Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số hình thức rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 18 24 tháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.46 KB, 15 trang )

A. phÇn më ®Çu
Để thực hiện tốt mục tiêu của xã hội và mục đích của Đảng ta là: “Dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” thì trước hết nhiệm vụ
của Giáo dục phải Đào tạo ra được những “con người mới xã hội chủ nghĩa” và
con người đó phải được phát triển toàn diện.
Chính vì lẽ đó mà sự nghiệp giáo dục của những năm gần đây đã được toàn
xã hội quan tâm và chú trọng hơn. Đặc biệt là giáo dục Mầm non, là hệ thống
đầu tiên của Giáo dục quốc dân. Nó là nền tảng đầu tiên trong suốt quá trình
giáo dục đào tạo “con người mới xã hội chủ nghĩa”. Để thực hiện tốt những mục
tiêu cơ bản của mình thì ngành học Mầm non phải không ngừng đổi mới và phát
triển về mọi mặt cả về số lượng lẫn chất lượng, cơ sở vật chất cũng như nội
dung chăm sóc giáo dục trẻ.
Như chúng ta đã biết, giáo dục là một trong những nhiệm vụ quan trọng và
cần thiết. Muốn thực hiện được nhiệm vụ to lớn này thì trước hết phải kể đến vai
trò của gia đình.Vì gia đình là sợi dây của tình yêu thương chăm sóc và kích
thích đầu tiên của trẻ. Cha mẹ là người “Thầy” đầu tiên và quan trọng nhất. Mỗi
nhà giáo dục, mỗi một cô giáo là người mẹ thứ hai của con trẻ thì phải làm thế
nào để hình thành cho các cháu bước đầu có một đức tính tốt để sau này trẻ trở
thành một Công dân tốt.
Là một giáo viên Mầm non được phân công phụ trách nhóm trẻ 18-24
tháng, ở độ tuổi này trẻ còn rất bé nhưng đặc điểm sinh lý của trẻ thì lại phát
triển rất mạnh. Do vậy, trẻ dễ bị tổn thương về tâm lý, tôi nhận thấy rằng: “Việc
đưa các cháu vào nề nếp, thói quen” để tham gia mọi hoạt động trong ngày của
trẻ là một nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong suốt quá trình phát triển của các
cháu. Vì trẻ độ tuổi này chưa tách rời bố mẹ, gia đình, những người thân của bé
nên khi mới đến trường, nhập lớp trẻ thường biểu hiện thái độ sợ hãi, mọi thứ
quanh bé đều lạ lẫm, tránh né bạn, không chấp nhận sự giúp đỡ của cô giáo,
thậm chí còn la khóc, không ăn, không ngủ hoặc không tham gia vào mọi hoạt
động trong nhóm, có thể trẻ dường như không hoà nhập vào tập thể. Vậy! Làm
thế nào để nhanh chóng đưa trẻ vào nề nếp, thói quen ngay từ những ngày đầu?
1




Những ngày mà trẻ không muốn rời xa vòng tay yêu thương của bố mẹ đến với
cô giáo và các bạn. Theo tôi nghĩ, đây không phải là vấn đề trăn trở của riêng tôi
mà là của tất cả các đồng nghiệp nói chung. Do vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài
“Một số hình thức rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 18-24 tháng” làm sáng
kiến cải tiến kỹ thuật năm học 2011-2012.

B. PHẦN NỘI DUNG
2


I. Cơ sở lý luận:
Trẻ 18-24 tháng tuổi là giai đoạn khởi điểm của việc hình thành và phát
triển nhân cách của con người, các mặt phát triển hoà quyện vào nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau, không tách bạch rõ nét. Giai đoạn này cơ thể trẻ hoàn toàn còn
non nớt, rất nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ phát
triển rất nhanh về mọi mặt, trẻ rất dễ tổn thương về mặt tâm lý, nhu cầu về cảm
giác an toàn rất lớn. Do đó, muốn rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ thì ngay từ
những ngày đầu trẻ mới vào lớp cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận được
nguồn hạnh phúc, thấy mình được chấp nhận, được yêu mến, cảm giác được an
toàn và là thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Bên cạnh đó, quan
hệ của cô giáo đối với trẻ phải giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ
mẹ - con, là người thay mẹ dạy trẻ. Vậy hoạt động lao động Sư phạm của cô
giáo Mầm non đòi hỏi phải rất linh hoạt có sự sáng tạo, nhạy bén, kịp thời để
phát hiện và đáp ứng những nhu cầu phát triển của trẻ. Hoạt động lao động Sư
phạm của cô giáo Mầm non có định hướng, có mục đích để tác động giáo dục
vào sự phát triển của trẻ. Tác động sư phạm của cô giáo phải luôn luôn thay đổi,
phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ có cảm tình, có hứng thú. Vì thế, nghệ
thuật của cô thể hiện ở chỗ biết hoà nhập vào thế giới trẻ, biết quên mình là

