Tải bản đầy đủ (.doc) (189 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của các tạp chí ban đảng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 189 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X
(8/2007) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới đã khẳng
định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của công tác tư tưởng, lí luận, báo chí
trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp
công nhân, lí tưởng xã hội chủ nghĩa, những giá trị tốt đẹp trong truyền thống
văn hoá dân tộc, những tinh hoa văn hoá thế giới chiếm vị trí chủ đạo trong
đời sống tinh thần xã hội.
Trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ
bão; toàn cầu hóa và kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, báo chí thế giới và
báo chí Việt Nam chỉ có thể vượt qua thách thức, chớp lấy thời cơ để phát
triển một khi chấp nhận dấn thân vào môi trường cạnh tranh bình đẳng, quyết
liệt.
Tháng 11 năm 2008, Viện Báo chí Mỹ đã tổ chức một cuộc họp thượng
đỉnh với sự tham gia của 50 nhà lãnh đạo báo chí nước này với mục đích tìm
giải pháp cứu các tờ báo in thoát khỏi cơn khủng hoảng. Câu hỏi: “Báo in:
Phát triển hay là chết?” không chỉ dành cho nền báo chí Mỹ. Tiến trình toàn
cầu hóa và hội nhập đã và đang tác động nhiều mặt đến sự phát triển của nền
báo chí Việt Nam. Ở nước ta, ngành truyền hình, các trang báo điện tử và các
trang thông tin điện tử phát triển mạnh mẽ. Mới đây, ngày 11-11-2013, Tạp
chí Thế giới Mới – món ăn tinh thần không thể thiếu trong suốt những năm
1990 và đầu năm 2000, với đỉnh cao là 70.000 bản/kỳ tuyên bố ra số cuối
cùng và buộc phải đình bản vì những khó khăn về tài chính. Do đó, để tồn tại,
các tòa soạn báo in (trong đó có tạp chí các ban đảng) đang nỗ lực tìm kiếm
các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh bằng cách song song với sự
1
thay đổi nội dung và hình thức của ấn phẩm, tìm ra những giải pháp mới
nhằm tiếp cận và chiếm lĩnh công chúng.
Thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, mạng xã hội,


nhiều loại hình báo chí mới xuất hiện, ngày càng phong phú, đa dạng và cơ
chế thị trường giàu tính cạnh tranh buộc các tạp chí các ban đảng phải đổi
mới, nâng cao năng lực cạnh tranh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Trong bộ máy tổ chức của hầu hết các ban đảng trung ương đều có một
cơ quan ngôn luận của mỗi ban, đó là những tạp chí có tính nghiệp vụ và
hướng dẫn nghiệp vụ công tác đảng. Các tạp chí ban đảng nằm trong hệ thống
báo đảng, là một bộ phận quan trọng của hệ thống báo chí nước ta hiện nay.
Các báo, tạp chí điện tử, mạng xã hội, trang thông tin điện tử có nhiều
ưu thế về tính thời sự, tiện sử dụng, tương tác với bạn đọc đang ngày càng lấn
lướt báo, tạp chí in. Cho dù các ban đảng đã mở các trang mạng điện tử cũng
khó cạnh tranh về nội dung với các báo, tạp chí khác bởi những quy định,
nguyên tắc về nội dung của một tờ báo, tạp chí của Đảng.
Trong cơ chế thị trường định hướng XHCN, ngay trong cùng một loại
hình báo, tạp chí in hay điện tử, tính cạnh tranh là tất yếu và ngày càng gay
gắt. Báo chí nói chung và tạp chí các ban đảng nói riêng đang vận hành theo 3
cơ chế tài chính chủ yếu là sự nghiệp có thu, tự cân đối và tự hạch toán. Xu
hướng chung là giảm bao cấp, tiến tới tự cân đối và hạch toán. Như một lẽ tất
yếu, những điều không phù hợp với thực tiễn cuộc sống sẽ phải dần điều
chỉnh nếu không muốn trở thành yếu tố tụt hậu, cản trở sự phát triển. Sự “sát
hạch” của cuộc cạnh tranh này sẽ không loại trừ một lĩnh vực nào. Báo chí,
trong đó có hệ thống tạp chí các ban đảng không là một ngoại lệ. Những đòi
hỏi phải cải tiến để thích ứng nhanh về nhu cầu thông tin bởi mặt bằng nhận
thức ngày càng cao của công chúng đối với hệ thống tạp chí các ban đảng trở
nên bức thiết hơn bao giờ hết.
2
Trong xu thế cạnh tranh gay gắt giữa các loại hình báo chí hiện nay, tạp
chí các ban đảng đứng trước áp lực thực sự. Nếu vẫn cách làm tuyên truyền
theo kiểu cũ thì không thu hút độc giả, không đáp ứng nhu cầu thực tiễn và
yêu cầu nhiệm vụ. Điều đó đòi hỏi phải tìm ra giải pháp tạo ra sự tồn tại trong
giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế. Tạp chí các ban đảng sẽ vẫn giữ định

hướng nhưng đổi mới nội dung, hình thức, đầu tư hợp lý, thích đáng và kịp
thời.
Các tạp chí ban đảng ngày có vị trí, vai trò quan trọng, đặc biệt trong
công tác đảng. So với nhu cầu, yêu cầu của bạn đọc, các tạp chí ban đảng
còn nhiều hạn chế, bất cập.
Thời gian vừa qua, cùng với sự chuyển mình của cả hệ thống báo đảng
trước những yêu cầu đòi hỏi của công chúng, tạp chí các ban đảng đã có nhiều
cải tiến, nâng cấp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
Các tạp chí ban đảng đã bám sát chức năng, nhiệm vụ của ban đảng
Trung ương, thực hiện các phương thức hoạt động phù hợp thu được kết quả
khả quan. Bằng các phương pháp hoạt động phong phú, vừa đảm bảo tính đặc
thù tạp chí theo tôn chỉ, mục đích của từng cơ quan báo chí, vừa thực hiện
nhiệm vụ tuyên truyền chung, các tạp chí của các ban đảng đã khẳng định vị
trí quan trọng trong hệ thống báo chí và đời sống xã hội; tham gia tích cực
công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, kiến thức lý luận trên
nhiều lĩnh vực đối với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; làm tốt
thông tin hai chiều, tham mưu giúp Đảng, Chính phủ lãnh đạo, điều hành đất
nước, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế,
uy tín Việt Nam trên trường quốc tế, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
3
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, các tạp chí đã bám sát những
quan điểm, đường lối của Đảng về công tác xây dựng đảng, tuyên truyền,
hướng dẫn có hiệu quả nhiệm vụ xây dựng Đảng trên tất cả các lĩnh vực tổ
chức, tuyên giáo, kiểm tra, dân vận. Các tạp chí đã thông tin đúng, kịp thời,
có chiều sâu, phù hợp với đối tượng phục vụ chính. Các tạp chí đã đăng tải
những hướng dẫn quan trọng giúp độc giả trong cả nước, cụ thể hơn là những
độc giả làm công tác xây dựng đảng trong toàn Đảng nắm chắc hơn những
quan điểm đường lối, chủ trương, chính sách, của Đảng trên các lĩnh vực, góp

