TỔ CHỨC SINH HOẠT CHUYÊN MÔN THEO NGHIÊN CỨU BÀI HỌC
TRONG TRƢỜNG PHỔ THÔNG Ở BỘ MÔN NGỮ VĂN
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sinh hoạt chuyên môn (SHCM) là hoạt động thường xuyên của nhà trường và
là một trong những hình thức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm
cho giáo viên, hình thành các mối quan hệ đồng nghiệp tốt đẹp, xây dựng môi trường
học tập và tự học suốt đời. Từ đó, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng
giáo dục của nhà trường. Vì vậy, để nâng cao chất lượng giáo dục không thể không
chú trọng đến việc đổi mới SHCM.
SHCM theo nghiên cứu bài học (NCBH) là một nội dung quan trọng trong
SHCM ở trường phổ thông trong các năm học gần đây. Mục tiêu hướng tới của
SHCM theo NCBH thể hiện sự thay đổi căn bản trong đổi mới dạy học. Tất cả các
khâu soạn bài, lên lớp, dự giờ, đánh giá tiết dạy... đều có sự thay đổi về quy trình, nội
dung, phương pháp, cách thức tổ chức. Sự thay đổi cơ bản nhất là: thay vì nghiên cứu,
phân tích và đánh giá hoạt động dạy của giáo viên, SHCM theo NCBH tập trung
nghiên cứu, phân tích hoạt động học của học sinh. Từ đó, giáo viên điều chỉnh, thay
1
đổi nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh theo định
hướng phát triển năng lực người học. SHCM theo NCBH vì thế sẽ phát huy hiệu quả
tích cực, tạo môi trường tốt để giáo viên nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là
việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Chính từ sự thay đổi căn bản trên mà khi tổ chức SHCM theo NCBH, các tổ
chuyên môn ở các trường phổ thông đã và đang gặp phải những khó khăn nhất định
trong quá trình thực hiện. Cách thức tổ chức chưa bài bản, đúng quy trình; khi thực
hiện chưa đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc của SHCM theo NCBH; giáo viên chưa
nắm vững các kĩ thuật trong dự giờ và đánh giá tiết dạy theo hướng phân tích hoạt
động học tập của học sinh... Năm học 2015-2016, cùng với các tổ chuyên môn khác
trong trường THPT Trần Phú, tổ Văn đã thực hiện tổ chức SHCM theo NCBH và đạt
được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, SHCM theo NCBH là một nội dung mới
chưa có đơn vị nào trong tỉnh phổ biến sáng kiến kinh nghiệm về đề tài này để đơn vị
học hỏi nên các thầy cô bộ môn Văn chủ yếu vẫn vừa làm, vừa học, vừa rút kinh
nghiệm, do vậy hiệu quả chưa như mong muốn. Là người trực tiếp tham gia giảng dạy
và chỉ đạo chuyên môn bộ môn Ngữ văn của trường, tôi đã không ngừng động viên
các giáo viên trong tổ cố gắng thực hiện việc SHCM theo NCBH xuyên suốt năm học.
2
Tôi cũng trực tiếp tham gia dự giờ tiết dạy, dự SHCM với tổ Văn của trường và tham
gia dự giờ, dự SHCM ở tổ Văn của một số trường khác. Từ thực tế đó, tôi đã rút ra
được một số kinh nghiệm về "Tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài
học trong trƣờng phổ thông ở bộ môn Ngữ văn" trong trường phổ thông, từ đó đã
chỉ đạo áp dụng trong tổ Văn của trường, đồng thời tư vấn cho một số tổ Văn ở các
trường bạn, bước đầu đã mang lại hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng sinh hoạt
của tổ chuyên môn theo tinh thần các văn bản chỉ đạo của Bộ GD&ĐT và Sở
GD&ĐT Đồng Nai.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
NCBH là quá trình nghiên cứu, học hỏi từ thực tế của một nhóm hay nhiều giáo
viên trong một nhà trường nhằm đáp ứng tốt nhất việc học tập có chất lượng của từng
học sinh.
SHCM theo NCBH là hoạt động giáo viên cùng nhau học tập từ thực tế việc
học của học sinh. Ở đó, giáo viên cùng nhau thiết kế kế hoạch bài học, cùng dự giờ,
quan sát, suy ngẫm và chia sẻ bài học (tập trung chủ yếu vào việc học của học sinh).
