu của chính mình và đồng đội,
góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Ngày
nay, trí thức KHXH-NV trong quân đội luôn chắc tay súng tay bút bảo vệ Tổ
quốc và lao động sáng tạo khoa học.
Ba là, trí thức KHXH-NV trong quân đội có kiến thức sâu, rộng về xã hội
và vốn sống thực tiễn quân sự phong phú. Các chuyên ngành KHXH-NV trong
quân đội dưới các góc độ khác nhau đều phải giải đáp những vấn đề thuộc về
bản chất con người- quân nhân cách mạng, những vấn đề thuộc về xã hội quân
nhân nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Điều này
16
quy định người nghiên cứu KHXH-NV trong quân đội phải có kiến thức sâu,
rộng về xã hội- quân đội, người quân nhân cách mạng và vốn sống thực tiễn
quân sự phong phú. Họ sống trong quân đội, hoạt động khoa học của họ là hoạt
động khoa học trong quân đội. Vì vậy, kiến thức và vốn sống quân sự vừa là đặc
điểm cơ bản, vừa là yêu cầu phấn đấu của người trí thức KHXH-NV trong quân
đội.
Trí thức KHXH-NV trong quân đội không chỉ có kiến thức chuyên
ngành sâu mà còn có kiến thức liên ngành, kiến thức về khoa học kỹ thuật
quân sự và khoa học nghệ thuật quân sự cần thiết, nắm vững chủ nghĩa MácLê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng trong quá
trình hoạt động KHXH-NV trong quân đội. Đồng thời, họ còn có sự hiểu biết
sâu sắc về đời sống xã hội và quân đội, về thực tiễn hoạt động quân sự, về con
người- quân nhân và các mối quan hệ xã hội của họ, nắm bắt kịp thời những
vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn...
Nhờ có kiến thức sâu rộng và vốn sống thực tiễn quân sự phong phú
mà người trí thức KHXH-NV trong quân đội mới có thể lao động sáng tạo
khoa học, có khả năng thích ứng linh hoạt, đa dạng, tiếp cận và nghiên cứu
những vấn đề mới nảy sinh trong đời sống xã hội và quân đội. Dù có kiến
thức sâu, rộng, nhưng người trí thức KHXH-NV trong quân đội không bám
sát thực tiễn hoạt động quân sự, thiếu vốn sống phong phú trong quân đội thì
không thể có những sản phẩm khoa học, sản phẩm văn hoá có giá trị cao,
không có lời giải đáp kịp thời, thoả đáng những vấn đề mới nảy sinh trong
thực tiễn. Ngược lại, có vốn sống phong phú mà không có kiến thức sâu,
rộng, thì họ không có đủ tầm trí tuệ để sáng tạo khoa học.
Tri thức sâu, rộng và vốn sống thực tiễn quân sự đặc biệt quan trọng
đối với trí thức KHXH-NV trong quân đội. Người trí thức khoa học kỹ thuật
quân sự trẻ có vốn sống thực tiễn quân sự chưa nhiều, nhưng có kiến thức
17
chuyên ngành sâu thì họ hoàn toàn có thể nghiên cứu, phát minh, sáng chế ra
vũ khí mới, phương tiện kỹ thuật quân sự... có uy lực lớn. Trái lại, người trí
thức KHXH-NV trong quân đội trẻ cũng có kiến thức chuyên ngành sâu
nhưng lại rất khó khăn, lúng túng khi nghiên cứu KHXH-NV trong quân đội
và thường có kết quả không cao vì họ còn thiếu những kiến thức liên ngành cần
thiết và vốn sống thực tiễn hoạt động quân sự. Để có kiến thức sâu, rộng và vốn
sống phong phú, họ phải qua đào tạo, bồi dưỡng, học tập và rèn luyện ở nhà
trường, trong thực tiễn hoạt động quân sự. Vì vậy, họ thường vào nghề muộn
hơn, có tuổi quân, tuổi đời cao hơn các bộ phận trí thức khác trong quân đội.