phần đắc lực thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Qua những bài viết, bài
nghiên cứu, các tạp chí đã đưa ra một số kiến nghị, đề xuất với các ban đảng,
qua đó, các ban đảng tham mưu cho Đảng những chủ trương quan trọng.
Xây dựng Đảng vốn là đề tài khó không chỉ về nội dung mà về cách thể
hiện. Do đó, các tạp chí ban đảng thường khô khan, ít hấp dẫn, khó thu hút
bạn đọc. Nội dung ít có những phát hiện mới, phản biện, thường theo xu
hướng một chiều, minh họa là chính.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song với đặc thù là những tạp chí, với tần
suất phát hành 1kỳ/tháng, nên nhìn chung, tính thời sự của các tạp chí không
cao. Nhiều hướng dẫn đưa ra trên các tạp chí còn tương đối chậm so với
những diễn biến mau lẹ của thực tế tình hình công tác đảng ở nhiều tổ chức,
đơn vị trong toàn Đảng, vì thế, với có nhiều trường hợp, các tạp chí chưa thực
sự làm tốt nhiệm vụ hướng dẫn nghiệp vụ. Tuy tạp chí các ban đảng giữ vững
tôn chỉ, mục đích, không chệch hướng, không giật gân câu khách, không chạy
theo lợi nhuận nhưng hạn chế lớn nhất, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của hiện nay là tính chuyên nghiệp, tính hiện đại chưa đáp ứng được yêu cầu
bạn đọc; khả năng định hướng dư luận xã hội, tính chiến đấu và thuyết phục
chưa cao, chưa thực sự hướng tới đối tượng là những người trực tiếp làm công
tác đảng ở cơ sở.
4
Hình thức trình bày tạp chí của các ban đảng chậm đổi mới, chất lượng
in ấn chưa cao, chưa tạo được sự hấp dẫn, thu hút bạn đọc, làm hạn chế năng
lực cạnh tranh của tạp chí.
Tổ chức, hoạt động của các tạp chí theo yêu cầu chức năng, nhiệm vụ
khác nhau nhưng đều phải tuân theo cơ chế, nguyên tắc, quy định hoạt động
tài chính chung của Văn phòng Trung ương Đảng, chưa có những quy định
đặc thù phù hợp với yêu cầu đặc thù tạp chí, nên chưa tạo điều kiện phát triển
hoạt động và nâng cao chất lượng nội dung, hình thức tạp chí, làm hạn chế số
lượng phát hành tạp chí, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các tạp chí.
Tuy phát hành qua bưu điện, nhưng trên thực tế, các tạp chí vẫn phát

hành theo “đơn đặt hàng” của các ban đảng theo hệ thống ngành dọc, chưa
phản ánh đúng thực chất nhu cầu cần thông tin và “mua” của các địa phương,
đơn vị.
Về tổ chức, do các tạp chí là đơn vị trực thuộc các ban đảng với phạm
vi chức năng, nhiệm vụ khác nhau nên hoạt động của các tạp chí phụ thuộc
nhiều vào công tác của từng ban; tính độc lập, tính chuyên nghiệp về báo chí
chưa cao; việc sắp xếp, phân công, điều chuyển cán bộ tạp chí theo quy trình
ít có sự khác biệt so với quy trình bố trí cán bộ của các vụ, đơn vị khác.
Không ít trường hợp có một số cán bộ được tuyển dụng vào các ban đảng, do
không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của các vụ, đơn vị lại được bố trí
chuyển về công tác tại tạp chí, một số khác không có trình độ chuyên môn và
nghiệp vụ báo chí nhưng do có sự tác động của nhiều phía để vào làm tạp chí,
dẫn đến thời gian bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ đối với cán bộ kéo
dài, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của tạp chí.
Việc xây dựng thành lập ban chỉ đạo, hội đồng chỉ đạo, hội đồng biên
tập còn chưa thống nhất, hoạt động không thường xuyên, nhiều thành viên
tham gia là các nhà khoa học, hoặc là các đồng chí lãnh đạo cao cấp, có uy tín
5
nhưng ít thời gian, lại được nhiều tạp chí mời tham gia, trong khi chế độ bồi
dưỡng phụ cấp hàng tháng theo quy định chung quá thấp nên khó phát huy
được khả năng đóng góp cùng một lúc cho nhiều tạp chí.
Hơn nữa, các tạp chí ban đảng đã quá quen với nếp làm báo cũ, sức ỳ
lớn do cơ chế bao cấp. Nâng cao năng lực cạnh tranh đòi hỏi phải có tư duy
đổi mới, có nguồn nhân lực, vật lực đảm bảo, chủ bút có tâm, có tài, cây bút
có nghị lực.
Xuất phát từ sự cấp thiết về lý luận và thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề
tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các tạp chí ban đảng trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập quốc tế” làm đề tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành Báo chí
học.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh của tạp
chí ban đảng; làm rõ những yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh và đánh
giá đúng thực trạng năng lực cạnh tranh của các tạp chí ban đảng, Luận án đề
xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các tạp chí ban đảng ở Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận án thực hiện một số
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh của tạp chí ban
đảng: khái niệm "cạnh tranh", "tạp chí các ban đảng", "năng lực cạnh tranh
của tạp chí các ban đảng"; những tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của
tạp chí các ban đảng; những yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của tạp
chí ban đảng.
6
- Đánh giá đúng thực trạng năng lực cạnh tranh của các tạp chí các ban
đảng.
- Dự báo xu hướng cạnh tranh của tạp chí các ban đảng và đề xuất các
giải pháp và những kiến nghị nâng cao năng lực cạnh tranh của các tạp chí
ban đảng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Năng lực cạnh tranh của các tạp chí ban đảng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu năng lực cạnh tranh của các tạp chí ban đảng, tập
trung vào các mặt: nội dung thông tin, hình thức thể hiện, phương thức phát
hành, công tác bạn đọc, thu hút quảng cáo.
Luận án chọn 4 tạp chí: Tạp chí Xây dựng Đảng, Tạp chí Dân vận, Tạp
chí Kiểm tra, Tạp chí Tuyên giáo vì các lý do sau đây: Tạp chí Xây dựng
Đảng (Ban Tổ chức Trung ương), Tạp chí Tuyên giáo (Ban Tuyên giáo Trung