3
Đồng thời đưa ra những nhận xét về sự tác động của lời giảng, các câu hỏi, các nhiệm
vụ học tập mà giáo viên đưa ra,… có ảnh hưởng đến việc học của học sinh. Trên cơ
sở đó, giáo viên được chia sẻ, học tập lẫn nhau, rút kinh nghiệm và điều chỉnh nội
dung, phương pháp dạy học vào bài học hằng ngày một cách hiệu quả.
Triết lí theo NCBH là: đảm bảo cơ hội học tập cho từng học sinh; đảm bảo cơ
hội phát triển chuyên môn cho từng giáo viên; tạo môi trường làm việc dân chủ, thân
thiện, hướng tới sự phát triển cho các thành viên trong nhà trường; mỗi học sinh đến
trường đều phải được học và học được; giáo viên phải chấp nhận mọi em học sinh với
đặc điểm riêng của học sinh.
Nhằm hỗ trợ các trường phổ thông triển khai có hiệu quả việc đổi mới đồng bộ
phương pháp dạy học (PPDH) và kiểm tra, đánh giá (KTĐG) chất lượng giáo dục,
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên về phát triển kế hoạch giáo dục
nhà trường theo định hướng phát triển năng lực học sinh, Bộ GD&ĐT có công văn số
5555/BGDĐT-GDTrH ngày 08/10/2014. Theo đó, các tổ/nhóm chuyên môn ở các
trường phổ thông chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện phân phối chương trình, xây
dựng các chuyên đề dạy học, biên soạn hệ thống câu hỏi/bài tập, thiết kế lại tiến trình
4
dạy học (gồm các hoạt động học của học sinh), tổ chức dạy học và dự giờ (theo các
chuyên đề dạy học đã xây dựng), phân tích, rút kinh nghiệm bài học.
Sở GD&ĐT Đồng Nai đã tổ chức tập huấn cho đội ngũ tổ trưởng chuyên môn
các trường THPT, Trung tâm GDTX trên địa bàn Tỉnh Đồng Nai về các nội dung đổi
mới SHCM, đồng thời đã có các văn bản chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện công văn
nói trên của Bộ GD&ĐT.
Công văn số 2507/SGDĐT-GDTrH ngày 27/10/2014 của Sở GD&ĐT Đồng
Nai về việc hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và
kiểm tra, đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn của trường trung học
qua mạng, đã hướng dẫn bổ sung một số nội dung sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn,
trong đó yêu cầu các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh phải "Tổ chức tốt việc sinh
hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học". Công văn số 2102/SGDĐTGDTrH ngày 09/9/2015 của Sở GD&ĐT Đồng Nai về việc Hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ Giáo dục trung học phổ thông năm học 2015-2016 cũng nêu rõ: "Trên cơ sở
kế hoạch dạy học đã được phê duyệt của Lãnh đạo nhà trường, tổ/nhóm chuyên
môn, giáo viên tổ chức sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và
kiểm tra, đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn qua mạng cho
5
mỗi chủ đề theo hướng dẫn tại Công văn số 5555/BGDĐT-GDTrH ngày
08/10/2014 của Bộ GDĐT và Công văn số 2507/SGDĐT-GDTrH ngày 27/10/2014
của Sở GDĐT", đồng thời nhấn mạnh: "Tiếp tục đổi mới sinh hoạt tổ/nhóm chuyên
môn trong các cơ sở GDTrH dựa trên nghiên cứu bài học".
Như vậy, SHCM theo NCBH là một trong những hoạt động chuyên môn quan
trọng, mang tính bắt buộc đối với các tổ/nhóm chuyên môn ở các trường phổ thông,
nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học theo hướng tiếp cận năng lực hiện nay.
2. Cơ sở thực tiễn
Thực tế ở các trường phổ thông hiện nay, SHCM luôn được duy trì hàng tháng
trong năm học (tối thiểu 2 lần/tháng). Việc SHCM cũng đã được đổi mới: ít hành
chính sự vụ hơn, tập trung nhiều vào hoạt động chuyên môn. Tuy nhiên, không phải
trường nào, tổ/nhóm chuyên môn nào cũng xây dựng được kế hoạch và thực hiện tốt
nội dung SHCM theo hướng NCBH.
