Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận: Đường lối đối ngoại “Bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trong hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.97 KB, 28 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1. Tính khách quan và bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trong

2
3

hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới và hội
nhập quốc tế
1.1. Tính khách quan Đảng phải đẩy mạnh quan hệ đối ngoại thời kỳ

3

đổi mới và hội nhập quốc tế
1.2. Bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trong hoạch định đường lối đối

3

ngoại thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế
2. Một số kinh nghiệm rút ra qua quá trình Đảng hoạch định

8

đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế
2.1. Kiên định với đường lối đối ngoại độc lập tự chủ; đẩy mạnh đa

19



phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế vì lợi ích quốc
gia dân tộc
2.2. Xác định rõ đối tác và đối tượng trong các hoạt động đối ngoại

19

để có chủ trương, chính sách phù hợp
2.3. Coi trọng xây dựng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước

21

láng giềng, tạo vành đai an ninh ổn định để xây dựng và phát
triển đất nước
2.4. Có thái độ ứng xử đúng đắn trong quan hệ với các nước lớn và

24

các tổ chức quốc tế nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

25
27
28

MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng của mình đã luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận



2

khăng khít của cách mạng thế giới; đồng thời xác định rõ tính chất của thời đại
mới và mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Chính vì
vậy, đã tạo ra thế và lực mới cho cách mạng Việt Nam, sức mạnh của cách mạng
Việt Nam ngày càng được không ngừng tăng trên trường quốc tế.
Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, trước những biến động vô
cùng phức tạp của đời sống kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới, nhất
là sau sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu
bàn cờ chính trị thế giới đã được sắp đặt lại, cơ cấu và mối quan hệ đã thay đổi và
định hình lại theo những chuẩn mực mới; đồng thời nền kinh tế thế giới đang có
những biến đổi sâu sắc dưới tác động của những tiến bộ khoa học - công nghệ và
quá trình toàn cầu hoá. Mỗi quốc gia đang đứng trước hàng loạt vấn đề mới trong
quan hệ quốc tế đương đại. Trước bối cảnh đó, Đảng ta với bản lĩnh, trí tuệ của
mình đã xác định đúng đắn đường lối đối ngoại, có những bước đi và cách làm phù
hợp nhằm phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, nắm bắt thời cơ, đẩy lùi
nguy cơ đưa cách mạng Việt Nam tiến lên trong giai đoạn mới.
Thực tiễn công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 30 năm qua đã chứng minh,
nhờ có đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, đã góp phần quan trọng đưa đất
nước vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng
cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội...Do đó, làm rõ vấn đề
“Bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trong hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi
mới và hội nhập quốc tế” càng có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.

NỘI DUNG
1. Tính khách quan và bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trong hoạch định
đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế



3

1.1. Tính khách quan Đảng phải đẩy mạnh quan hệ đối ngoại thời kỳ đổi
mới và hội nhập quốc tế
Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định rõ quan điểm: tiến hành
đường lối đối ngoại bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi; Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; Chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế.
Quan điểm trên là rất cụ thể bảo đảm tính nguyên tắc là một thể thống
nhất, có mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ, có tầm định hướng, chỉ đạo đúng đắn,
sáng tạo đường lối đối ngoại độc lập, tử chủ của Đảng ta phản ánh đậm nét bản lĩnh,
trí tuệ của Đảng trong thời kỳ đổi mới đất nước, đường lối ấy mang tính tất yếu
khách quan, trong đó được quy định bởi các đặc điểm cơ bản:
Một là, Đảng xác định đường lối đối ngoại trong điều kiện diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới và khu vực
Thế giới đã và đang hình thành trật tự mới với những diễn biến rất phức tạp,
biểu hiện qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa các nước, trước hết là
giữa các nước lớn. Mỹ với sức mạnh nổi trội về kinh tế, chính trị, quân sự đang
thực hiện chủ nghĩa đơn phương, theo đuổi mục đích thiết lập trật tự thế giới đơn
cực do Mỹ chi phối và khống chế. Bên cạnh đó, xu thế đa cực cũng đang được
hình thành với sự nỗ lực của các nước lớn như: Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Liên
minh Châu Âu v.v... Ngoài ra, các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường đấu
tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển của mình. Nhiều nước
đang tích cực đấu tranh cho một thế giới bình đẳng, công bằng với sự đề cao vai
trò của Liên hợp quốc và sự tôn trọng luật pháp quốc tế. Các xu thế trên đan xen,
tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy nhiên, cho dù hướng tới những mục tiêu nào,



4

các nước đều mong muốn và cố gắng duy trì hòa bình, duy trì hình thức quan hệ
theo dạng vừa hợp tác vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tránh đối đầu quân sự
trực tiếp. Các hình thức quan hệ hợp tác - đấu tranh ngày càng trở nên đa dạng,
không theo khuôn mẫu nào và được biến đổi linh hoạt theo từng loại vấn đề, từng
đối tượng, khu vực, từng thời điểm cụ thể.
Khu vực Đông Nam Á , Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực phát triển
năng động nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định.Đặc biệt là những
bất ổn của tình hình chính trị ở Thái Lan là mối quan tâm và lo ngại của các
nước trong khu vực. Ở Philippin, các phiến quân Hồi Giáo ở miền Nam vẫn tiếp
tục tiến hành những cuộc tấn công khủng bố gây bất ổn cho khu vực này. Ở
Inđônêsia, lực lượng khủng bố Hồi Giáo cũng thường mở những cuộc tấn công
nhằm vào các địa điểm du lịch, vào người nước ngoài. Lực lượng ly khai vùng
Ache vẫn chưa từ bỏ ý định chia tách khỏi Inđônêsia. Trong quan hệ giữa các
nước những bất đồng, xung đột vẫn thường xuyên xảy ra. Tiêu biểu là những sự
kiện liên quan đến vấn đề môi trường, ô nhiễm không khí; vấn đề người Hoa
giữa Inđônêsia và Malaysia, Singappo; tranh chấp biên giới giữa Thái Lan và
Campuchia, Thái Lan và Mianma; tranh chấp vùng đảo, vùng lãnh thổ, nguồn tài
nguyên thiên nhiên giữa Việt Nam - Trung Quốc - Đài Loan – Philippin Malaisia...
Hai là, quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế đặt ra cho các quốc gia, dân tộc
trong đó có Việt Nam cần điều chỉnh chính sách đối ngoại, nhằm phát huy cao độ
nội lực, tranh thủ ngoại lực phát triển nhanh và bền vững
Quá trình toàn cầu hóa đang được đẩy mạnh và phát triển với tốc độ nhanh, lôi
kéo sự tham gia của hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới và hợp thành một xu thế
phát triển của thế giới. Toàn cầu hóa biểu hiện sự xã hội hóa cao của lực lượng sản
xuất. Tuy nhiên, quá trình này đồng thời là sự phát triển tất yếu theo chiều rộng và
chiều sâu của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, dĩ nhiên không phải tất cả các nước