ương), Tạp chí Dân vận (Ban Dân vận Trung ương) và Tạp chí Kiểm tra (Uỷ
ban Kiểm tra Trung ương) có hoạt động thực sự theo tính chất của một cơ
quan báo chí (ấn phẩm xuất bản định kỳ, phát hành rộng rãi (qua hệ thống
bưu điện và tổ chức ngành dọc), có bộ máy tương ứng là một cơ quan báo chí.
Thời gian khảo sát: từ năm 2006-2010.
4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Các tạp chí ban đảng cần đáp ứng những tiêu chí nào để nâng cao
năng lực cạnh tranh?
- Thực tế năng lực cạnh tranh của các tạp chí ban đảng hiện nay có
những bất cập gì và nguyên nhân của những bất cập đó?
7
- Cần thực hiện những giải pháp nào để khắc phục những bất cập và
nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới hiện nay?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Xu thế vận động phát triển về nội dung, hình thức, đối tượng công
chúng, tạp chí các ban đảng sẽ phải cạnh tranh với hệ thống báo in trong
nước, với hệ thống các tạp chí khoa học chuyên ngành và cạnh tranh ngay
trong hệ thống tạp chí các ban đảng với nhau. Các tạp chí các ban đảng cần
đáp ứng các tiêu chí sau để nâng cao năng lực cạnh tranh: nội dung thông tin,
hình thức thể hiện, phương thức phát hành, tương tác công chúng, thu hút
quảng cáo.
- Tạp chí các ban đảng bên cạnh những thuận lợi như có sự quan tâm
của cơ quan chủ quản, năng lực của các cơ quan, năng lực của đội ngũ cán bộ
thì sẽ gặp không ít những khó khăn do sức ép của sự phát triển của phát
thanh, truyền hình, internet… Cơ chế hoạt động cũng sẽ thay đổi các tạp chí
trong hệ thống ban đảng sẽ không còn được bao cấp, mà phải tự hạch toán, tự
bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí, tự lo đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, đời
sống cho cán bộ, phóng viên và làm nghĩa vụ với Nhà nước, với cơ quan chủ
quản, trong khi vẫn phải đảm bảo nhiệm vụ chính trị, phải chấp hành đúng

luật pháp và quy định các cơ quan báo chí phải cạnh tranh để tồn tại và phát
triển.
Các tạp chí không thể không cải tiến nội dung, hình thức thông tin,
cách in ấn và trình bày, cố gắng nắm bắt nhu cầu bạn đọc. Tạp chí các ban
đảng đang có những mâu thuẫn trong quá trình cạnh tranh: muốn đổi mới
hình thức cho bắt mắt nhưng phụ thuộc vào nội dung quy định, muốn mở
rộng quy mô nhưng đối tượng phục vụ chính chỉ trong các tổ chức đảng,
muốn đổi mới nội dung, đề cập những vấn đề gai góc của cuộc sống nhưng bị
giới hạn bởi quy định tuyên truyền.
8
Tạp chí các ban đảng không thể buộc công chúng mua mà phải có
chiến lược phát hành để đến được với công chúng; chủ động phát hành nhanh
và rộng, quan tâm đến hiệu quả trực tiếp của hoạt động báo chí. Các tạp chí
cũng phải mở rộng quảng cáo, các hoạt động sau mặt báo, phải lo cải thiện
đời sống cán bộ, phóng viên, mở rộng quan hệ giao lưu với cơ quan báo chí
trong nước và nước ngoài.
Các tạp chí phải từng bước hiện đại hóa cơ sở thiết bị, phương tiện
nghiệp vụ, khơi dậy được nhiều tiềm năng của lực lượng làm báo trong nước
và đổi mới cách thức hành nghề để có thể hòa nhập với báo chí thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường, mối quan hệ cạnh tranh và hợp tác giữa
các tạp chí đôi khi phức tạp. Các cơ quan báo chí được phân công theo chức
năng, nhiệm vụ, tôn chỉ, mục đích và phạm vi hoạt động, nếu không có sự
phân công và hợp tác hợp lý, cạnh tranh lành mạnh, trên cơ sở tôn chỉ, mục
đích từng cơ quan tạp chí, có sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ, phát
hành được nhiều ấn phẩm tới cơ sở và đối tượng xác định thì chính các tạp chí
tự làm mất uy tín của mình và của tạp chí bạn trước công chúng.
- Vấn đề đặt ra là cần nâng cao năng lực cạnh tranh bằng cách thực hiện
đồng bộ các giải pháp: nhận thức; lãnh đạo, quản lý; nghiệp vụ; cán bộ; chế
độ tài chính.
5. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của đề tài

5.1. Cơ sở lý thuyết
Luận án tiếp cận mục tiêu và các nội dung nghiên cứu dựa trên những
lý thuyết chính sau đây:
- Lý thuyết báo chí - truyền thông và truyền thông đại chúng:
Luận án đã kế thừa các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về
lĩnh vực truyền thông tiêu biểu: GS, TS. Tạ Ngọc Tấn, PGS, TS. Nguyễn Văn
9
Dững, PGS, TS. Dương Xuân Sơn, PGS, TS. Đinh Hường, PGS, TS. Mai
Quỳnh Nam, TS. Lưu Hồng Minh…
- Lý thuyết về cạnh tranh:
Vốn dĩ là thuộc tính của kinh tế thị trường, cùng với quy luật cung cầu,
giá trị, quy luật cạnh tranh hợp thành cơ sở của kinh tế thị trường và kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
Nước ta từ Đại hội IX (2001) đã khẳng định thực hiện nhất quán nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, bởi vậy, báo chí trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt
quy luật cạnh tranh. Luận án khi luận giải về năng lực cạnh tranh của các tạp
chí ban đảng đã kế thừa trực tiếp lý luận cạnh tranh, chủ yếu là cạnh tranh đáp
ứng nhu cầu của độc giả.
- Lý thuyết về quan hệ công chúng:
Albert Oecke, một trong những người sáng lập truyền thống công tác
bạn đọc ở Đức gọi quan hệ quần chúng là “Sự cố gắng bền bỉ có ý thức để
xây dựng và chăm lo cho sự hiểu biết lẫn nhau, tin tưởng lẫn nhau trong công
chúng”. Công tác bạn đọc được quan niệm là việc chăm lo và góp phần tạo
nên những mối quan hệ với công chúng thông qua công việc thông tin liên lạc
[93, tr. 191-192]. Sự tồn tại hay không tồn tại của tạp chí, phần quan trọng tùy
thuộc vào quan hệ công chúng. Luận án tiếp cận dưới góc độ công chúng có
vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động báo chí. Công chúng quyết định
vai trò, vị thế và sức mạnh xã hội của báo chí và nhà báo; hiệu ứng xã hội –
nhận thức, thái độ và hành vi của công chúng và dư luận xã hội đối với những