Tình trạng phổ biến nhất là "đầu voi đuôi chuột". Nghĩa là đầu năm học cũng
chỉ đạo, cũng xây dựng kế hoạch nhưng quá trình thực hiện gặp khó khăn, giáo viên
không nhiệt tình hưởng ứng, người tổ trưởng không kiên quyết đeo bám, nên bài học
nghiên cứu dang dở, có khi dừng lại ở khâu soạn giáo án, có khi đã thực hiện dạy mẫu
6
trên lớp nhưng tổ chuyên môn chưa ngồi lại để nghiên cứu bài học rút ra những kết
luận: cần điều chỉnh nội dung đối với bài dạy, cần thay đổi phương pháp đối với đối
tượng học sinh như thế nào.
Bên cạnh đó là tình trạng là chưa hiểu rõ bản chất của SHCM theo NCBH nên
thực hiện chưa đúng nguyên tắc và quy trình. Vẫn xảy ra tình trạng chỉ một giáo viên
chọn bài, soạn bài và lên lớp mà không có sự tham gia của cả tổ/nhóm chuyên môn.
Sản phẩm bài dạy mang đậm tính cá nhân của người soạn. Vì vậy, khi dự giờ, các
giáo viên khác vẫn chỉ chăm chú vào việc ghi chép nội dung bài dạy, quan sát giáo
viên mà "quên" nhiệm vụ chính của người dự là quan sát hoạt động học của học sinh.
Đến khi góp ý bài dạy cũng chỉ tập trung nhận xét ưu điểm, hạn chế của người dạy
giống như tiết dự giờ thao giảng bình thường. Thậm chí, có tổ chuyên môn còn đề ra
"sáng kiến" sử dụng bài dạy minh họa làm tiết thao giảng để đánh giá, xếp loại giáo
viên.
Việc SHCM theo NCBH rõ ràng là còn khá "lạ" với nhiều giáo viên, nhiều tổ
chuyên môn. Trong khi đó, các đề tài nghiên cứu khoa học ứng dụng, sáng kiến kinh
nghiệm về SHCM theo NCBH chưa được quan tâm nhiều, chưa được phổ biến rộng
rãi trong toàn ngành để các trường học tập, áp dụng. Vì vậy, có thể năm học 2016-
7
2017, nghĩa là sau gần 3 năm công văn 5555/BGDĐT-GDTrH của Bộ GD&ĐT ra
đời, ở nhiều trường, nhiều tổ chuyên môn, SHCM theo NCBH vẫn chưa được thực
hiện một cách bài bản đến nơi đến chốn. Những giải pháp sau đây hy vọng phần nào
giúp các tổ chuyên môn (trong đó có bộ môn Ngữ văn) thực hiện hiệu quả hơn việc tổ
chức SHCM theo NCBH trong trường phổ thông.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
1. Giải pháp 1: Nắm vững nguyên tắc của SHCM theo NCBH
Nguyên tắc của SHCM theo NCBH được đặt ra cho tất cả các yếu tố, nhân tố
có liên quan đến SHCM theo NCBH như: mục đích hướng tới, thiết kế bài dạy, giáo
viên dạy minh họa, giáo viên dự giờ, thảo luận bài dạy minh họa…
1.1. Mục đích
- Trong SHCM theo NCBH, mục đích hướng tới là nhằm nâng cao năng lực
chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên trong việc đổi mới phương pháp dạy học, đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
8
đào tạo. Vì vậy, không được sử dụng tiết dạy minh họa để đánh giá, xếp loại giờ dạy
theo tiêu chí, quy định.
- Người dự giờ tiết dạy NCBH tập trung phân tích các hoạt động của học sinh
để rút kinh nghiệm cho bài dạy, chứ không tập trung quan sát các hoạt động của
người dạy để nhận xét giáo viên.
- Sau khi nghiên cứu, thảo luận bài dạy mẫu, mỗi giáo viên tự rút ra những kinh
nghiệm để vận dụng vào thực tiễn dạy trên lớp của bản thân.
1.2. Thiết kế bài dạy minh họa
- Bài dạy minh họa được các giáo viên trong tổ thiết kế chủ động linh hoạt
không phụ thuộc máy móc vào quy trình, các bước dạy học trong Sách Giáo viên hiện
hành. Nội dung bài học vẫn đảm bảo chuẩn kiến thức – kĩ năng nhưng được thiết kế
linh hoạt phù hợp với từng đối tượng học sinh. Thiết kế bài dạy là các hoạt động chứ
không phải các bước lên lớp như giáo án thông thường trước đây.