người lớn để trở thành người bạn thực sự của trẻ. Biết tôn trọng và đồng cảm với
trẻ, tạo nên không khí cởi mở, lôi cuốn, thu hút trẻ như thế trẻ dễ nghe theo sự
hướng dẫn của cô, biết vâng lời cô giáo một cách tự nguyện, thoải mái và vui vẻ.
Từ đó, giúp trẻ có được những hiểu biết nhất định, tạo cho trẻ có đầy đủ điều
kiện về thể lực và kiến thức. Đồng thời, hình thành và phát triển nhân cách tốt
nhất cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng, tự tin hơn.
Muốn thực hiện những mục tiêu trên thì vấn đề rèn luyện nề nếp, thói quen
cho trẻ Mầm non phải được chú trọng thường xuyên, liên tục và không ngừng
được đổi mới. Vì vậy, đội ngũ giáo viên phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao
trình độ Chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên được tiếp thu đầy đủ các chuyên
đề, tiếp cận với cái mới một cách kịp thời để thực hiện việc chăm sóc- giáo dục
trẻ, đặc biệt là rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ đạt kết quả cao.
3


Nếu cứ thực hiện theo phương pháp cũ mà trước kia đã thực hiện thì sẽ
không đưa lại hiệu quả cao như mong đợi, tính chủ động tích cực sẽ không phát
huy được khả năng sáng tạo của trẻ, đồng thời kết quả về mặt trí tuệ sẽ thấp, nó
sẽ phát triển một cách thụ động.Vì vậy, chỉ có Đổi mới hình thức tổ chức cho trẻ
thì mới tạo ra được môi trường hoạt động tốt và tạo ra những cơ hội tốt nhất cho
trẻ phát huy khả năng chủ động, sáng tạo một cách triệt để. Trẻ mầm non nói
chung và trẻ nhà trẻ nói riêng, đặc biệt là trẻ 18-24 tháng tuổi, nếu cô tạo điều
kiện cho trẻ được trãi nghiệm dưới nhiều hình thức, thông qua mọi hoạt động
hàng ngày ở mọi lúc, mọi nơi...thì việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ sẽ
được thuần thục hơn, kết quả sẽ đạt cao hơn.
II. Cơ sở thực tiễn:
Ý thức được việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ trong độ tuổi Mầm
non là vô cùng quan trọng. Do vậy, trường Mầm non TT Lệ Ninh đã quán triệt
và bồi dưỡng về vấn đề này đến tận đội ngũ. Trong năm học 2011-2012 nhà
trường cũng đã chú trọng nhiều đến việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ và

phổ biến cụ thể đến từng giáo viên.
Là giáo viên trực tiếp đứng lớp nhà trẻ 18-24 tháng, qua quá trình thực hiện
tôi nhận thấy những thuận lợi, khó khăn sau:
1. Thuận lợi:
- Bản thân luôn nhận được sự quan tâm của cán bộ Chuyên môn Phòng
giáo dục và Ban giám hiệu nhà trường cùng với sự lãnh đạo của địa phương và
bạn bè đồng nghiệp.
- Bản thân tham gia tập huấn đầy đủ các chuyên đề, cập nhật thông tin kịp
thời về đổi mới của ngành học Mầm non, trong đó có chuyên đề lễ giáo, chuyên
đề vệ sinh dinh dưỡng...
2. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi tôi đã nêu ở trên, trong quá trình thực hiện, bản
thân tôi gặp không ít những khó khăn nhất định như sau:

4


- Với đặc điểm sinh lý của lứa tuổi này lời nói đang phát triển, vì vậy khả
năng giao tiếp về ngôn ngữ của trẻ gặp rất nhiều khó khăn. Trẻ sống trong môi
trường gia đình được nuông chiều, muốn gì được nấy, tất cả các cháu đều mới
nhập học. Do đó, khi đến trường tất cả đều hoàn toàn mới, xa lạ với trẻ, trẻ chưa
quen với nề nếp thói quen của lớp, tính rụt rè, nhút nhát, cá tính...còn nhiều ở
trẻ.
- Phòng học mượn, nhỏ hẹp và còn tạm bợ nên ảnh hưởng trong việc tổ
chức các hoạt động.
- Lớp học chỉ một mình tôi đảm nhiệm với số lượng 12 cháu nên khi thực
hiện tổ chức hoạt động còn gặp khó khăn trong bao quát trẻ.
- Một số phụ huynh nhận thức chưa đồng đều, cho rằng lứa tuổi bé việc rèn
luyện nề nếp, thói quen chưa quan trọng đối với trẻ.
3. Điều tra thực tiễn:

- Đặc điểm tình hình của lớp:
+Tổng số trẻ: 12 cháu: Trong đó: 6 trẻ nam và 6 trẻ nữ
+Dân tộc: Kinh
Để biết được nề nếp, thói quen ban đầu của trẻ, vào đầu năm học tôi đã tiến
hành khảo sát kết quả cụ thể như sau:
Bảng khảo sát kết quả đầu năm về nề nếp, thói quen ban đầu cho trẻ

TT Nội dung

Tỷ lệ

1

Trẻ có thói quen nề nếp đi học chuyên cần

6/12 - 50%

2

Trẻ có thói quen chào hỏi, lễ phép và vâng lời người 4/12 - 33,3%
lớn

3

Trẻ có thói quen nề nếp vệ sinh sạch sẽ, đúng nơi quy 2/12-16,7%
5


định
4


Trẻ có nề nếp biết ăn sạch sẻ, tự phục vụ bản thân

3/12- 25%

5

Trẻ có thói quen nề nếp giờ ngủ nằm im lặng, biết lấy 2/12-16,7%
và cất gối đúng nơi quy định

6

Trẻ có thói quen nề nếp thu dọn đồ chơi sau khi chơi 2/12-16,7%
xong

7

Trẻ có nề nếp giờ học không nói chuyện, tích cực tham 2/12-16,7%
gia vào hoạt động

8

Trẻ có thói quen nề nếp giờ chơi không tranh giành đồ 3/12- 25%
chơi, không đánh bạn, đoàn kết với các bạn khi chơi
Với kết quả như trên, bản thân tôi luôn băn khoăn suy nghĩ, tìm tòi ra một

số hình thức phù hợp để từng bước nhằm rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 1824 tháng tuổi đạt kết quả cao.
III. Biện pháp thực hiện:
1. Nghiên cứu tham khảo, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ Chuyên môn
và khả năng nắm bắt về việc rèn luyện nề nếp , thói quen cho trẻ 18-24

tháng tuổi.
- Luôn học tập và nghiên cứu các văn bản, Chỉ thị, Nghị quyết và “Quy chế
nuôi dạy trẻ” của cấp trên đề ra để có kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ được tốt
hơn.
- Tham gia các buổi tập huấn chuyên môn do Phòng, Cụm liên trường và
nhà trường tổ chức.

6


- Thường xuyên tìm tòi sách báo, nghiên cứu và tìm hiểu thêm về tầm quan
trọng của việc đưa trẻ vào nề nếp, thói quen trong học tập, trong sinh hoạt hàng
ngày của trẻ.
- Tham gia tốt các đợt thao giảng, dự giờ bạn đồng nghiệp để học hỏi thêm
kinh nghiệm về việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho bản thân.
- Thường xuyên rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ phù hợp, đúng quy
trình của độ tuổi 18-24 tháng.
2. Phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp thích hợp.
Bên cạnh việc thực hiện chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ là vấn đề
trọng tâm thì cô giáo cần tiến hành tổ chức để đưa các cháu đi vào nề nếp thói
quen ở mọi lúc, mọi nơi. Vì thế, mọi hoạt động trong ngày của trẻ tôi đều phải
nghiên cứu, lập ra chương trình kế hoạch bồi dưỡng đối tượng theo sự phân
nhóm và sắp xếp chỗ ngồi cho từng cháu một cách hợp lý:
- Trẻ hiếu động cá biệt ngồi cạnh cô giáo để dễ quan sát.
- Trẻ nhút nhát, chậm chạp ngồi cạnh trẻ mạnh dạn và nhanh nhẹn.
- Trẻ khá ngồi cạnh trẻ trung bình.
- Trẻ hay nói chuyện ngồi cạnh trẻ ngoan.
Cô động viên khích lệ kịp thời sự tiến bộ đối với những trẻ hiếu động, cá
biệt khi thấy trẻ ngoan hơn.
3. Tăng cường làm và sưu tầm nhiều Đồ chơi đẹp có tính sáng tạo.