sự kiện và vấn đề báo chí thông tin là căn cứ quan trọng nhất đánh giá năng
lực và hiệu quả tác động của báo chí. Không chỉ là đối tượng tác động, đối
tượng phản ánh, mà còn là khách hàng – thượng đế của tòa soạn báo chí, công
chúng còn là nguồn lực vô tận và là nguồn lực sáng tạo của báo chí.
10
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác-Lênin, Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Được sử dụng với mục đích tìm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống lý
thuyết về năng lực cạnh tranh nói chung, năng lực cạnh tranh của các tạp chí
ban đảng nói riêng; đồng thời kế thừa những kết quả nghiên cứu sẵn có; làm
cơ sở cho việc so sánh, đánh giá các kết quả khảo sát, tìm ra những giải pháp
khoa học cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra Xã hội học (an-két):
Mục tiêu sử dụng phương pháp này là thu nhận các nhận xét, đánh giá
của công chúng về 4 tạp chí trong diện khảo sát. Dung lượng mẫu là 300, lựa
chọn theo phương pháp chọn mẫu điển hình. Phân bố mẫu theo cư trú là: Hà
Nội: 100, Đà Nẵng: 100, TP. Hồ Chí Minh: 100; theo giới tính: nam 170, nữ:
130.
- Phương pháp phỏng vấn:
Sử dụng với mục tiêu nghiên cứu nhận thức, thực trạng năng lực cạnh
tranh của các tòa soạn các tạp chí ban đảng và thu thập ý kiến đánh giá của
các chuyên gia và các nhóm công chúng.
Cụ thể, đã tiến hành phỏng vấn sâu tại các tạp chí ban đảng với 3 nhóm
sau đây:
+ Nhóm 1: Các nhà quản lý bao chí gồm phỏng vấn sâu phân bổ đều ở
4 tạp chí: các tổng biên tập, phó tổng biên tập.
+ Nhóm 2: Các thành viên trong tạp chí bao gồm: phóng viên, biên tập

viên, thư ký tòa soạn, người trình bày, người phát hành.
11
+ Nhóm 3: Cộng tác viên của các tạp chí bao gồm cộng tác viên viết,
phát hành, quảng cáo.
Đã tiến hành phỏng vấn với nhóm công chúng cụ thể là nhóm địa bàn
cu trú Hà Nội, nhóm địa bàn cư trú Đà Nẵng, miền Trung, Tây Nguyên và
nhóm địa bàn cư trú tại TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Chọn mẫu
ngẫu nhiên, trên cơ sở chú ý đến loại hình tổ chức cơ sở đảng (thành thị, nông
thôn, doanh nghiệp, cơ quan, quân đội, công an), nhóm đảng viên công chức,
nhóm đảng viên hưu, nhóm đảng viên trẻ.
- Phương pháp phân tích nội dung:
2 nhóm các sản phẩm phân tích bao gồm: (1) Các trang, chuyên mục,
tác phẩm báo chí có liên quan đến các nội dung nghiên cứu trên các tạp chí
thuộc diện khảo sát phát hành năm 2006-2010. (2) Phân tích các mẫu nghiên
cứu công chúng, thư trả lời bạn đọc… của các tạp chí ban đảng.
- Phương pháp quan sát:
Tiến hành phối hợp khi tới tòa soạn thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu
và tiến hành các nghiên cứu. Mục đích quan sát chủ yếu là: xem xét điều kiện
và môi trường tổ chức và thực hiện các hoạt động của các tạp chí ban đảng;
các biểu hiện về nhận thức, thái độ và hành vi của cá nhân và tập thể liên
quan đến vấn đề nghiên cứu.
Để đảm bảo tính khách quan và nguyên tắc đạo đức trong nghiên cứu,
các cá nhân tham gia phỏng vấn sâu được để ở tình trạng khuyết danh khi
trình bày kết quả trong Luận án. Phần phụ lục của Luận án được tổ chức theo
nguyên tắc lựa chọn những kết quả nghiên cứu đã được chọn sử dụng trong
Luận án.
6. Đóng góp mới của Luận án
- Luận án đã xây dựng khung lý thuyết và lý luận về năng lực cạnh
tranh của tạp chí các ban đảng làm cơ sở để khảo sát thực trạng năng lực cạnh
12

tranh của tạp chí các ban đảng, đồng thời làm cơ sở để tạp chí các ban đảng
chủ động sãng tạo tham gia vào môi trường cạnh tranh.
- Luận án phân tích, đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của các tạp chí ban đảng.
- Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của tạp chí các ban đảng
phân tích những nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đưa ra các dự báo về xu thế cạnh tranh và đề xuất những giải pháp,
kiến nghị để nâng cao năng lực cạnh tranh của tạp chí các ban đảng ở nước ta.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
7.1. Ý nghĩa lý luận của Luận án
Một là, trên cơ sở sử dụng cách tiếp cận liên ngành, Luận án góp phần
phát triển khung lý thuyết và lý luận về năng lực cạnh tranh của các tạp chí
ban đảng. Khái niệm, các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của các tạp chí
ban đảng được phát triển. Lý thuyết về cạnh tranh trong hoạt động báo chí,
năng lực cạnh tranh của các tạp chí ban đảng được xây dựng trên cơ sở nghiên
cứu thực nghiệm về nội dung, hình thức, phát hành, công tác bạn đọc, quảng
cáo. Lý thuyết về năng lực cạnh tranh của các tạp chí ban đảng kể trên qua
Luận án đồng thời được định hình, phát triển với phân tích chi tiết.
Hai là, Luận án là nghiên cứu thực nghiệm tại các cơ quan báo chí
được thực hiện trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu truyền thông đại
chúng, đặc biệt là các phương pháp nghiên cứu xã hội học truyền thông đại
chúng, kinh tế báo chí học, nhằm hướng tới những luận cứ khoa học có khả
năng thuyết phục cao về mảng đề tài rất mới mẻ và khó khăn này.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn của Luận án
Luận án góp phần trả lời các câu hỏi thực tiễn hoạt động báo chí ở các
tòa soạn tạp chí ban đảng hiện nay: năng lực cạnh tranh của các tạp chí ban
đảng là gì? Tạp chí ban đảng có đặc điểm gì khi tham gia vào hoạt động cạnh
13
tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế? Cạnh tranh ra sao?
Luận án góp cái nhìn tổng thể về thực trạng cạnh tranh của tạp chí các ban