5

tham gia đều là tư bản. Vai trò trung tâm của toàn cầu hóa là các nước tư bản phát
triển đó là các nước thuộc nhóm G8, G20. Quan hệ sản xuất chủ nghĩa tư bản là quan
hệ kinh tế chủ đạo trong quá trình này. Đây là thực tế khách quan, quy định tính chất
xã hội của toàn cầu hóa. Chính vì thế, quá trình toàn cầu hóa hiện nay là không đối
xứng. Chẳng hạn chỉ chú ý đến nội dung kinh tế mà không quan tâm đầy đủ đến các
vấn đề an sinh xã hội và môi trường hoặc phân phối lợi ích trong toàn cầu hóa không
cân bằng, các nước công nghiệp phát triển được lợi nhiều hơn so với các nước chậm
phát triển và đang phát triển. Như vậy, xu thế toàn cầu hóa nói chung, toàn cầu hóa
kinh tế nói riêng sẽ góp phần tạo ra cơ hội phát triển cho các quốc gia, dân tộc; nhưng
cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây ra những khó khăn và thách thức lớn
cho nhiều quốc gia, nhất là các nước đang phát triển.
Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, các nước sẽ tiếp cận được nguồn vốn,
khoa học, công nghệ…, tiếp cận được thị trường, sự phân công lao động quốc tế.
Nhưng đồng thời phải đối mặt với sự cạnh tranh kinh tế, thương mại, giành giật
nguồn tài nguyên, nhiên liệu, năng lượng, vốn, thị trường…một cách gay gắt hoặc
bất bình đẳng. Bởi lẽ, toàn cầu hóa là một quá trình phức tạp và đầy mâu thuẫn, chứa
đựng trong đó cả hai mặt tích cực và tiêu cực; thời cơ và thách thức đan xen nhau.
Những tác động của quá trình này đối với các quốc gia không giống nhau. Một trong
những thách thức đó là sự cạnh tranh, thu hút nhân tài từ các quốc gia chậm phát triển
và đang phát triển gây ra hiện tượng “chảy máu chất xám”.
Ba là, cùng với sự phát triển nhảy vọt của các thành tựu khoa học công
nghệ tạo ra nhiều cơ hội cho các nước, các quốc gia dân tộc trong quá trình phát
triển, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi phải xác định đường lối đối
ngoại đúng đắn
Về cách mạng khoa học và công nghệ, Đảng khẳng định khoa học và công
nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và có những đột phá lớn. Thực tế cho thấy công nghệ

thông tin, công nghệ sinh học tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đi vào chiều sâu và gắn


6

với nhu cầu phát triển của đất nước. Hơn nữa, khoa học và công nghệ cũng là tiền đề
thúc đẩy xu thế hợp tác phát triển, mở ra những triển vọng quan hệ của mỗi bên đi
vào chiều sâu ổn định.
Đảng và Nhà nước luôn nhận thức rõ, đây là cuộc cách mạng đạt rất nhiều kỳ
tích, đã và đang tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống mỗi quốc gia và quan hệ
quốc tế đương đại. Những thành tựu của khoa học và công nghệ đã được ứng dụng
rộng rãi trong các lĩnh vực của cuộc sống con người trên khắp hành tinh chúng ta.
Công nghệ cao đã xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực, các ngành sản xuất của nền kinh
tế nông nghiệp truyền thống, biến đổi chúng thành các ngành của kinh tế tri thức. Sự
phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ diễn ra trên các lĩnh vực sinh học, vật
liệu mới, năng lượng và thông tin... là tiền đề để tri thức trở thành lực lượng sản xuất
mà dự đoán của C. Mác và Ăngghen cách đây gần 200 năm đã thành hiện thực.
Hiện tại, chủ nghĩa tư bản đang lợi dụng thành tựu của khoa học - công nghệ
để củng cố và tăng cường địa vị thống trị. Vì vậy, giống như toàn cầu hóa, cách mạng
khoa học - công nghệ cũng có những tác động hai mặt đến các mối quan hệ quốc tế,
nhất là đối với các nước đang phát triển và các nước đang xây dựng chế độ xã hội
chủ nghĩa. Một mặt cách mạng khoa học - công nghệ tạo cho các nước này cơ hội đi
tắt, đón đầu để tiến kịp trình độ khoa học của thế giới, rút ngắn thời gian công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Mặt khác, cũng làm cho các nước đang phát triển dễ rơi vào tình
trạng bị phụ thuộc vào các nước công nghiệp phát triển đang nắm giữ những thành
quả của cách mạng khoa học - công nghệ. Nhận thức được điều đó giúp các nước
đang phát triển và các nước xã hội chủ nghĩa tìm được đường lối phát triển theo
hướng độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo phù hợp với đặc điểm, tình hình thế giới.
Bốn là, trong nước, bên cạnh những thuận lợi do tiến trình đổi mới và hội
nhập quốc tế đem lại chúng ta cũng còn gặp rất nhiều khó khăn, thách thức