Bảng so sánh:
Giáo án: (5 bước lên lớp)
Thiết kế bài học: (5 hoạt động chính)
Bước 1: Kiểm tra bài cũ
Hoạt động 1: Trải nghiệm/Khởi động
9
Bước 2: Bài mới
Hoạt động 2: Hình thành kiến thức
Bước 3: Luyện tập
Hoạt động 3: Thực hành
Bước 4: Củng cố
Hoạt động 4: Vận dụng
Bước 5: Dặn dò
Hoạt động 5: Bổ sung
- Giáo viên và tổ/nhóm chuyên môn khi thiết kế bài dạy cần sáng tạo trong việc
sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực, đảm bảo các phương pháp và
kĩ thuật dạy học phải phát huy được các năng lực học sinh bao gồm năng lực chung và
năng lực đặc thù của bộ môn Ngữ văn. Các phương pháp dạy học nêu vấn đề, thảo
luận nhóm…, các kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật hỏi chuyên
gia… thường phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh, từ đó giúp các em
hình thành được các năng lực theo mục tiêu bài dạy.
1.3. Giáo viên dạy minh họa
- Giáo viên dạy minh họa là một thành viên trong tổ/nhóm, được tổ/nhóm phân
công hoặc tự nguyện đảm nhận vai trò chính trong việc soạn bài và là người thực hiện
bài dạy trên lớp. Giáo viên dạy minh họa chính là người thay mặt tổ/nhóm thể hiện
các ý tưởng đã thiết kế trong bài học. Ghi nhớ nguyên tắc này sẽ giúp tổ/nhóm chuyên
10
môn tránh được tình trạng khi thảo luận, nghiên cứu bài học không sa vào việc góp ý,
nhận xét các hạn chế thuộc về khâu thiết kế bài dạy (vì đó là sản phẩm của cả tổ/nhóm
trong đó có chính mình) mà tập trung phân tích các hoạt động dạy và học. Khuyến
khích tự nguyện nhưng đảm bảo tính luân phiên trong việc phân công giáo viên dạy
minh họa vì như thế giáo viên nào trong tổ/nhóm cũng được trải nghiệm, được "đóng
nhiều vai" trong hoạt động chuyên môn này.
- Giả sử lớp được chọn để NCBH có 40 học sinh thì khi giáo viên lên lớp thực
hiện bài dạy minh họa phải luôn xác định mình đang dạy 40 học sinh trong 1 lớp chứ
không phải dạy 1 lớp 40 học sinh. Dạy 40 học sinh thì trách nhiệm của người giáo
viên sẽ nặng nề hơn nhiều, đòi hỏi người dạy phải thực sự có năng lực. Học sinh gặp
khó khăn trong học tập được giáo viên hướng dẫn, giúp đỡ kịp thời, đảm bảo tất cả
học sinh trong lớp đều có cơ hội học tập, không có học sinh nào bị "bỏ quên".
1.4. Giáo viên dự giờ
- Giáo viên chọn vị trí thích hợp để quan sát tốt nhất hoạt động của học sinh
trong giờ học. Vì vậy, khác với kiểu dự giờ truyền thống, giáo viên dự giờ có thể
đứng, ngồi ở nhiều vị trí khác nhau trong lớp.
11
- Các giáo viên dự giờ được phân công nhiệm vụ cụ thể trước đó, thực hiện
quan sát, ghi chép, chụp hình, quay phim… những hành vi, tâm lí, thái độ của học
sinh để có dữ liệu phân tích việc học tập của học sinh.
- Tác nghiệp của các giáo viên dự giờ đảm bảo không làm ảnh hưởng đến việc
học tập của học sinh.
1.5. Tổ chức nghiên cứu bài dạy
- Trên cơ sở thực tế bài dạy và kết quả quan sát, ghi chép, thu nhận của những
người dự, các giáo viên cùng nhau phân tích tìm ra những chỗ bài dạy chưa đáp ứng
được mục tiêu đề ra. Từ đó, đề xuất điều chỉnh nội dung bài dạy, thay thế phương
pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp.