đảng. Giải quyết được vấn đề này, Luận án sẽ là một trong những căn cứ tin
cậy để cấp có thẩm quyền nghiên cứu, tham mưu hoạch định chính sách, quản
lý báo chí. Là tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập về
năng lực cạnh tranh của báo chí và báo chí của Đảng.
Các kết quả nghiên cứu cung cấp cho các tạp chí ban đảng cơ sở ban
đầu về lý luận và thực tiễn khi họ muốn nâng cao năng lực cạnh tranh cho
riêng mình. Luận án đề xuất các nhóm giải pháp đồng bộ, phù hợp, khả thi
cho các tạp chí ban đảng thuộc diện khảo sát, có thể là những gợi ý tốt cho
các tòa soạn khi họ có kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh của tạp chí các
ban đảng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
8. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, Luận án được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.
14
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
* Các công trình nghiên cứu về các ban đảng, các tạp chí ban đảng
Nghiên cứu về các ban đảng, tạp chí các ban đảng là mảng đề tài được
nhiều nhà nghiên cứu dành thời gian, công sức và tâm huyết nghiên cứu với
những góc độ tiếp cận khác nhau. Các kết quả nghiên cứu cũng được công bố
dưới nhiều hình thức: đề tài khoa học, công trình khoa học, sách, bài báo khoa
học trên các tạp chí từ Trung ương đến địa phương.
Hầu hết các ban đảng đều xuất bản sách nhân ngày truyền thống của
ngành. Các cuốn sách tập trung hệ thống lịch sử của từng ngành. Nội dung
các cuốn sách chủ yếu tập trung vào nội dung chủ yếu sau: trích dẫn một số
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh với ngành; truyền thống của ngành; các bài
viết của các đồng chí lãnh đạo qua các thời kỳ và cơ cấu tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ của các vụ, đơn vị. Nhân kỷ niệm Ngày truyền thống Ngành Tổ
chức Xây dựng Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản sách “Truyền
thống 72 năm Ngành Tổ chức Xây dựng Đảng” (1930-2002) [8]. Trong các
cuốn sách truyền thống này, dòng thông tin về các tạp chí ban đảng chỉ chiếm

dung lượng rất nhỏ (thường là trong vài dòng giới thiệu về chức năng, nhiệm
vụ).
Tìm hiểu về báo chí (trong đó phần lớn là các tạp chí ban đảng) tuyên
truyền về công tác xây dựng đảng có đề tài khoa học cấp Bộ năm 2000-2001,
“Báo chí với hoạt động tuyên truyền xây dựng Đảng trong thời kỳ kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay” do TS. Nguyễn Thị Thoa, Phân viện Báo chí và
Tuyên truyền làm chủ nhiệm. Đề tài đi sâu nghiên cứu vấn đề báo chí nói
chung, tạp chí nói riêng tuyên truyền về công tác xây dựng đảng. Đề tài chia
làm 3 chương: Chương 1 - cơ sở khách quan của hoạt động tuyên truyền xây
dựng Đảng trên báo chí; Chương 2 - thực trạng báo chí hoạt động tuyên
truyền xây dựng Đảng trong thời cơ chế thị trường; Chương 3 - những giải
15
pháp nâng cao chất lượng báo chí tuyên truyền xây dựng Đảng. Đi sâu phân
tích những ưu, nhược về tuyên truyền xây dựng Đảng là điểm mạnh của Đề
tài.
Có khá nhiều công trình nghiên cứu phản ánh công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng trên cả ba phương diện: về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tuy
nhiên, cũng có một số tờ báo, tạp chí đã đi chệch tôn chỉ, mục đích, thương
mại hóa báo chí, xa rời đối tượng là quần chúng nhân dân lao động, tính chiến
đấu và tính định hướng chưa rõ nét. Nghiêm trọng hơn có những bài viết xa
rời định hướng chính trị của Đảng, làm lộ bí mật quốc gia, chịu ảnh hưởng
luận điệu chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch. Mặt khác, hoạt động
nghiệp vụ của các cơ quan báo chí cũng còn hạn chế do trình độ chuyên môn,
tinh thần trách nhiệm và bản lĩnh chính trị chưa cao của một số nhà báo. Cũng
còn nhà báo vi phạm đạo đức nghề nghiệp, bẻ cong ngòi bút trước tác động
của đồng tiền làm ảnh hưởng đến uy tín của đội ngũ làm báo [61].
Chuyên đề nghiên cứu khoa học cấp cơ sở Tìm hiểu công tác tạp chí
trong giai đoạn hiện nay (Qua khảo sát một số tạp chí của khối đảng), Phân
viện Báo chí và tuyên truyền (năm 1995), PTS. Trịnh Đình Thắng, PTS. Văn
Đình Ưng. Nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát các tạp chí khối đảng (gồm 13

tạp chí) để phân loại bài vở, tìm hiểu cách thể hiện (viết và trình bày) tìm hiểu
nhu cầu độc giả để tập hợp thành các kinh nghiệm lớn mang tính hướng dẫn
nghề nghiệp cho công tác tạp chí. Công trình bước đầu xây dựng cơ sở lý luận
cho công tác tạp chí với tính đặc thù của nó để làm phong phú thêm lý luận
báo chí nói chung và công tác tạp chí nói riêng. Mặt khác, các tác giả của
chuyên đề nghiên cứu cũng đề ra yêu cầu rút kinh nghiệm thực tế của hoạt
động tạp chí của khối đảng để hướng dẫn về mặt nghiệp vụ cho lĩnh vực công
tác này. Điểm mạnh của công trình này là đã đưa ra một số kiến nghị nâng
cao chất lượng của các tạp chí như: kiện toàn hệ thống, tăng cường sức mạnh
16
thông qua sự phối hợp và chỉ đạo thống nhất; sớm điều chỉnh về mặt hình
thức để các tạp chí tạo thành một thể thống nhất có bản sắc chung của khối
đảng và bản sắc riêng của mỗi tạp chí; có kế hoạch đầu tư thống nhất cho các
tạp chí, có biện pháp kích thích nhất định để tăng hiệu quả công tác tạp chí;
đẩy mạnh công tác phát hành tạp chí tới địa chỉ cần thiết [57].
Tọa đàm “Nâng cao năng lực và hiệu quả tuyên truyền công tác xây
dựng đảng của các cơ quan các ban đảng Trung ương trong tình hình mới”
do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức ngày 25-7-2012 tại Hà Nội đề cập
đến hạn chế của tạp chí các ban đảng là sự phát triển của tạp chí thời gian qua
còn chưa tương xứng với đòi hỏi của công tác tuyên truyền trong tình hình
mới. Sự chưa tương xứng ấy là do nhiều nguyên nhân: có nguyên nhân từ lịch
sử, truyền thống mỗi tạp chí, có nguyên nhân từ năng lực trình độ đội ngũ
lãnh đạo, biên tập viên, phóng viên các tòa soạn, có nguyên nhân còn do thiếu
sự quan tâm phối hợp, chỉ đạo chung để phát huy thế mạnh đặc thù của các
tạp chí, nguyên nhân quan trọng là sự chưa thống nhất trong nhận thức, quan
niệm của lãnh đạo các cơ quan chủ quản về tính đặc thù của hoạt động báo
chí, đề từ đó có cơ chế quản lý phù hợp. Các tham luận trong Tọa đàm đề cập
đến hiệu quả tuyên truyền và các tiêu chí để đánh giá hiệu quả tuyên truyền
của các tạp chí, biện pháp phát huy thế mạnh của mỗi tạp chí nói riêng và của
khối tạp chí đảng nói chung, chứ chưa đề cập đến năng lực cạnh tranh và tiêu