Những khó khăn, thách thức chủ yếu đến từ những yếu kém vốn có của nền
kinh tế, thiên tai, dịch bệnh, tác động của tình hình thế giới, khu vực; các hoạt động
chống phá, kích động bạo loạn, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch... Trong


7

bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn
thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng. Đó là: Nền kinh tế vượt qua nhiều
khó khăn, thách thức, cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì được tốc độ
tăng trưởng khá, các ngành đều có bước phát triển, tiềm lực và quy mô nền kinh tế
tăng lên; giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã
hội có tiến bộ; bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống các
tầng lớp nhân dân được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh
được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ
vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế
của nước ta được nâng cao...Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối mặt với những thách
thức trong nước như: kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, tính
cạnh tranh thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa còn chậm; các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc; phân phối còn nhiều bất hợp
lý. Những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường chậm được khắc phục. Tệ quan liêu tham
nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được huy đầy đủ…Những
thách thức đó cũng tác động nhất định đến quá trình đẩy mạnh quan hệ đối ngoại nếu
chúng ta không kiên quyết, ngăn chặn và đẩy lùi, tạo môi trường thuận lợi cho quá
trình hội nhập sâu rộng vào các quan hệ quốc tế.
Tóm lại, đứng trước biến động của tình hình thế giới và thời đại, mâu thuẫn
thời đại, chiến tranh và hòa bình, toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ,
Việt Nam phải có những lựa chọn khắt khe, hoặc bị tụt hậu hoặc bị làn sóng toàn cầu

hóa cuốn trôi. Không tham gia vào quá trình đó sẽ trở thành người ngoài cuộc, sẽ bị
phân biệt đối xử trong tiếp cận thị trường, hàng hóa… Do vậy, trong quá trình triển
khai mở rộng quan hệ đối ngoại cần thể hiện rõ bản lĩnh trí tuệ trong chiến lược và


8

sách lược ngoại giao. Chính vì vậy, phải đẩy mạnh mở rộng quan hệ đối ngoại và hội
nhập kinh tế quốc tế, phục vụ tốt nhất các mục tiêu của đất nước.
1.2. Bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trong hoạch định đường lối đối ngoại
thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế
Xuất phát từ quá trình đổi mới tư duy về mở rộng quan hệ đối ngoại, Đảng ta
đã có những nhận thức mới về thời đại và xu hướng chủ yếu trên thế giới đương đại.
Từ yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng đã
thể hiện bản lĩnh, trí tuệ của một chính Đảng tiên phong trong hoạch định đường lối
và chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể:
Bản lĩnh, trí tuệ của Đảng thể hiện trong quan điểm, tư tưởng đối ngoại
và hội nhập quốc tế
Thứ nhất, về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII
của Đảng khẳng định rõ quan điểm: tiến hành đường lối đối ngoại bảo đảm lợi
ích tối cao của quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi; Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; Đa dạng hóa, đa phương hóa trong
quan hệ đối ngoại; Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin
cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Như vậy, trong quan điểm đối ngoại là: khẳng định rõ nội dung chủ trương
đối ngoại là “hòa bình, hợp tác và phát triển trên cơ sở tôn trọng lợi ích chính đáng
của nhau”. Quan điểm này nhằm bảo vệ những lợi ích căn bản của đất nước trong
quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại đó là độc lập dân tộc, hòa bình và phát triển
bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ điều kiện quốc tế

thuận lợi phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc..
Về tư tưởng chỉ đạo của Đảng được xác định:
Kiên định nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời
phải sáng tạo, năng động, linh hoạt về sách lược.


9

Nội dung trên đã cụ thể hóa tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” biểu hiện sự
kết hợp giữa tính kiên định về nguyên tắc, lập trường quan điểm với sự linh hoạt về
phương pháp và cách xử trí trước mọi tình huống. Nói cách khác, đây chính là sự
kiên định mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Hiện nay, xu thế mở cửa hội nhập là khách quan, nhất là những nước chậm
phát triển, đang phát triển. Do đó, không thể một quốc gia nào đứng riêng, tách rời
mà phát triển được. Độc lập, tự chủ không phải là đóng cửa khép kín mà là tạo nên sự
tùy thuộc, phụ thuộc lẫn nhau, càng phụ thuộc lẫn nhau đa dạng bao nhiêu càng độc
lập bấy nhiêu. Thực tế khi tham gia hội nhập quốc tế Việt Nam sẽ thấy rõ cái mạnh
cũng như cái yếu, thấy được cơ hội cũng như thách thức mới phải vận động vượt qua.
Thứ hai, về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại và hội nhập quốc tế
Một là,giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn
lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Hai là, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Ba là, nâng cao vị thế,
uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Cả 3 thành tố trên đều có cơ sở khoa học, khách quan; có mối quan hệ chặt
chẽ, thống nhất, trong đó mục tiêu yêu cầu: “Giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao
đời sống nhân dân” được đặt lên hàng đầu; đồng thời phải nhận thức rõ vị trí của
công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; thấy rõ

mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa với
mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế. Công tác đối
ngoại và hội nhập quốc tế phải góp phần quan trọng bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.


10

Trong quá trình mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập
quốc tế, một mặt chúng ta phải đề cao mục tiêu tối thượng là lợi ích quốc gia-dân
tộc, mặt khác phải nắm vững những nguyên tắc và vấn đề cơ bản của thông lệ
quốc tế để góp phần nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Thứ ba, về phương châm, nguyên tắc, giải pháp đẩy mạnh mở rộng quan hệ
đối ngoại và hội nhập quốc tế
Phương châm mở rộng quan hệ đối ngoại: Tiếp tục phương châm đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, ưu tiên phát triển quan hệ hợp
tác và hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung biên giới như:
Lào, Trung Quốc và Cam-pu-chia. Ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định
thương mại song phương, đa phương mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ
trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước.
Về quan hệ với ASEAN: Việt Nam sẽ chủ động, tích cực và có trách nhiệm
cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với
các đối tác, duy trì và củng cố vai trò quan trọng của ASEAN trong các khuôn khổ
hợp tác khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Xây dựng cộng đồng ASEAN trở thành
một trọng tâm đối ngoại của quốc tế. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các
đối tác, nhất là các đối tác chiến lược. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các
cơ chế đa phương, đặc biệt là với các nước ASEAN.
Với phương châm Việt Nam là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng

quốc tế, Việt Nam sẽ mở rộng tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ
động, trách nhiệm vào các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn
cầu..., đặc biệt là Liên hợp quốc. Việt Nam sẽ tích cực hợp tác với các nước, các
tổ chức quốc tế để đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là
vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa


11

phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có tham gia các hoạt động hợp tác ở
mức độ cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc,….
Về hội nhập quốc tế: Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động
và tích cực hợp tác quốc tế. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo và các lĩnh vực khác. Bảo
đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị...; hội
nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt
mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu.
Như vậy, những quan điểm, chủ trương, định hướng hoạt động đối ngoại,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế mà Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương (khóa XI) trình Đại hội XII của Đảng có sự bổ sung, phát triển toàn
diện, sâu sắc hơn các đại hội trước của Đảng. Văn kiện đã chỉ ra quan điểm, mục
tiêu, nhiệm vụ, giải pháp hết sức đúng đắn, khoa học, phù hợp xu hướng quốc tế
và điều kiện thực tiễn của nước ta, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Bản lĩnh, trí tuệ của Đảng thể hiện ở sự chỉ đạo đẩy mạnh mở rộng quan hệ
đối ngoại
Thứ nhất, Đảng chỉ đạo đẩy mạnh mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
Với tư cách là Đảng Cộng Sản và là đảng duy nhất cầm quyền ở Việt
Nam, khi triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng về mở rộng quan hệ đối
ngoại, củng cố và tăng cường phát triển quan hệ với các chính đảng ở các quốc

gia khác nhau trên thế giới, Đảng Cộng Sản Việt Nam thực hiện nhất quán
nguyên tắc: Độc lập, tự chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, cùng nhau thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác, vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội.
Với các Đảng Cộng Sản và công nhân, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi
trọng việc tăng cường quan hệ đoàn kết, hữu nghị, ủng hộ lẫn nhau trong cuộc đấu
tranh vì chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế


12

trong sáng của giai cấp công nhân; tăng cường trao đổi các vấn đề lý luận và thực tiễn
về xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng Đảng, các vấn đề lớn của thế giới ngày nay;
tham gia diễn đàn, hội thảo khu vực và quốc tế của Đảng; đoàn kết và hợp tác bằng
các hình thức phù hợp; tích cực góp phần vào sự phục hồi và đi lên của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế.
Với Đảng nhân dân cách mạng Lào và Đảng nhân dân Campuchia được thể
hiện qua việc trao đổi nhiều đoàn cấp cao, đặc biệt là các chuyến thăm hữu nghị
chính thức Lào; thăm hữu nghị chính thức Campuchia của các nguyên thủ quốc gia.
Các Tuyên bố chung đạt được trong những chuyến thăm này là cơ sở quan trọng cho
việc không ngừng củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kếtđặc
biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, quan hệ láng giềng tốt đẹp, hợp tác toàn
diện, bền vững lâu dài Việt Nam - Campuchia.Thực hiện cơ chế gặp gỡ, tiếp xúc
thường xuyên giữa lãnh đạo cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam với lãnh đạo cấp cao
Đảng nhân dân Cách mạng Lào và Đảng nhân dân Campuchia đã trở thành truyền
thống tốt đẹp, vừa tạo nền tảng chính trị và định hướng chiến lược, vừa kịp thời tháo
gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm phát triển sự hợp tác toàn diện, thiết thực, có hiệu quả
trên tất cả các lĩnh vực giữa nước ta và nước bạn.
Với Đảng Cộng Sản Trung Quốc: Thông qua cuộc gặp cấp cao của hai Đảng,
hai Nhà nước trong, hai bên đã đạt được nhận thức chung quan trọng về việc nhất

quán lấy “phương châm 16 chữ” và “tinh thần 4 tốt” để chỉ đạo quan hệ hai nước
Việt Nam - Trung Quốc phát triển lâu dài, ổn định, tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ lẫn
nhau, đi sâu hợp tác cùng có lợi, cùng nhau phát triển, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở mối nước; tích cực hợp tác để xử lý và giải quyết các vấn đề tồn
tại hoặc mới nảy sinh trong quan hệ hai nước trên tinh thần coi trọng đại cục, hiệp
thương hữu nghị, công bằng, hợp lý, cùng có lợi; tăng cường phối hợp trong các công
việc quốc tế và khu vực, cùng nhau thúc đẩy xây dựng hòa bình lâu dài, cùng phồn
vinh ở Châu Á và thế giới. Nhất là, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trước những


13

biến động phức tạp của tình hình Biển Đông thời gian vừa qua càng chứng tỏ bản
lĩnh, trí tuệ sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giải quyết các tranh chấp,
bất đồng...
Với các đảng cầm quyền ở các nước trong khu vực Đông Nam Á, Đảng Cộng
sản Việt Nam triển khai nhiều hoạt động trao đổi đoàn, chia sẻ kinh nghiệm cầm
quyền, trao đổi ý kiến về phát triển quan hệ giữa các nước trong khu vực, tăng cường
hợp tác ASEAN, thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á - Châu Á Thái
Bình Dương và trên thế giới. Đảng đã cử nhiều đoàn đại biểu đi dự đại hội thường
kỳ, thăm và làm việc với các Đảng ở các nước ASEAN, như tổ chức Thống nhất dân
tộc Mã lai , Đảng Hành động nhân dân Singgapo …
Với các chính Đảng, tổ chức, phong trào độc lập dân tộc và tiến bộ, Đảng ta
chú trọng đoàn kết, hợp tác chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cùng nhau phấn
đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển, công bằng và tiến bộ xã hội.
Bên cạnh việc tăng cường và mở rộng quan hệ song phương với các chính
đảng trên thế giới, Đảng tiếp tục chỉ đạo tham gia một số diễn đàn đa phương. Hằng
năm, Đảng đã cử đoàn đại biểu tham gia và có những đóng góp thiết thực cho các
cuộc gặp quốc tế các Đảng Cộng sản và công nhân đang hoạt động hợp pháp tại các
nước trên thế giới.