Bốn là, phương pháp nghiên cứu và sản phẩm lao động sáng tạo của
trí thức KHXH-NV trong quân đội cũng có nét đặc thù. Trong lao động sáng
tạo khoa học, trí thức KHXH-NV trong quân đội vận dụng phương pháp
nghiên cứu của KHXH-NV để nghiên cứu các hiện tượng xã hội và con
người- quân nhân trong quân đội, trong hoạt động quân sự. Đó là cả một hệ
thống phương pháp nghiên cứu xã hội phức tạp do tính biến đổi mau lẹ,
thường xuyên và mối liên hệ phức tạp của đối tượng nghiên cứu qui định. Do
có phương pháp duy vật lịch sử, tư duy trừu tượng, tư duy biện chứng trong
nghiên cứu khoa học, người trí thức KHXH-NV trong quân đội dễ nhìn thấy
những cái mới đang nảy sinh, những dấu hiệu của sự phát triển và giúp con
người- quân nhân chủ động, tích cực trong hoạt động quân sự.
Việc nghiên cứu các hiện tượng xã hội trong chừng mực đáng kể
thường được hiệu chỉnh dưới tác động của nhân tố chủ quan của người trí
thức KHXH-NV trong quân đội. Do vậy, những sản phẩm khoa học phản ánh
thế giới quan, quan điểm, chính kiến của họ. Ở đó, tính khoa học và tính
chính trị cách mạng kết hợp biện chứng với nhau.
Hệ giá trị làm điểm tựa cho cuộc sống, lẽ sống và sự nghiệp của người
trí thức KHXH-NV trong quân đội là Tổ quốc- Dân tộc- Thời đại và CNXH,
18
là đồng hành với nhân dân, phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng
quân đội vững mạnh về mọi mặt, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Sự kết hợp giữa tính chính trị- xã hội,
tính dân tộc, tính nhân văn và tính khoa học thể hiện một cách chặt chẽ,
thống nhất và rõ ràng trong sản phẩm lao động sáng tạo của họ. Trong đó,
tính chính trị nhất quán không hề phủ định tính khoa học khách quan.
Sản phẩm lao động sáng tạo của trí thức KHXH-NV trong quân đội
như các chương trình, dự án, các công trình khoa học, các tác phẩm văn học
và nghệ thuật, kết quả giáo dục, đào tạo, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận
v.v… có giá trị xã hội sâu sắc và ý nghĩa thực tiễn quân sự to lớn. Trái lại,
mỗi sai lầm của trí thức KHXH-NV trong quân đội sẽ gây nên mối nguy hại
lớn, thậm chí không lường nổi đối với sức mạnh chiến đấu của quân đội và sự
phát triển của dân tộc. Cho nên, trí thức KHXH-NV trong quân đội có trách
nhiệm nặng nề đối với tiến bộ xã hội và sự phát triển quân đội thông qua sản
phẩm lao động khoa học của họ.
Tóm lại, trí thức KHXH-NV trong quân đội là một bộ phận trí thức
của quân đội và đất nước, là đội ngũ những người lao động trí óc, sáng tạo,
phổ biến và nghiên cứu ứng dụng tri thức KHXH-NV trong quân đội, có
trình độ học vấn ở bậc cao đẳng, đại học trở lên (được đào tạo hoặc không
được đào tạo, có bằng cấp hoặc không có bằng cấp), có kiến thức sâu, rộng
và vốn sống thực tiễn quân sự phong phú, có phẩm chất chính trị và đạo đức
cách mạng, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng, chiến đấu và phát triển
của quân đội, của đất nước.
1.1.2. Nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong quân
đội
* Nguồn lực con người
19
Nguồn lực là hệ thống các yếu tố cả vật chất và tinh thần đã, đang và sẽ
có khả năng tạo ra sức mạnh tổng hợp góp phần thúc đẩy quá trình cải biến tự
nhiên và xã hội của một quốc gia, dân tộc.
Khái niệm nguồn lực có phạm vi bao quát rộng, nó hàm chứa không chỉ
các yếu tố vật chất, tinh thần đã và đang tạo ra sức mạnh trên thực tế mà cả
những yếu tố mới ở dạng tiềm năng; nó không chỉ nói lên sức mạnh mà còn
chỉ ra nơi bắt đầu, nơi phát sinh hay nơi có thể cung cấp sức mạnh; nó phản
ánh không chỉ số lượng mà còn cả chất lượng các yếu tố và sự biến đổi không
ngừng của các yếu tố đó.