chí nâng cao năng lực cạnh tranh của các tạp chí ban đảng [11].
Nghiên cứu về hiệu quả tuyên truyền của một tạp chí có đề tài nghiên
cứu khoa học Giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền của Tạp chí Cộng
sản - Chuyên đề cơ sở do Ths. Lê Hải làm chủ nhiệm (năm 2013). Đề tài
nghiên cứu thiết lập luận chứng và những khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng
cao tính hấp dẫn, hiệu quả tuyên truyền của Tạp chí Cộng sản - Chuyên đề cơ
sở.
17
Đề tài tập trung những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu: Làm rõ cơ sở lý
luận về tính hấp dẫn, hiệu quả tuyên truyền của sản phẩm báo chí, Tạp chí
Cộng sản – Chuyên đề cơ sở. Đánh giá thực trạng tính hấp dẫn, hiệu quả
tuyên truyền của Tạp chí Cộng sản - Chuyên đề cơ sở. Đề xuất một số khuyến
nghị và hệ giải pháp nhằm nâng cao tính hấp dẫn, hiệu quả tuyên truyền của
Tạp chí Cộng sản - Chuyên đề cơ sở. Nghiên cứu tập trung vào các nội dung:
Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu: hệ thống khái niệm công cụ (tính
hấp dẫn, hiệu quả tuyên truyền của sản phẩm báo chí); mối quan hệ giữa tính
hấp dẫn và hiệu quả tuyên truyền của sản phẩm báo chí, tạp chí; quan niệm,
tiêu chí đánh giá tính hấp dẫn, hiệu quả tuyên truyền trên Tạp chí Cộng sản -
Chuyên đề cơ sở. Trên cơ sở tập trung khảo sát đối tượng công chúng đích
của tạp chí (nhu cầu, tâm lý tiếp nhận của đội ngũ cán bộ, đảng viên tổ chức
thực thi chính sách tại cơ sở), đánh giá thực trạng tính hấp dẫn, hiệu quả tuyên
truyền của Tạp chí Cộng sản - Chuyên đề cơ sở trên nhiều khía cạnh thuộc
các góc độ: khả năng đáp ứng nhu cầu đối tượng độc giả và thực hiện các
nhiệm vụ chính trị của ấn phẩm; các yếu tố cấu thành ấn phẩm (nội dung,
hình thức…); khả năng thâm nhập thị trường, tính cạnh tranh. Điểm mạnh của
đề tài là đã nêu bật nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế; đề xuất một số kiến
nghị, giải pháp nâng cao tính hấp dẫn, hiệu quả tuyên truyền của Tạp chí
Cộng sản - Chuyên đề cơ sở trên cơ sở một số quan điểm có tính nguyên tắc;
đổi mới phương thức tiếp cận và đáp ứng nhu cầu của công chúng đích;
những đổi mới về nội dung, hình thức; các nguồn lực cần thiết [30]. Đề tài

nghiên cứu về hiệu quả tuyên truyền của một tạp chí (không nghiên cứu về
các tạp chí ban đảng).
Nghiên cứu để đề xuất những giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng
một tạp chí có Đề án “Nâng cao tính định hướng, tính hấp dẫn trên Tạp chí
Xây dựng Đảng” do TS. Đỗ Xuân Định làm chủ nhiệm (năm 2011) [23]; Đề
18
án khoa học “Đổi mới và nâng cao chất lượng Tạp chí Kiểm tra" của tác giả
Bùi Văn Thể, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương làm Chủ nhiệm [58]; Đề
án “Nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, tính hấp dẫn của Tạp chí
Tuyên giáo trong tình hình hiện nay” do TS. Nguyễn Tiến Dũng làm Chủ
nhiệm [15].
Các đề án này đã hệ thống hóa nhận thức lý luận, đánh giá đúng thực
trạng của Tạp chí Xây dựng Đảng, Tạp chí Kiểm tra, Tạp chí Tuyên giáo
trong thời gian qua, đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất
lượng tạp chí, đảm bảo tôn chỉ, mục đích đáp ứng tốt hơn yêu cầu mới đối với
công tác xây dựng đảng hiện nay. Các tác giả nghiên cứu các yếu tố, các tác
nhân bên trong, bên ngoài, chủ quan, khách quan làm nảy sinh yêu cầu mới
đối với các tạp chí. Mỗi tạp chí đều phải xác định rõ tôn chỉ, mục đích, đối
tượng phục vụ và những chuẩn mực của riêng mình. Nâng cao chất lượng các
tạp chí ban đảng là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố tác động và tạo thành,
trong đó, đóng vai trò quyết định là chất lượng hoạt động của nhân tố con
người trong tổ chức bộ máy, trước hết là đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập
viên, công chức trong các tòa soạn. Chưa có đề án nào nghiên cứu về năng lực
cạnh tranh của tạp chí ban đảng.
Trong vài năm gần đây, nghiên cứu về các tạp chí ban đảng đã bắt đầu
được đề cập tới trong một vài luận văn, khóa luận tốt nghiệp bậc đại học và
cao học chuyên ngành báo chí ở nước ta. Cho đến nay có hai luận văn thạc sĩ
bảo vệ tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền và một luận văn thạc sĩ bảo vệ
tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà
Nội đề cầp đến nâng cao chất lượng tuyên truyền, nâng cao chất lượng chuyên

mục của các tạp chí ban đảng.
Luận văn “Nâng cao chất lượng tuyên truyền về xây dựng cơ sở đảng
ở Nam Trung bộ và Nam bộ (Khảo sát các tạp chí của ban đảng ở Trung ương
19
từ 1-2003 đến 6-2006)” của tác giả Lê Thị Thu Thủy (Học viện Báo chí và
Tuyên truyền), bảo vệ năm 2007. Trên cơ sở khảo sát, phân tích, tổng hợp, so
sánh đưa ra các nhận xét, đánh giá thực trạng công tác tuyên truyền về cơ sở
đảng ở Nam Trung bộ và Nam bộ trên hệ thống tạp chí các ban đảng ở Trung
ương, chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm của hoạt động này. Tác giả đã đề
xuất giải pháp nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền về cơ sở đảng ở
Nam Trung bộ và Nam bộ trên các tạp chí các ban đảng ở Trung ương trên
bốn phương diện: Nâng cao chất lượng, hiệu quả của cả hệ thống tạp chí các
ban đảng ở Trung ương, tăng cường sự chỉ đạo của các ban đảng đối với việc
tuyên truyền về cơ sở đảng ở Nam Trung bộ và Nam bộ trên báo chí, về xây
dựng kế hoạch tuyên truyền và bố trí lực lượng hợp lý của mỗi toà soạn và
nâng cao chất lượng tác nghiệp của đội ngũ phóng viên [63].
Luận văn “Báo chí với vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở cơ sở” (Khảo sát Tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng, Tổ chức Nhà nước
từ năm 1997 đến năm 2007) tác giả Trần Thị Thu Thủy (Đại học Khoa học xã
hội & nhân văn) bảo vệ năm 2008. Tác giả đã hệ thống hóa những vấn đề lý
luận cơ bản về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở; về vai trò,
định hướng tuyên truyền của tạp chí với vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở cơ sở; đánh giá thực trạng chất lượng tuyên truyền về xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở trên ba tạp chí; phân tích ý nghĩa, tác
động của việc tuyên truyền xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở
trên ba tạp chí, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền về
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở: Nhận thức đúng và đầy đủ
về nâng cao chất lượng tuyên truyền; Tăng cường sự chỉ đạo của cơ quan chủ
quản về tuyên truyền xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở; Đổi
mới, nâng cao chất lượng quản lý của Bộ Biên tập, Ban Biên tập; Nâng cao