- Không khí sinh hoạt phải thân thiện cởi mở, theo tinh thần trao đổi, chia sẻ,
tập trung vào phân tích các hoạt động của học sinh và tìm ra các nguyên nhân và giải
pháp khắc phục.
- Người chủ trì tôn trọng và lắng nghe tất cả ý kiến của giáo viên, không áp đặt
ý kiến của mình hoặc của một nhóm người. Mỗi giáo viên phải tự rút ra bài học và áp
dụng vào thực tế giảng dạy của mình.
2. Giải pháp 2: Xây dựng kế hoạch SHCM theo NCBH cụ thể, chi tiết
12
Về cơ bản, quy trình SHCM theo NCBH có 4 bước, gồm:
- Xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch bài học nghiên cứu
- Tiến hành dạy minh họa và dự giờ
- Suy ngẫm, thảo luận về bài dạy minh họa (tổ chức nghiên cứu bài học)
- Áp dụng cho thực tiễn giảng dạy.
Thực tế quá trình thực hiện SHCM theo NCBH luôn phát sinh nhiều vấn đề
khiến cho việc tiến hành các bước NCBH gặp nhiều trở ngại, khó khăn. Do vậy, ở
mỗi bước, cần chú ý thực hiện đảm bảo đúng các nguyên tắc trong giải pháp 1 (đã
trình bày ở trên), đồng thời, phải có sự chuẩn bị thật kĩ càng để đảm bảo quá trình
thực hiện không gặp trở ngại từ thực tế của việc NCBH.
Xây dựng kế hoạch bài học nghiên cứu là bước đầu tiên và rất quan trọng. Kế
hoạch NCBH phải được xây dựng từ đầu năm học nằm trong kế hoạch hoạt động
chuyên môn của tổ/nhóm. Cần chọn các bài học phục vụ cho việc NCBH sao cho đến
thời điểm dạy mẫu phải trùng với tiến độ thực hiện phân phối chương trình của bộ
môn. Trong kế hoạch cần thể hiện rõ các mốc thời gian và phân công nhiệm vụ cụ thể.
Ví dụ:
13
Nội dung
Tháng
Ngƣời
Th.gian
Cá
thực
nhân/bộ
Tuần
Ghi chú
thực hiện
công việc
Tuần 3
…
Tuần 4
Chọn
các
nghiên
bài
cứu
sẽ Tổ
hiện/hoàn
phận
thành
phối hợp
Tiết
trong trưởng
Cả tổ
SHCM
năm học
Tháng 8
TTr
gửi
cho
GV
các
bài
dự
kiến
trước qua
e-mail tổ
Tuần 5
Phân công GV thiết Lê
kế bài dạy (chủ đề 1)
Tháng 9
A
Văn Trước
12/9
Tuần 1
…
Tuần 2
Góp ý hoàn chỉnh Cả tổ
Trước
thiết kế bài dạy
19/9
Nguyễn
Thị B
14
Tuần 3
…
Tuần 4
Tiến hành dạy mẫu
Lê
A
Văn Tiết
1/thứ
3/ngày…
-Cả tổ
-Cô H in
-GVCN
phiếu
lớp 10a1
quan sát
- Thầy T
-Phụ
chuẩn bị
trách
máy quay
phòng
máy…
-GVCN
10a1
hướng
dẫn
HS
sắp
xếp
bàn ghế
Tháng 10
Tuần 1
Thảo luận, phân tích Cả tổ
Từ 13h30 Phụ trách
bài học
thứ
3/10
Hai phòng
máy
15
…
3. Giải pháp 3: Xây dựng các chủ đề dạy học để thực hiện SHCM theo NCBH
Để thực hiện SHCM theo NCBH có hiệu quả, việc chọn bài học nghiên cứu là
rất quan trọng. Thông thường, các tổ/nhóm chuyên môn hay chọn một bài học trong
chương trình với tiêu chí hàng đầu là bài khó và hay (vì như thế mới đáng để nghiên
cứu). Điều này hoàn toàn đúng. Và lại thường chọn các tiết/bài "có sẵn" trong phân
phối chương trình. Chẳng hạn, trong chương trình Ngữ văn 10 thì chọn các bài: Tấm
Cám, Trao duyên, Chí khí anh hùng, Độc Tiểu Thanh kí, Chuyện chức phán sự đền
Tản Viên, Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, Phương pháp thuyết minh…; Ngữ văn 11
thì chọn các bài: Chiếu cầu hiền, Chữ người tử tù, Đây thôn Vĩ Dạ, Người cầm quyền
khôi phục uy quyền, Thao tác lập luận bình luận,... Điều này cũng không sai. Nhưng
để thực hiện việc thiết kế bài học theo định hướng phát triển năng lực học sinh (thiết