Như vậy, thông qua chỉ đạo và hoạt động mở rộng quan hệ với các Đảng cầm
quyền, Đảng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quốc tế bổ ích về xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, về quản lý đất nước và giải quyết các vấn đề kinh tế - xã
hội - văn hóa. Những kinh nghiệm đó góp phần bổ sung cho lý luận và thực tiễn để
Đảng ngày càng hoàn thiện chủ trương, chính sách đối ngoại trong quan hệ quốc tế.
Thứ hai, Đảng chỉ đạo phát triển công tác đối ngoại nhân dân
Đảng và Nhà nước rất coi trọng vai trò của đối ngoại nhân dân. Kế thừa thành
tựu và kinh nghiệm đã đạt được, Đảng và Nhà nước đã tăng cường chỉ đạo phát triển
đối ngoại nhân dân với phương châm “Chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”.
Công tác đối ngoại nhân dân được chỉ đạo chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương,


14

trong đó chú trọng việc hướng dẫn, kiểm tra, rà soát lại các văn bản có liên quan để
kịp thời bổ sung, điều chỉnh hoặc sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới; đảm bảo
thống nhất trong công tác lãnh đạo chỉ đạo, thông tin; phối hợp chặt chẽ và thống
nhất hơn nữa giữa Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam cùng các đoàn thể, tổ chức nhân dân, các
ngành và các cấp trong việc định hướng và quản lý hoạt động đối ngoại nhân dân.
Tập trung theo hướng: Nâng cao chất lượng hoạt động đối ngoại nhân dân, chú trọng
phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác ổn định, có chiều sâu với các nước láng giềng,
bạn bè truyền thống, các nước có vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của ta;
tiếp tục đổi mới công tác đối ngoại nhân dân theo tinh thần thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển Việt Nam là bạn, đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng
công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu kịp thời cho lãnh đạo Đảng, Nhà nước về đối
ngoại nhân dân; kiện toàn, củng cố và phát triển bộ máy cán bộ làm công tác đối
ngoại nhân dân.
Thứ ba, Đảng chỉ đạo nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính

phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội, thiết lập quan hệ ngoại giao với các
nước trên thế giới.
Quan hệ với các tổ chức phi chính phủ. Sau Hội nghị quốc tế về hợp tác giữa
Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài được tổ chức tại Hà Nội (11 2003), các tổ chức phi chính phủ nước ngoài đã có dịp hiểu thêm về chính sách của
Việt Nam, về cơ chế phối hợp giữa các tổ chức phi chính phủ nước ngoài với các đối
tác Việt Nam. Các tổ chức phi chính phủ nước ngoài đã tham gia ngày càng tích cực
hơn trong việc cải thiện quan hệ đối tác giữa các đối tác Việt Nam và các tổ chức phi
chính phủ nước ngoài.
Quan hệ với Tổ chức Thương mại thế giới. Từ cuối năm 2001, Việt Nam bắt
đầu đi vào giai đoạn đàm phán thực chất về mở cửa thị trường với các đối tác.


15

Đến năm 2004, nỗ lực thúc đẩy đàm phán kết hợp với vận động chính trị - ngoại
giao với các đối tác nhằm thực hiện mục tiêu gia nhập WTO trong thời gian ngắn
nhất. Đảng đã nhấn mạnh: Khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những
thách thức rủi ro khi nước ta là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới.
Quan hệ với Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Những hoạt động ngoại giao
cấp nhà nước chúng ta đã tham gia phê chuẩn Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân
(năm 2006), ký Nghị định thư bổ sung Hiệp định bảo đảm hạt nhân với cơ quan
năng lượng nguyên tử quốc tế (năm 2007) và hàng năm tham gia vào Cơ chế
Đăng kiểm vũ khí thông thường của Liên hợp quốc... nhằm vừa thực hiện một
trong các biện pháp xây dựng lòng tin với các nước và làm tốt nghĩa vụ thành
viên của Liên hợp quốc vừa thể hiện tính nhất quán của đường lối đối ngoại hòa
bình, hợp tác, phát triển của Đảng và Nhà nước Việt Nam ở Liên hợp quốc.Hoạt
động ngoại giao của Việt Nam tại Liên hợp quốc toàn diện trên mọi lĩnh vực, đã góp
phần làm rõ chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, là
bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm với tất cả các nước, các tổ chức quốc
tế... Đây là bước tiếp nối tất yếu của quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại theo chiều

sâu, ổn định và bền vững.
Bản lĩnh, trí tuệ của Đảng thể hiện trong quan điểm độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế
Quan điểm độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là những chủ trương lớn
nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng. Đo đó, khi đề cập đến
quan điểm này, Đảng đã thể hiện bản lĩnh, trí tuệ trong việc xác định mục tiêu,
nhiệm vụ, phương hướng qua từng nấc thang phát triển của công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước. Điều này được thể hiện:
Thứ nhất, giữ vững độc lập, tự chủ luôn luôn là lợi ích cao nhất
Nghị quyết Trung ương 3 khoá VII (tháng 6-1992) nhấn mạnh bốn
phương châm xử lý các vấn đề quốc tế trong tình hình mới: Bảo đảm lợi ích dân