Tuỳ theo từng điều kiện cụ thể và góc độ nghiên cứu trong các mối
quan hệ xác định mà nguồn lực được tính đến như thế nào, mở rộng hay thu
hẹp. Có thể nêu ra một số loại nguồn lực sau: nguồn lực vật chất và nguồn lực
tinh thần; nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài; nguồn lực chủ quan và
nguồn lực khách quan... Có những yếu tố tạo nên một nguồn lực nào đó lại trở
thành những nguồn lực của chính nguồn lực đó, như trí tuệ cũng được coi là
một nguồn lực trong nguồn lực con người.
Hiện nay, các nguồn lực quan trọng nhất thúc đẩy quá trình CNH,HĐH
đất nước có thể được qui về 5 loại sau: nguồn nhân lực và con người Việt
Nam; nguồn tài nguyên thiên nhiên; nguồn lực do vị trí địa lý thuận lợi;
nguồn lực bắt nguồn từ cơ sở vật chất và tiềm lực khoa học kỹ thuật; các
nguồn lực nước ngoài. Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng
tác động vào quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong
đó, nguồn lực con người Việt Nam là quí nhất, quyết định nhất.
Khái niệm “nguồn lực con người” mới được dùng từ những năm 60 của
thế kỷ XX ở nhiều nước phương Tây và một số nước châu Á, hiện nay, nó
được sử dụng khá phổ biến trên thế giới [35, tr. 32].
20
Quan niệm về “nguồn lực con người” khá đa dạng, được đề cập từ
nhiều góc độ khác nhau. Ngân hàng thế giới cho rằng, nguồn lực con người
được hiểu là toàn bộ vốn người (thể lực, trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp) của
cộng đồng xã hội. Liên hiệp quốc cũng có cách tiếp cận tương tự khi cho rằng
nguồn lực con người là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con
người có quan hệ tới sự phát triển của một đất nước. Quan niệm này xem xét
nguồn lực con người chủ yếu ở phương diện chất lượng con người và vai trò
của nó đối với sự phát triển xã hội.
Ở nước ta, quan niệm về nguồn lực con người cũng khá phong phú.
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã chỉ rõ: “Nguồn lực đó là người lao động có
trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với nền khoa học,
công nghệ hiện đại”[20, tr. 9]. Thủ tướng Phan Văn Khải cũng đã khẳng định:
“Nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với
truyền thống của dân tộc ta”[36]. Một số nhà khoa học đã cho rằng: “Nguồn
lực con người là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh
thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [26, tr. 328], “là tổng thể
sức dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác
động của con người trong việc cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội”[13, tr 9].
Từ các quan niệm trên, có thể hiểu nguồn lực con người- một dạng đặc
biệt của nguồn lực nói chung, là tổng hoà các yếu tố tạo nên sức mạnh của
con người và cộng đồng xã hội, là số dân, cơ cấu số dân và chất lượng con
người với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội. Đây là
một khái niệm rộng mà nội dung của nó được thể hiện trên một số mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, phản ánh qui mô dân số thông qua số lượng dân cư và tốc độ
tăng dân số của một nước, trong một thời gian nhất định. Đồng thời, nó còn
21
phản ánh lực lượng lao động (số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động); nguồn lao động (đội ngũ lao động hiện có và sẽ có trong tương lai gần).
Thứ hai, phản ánh cơ cấu dân cư và cơ cấu lao động trong các ngành,
các vùng, cơ cấu lao động đã qua đào tạo, cơ cấu trình độ lao động, cơ cấu độ
tuổi trong lực lượng lao động, cơ cấu nguồn lao động dự trữ... Cơ cấu này ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng và sức mạnh của nguồn lực con người.
Thứ ba, phản ánh chất lượng dân số, chất lượng lực lượng lao động trong
hiện tại và trong tương lai gần (dạng tiềm năng), bao gồm các yếu tố: thể chất và
tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm
việc... Nói một cách khác, đó là toàn bộ những năng lực và phẩm chất của con
người tạo nên nhân cách tiêu biểu cho một quá trình biến đổi xã hội nhất định.