Trẻ Mầm non nói chung và trẻ 18-24 tháng tuổi nói riêng đến lớp trẻ được
hoạt động dưới nhiều hình thức: “Học mà chơi, chơi mà học”, học ở mọi lúc mọi
nơi. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng của việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho
trẻ thì bản thân tôi không ngừng sưu tầm những nguyên vật liệu sẵn có để làm
Đồ dùng, Đồ chơi đảm bảo tính thẩm mĩ, sáng tạo hấp dẫn, đảm bảo tính an toàn
cho trẻ sử dụng hợp lí, phù hợp với nội dung, với độ tuổi. Đồ dùng, đồ chơi sắp
xếp gọn gàng, vừa tầm với trẻ dễ thu hút trẻ vào hoạt động một cách thoải mái
và vui vẽ.
Ví dụ: Cháu mới nhập lớp đang còn khóc vì nhớ Bố, Mẹ, nhớ người
thân...tôi có thể bế cháu đến các góc chơi cho trẻ xem tranh vẽ cảnh: Cô và các
7


bạn đang xếp nhà cho Búp Bê. Để trẻ tập trung vào xem tranh mà quên đi nỗi
nhớ nhà thì tôi có thể đàm thoại với trẻ, chỉ vào hình ảnh và hỏi trẻ: “Tranh vẽ
về ai đây? Còn đây là ai? Cô giáo và các bạn đang làm gì? Con thấy các bạn
chơi có vui không? Bây giờ, cô và con cùng chơi xếp nhà cho em Búp Bê nhé!”
Hoặc tôi có thể bế cháu đến đưa cho cháu chơi đồ chơi do chính tay cô làm
ra như cái quạt điện làm từ hộp bạc hà, xê sũi, phim Xquang...rất gần gũi với trẻ,
tôi hướng dẫn cháu chơi và trò chuyện với trẻ: “Cô bật quạt quay cho mát nhé!
Cô đố con cái gì đây? Ở nhà con có quạt không? Quạt để làm gì? Bây giờ, cô
cháu mình cùng bật quạt ru em Búp Bê ngủ nhé!...”
Từ việc chú trọng đến đồ dùng, đồ chơi trang bị cho trẻ hoạt động trong
ngày giúp trẻ hứng thú hơn tăng phần tích cực, tạo cho trẻ có giờ hoạt động sinh
động hơn và hứng thú hơn. Đây cũng là yếu tố góp phần quyết định chất lượng
và khả năng tham gia hoạt động của trẻ đạt kết quả cao hơn.
4. Động viên khuyến khích trẻ và nêu gương tốt thông qua các hoạt
động trong ngày.
Động viên, khuyến khích giúp cho trẻ thêm tự tin, hy vọng và có lòng tin để
nhìn thẳng vào hoàn cảnh. Động viên cũng là một cách giúp đỡ rất hiệu quả làm

cho trẻ tăng thêm niềm tin, tính kiên trì và chủ động. Khi động viên trẻ, tôi chú
trọng đến các phương pháp như biểu dương, tán thưởng những thành tích trẻ đã
đạt được và khuyên bảo tôi dùng lời lẽ khéo léo và thái độ tình cảm để thương
lượng thuyết phục trẻ.
Ví dụ: Tôi nói: “ Con chịu khó nhé! Khi nào quen rồi thì con sẽ cảm thấy
rất dễ dàng”.
Tỏ rõ lòng tin: Tôi tin là trẻ làm được công việc gì thì tôi kiên quyết hướng
dẫn trẻ làm và tỏ rõ cho trẻ thấy được là cô tin tưởng ở trẻ.
Ví dụ: Tôi nói: “ Con làm được đấy! Cô biết mà!”
Thiết tha yêu cầu: Khi tôi muốn trẻ làm một công việc nào đó trong hoạt
động hàng ngày của trẻ tại lớp học thì tôi yêu cầu trẻ một cách dịu dàng và có
tính mời mọc.
Ví dụ như nói: “ Các con ơi, giúp cô với nào!”
8