16

tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân; Giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường trong khi đẩy mạnh
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; Nắm vững hai mặt hợp tác và
đấu tranh trong quan hệ với mọi đối tượng; Tham gia hợp tác khu vực đồng thời
mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Đại hội XI nêu: "giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển"1.
Thứ hai, độc lập tự chủ luôn là cơ sở của hội nhập quốc tế
Đại hội VIII (1996) nêu: Mở rộng quan hệ quốc tế phải trên cơ sở giữ
vững độc lập tự chủ, bình đẳng,cùng có lợi, giữ gìn, phát hay bản sắc và những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
đối ngoại.Coi trọng và tiếp tục phát huy những quan hệ truyền thống.
Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII (tháng 12-1997) nêu: độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường là cơ sở vững chắc để đẩy mạnh hơn nữa đoàn kết, hợp tác và hội
nhập quốc tế nhằm góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và: nâng cao ý chí tự lưc, tự cường, giữ vững
bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Nghị quyết Trung ương 6 (tháng 8- 2003) về bảo vệ an ninh quốc gia nếu
quan điểm tư tưởng chỉ đạo đối với công tác đối ngoại, " giữ vững độc lập tự chủ
đi đôi với mở rộng quan hệ đối ngoại". Và "để củng cố môi trường quốc tế hoà
bình, ổn định, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần tiếp tục
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tích cực chủ động tiến
hành hoạt động đối ngoại trên cơ sở đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa
dạng hoá, thực hiện hội nhập khu vực và quốc tế.
Thứ ba, xử lý phù hợp mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và giữ vững độc
lập, tự chủ
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.84


17

Đảng ta luôn cho rằng độc lập tự chủ không đồng nghĩa với biệt lập hoặc
cô lập mà trái lại, độc lập tự chủ luôn được đặt trong mối quan hệ khăng khít với
đoàn kết quốc tế, mở rộng hợp tác quốc tế.Mối quan hệ giữa mục tiêu và phương
cách của độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế đã được xử lý thỏa đáng trong quá
trình hội nhập quốc tế. Theo đó, hội nhập quốc tế được coi là “phương cách” để
tăng nguồn lực giữ độc lập, tự chủ; hội nhập quốc tế là kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại.
Cương lĩnh 1991 nêu đoàn kết, trong đó có đoàn kết quốc tế là “truyền
thống quý báu và bài học lớn” của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh còn nêu ra
bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước
với sức mạnh quốc tế: “Ngày nay, trước cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, trước sự phát triển vũ bão

của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại về quá trình quốc tế hóa
mạnh mẽ nền kinh tế thế giới, càng cần phải kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc với
yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để đưa đất nước tiến lên" 1.
Do đó, Cương lĩnh đã chỉ rõ: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất
nước và thế giới như trên chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường,
phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc,đồng thời mở rộng quan
hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VII chỉ rõ: “Cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn
biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ
của lực lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới để có
những chủ trương đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới càng phải coi trọng
vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh
trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.130, 134.


18

phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chúng ta chủ
trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế
độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”1.
Đại hội VIII rút ra một trong những bài học chủ yếu sau 10 năm thực hiện
công cuộc đổi mới là việc “mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh
cùa thời đại”2.
Đại hội X (tháng 4-2006) nêu: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa

phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác.Việt
Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích
cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”3.
Đại hội XI (2011) khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất
nước; vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giầu
mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc
tế góp phần vào sự nghiệp hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”4.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định rõ quan điểm: tiến hành
đường lối đối ngoại bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi; Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; Chủ động và tích cực hội
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.88
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.73-74

2

3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.112

4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.83-84



19

nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế.
Thứ tư, phạm vi của hội nhập quốc tế được phát triển phù hợp với thế,
lực của đất nước và bối cảnh quốc tế: từ hội nhập kinh tế đến hội nhập toàn diện
Thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được Đảng ta sử dụng lần đầu tiên trong
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (1996): “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội
nhập với khu vực và thế giới” 1; đến Đại hội IX của Đảng (2001), thuật ngữ này
được nhấn mạnh: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa...”2 và được sử dụng phổ biến trong các văn
kiện khác về hội nhập kinh tế quốc tế.
Cho đến Đại hội X (2006) lĩnh vực hội nhập vẫn chỉ nêu là hội nhập kinh
tế, Đại hội X lần đầu tiên nêu hợp tác quốc tế (thực chất là hội nhập) trong các
lĩnh vực khác: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở
rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”3.
Đại hội XI (2011): “Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa
nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới. Phấn đấu cùng với các
nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) xây dựng Đông Nam Á
thành khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển toàn diện”4.
2. Một số kinh nghiệm rút ta qua quá trình Đảng hoạch định đường
lối đối ngoại thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế
2.1. Kiên định với đường lối đối ngoại độc lập tự chủ; đẩy mạnh đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế vì lợi ích quốc gia dân tộc

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.84-85

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 43

2

3

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.112

4

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.84


20

Trong bất kỳ giai đoạn nào của cách mạng, vấn đề độc lập, tự chủ cũng là
khát vọng của mỗi quốc gia dân tộc. Có độc lập tự chủ, tự lực tự, cường mới bảo
vệ được lợi ích chân chính của quốc gia dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đặt nền móng vững chắc cho nền ngoại giao
Việt Nam đã chỉ rõ: Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của
chúng tôi, không có sự can thiệp ở bên ngoài vào. Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
theo tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở tính chủ động, sáng tạo trong tư duy và hành
động, không dập khuôn máy móc không thụ động hoặc ỷ lại. Điều này cũng có
nghĩa dân tộc Việt Nam phải tự mình hoạch định đường lối, chính sách đối nội và
đối ngoại. Đường lối đó phải phục vụ lợi ích quốc gia như: độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, tự do hạnh phúc cho nhân dân.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng đã vận dụng và phát triển tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ và lợi ích dân tộc, đồng thời mở
rộng quan hệ hợp tác với các nước trong cộng đồng quốc tế trên cơ sở mục tiêu
nhất quán là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã linh hoạt điều chỉnh mục

tiêu đối ngoại đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam và thích ứng
với xu thế quốc tế. Đó là, lấy mục tiêu hòa bình và phát triển làm chuẩn mực trong
mọi hoạt động quốc tế của mình; chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ
chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị - kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế, phục
vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đại hội VII của Đảng (6 - 1991)
yêu cầu quán triệt việc đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc
gia, mọi tổ chức kinh tế, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền hạn thành viên của
nước ta, gia nhập các tổ chức quốc tế và các Hiệp hội kinh tế khác khi cần thiết và
có điều kiện. Đại hội VIII chủ trương: “Mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền
và các đảng khác”1. Đại hội IX và Đại hội X của Đảng yêu cầu: chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

1

Sđd, Tr. 121.