Các nội dung trên là một thể thống nhất, liên hệ, tác động lẫn nhau
trong cấu trúc nguồn lực con người.
Các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ... chỉ phát
huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển xã hội khi được kết
hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt động của con người. Vì vậy,
nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi
nguồn lực, là nội lực của sự phát triển.
Nguồn lực con người có những đặc tính cơ bản sau:
Một là, nguồn lực có trí tuệ, có khả năng phục hồi và tự tái sinh. Nó
thường xuyên được bổ sung về số lượng và chất lượng qua tái sản xuất ra
con người, tái sản xuất giá trị xã hội. Sự tiềm tàng sức mạnh của nguồn lực
con người nằm chủ yếu ở khả năng bản chất của con người là trí tuệ. Trí tuệ
là sản phẩm đặc biệt của cái “khối vật chất đặc biệt phức tạp mà con người
gọi là bộ óc của con người”. Nó là nguồn lực duy nhất có năng lực sáng tạo
với khả năng tái sinh và tái sinh mở rộng không ngừng năng lực sáng tạo đó.
Trong quá trình sử dụng, trí tuệ không chỉ sáng tạo ra giá trị tự bù đắp hao
22
phí sinh học của mình, mà còn sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị ban
đầu. Nhờ có trí tuệ mà tiềm năng của con người được khai thác, phát huy.
Trí tuệ nếu được bồi dưỡng, sử dụng hợp lý sẽ là nguồn lực vô tận. Ngày
nay, trí tuệ được coi là một nguồn lực cơ bản, quan trọng nhất của nguồn lực
con người.
Hai là, nguồn lực con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của các
quá trình KT-XH. Là chủ thể, con người khai thác, sử dụng các nguồn lực
khác hiện có, đồng thời, qua đó phát triển chính bản thân con người và góp
phần tạo ra những nguồn lực mới để duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội.
Là khách thể, con người trở thành đối tượng khai thác cho mục tiêu phát
triển xã hội, là đối tượng mà chính sự phát triển xã hội phải hướng vào phục
vụ. Với ý nghĩa đó, con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể, vừa là động
lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Đảng ta đã xác định: chiến lược
ổn định và phát triển KT-XH, xét về thực chất là chiến lược con người; “Con
người phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng
thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”[17, tr. 5].
Với bản chất, chức năng của mình trong quá trình phát triển xã hội, trí
thức luôn là một bộ phận cơ bản quan trọng của nguồn lực con người. Đó là
nguồn nhân lực chất lượng cao, “đại diện cho trí tuệ của dân tộc” [80, tr. 237].
Nguồn lực trí thức còn được gọi với nhiều từ tương tự khác nữa: nguồn lực trí
tuệ, nguồn nhân lực cao, nguồn lao động chất xám... Nguồn lực trí thức có vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển xã hội. Vì vậy, sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới đòi hỏi phải quan
tâm phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn lực trí thức.
* Nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong quân đội.
23
Từ khái niệm chung về nguồn lực con người có thể hiểu nguồn lực trí
thức KHXH-NV trong quân đội- một bộ phận của nguồn lực con người quân
đội, nguồn lực trí thức quân đội, là tổng hoà các yếu tố về số lượng, chất lượng
và cơ cấu đội ngũ trí thức KHXH-NV trong quân đội. Họ là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng làm công tác nghiên cứu khoa học,
giảng dạy và các hoạt động khác trong lĩnh vực KHXH-NV của quân đội.
Sức mạnh nguồn lực trí thức KHXH-NV trong quân đội là sự thống
nhất giữa chất lượng của từng người trí thức với số lượng trí thức và cơ cấu
đội ngũ trí thức KHXH-NV trong quân đội, được biểu hiện ra ở kết quả hoạt
động KHXH-NV trong quân đội theo chức trách, nhiệm vụ được giao.