chất lượng đội ngũ phóng viên, biên tập viên; Nâng cao vị trí, vai trò của tổ
20
chức đảng ở 3 cơ quan tạp chí; Xây dựng kế hoạch tuyên truyền khoa học,
gắn với yêu cầu của thực tiễn, công tác xây dựng đảng [64].
Luận văn "Giải pháp tổ chức chuyên mục "Nghiên cứu - trao đổi" trên
tạp chí các ban đảng”, tác giả Hà Quốc Trị (Học viện Báo chí và tuyên
truyền), bảo vệ năm 2011. Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận về
chuyên mục và khảo sát, đánh giá, phân tích thực trạng tổ chức chuyên mục
"Nghiên cứu - trao đổi", tác giả rút ra những kinh nghiệm nghề nghiệp và tìm
kiếm những giải pháp cụ thể nhằm đổi mới cách thức tổ chức chuyên mục này
trên tạp chí các ban đảng [65].
Nghiên cứu từ nhu cầu của bạn đọc có một số công trình dưới dạng
những bài báo khoa học ”Để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của bạn đọc” (Xuân
Sơn) đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng số 1+2/2006 [55, tr.119-122]; ”Tạp
chí Xây dựng Đảng - nhà tư vấn, người bạn đồng hành cùng bạn đọc” (Phúc
Sơn) đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng số 8/2006 [54, tr.28-30], ”Vun đắp
niềm tin yêu” (Hải Phong), Tạp chí Xây dựng Đảng số 8/2006 [51, tr.31-33]
Các luận văn, bài báo khoa học kể trên chỉ đề cập đến chất lượng tuyên
truyền, tổ chức chuyên mục của từng tạp chí ban đảng.
Các công trình nghiên cứu trên đây chủ yếu đề cập đến nâng cao chất
lượng nội dung của tạp chí ban đảng (tuyên truyền xây dựng Đảng, tuyên
truyền về xây dựng cơ sở đảng, về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở)
hoặc đi sâu tìm hiểu về nội dung, hình thức của một tạp chí (Tạp chí Cộng
sản, Tạp chí Xây dựng Đảng, Tạp chí Kiểm tra, Tạp chí Tuyên giáo), nghiên
cứu một chuyên mục “Nghiên cứu - Trao đổi” nhưng chưa có công trình nào
nghiên cứu tổng thể về nội dung, hình thức, quảng cáo, phát hành để đề ra
các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các tạp chí ban đảng.
* Các công trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của tạp chí các ban đảng
21

Năng lực cạnh tranh và nhu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của báo
in nói chung đã được đề cập ở một số luận văn, công trình khoa học. Các
công trình đều đã đi sâu phân tích những khó khăn mà báo in đang gặp phải
trong điều kiện các loại hình báo chí, mạng xã hội đang rất phát triển.
Hội thảo khoa học quốc tế “Báo chí trong quá trình toàn cầu hóa: Cơ
hội, thách thức và triển vọng”, Học viện Báo chí và Tuyên truyền - Đại học
Tổng hợp Viên, Áo - Báo Nhân dân - Hội Nhà báo Việt Nam - Đài PTTH
Quảng Ninh, tháng 10-2013 có nội dung liên quan đến vấn đề cạnh tranh báo
chí như: Đổi mới, cải tiến sản phẩm báo chí trong sự phát triển cạnh tranh với
các hình thức truyền thông mới – Hà Huy Phượng. Tác giả đề cập đến vấn đề
sự cần thiết của việc đổi mới, cải tiến sản phẩm báo chí; vì sao nhiều cơ quan
báo chí đổi mới, cải tiến sản phẩm báo chí chưa thành công; cần làm gì để đổi
mới, cải tiến sản phẩm báo chí có hiệu quả. Mỗi loại hình báo chí có những
thế mạnh, hạn chế và có việc riêng của nó. Loại hình báo chí đó còn hay mất,
hay hoặc dở không phải tự thân nó mà chủ yếu vẫn do những người tạo ra nó
quyết định. Nếu làm ở loại hình báo chí mà không biết thế mạnh của nó là gì
thì các nhà báo khó có thể phát huy được thế mạnh của loại hình để truyền
thông hiệu quả. Không biết được hạn chế của những loại hình báo chí là gì để
khắc phục thì loại hình báo chí đó cũng dễ bị “xóa sổ” [52]. Tuy nhiên, tác giả
không đề cập trực tiếp đến các tạp chí ban đảng.
Công trình khoa học “Hiểu đúng về cạnh tranh báo chí” - TS. Nguyễn
Thị Thoa (Tạp chí Người làm báo tháng 9/2006) xem xét từ sự cạnh tranh của
các loại hình báo chí ở trên thế giới và trong nước. Từ chỗ chỉ có một loại
hình báo chí là báo in (từ đầu thế kỷ XVII) đến 1907 báo chí phát thanh đã ra
đời. Từ địa vị “độc tôn” báo in đã phải chia xẻ công chúng của mình cho phát
thanh, buộc báo in phải “cạnh tranh” với phát thanh để giành lại thị trường
công chúng của mình. Báo in một lần nữa lại phải đấu tranh để tồn tại và phát
triển khi truyền hình ra đời vào những năm 30 của thế kỷ XX. Không những
22
báo in, mà ngay cả phát thanh cũng phải đối mặt với truyền hình. Năm 1991,