21

Trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ
đạo: bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa coi đó là lợi ích cao nhất. Trong quan hệ đối ngoại phải quán triệt: lấy việc
giữ vững môi trường hòa bình để phát triển kinh tế - xã hội là mục tiêu cao nhất,
đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.Mục tiêu của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và thực hiện chính sách đối ngoại là
bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình,
hợp tác và phát triển. Đó là lợi ích dân tộc, đồng thời là nội hàm xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác, chủ nghĩa xã hội thế

giới hiện đang tạm thời thoái trào. Việc tồn tại và xây dựng thành công một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một đóng góp lớn cho thế giới. Tất cả những điều trên
khẳng định tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường và bảo vệ lợi ích chính đáng
của dân tộc.
Từ lý luận và hoạt động đối ngoại trong thực tiễn thập kỷ đầu thế kỷ XXI
có thể thấy, lợi ích tối cao của dân tộc ta hiện nay là đảm bảo môi trường hòa
bình ổn định và các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước; quyết
không để đất nước bị lôi kéo vào chiến tranh hoặc xung đột giữa các nước lớn;
không tham gia vào liên minh với bất cứ một nước hoặc một nhóm nước nào để
chống nước khác; không để lâm vào thế bị bao vây, cô lập như trong thập niên
80 của thế kỷ trước. Mặt khác, phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, có bảo vệ
được lợi ích dân tộc thì mới có nền độc lập, tự chủ bền vững. Song, không vì lợi
ích dân tộc hẹp hòi mà làm ảnh hưởng hoặc xâm phạm lợi ích của các dân tộc
khác; phải đặt “Nghĩa vụ quốc tế” trong chính sách và ưu tiên đối ngoại phù hợp
với lợi ích dân tộc.
2.2. Xác định rõ đối tác và đối tượng trong các hoạt động đối ngoại để
có chủ trương, chính sách phù hợp


22

Xác định rõ đối tác và đối tượng là một điểm mới của Đảng, từ tư duy biện
chứng đó đã có tác dụng thiết thực trong xử lý các mối quan hệ quốc tế một cách
năng động vừa đúng chủ trương vừa giải quyết được tình huống trong từng hoàn
cảnh, thời điểm, từng mối quan hệ... trong thế giới đầy phức tạp.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (9 - 2013) đề cập. Trong đối
tác có đối tượng, trong đối tượng có đối tác. Xác định rõ nguyên tắc:
Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp

vào công việc nội bộ, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình

đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác. Bất kể thế lực nào có âm mưu và
hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa đều là đối tượng đấu tranh. Mặt khác, trong
tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: trong
mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác có thể có
mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Cần khắc phục khuynh hướng mơ hồ mất
cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và xử lý cụ thể.
Như vậy, quan hệ đối tác xuất phát trước hết từ các cơ sở: mối quan hệ
quốc tế nói chung và với một chủ thể nói riêng phát triển theo chiều rộng và
đứng trước nhu cầu phát triển theo chiều sâu, và những đột phá mới trong tư duy
và quan niệm về đối tác theo hướng biện chứng hơn, linh hoạt hơn, với tinh thần
cởi mở hơn. Đối tác tin cậy là tạo dựng một dạng quan hệ hợp tác mới đa dạng, thích
hợp với từng đối tượng, phù hợp với hoàn cảnh quốc tế và trong nước, có lợi cho tất
cả các bên, và dùng các bước quan hệ đó để tạo điều kiện vật chất, củng cố lòng tin ,
từ đó đưa tới những quan hệ mới sâu sắc và lâu bền hơn. Tình huống lý tưởng là
quan hệ đối tác vừa là sản phẩm, vừa là nguyên nhân của quan hệ hợp tác nói chung
và thành công của quan hệ đối tác có tác dụng làm cho quan hệ hợp tác được duy
trì và phát triển lâu bền.
Thực tiễn thời gian qua, Việt Nam đã và đang xử lý quan hệ với các nước
lớn, nhất là với Trung Quốc và Mỹ theo tinh thần này. Mỹ vừa là đối tượng vừa


23

là đối tác; Mỹ là đối tác kinh tế hàng đầu của ta, đặc biệt về thương mại. Song,
phía Việt Nam còn có nhiều vấn đề phải đấu tranh không khoan nhựơng với Mỹ,
nhất là trong vấn đề dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo vì Mỹ còn có âm
mưu lâu dài chống chủ nghĩa xã hội. Đối với Trung Quốc, là đối tác lớn, là nước
láng giềng cực kỳ quan trọng, liên quan trực tiếp đến an ninh và phát triển của
Việt Nam. Giữa hai nước Việt- Trung có một số điển chung như cùng xây dựng