Số lượng trí thức là một yếu tố vật chất nền tảng có vai trò rất quan
trọng trong các yếu tố tạo thành sức mạnh của nguồn lực trí thức KHXH-NV
trong quân đội. Không có số lượng thích hợp thì không thể tạo dựng được một
tổ chức khoa học và qui mô của tổ chức đó, càng không thể triển khai hoạt
động KHXH-NV trong quân đội có hiệu quả. Sức mạnh của nguồn lực này
bắt nguồn từ sức mạnh của từng cá nhân được tổ chức. Nhờ có tổ chức mà
sức mạnh của từng người trí thức và của cả nguồn lực được nhân lên gấp bội
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của KHXH-NV trong quân đội.
Số lượng trí thức KHXH-NV trong quân đội phải đảm bảo tính phổ quát về
nội dung và các lĩnh vực hoạt động KHXH-NV trong quân đội. Trên cơ sở yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng quân đội, nhiệm vụ chính trị của các đơn vị và yêu
cầu của nhiệm vụ KHXH-NV trong quân đội để xác định số lượng trí thức làm
công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy, lãnh đạo, chỉ huy, chuyên môn, nghiệp
vụ... ở các ngành, các cơ quan và đơn vị trong quân đội một cách hợp lý. Và do
đó, sẽ bảo đảm sức mạnh thực tế cho nguồn lực trí thức KHXH-NV trong quân
đội phát huy tác dụng cả bề rộng và chiều sâu nghiên cứu khoa học, phổ biến và
ứng dụng KHXH-NV trong quá trình xây dựng quân đội và hoạt động quân sự. Vì
24
vậy, xác định số lượng trí thức KHXH-NV trong quân đội hợp lý là một vấn đề
khoa học nhằm không ngừng tăng cường sức mạnh của nguồn lực này.
Chất lượng người trí thức KHXH-NV trong quân đội là sự tổng hoà
những phẩm chất và năng lực (đức và tài) được thể hiện ở kết quả lao động
sáng tạo khoa học của họ. Đây là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất, giữ vị trí
quyết định sức mạnh của nguồn lực trí thức KHXH-NV trong quân đội. Phẩm
chất và năng lực của người trí thức KHXH-NV trong quân đội là hai mặt của
một vấn đề thống nhất và có mối quan hệ hữu cơ với nhau, luôn gắn kết chặt
chẽ với nhau, tác động lẫn nhau, đan xen vào nhau, là tiền đề và điều kiện của
nhau đến mức không thể tách rời, sự phân định thành từng mặt chỉ là tương
đối. Có phẩm chất mà không có năng lực thì phẩm chất cũng không có tác
dụng thiết thực. Có tài, có năng lực mà không có phẩm chất, đạo đức, tình
cảm, lý tưởng, ý chí thì tài năng không có cơ sở để phát triển đúng hướng. Hai
mặt này cùng tạo nên chất lượng người trí thức KHXH-NV trong quân đội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Có tài phải có đức. Có tài không có đức,
tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong
chùa, không giúp ích gì được ai”[75, tr. 184]. Đảng ta đã khẳng định: “Phải
coi trọng cả đức và tài” [21, tr. 80]. Do vậy, khi nói đến chất lượng người trí
thức KHXH-NV trong quân đội là nói tới sự thống nhất giữa phẩm chất và
năng lực được biểu hiện ra trong hoạt động thực tiễn mà thước đo là kết quả
lao động sáng tạo khoa học của họ.
Phẩm chất người trí thức KHXH-NV trong quân đội được thể hiện ở
lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng
cách mạng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc, vì CNXH; trung
thành vô hạn với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, “thắng không
kiêu”, “bại không nản”, tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường, lối sống trong
sáng, giản dị, đoàn kết, kỷ luật tự giác nghiêm minh... Hơn nữa, họ còn có
25
trình độ giác ngộ chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý
tưởng cộng sản. Họ còn có phẩm chất trung thực, cẩn thận, tỉ mỉ, kiên trì,
trách nhiệm xã hội và nhân văn trong lao động sáng tạo khoa học; có tâm
huyết với nghề nghiệp, say mê nghiên cứu sáng tạo, cống hiến cho KHXHNV trong quân đội; không bảo thủ, thiên vị, không cục bộ, đố kỵ, có tinh thần
hợp tác khoa học, chống chủ nghĩa cá nhân, trân trọng yếu tố sáng tạo, bảo vệ
cái đúng, phê phán cái sai... Đó là phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của người
trí thức KHXH-NV trong quân đội.