kế bài học bao gồm các hoạt động) thì việc chọn kiểu tiết/bài như đã nói ở trên sẽ khó
khăn cho việc tổ chức các hoạt động. Bởi vì, giáo viên thiết kế bài học phải đảm bảo
về mặt thời gian cho 1 đơn vị bài học theo phân phối chương trình. Mà nếu thế, trong
một thời gian nhất định (1 tiết hoặc 2 tiết), giáo viên không thể tổ chức tốt các hoạt
16
động: trải nghiệm/khởi động, hình thành kiến thức mới, thực hành, vận dụng... Vì một
hoạt động (chẳng hạn hoạt động trải nghiệm/khởi động), để đáp ứng các yêu cầu: vừa
huy động kiến thức cũ có liên quan đến kiến thức mới sắp hình thành, vừa tạo tâm thế,
hứng thú cho học sinh, thì vài ba phút rất khó thực hiện hiệu quả. Còn nếu dành nhiều
thời gian để đạt được mục tiêu cho hoạt động này thì sẽ khó hoàn thành bài học (ta
vẫn gọi là "cháy giáo án").
Giải pháp để khắc phục tình trạng trên chính là kết hợp với dạy học theo chủ
đề. Một số tiết/bài trong phân phối chương trình sẽ được kết nối, hệ thống thành các
chủ đề dạy học. Chẳng hạn, ở Ngữ văn lớp 10: các tiết/bài về văn học dân gian trong
chương trình học kì I gồm: Khái quát văn học dân gian Việt Nam, Chiến thắng Mtao
Mxây, Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy, Tấm Cám, Tam đại con gà,
Nhưng nó phải bằng hai mày, Ôn tập văn học dân gian Việt Nam sẽ được xây dựng
thành Chủ đề Truyện dân gian Việt Nam, các tiết/bài trong chương trình học kì II
gồm: Các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh, Lập dàn ý bài văn thuyết minh,
Tính chuẩn xác, hấp dẫn của văn bản thuyết minh, Phương pháp thuyết minh, Luyện
tập viết đoạn văn thuyết minh, Tóm tắt văn bản thuyết minh sẽ được xây dựng thành
Chủ đề Văn thuyết minh.
17
Khi đã xây dựng các chủ đề dạy học, các tổ/nhóm chuyên môn hoàn toàn chủ
động về việc phân chia số tiết cho mỗi đơn vị kiến thức bài học. Chính vì thế, trong
một tiết, giáo viên chỉ cần tổ chức thực hiện một hoặc hai hoạt động học nào đấy,
miễn sao các hoạt động này đáp ứng được các yêu cầu và mục tiêu của bài học là
nhằm hình thành và phát huy phẩm chất, năng lực học sinh. Bởi vì, "tiến trình dạy học
theo chủ đề được tổ chức thành các hoạt động học của học sinh để có thể thực hiện ở
trên lớp và ở nhà, mỗi tiết học trên lớp có thể chỉ thực hiện một số hoạt động trong
tiến trình sư phạm của phương pháp và kĩ thuật dạy học được sử dụng" (công văn
5555/BGDĐT-GDTrH của Bộ GD&ĐT).
4. Giải pháp 4: Nắm vững kĩ thuật trong dự giờ NCBH
4.1. Chọn vị trí quan sát
- Người dự giờ nên chọn vị trí có thể quan sát các hoạt động của học sinh một
cách tốt nhất. Thông thường, nếu bố trí bàn ghế học sinh trong lớp theo kiểu truyền
thống (tất cả đều hướng lên trên bàn giáo viên) thì người dự giờ có thể đứng/ngồi ở
hai bên hoặc ở phía trước lớp học. Nhưng nếu bố trí bàn ghế để học sinh ngồi theo
từng nhóm thì người dự giờ có thể linh hoạt chọn vị trí sao cho thuận lợi nhất để quan
sát hoạt động học của học sinh.
18
- Trong quá trình giáo viên và học sinh thực hiện các hoạt động dạy và học,
người dự giờ tránh đi lại khiến học sinh bị chi phối, làm ảnh hưởng đến lớp học.