chủ nghĩa xã hội, đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tuy nhiên, giữa Việt Nam và
Trung Quốc có không ít vấn đề phải kiên quyết đấu tranh. Đó là các vấn đề liên
quan trực tiếp đến biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên... Đây là cuộc đấu
tranh vô cùng gay go quyết liệt giữa đối tượng và đối tác (trên cả lý luận và thực
tiễn). Việc Trung Quốc đương nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong
thềm lục địa của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh hải của Việt
Nam, bất chấp luật pháp quốc tế, rõ ràng chúng ta xác định đó là đối tượng của
Việt Nam.Cho nên, phải kiên trì các nguyên tắc đã xác định, song lại phải rất
linh hoạt trong các quan hệ quốc tế.
Sự tồn tại và phát triển của mọi quốc gia đều gắn liền với môi trường
khu vực và quốc tế.Không có quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ có thể tự cô lập
khỏi thế giới xung quanh mà luôn chịu sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của
thế giới xung quanh và ngược lại.Các tác động đó có thể thuận, tức là có tác
dụng bổ trợ cho các mục tiêu của các quốc gia đó, giúp quốc gia đó mau
chóng và dễ dàng đạt được mục đích hơn.Ngày nay, trong thế giới toàn cầu hóa,
các quốc gia trên thế giới ngày càng liên kết với nhau chặt chẽ, sự phụ thuộc giữa
các quốc gia ngày càng tăng lên thì việc kết hợp giữa các yếu tố bên ngoài và các
nhân tố bên trong mỗi quốc gia ngày càng có ý nghĩa quan trọng quyết định sự
thành hay bại trong chính sách của mỗi quốc gia. Việc Việt Nam chủ trương hội
nhập đầy đủ vào đời sống khu vực và thế giới, tham gia ngày càng nhiều hơn vào
mọi mặt hoạt động của đời sống quốc tế càng đòi hỏi phải hiểu rõ đối tác và đối
tượng, nắm vững các xu thế vận động của thế giới nói chung và tận dụng các xu thế


24

đó phục vụ các mục tiêu của đất nước, hoặc để hạn chế tối đa các tác động tiêu cực
tới lợi ích quốc gia, dân tộc trong cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm, vừa hợp
tác, vừa đấu tranh, nhiều tầng, nhiều nấc, Đảng đã đề ra chủ trương đa dạng hóa, đa
phương hóa chính sách đối ngoại tranh thủ hợp tác với các đối tác trên tinh thần

Việt Nam “muốn là bạn”, “sẵn sàng là bạn”, “là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có
trách nhiệm” của các quốc gia trên thế giới, đồng thời tích cực, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế; là quan điểm đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với lợi ích dân tộc và xu
thế của thời đại thời kỳ mới.
2.3. Coi trọng xây dựng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước láng
giềng, tạo vành đai an ninh ổn định để xây dựng và phát triển đất nước
Trong lịch sử quan hệ quốc tế, quan hệ giữa các nước láng giềng với nhau
luôn là một trong những mối quan hệ quan trọng nhất, đồng thời cũng phức tạp
và nhạy cảm nhất.
Giữa các nước láng giềng, bên cạnh việc chia sẻ những giá trị chung trong
một khu vực địa lý, sinh thái, sự gần gũi về lịch sử, văn hóa truyền thống cũng
như về vị trí, vai trò, địa chiến lược… Từ đó mà nhiều nguyên nhân khác nhau
cũng thường tồn tại, nảy sinh cả những va chạm, thậm chí bất đồng mâu thuẫn về
lợi ích. Do đó, tất cả các nước dù lớn hay nhỏ đều đặc biệt quan tâm đến việc xử
lý các mối quan hệ với các nước láng giềng. Trên phương diện này, Việt Nam
cũng không là một ngoại lệ, nhất là trong bối cảnh mức độ tùy thuộc lẫn nhau
giữa các nước ngày càng gia tăng trước sự phát triển mạnh mẽ của xu thế toàn
cầu hóa hiện nay.
Trong quan hệ đối ngoại, quan niệm “các nước láng giềng” được Hồ Chí
Minh xác định không chỉ bao gồm các nước có chung biên giới với Việt Nam mà
cả những nước trong khu vực Đông Nam Á... Quan niệm này thể hiện tư duy
nhạy cảm về địa chính trị, vừa phản ánh lợi ích chiến lược của Việt Nam trong
mối liên hệ với khu vực, vừa phù hợp với những đặc thù và sự gắn bó về lịch sử,
văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc trong khu vực.


25

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng đã nhận thức rõ muốn có môi
trường thuận lợi để phát triển thì phải thực hiện được “nội yên, ngoại tĩnh”, trong đó

giành ưu tiên hàng đầu cho an toàn xã hội, bảo vệ môi trường, lợi ích quốc gia trên
khu vực và trên thế giới. Mục tiêu cụ thể là chủ động phòng ngừa, nắm chắc tình
hình phát hiện và xử lý kịp thời, nhanh chóng, chính xác mọi âm mưu và hành động
vi phạm chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia; giữ vững ổn định an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị với
các nước lãng giềng phục vụ chủ trương hội nhập quốc tế. Đó cũng là việc xây
dựng quan hệ đối ngoại theo cả chiều rộng và chiều sâu trong quan hệ quốc tế, góp
phần bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân các dân tộc trên thế giới và môi
trường hòa bình cho đất nước.
Vì vậy, ngày nay cần nhận thức đầy đủ hơn về vai trò, vị trí của các nước
láng giềng đối với sự phát triển của Việt Nam. Duy trì mối quan hệ hòa bình,
hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với các nước láng giềng là một trong những nhân tố
quan trọng đối với sự phát triển của Việt Nam.
2.4. Có thái độ ứng xử đúng đắn trong quan hệ với các nước lớn và các
tổ chức quốc tế nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
Việc đánh giá đúng chiến lược, sách lược của các nước lớn, quan hệ giữa họ
và tác động có thể đối với Việt Nam; đánh giá đúng lợi ích, mặt đối tác cũng như
đối tượng của từng nước lớn trong quan hệ với ta; biết tạo dựng “con bài” và sử
dụng tốt “con bài” không bị rơi vào thế “kẹt” trong quan hệ giữa các nước lớn;
đồng thời giữ vững độc lập tự chủ, sự ổn định và đoàn kết, thống nhất bên trong là
những điều kiện hàng đầu để cho ngoại giao Việt Nam có thể thành công trong
việc xử lý các mối quan hệ với các nước nói chung, các nước lớn nói riêng.
Trong lịch sử thế giới, chiến lược của các nước lớn và mối quan hệ đấu
tranh, thỏa hiệp giữa họ với nhau thường chi phối tình hình thế giới và quan hệ
quốc tế. Sự dàn xếp thỏa hiệp giữa họ với nhau thường được bỏ qua các nước
nhỏ yếu, kể cả đồng minh.Tuy nhiên, nếu các nước nhỏ, yếu có đối sách đúng


×