Trẻ ở giai đoạn này hay tò mò, thích bắt chước do đó mà tôi thường xuyên
nêu gương tốt thông qua các hoạt động của trẻ diễn ra trong ngày. Tôi luôn tôn
trọng trẻ và hết sức công bằng khi khen trẻ. Khen và chê có tác dụng mạnh đến
hành vi vâng lời của trẻ, do vậy tôi thường khen những gương tốt để trẻ bắt
chước. Ví dụ: Cô khen những trẻ đi học ngoan, đúng giờ, mặc áo quần sạch đẹp,
đầu tóc gọn gàng. Biết chào cô khi đến lớp, không khóc nhè. Nếu có trẻ đi học
còn khóc nhè...thì cô có thể nói: “Lần sau con đi học ngoan, không uốn mẹ nữa
để được cô khen giống bạn... nhé! Khi con ngoan không khóc cô thấy con xinh
hơn đấy! Các bạn có thấy bạn... ngoan không nào!”
Cô không nên chê trẻ trước tập thể lớp mà nên gần gũi để góp ý nhỏ với trẻ
về một số nề nếp chưa tốt hay trong lớp còn một vài cháu hay nhõng nhẽo,
không nghe lời cô giáo do sự nuông chiều của ông bà, bố mẹ ... tôi dựa vào lúc
có điều kiện để giúp trẻ có thể học tập, bắt chước gương tốt. Tôi đã tranh thủ cơ
hội đó để thay đổi trẻ bằng mọi hình thức. Từ sự giúp đỡ của cô giáo mà tính

nhõng nhẽo của trẻ mất dần. Được cô tạo điều kiện giúp đỡ, được rèn luyện mà
trẻ đã thực sự hoà nhập vào nề nếp, khuôn khổ của tập thể lớp một cách thoải
mái, dễ dàng và tự tin.
5. Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động, mọi
lúc mọi nơi.
Hàng ngày, các cháu đến lớp với các nội dung hoạt động: Giờ ăn, giờ ngủ,
vệ sinh, học tập vui chơi, giờ đón - trả trẻ...mọi sinh hoạt đều là những hình thức
để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này, để đưa các cháu vào nề nếp thói quen
đâu phải là chuyện dễ và đơn giản, không chỉ là ngày một ngày hai mà cả một
thời gian dài và liên tục. Thực tế các cháu còn rất bé chưa có ý thức được như
các anh chị lớn tuổi, điều này cũng là thử thách cho cô giáo. Muốn tạo cho trẻ có
được thói quen thường xuyên, cô giáo phải thực sự là người mẹ hiền thứ hai của
con trẻ, phải luôn nhẹ nhàng, gần gũi, yêu thương trẻ, coi trẻ như con của mình
để uốn nắn trẻ. Ngoài ra, thông qua các bài hát, bài thơ, câu chuyện...trò chơi có
nội dung nói về nề nếp thói quen, tôi cũng có thể lồng ghép đưa vào mọi lúc

9


phần nào giúp trẻ liên hệ tới bản thân mà ngoan hơn và biết vâng lời cô giáo hơn
từ đó có thói quen nề nếp tốt hơn..
Ví dụ:
- Rèn cho trẻ thói quen biết chào hỏi thông qua các bài hát như: Bé ngoan,
Lời chào buổi sáng, Mẹ yêu không nào, Nu na nu nống; Thông qua bài thơ:
Miệng xinh, Chào; Hoặc thông qua câu chuyện: Cháu chào ông ạ!
- Thông qua bài thơ, bài hát giúp trẻ hình thành thói quen thu dọn đồ chơi
sau khi chơi xong như: “ Bạn ơi hết giờ rồi.
Nhanh tay cất đồ chơi.
Nhẹ tay thôi bạn nhé!
Cất đồ chơi đi nào!”

Hoặc: “ Giờ chơi hết rồi.
Nào các bạn ơi!
Ta cùng cất dọn
Đồ dùng đồ chơi
Vào nơi quy định.”
- Qua bài thơ, bài hát, câu chuyện rèn cho trẻ thói quen khi ăn, khi ngủ như:
Bài hát: Giờ đi ngủ. Bài thơ: Giờ ăn. Bài thơ: Giờ ngủ
- Rèn thói quen vệ sinh cho trẻ qua bài thơ: “Rửa tay sạch”
6. Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp
với gia đình.
Thông qua các buổi Hội nghị cha mẹ học sinh hàng tháng và hàng quý hoặc
vào giờ đón - trả trẻ hàng ngày và cập nhật các thông tin trên bảng “Những điều
cha mẹ cần biết”; Phụ huynh cùng sưu tầm tranh ảnh, những bài thơ, câu chuyện
có nội dung giáo dục phù hợp; Đóng góp nguyên vật liệu cùng làm đồ chơi phục
vụ cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả tốt. Thường xuyên chú trọng
tuyên truyền rộng rãi với các bậc phụ huynh về sự cần thiết của việc rèn luyện
nề nếp, thói quen cho trẻ ở độ tuổi này. Từ đó, phụ huynh cùng phối hợp với
giáo viên để trao đổi nắm bắt đặc điểm tình hình của trẻ, tìm nguyên nhân từ đó
thống nhất giải pháp thích hợp, kịp thời uốn nắn, rèn luyện trẻ lúc ở nhà cũng
10