loại hình báo chí thứ tư - báo mạng điện tử ra đời. Ban đầu, những tờ báo in
được truyền nội dung lên mạng internet. Về sau, mạng truyền thông ngày
càng phát triển, các loại hình báo chí có sự cạnh tranh gay gắt với nhau [62].
Cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động báo chí là xu hướng tất yếu để
phát triển. Các cơ quan Nhà nước, cơ quan tài chính cần xem xét các chính
sách thuế nhất là thuế thu nhập doanh nghiệp. Nghị định số 43/2006/NĐ-CP
ngày 25 tháng 4 năm 2006 xếp cơ quan báo chí cùng cơ chế hoạt động như
các đơn vị sự nghiệp công lập khác là không phù hợp, là không thể hiện rõ
đặc thù của báo chí. Nó không khuyến khích người làm báo về chính sách tiền
lương, thu nhập so với NĐ10/2002/NĐ-CP. Vấn đề này đã được “mổ xẻ”
trong công trình khoa học “Vấn đề cạnh tranh trong hoạt động báo chí” -
Trần Đình Khai (Người làm báo tháng 9/2006) [38].
Bài báo khoa học Nâng cao chất lượng nội dung, hình thức các ấn
phẩm báo, tạp chí của Đảng là yếu tố cơ bản để tăng số lượng bạn đọc -
Nguyễn Hồng Vinh (Tạp chí Tuyên giáo điện tử ngày 9/7/2008) đề cập đến
vấn đề đổi mới hơn nữa tư duy làm báo, tạp chí theo hướng bám sát nhiệm vụ
chính trị của Đảng, Nhà nước, phản ánh sinh động, đa dạng hơn nữa công
cuộc đổi mới, hội nhập về chiều rộng và chiều sâu; góp sức tích cực tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận về những vấn đề cơ bản đặt ra trong thực tiễn
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó thể hiện ở cạnh tranh về nội dung, hình
thức, phương thức phát hành. Về nội dung: cạnh tranh về nắm bắt thông tin,
về cách thức thể hiện thông tin đảm bảo tính thời sự, tính chính luận, tính hấp
dẫn, nâng cao chất lượng và hàm lượng thông tin; tăng thêm các chuyên mục
ngắn; giảm bớt lượng tin lễ tân; tăng thêm các ý kiến chính đáng của bạn
đọc Về hình thức: cách trình bày, in ấn vừa nhanh, vừa đẹp. Cạnh tranh về
phương thức phát hành, ngoài kênh phát hành thông qua ngành bưu chính
23
viễn thông, từng cơ quan báo, tạp chí tự tổ chức lực lượng phát hành trên cơ
sở nắm thật chắc các yêu cầu chính đáng của bạn đọc. [75].
Công trình khoa học “Báo in phát triển trong sự cạnh tranh gay gắt”

có 3 bài báo khoa học của Bằng Linh: “Báo in trước những thách thức mới”
(Tạp chí Người làm báo tháng 4-2010), Mô hinh tổ chức - quản trị tòa soạn
báo in (Tạp chí Người làm báo tháng 5-2010), Báo in tự đổi mới chính mình
(Tạp chí Người làm báo tháng 6-2010). Tác giả đi sâu phân tích những đặc
điểm cơ bản, ưu điểm nổi trội của báo in là khả năng lưu trữ thông tin cao.
Báo in không chỉ có khả năng cung cấp thông tin thời sự, miêu tả chi tiết sự
kiện mà còn có khả năng phân tích, lý giải cặn kẽ. Báo in dễ sử dụng, người
đọc hoàn toàn có thể chủ động tiếp nhận thông tin mọi nơi, mọi lúc. Chi phí
xuất bản không cao. Sản phẩm báo in có thể tận dụng, tái chế. Sự đa dạng về
chủng loại, đa dạng hóa hình thức ấn phẩm, nhiều chuyên trang, chuyên mục,
hình thức xuất bản phong phú, khi cần thiết có thể xuất bản các ấn phẩm phụ,
dễ dàng tăng giảm trang quảng cáo, sản phẩm báo in, nhiều tri thức, hàm
lượng trí tuệ cao, có sức thu hút độc giả.
Công trình khoa học đi sâu nghiên cứu những điểm yếu, không lợi thế
của báo in so với các loại hình báo chí khác. Trước hết thể hiện ở khả năng
lan tỏa, phát tán thông tin chậm; hình ảnh không sống động, nhất là đối với
quảng cáo so với báo hình, báo mạng. Báo in không có khả năng tương tác,
giao lưu, trực tuyến với độc giả như báo điện tử, báo nói, báo hình. Trình độ
dân trí thấp, những khu vực kinh tế chưa phát triển, người mù chữ nhiều thì
khả năng tiếp nhận thông tin từ công chúng của báo in không thể bằng báo
nói, báo hình. Báo in chỉ tập trung ở các đô thị lớn, khu công nghiệp, giới trí
thức, chính khách.
Để báo in tự đổi mới chính mình, tác giả đưa ra những biện pháp sau:
Đổi mới, trước hết là đổi mới nội dung và phương thức thông tin, bình luận sự
kiện. Báo in đổi mới bằng cách tin, bài ngắn gọn, cập nhật nhanh, súc tích, đi
24
thẳng vào sự kiện, loại bỏ những thông tin nguội lạnh, những bài viết dài
dòng, vô bổ… Hình thức báo in cũng phải liên tục được cải tiến, đổi mới, tiện
lợi cho độc giả. Khuôn khổ, hình thức tờ báo theo xu hướng tiện ích… Báo in
rất cần những tấm ảnh đẹp, giàu tính nhân văn, giá trị thông tin và giá trị nghệ

thuật cao.
Các cơ quan báo in cần quan tâm đúng mức việc xây dựng mô hình,
phương thức tổ chức - quản trị tòa soạn phù hợp với công việc xuất bản báo,
phù hợp với năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ phóng viên, biên tập
viên, phù hợp với phương thức tác nghiệp báo chí hiện đại… hướng tới tòa
soạn báo in chuyên nghiệp, tinh gọn, hiệu quả. Phương pháp làm việc - tác
nghiệp báo chí - quản trị theo nhóm. Người đứng đầu cơ quan báo in (ở Việt
Nam là các tổng biên tập) phải là người giỏi nghề, có năng lực chuyên môn
nghiệp vụ, giỏi kinh tế báo chí, biết tập hợp đội ngũ phóng viên, biên tập viên,
các cộng tác viên giỏi. Bộ phận thực hiện quảng cáo (trung tâm quảng cáo,
công ty quảng cáo, công ty truyền thông…) cần được tổ chức và hoạt động
bài bản, chuyên nghiệp, hiệu quả. Hệ thống và mạng lưới phát hành ấn phẩm
của các cơ quan báo in cần được tổ chức một cách chặt chẽ, chuyên nghiệp,
thật sự hiệu quả [41].
Công trình khoa học “Báo in tìm đường vượt qua khó khăn” - Anh
Đông (Người làm báo 7/2012) dẫn lời của ông Hồ Minh Chiến (Phó tổng
Biên tập báo Gia đình Việt Nam), các cơ quan báo chí cần tạo cho mình lối đi
riêng, không ngừng đổi mới cả nội dung và hình thức để giữ bạn đọc ; ông
Lê Văn Đình (Phó tổng Biên tập Tạp chí Việt Nam Hương Sắc): Báo mạng có
bạn đọc của báo mạng, báo in có bạn đọc của báo in. Hai loại hình báo này
chưa thể loại được nhau, tồn tại song song trên thị trường báo chí; ông Lưu
Quang Định (Tổng Biên tập báo Nông thôn ngày nay) nhấn mạnh đến 2 giải
pháp: Cải tiến nội dung, coi trọng khâu phát hành [24].
25

×