4.2. Ghi chép khi dự giờ
- Trong quá trình quan sát, người dự giờ cần đánh dấu, ghi chép những biểu
hiện tâm lí, thái độ, hành vi của một số học sinh (có thể quan sát được) trong các hoạt
động/tình huống cụ thể như: Hoạt động nào? Bài tập nào? Thời điểm nào? Biểu hiện
của học sinh đó như thế nào? Vì sao lại như vậy?
- Tránh việc chỉ quan tâm ghi chép tiến trình và ghi tất cả nội dung kiến thức,
lời nói của giáo viên… theo như cách dự giờ truyền thống. Sử dụng phiếu quan sát để
ghi chép nhanh các thông tin một cách ngắn gọn, cụ thể.
MẪU PHIẾU QUAN SÁT
Nội dung hoạt động
Biểu hiện của HS
Nguyên nhân, biện pháp
Hoạt động 1:
- Cảm xúc, thái độ, hành vi, - Vì…
- Tên hoạt động:
trả lời câu hỏi.
- Nội dung của hoạt động: - Bài tập, sản phẩm…
- Nên…
- Có thể là…
19
nhiệm vụ, các câu hỏi…
Hoạt động 2: …
4.3. Quan sát khi dự giờ
- Người dự giờ tập trung vào việc học của học sinh là chủ yếu và trả lời được
các câu hỏi gợi ý sau:
Thái độ của học sinh khi tham gia học thể hiện qua nét mặt, hành vi như thế
nào? (thích thú, tích cực, chán nản, uể oải…)
Khả năng thực hiện các hoạt động học tập có vừa sức với học sinh không? Học
sinh có hiểu lời hướng dẫn của giáo viên không?
Sự tương tác giữa các học sinh trong giờ học như thế nào?
Hoạt động nào học sinh hứng thú hay không hứng thú? Vì sao?
Hoạt động nào thu hút tất cả học sinh tham gia? Vì sao?
Giáo viên làm thế nào để cuốn hút học sinh tham gia?
Những học sinh nào chưa/không tham gia vào hoạt động?
20
- Chú ý đến học sinh tích cực và học sinh chưa tích cực, quan sát khi học sinh
làm việc cá nhân/hoạt động nhóm:
Khi học sinh làm việc theo nhóm, thời gian có đủ để học sinh thực hiện nhiệm
vụ được giao hoặc nắm được nội dung bài học không?
Có bao nhiêu học sinh tham gia vào thực hiện nhiệm vụ?
Có học sinh nào không tham gia vào việc thực hiện nhiệm vụ? Vì sao? Trong
trường hợp đó, nên làm gì để tất cả các học sinh tham gia một cách có ý nghĩa?
5. Giải pháp 5: Nắm vững nội dung, phƣơng pháp, kĩ thuật phân tích bài học
Mỗi bài học bao gồm các hoạt động học theo tiến trình sư phạm của phương
pháp dạy học tích cực được sử dụng. Mỗi hoạt động học có thể sử dụng một kĩ thuật
dạy học tích cực nào đó để tổ chức nhưng đều được thực hiện theo các bước như sau:
- Chuyển giao nhiệm vụ học tập: nhiệm vụ học tập rõ ràng và phù hợp với khả
năng của học sinh, thể hiện ở yêu cầu về sản phẩm mà học sinh phải hoàn thành khi
thực hiện nhiệm vụ; hình thức giao nhiệm vụ sinh động, hấp dẫn, kích thích được
hứng thú nhận thức của học sinh; đảm bảo cho tất cả học sinh tiếp nhận và sẵn sàng
thực hiện nhiệm vụ.
21
- Thực hiện nhiệm vụ học tập: khuyến khích học sinh hợp tác với nhau khi thực
hiện nhiệm vụ học tập; phát hiện kịp thời những khó khăn của học sinh và có biện
pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu quả; không có học sinh bị "bỏ quên".
- Báo cáo kết quả và thảo luận: hình thức báo cáo phù hợp với nội dung học
tập và kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng; khuyến khích cho học sinh trao đổi,
thảo luận với nhau về nội dung học tập; xử lí những tình huống sư phạm nảy sinh một
cách hợp lí.
- Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: nhận xét về quá trình thực hiện
nhiệm vụ học tập của học sinh; phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm
vụ và những ý kiến thảo luận của học sinh; chính xác hóa các kiến thức mà học sinh
đã học được thông qua hoạt động.
Căn cứ vào đó, chúng ta có thể phân tích các hoạt động của giáo viên và học
sinh theo 03 mức độ khác nhau:
- Mức độ 1: Đạt
- Mức độ 2: Khá
- Mức độ 3: Tốt
22
* Phân tích hoạt động của giáo viên theo 3 mức độ:
Mức độ
Tiêu chí
Mức 1
Mức 2
Mức 3
Mức độ sinh HS được giao nhiệm HS được giao nhiệm HS được giao nhiệm
động, hấp dẫn vụ
HS
học tập cụ thể. vụ học tập và được vụ cụ thể, được hướng
của Tuy nhiên, phương hướng dẫn cụ thể. dẫn rõ ràng, phương
phương pháp thức chuyển giao chưa Phương thức chuyển thức chuyển giao sinh
và hình thức lôi kéo được HS vào giao rõ ràng đa số HS động, lôi kéo được
chuyển
giao nhiệm vụ học tập. hiểu được nhiệm vụ tham gia HS, HS hiểu
nhiệm vụ học Nhiều HS còn thụ học tập.
và chủ động thực hiện
tập.
động với nhiệm vụ
được các nhiệm vụ GV
học tập được giao.
giao.
Khả
năng Biết thu thập thông tin Biết vận dụng các biện Khả năng quan sát theo
theo dõi, quan phản hồi về mức độ pháp khác nhau để dõi phát hiện kịp thời
sát, phát hiện nhận thức của HS để quan sát, phát hiện, thu khó khăn của HS tốt:
kịp
thời điều
chỉnh
phương thập thông tin phản cử chỉ, hành vi, nét
23
những
khó pháp dạy học kịp thời, hồi kịp thời từ phía mặt, thái độ, qua vở ghi
khăn của HS.
song còn hình thức; HS.
Sử
dụng
các bài,
câu
hỏi
phát
một số HS còn gặp thông tin thu thập vấn,…) GV kịp thời
khó khăn trong học được để điều chỉnh, điều chỉnh và giúp đỡ
tập GV chưa phát hiện uốn nắn HS kịp thời, HS còn khó khăn trong
được.
song hiệu quả chưa rõ học tập, bước đầu có
ràng.
kết quả.
Mức độ phù Trong quá trình học tập Trong quá trình học tập Trong quá trình học
hợp, hiệu quả các mối quan hệ tương các mối quan hệ tương tập GV tổ chức được
của các biện tác giữa: HS với HS, tác giữa: HS với HS, các mối quan hệ tương
pháp hỗ trợ HS với GV, HS với tài HS với GV, HS với tài tác giữa HS với HS, HS
và
khuyến liệu học tập đã được liệu học tập đã được với GV, HS với tài liệu
khích HS hợp GV chú ý tổ chức song GV chú ý tổ chức, bước học tập diễn ra rất tích
tác, giúp đỡ còn mang tính hình đầu mang lại kết quả cực và hiệu quả.
nhau khi thực thức và hiệu quả chưa nhất định.
hiện nhiệm vụ cao.
học tập.
24
Mức độ hiệu Trong quá trình học Trong quá trình học Trong quá trình học
quả hoạt động tập HS được tổng hợp, tập HS được phân tập đa số HS được tự
của GV trong phân tích, đánh giá kết tích, tổng hợp, đánh tổng hợp, phân tích kết
việc tổng hợp, quả hoạt động và quá giá kết quả hoạt động quả hoạt động và quá
phân tích, đánh trình thảo luận, song và quá trình thảo luận, trình thảo luận, được
giá kết quả hoạt còn mang tính hình được tự đánh giá bản đánh giá bản thân và
động và quá thức, áp đặt.
thân và đánh giá lẫn đánh giá lẫn nhau,
trình thảo luận
nhau, bước đầu có được uốn nắn kịp thời
của HS.
hiệu quả. Song mới những sai sót lệch lạc
chỉ tập trung vào một về kiến thức, kĩ năng,
số HS.
thái độ và hành vi theo
hướng tích cực: HS
cảm nhận không bị áp
đặt, được tôn trọng và
cảm thấy mình có giá
trị.
* Phân tích hoạt động học của học sinh theo 3 mức độ:
25