Phẩm chất của người trí thức KHXH-NV trong quân đội giữ vị trí đặc
biệt quan trọng. Nó được coi là cội nguồn của sức mạnh, là cái “gốc” để họ
có thể vượt qua mọi trở lực, hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân”[72, tr. 252]. Vì vậy, phải coi “đức là
gốc” [19, tr. 146]. Thực tế đã chứng tỏ, nhờ có những phẩm chất quý báu đó
người trí thức KHXH-NV trong quân đội mới có ý chí quyết tâm cao, gương
mẫu, vượt lên trên hoàn cảnh, không tính toán mưu lợi cho cá nhân, sẵn sàng
hy sinh cả tính mạng cho sự nghiệp khoa học. Và do đó, họ mới có được
những sản phẩm khoa học, những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị xã
hội cao, mới có thể đoàn kết, tập hợp, tổ chức được cán bộ, chiến sỹ tham
gia hoạt động KHXH-NV trong quân đội có hiệu quả.
Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc “tự nhiên sẵn có” (bao
gồm cả năng khiếu) để thực hiện một hoạt động nào đó [104, tr. 639]. Mỗi
lĩnh vực hoạt động cụ thể của con người đòi hỏi phải có một năng lực tương
ứng với nó. Không có sự phù hợp giữa năng lực hoạt động và yêu cầu hoạt
động của con người thì kết quả hoạt động sẽ không cao.
26
Năng lực của người trí thức KHXH-NV trong quân đội là sự tổng hợp các
khả năng và điều kiện chủ quan của họ đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ KHXHNV trong quân đội và chức trách nhiệm vụ họ đảm nhận trên thực tế. Nói tới
năng lực của người trí thức KHXH-NV trong quân đội là nói tới khả năng nhận
thức, khả năng chuyên môn, khả năng hoạt động thực tiễn và hoạt động KHXHNV trong quân đội. Khả năng nhận thức đóng vai trò rất quan trọng trong phát
triển năng lực của người trí thức KHXH-NV trong quân đội. Nó có mặt ở tất cả
các lĩnh vực hoạt động khoa học của người trí thức KHXH-NV trong quân đội
và giúp cho họ nhanh chóng phát hiện, nhận thức được các hiện tượng xã hội,
những vấn đề lý luận và thực tiễn mới nảy sinh, huy động kiến thức, lựa chọn
phương pháp, tiến hành nghiên cứu có hiệu quả. Khả năng chuyên môn giúp cho
người trí thức KHXH-NV trong quân đội đi sâu nghiên cứu và thực hiện công
việc chuyên môn có hiệu quả. Khả năng hoạt động thực tiễn giúp cho người trí
thức KHXH-NV trong quân đội có thêm thông tin, tư liệu kiến thức, kinh
nghiệm và nguồn cảm hứng sáng tạo khoa học; có khả năng thích ứng linh hoạt,
nhạy bén, kịp thời với sự phong phú, đa dạng, phức tạp và luôn biến động của
thực tiễn. Có được những khả năng đó, người trí thức KHXH-NV trong quân đội
mới có đủ năng lực để hoàn thành nhiệm vụ của mình trong mọi tình huống.
Năng lực của người trí thức KHXH-NV trong quân đội biểu hiện ở độ
sâu của kiến thức lý luận Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiến thức
chuyên ngành, kiến thức liên ngành, kiến thức KHKTQS và khoa học nghệ
thuật quân sự, kiến thức thực tiễn quân sự, kỹ năng nghiên cứu KHXH-NV
trong quân đội; biết tập hợp đồng nghiệp, tổ chức, triển khai nghiên cứu khoa
học. Ngoài ra, người trí thức KHXH-NV còn biết sử dụng các phương tiện kỹ
thuật hiện đại, công nghệ thông tin và ngoại ngữ thông dụng phục vụ cho
công tác nghiên cứu khoa học của mình.