như ở trường. Giúp việc rèn luyện nề nếp thói quen theo khoa học và đi đến
thống nhất trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
7. Rèn luyện bằng tình cảm của cô đối với trẻ.
Đa số trẻ ở độ tuổi này chưa rời khỏi bàn tay ấp ủ, yêu thương của bố mẹ,
gia đình và những người thân yêu quanh bé nên khi mới nhập lớp các cháu còn
mang một tâm trạng lưu luyến nhớ bố mẹ và những người thân. Khi đến lớp
quanh bé đều lạ lẫm, lúc này bé rất cần tình cảm sự âu yếm, nhẹ nhàng. Do đó,
cô phải làm sao để trẻ cảm nhận được nguồn hạnh phúc, sự ấm áp, được quan

tâm, được yêu mến, cảm giác được an toàn và có thể xem mình là một thành
viên trong gia đình nhỏ mà trẻ đang hoà nhập. Tình cảm của cô đối với trẻ giàu
cảm xúc thân thiết như quan hệ mẹ - con. Cô luôn tôn trọng và đồng cảm tạo nên
không khí vui tươi, cởi mở, lôi cuốn trẻ hứng thú tham gia vào sinh hoạt một
cách thoãi mái và tự tin.
Ví dụ: Những ngày đầu trẻ mới đến lớp còn bở ngỡ có khi trẻ còn khóc, tôi
bế trẻ âu yếm vỗ về trò chuyện, hát đọc thơ cho trẻ nghe và cho trẻ xem tranh,
kể chuyện qua tranh cho trẻ nghe. Thông qua nội dung các bức tranh với lời kể
nhẹ nhàng đầy tình cảm cuốn hút trẻ vào câu chuyện để trẻ quên đi nỗi nhớ nhà,
gây cho trẻ lòng ham muốn đến lớp được múa hát, vui chơi và được nghe cô kể
chuyện .
Hay những buổi đầu trẻ ăn cơm tại trường, ngủ tại trường trẻ còn bướng
bĩnh, uốn vặn. Tôi phải ân cần, dỗ dành bón từng thìa cơm, thìa cháo, ẵm và ru
trẻ vào giấc ngủ. Ngày qua ngày, trẻ đã quen với giờ ăn thì tôi hướng dẫn,
khuyến khích trẻ ngồi vào bàn tự cầm thìa xúc cơm ăn và giờ ngủ thì nằm vào
đúng gối của mình để ngủ, khi ngủ dậy biết tự mình xếp gối vào tủ gọn gàng.
IV. Những kết quả bước đầu và bài học kinh nghiệm.
1. Những kết quả bước đầu:
Qua quá trình cố gắng và đưa hết khả năng của mình vào thực hiện các hình
thức rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 18-24 tháng tuổi, cộng với sự ủng hộ
của các giáo viên trong trường, cùng với sự chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu
11


nhà trường, sự phối hợp của các bậc phụ huynh, gia đình cũng như các Ban Ngành. Tôi đã sử dụng các biện pháp nói trên một cách hợp lý nên đến nay trẻ
đã thực sự thích được đến lớp, có nề nếp tham gia vào các hoạt động, mạnh dạn
và tự tin, biết làm một số việc đơn giản phục vụ bản thân, có thói quen chào hỏi,
vâng lời bố mẹ và cô giáo...cụ thể:

TT Nội dung


Tỷ lệ

1

Trẻ có thói quen nề nếp đi học chuyên cần

12/12- 100%

2

Trẻ có thói quen chào hỏi, lễ phép và vâng lời

12/12-100%

3

Trẻ có thói quen nề nếp vệ sinh sạch sẽ, đúng nơi quy 12/12-100%
định

4

Trẻ có nề nếp biết ăn sạch sẽ, tự phục vụ bản thân

11/12- 91,7%

5

Trẻ có thói quen nề nếp giờ ngủ nằm im lặng, biết lấy 12/12-100%
và cất gối đúng nơi quy định


6

Trẻ có thói quen nề nếp thu dọn đồ chơi sau khi chơi 11/12- 91,7%
xong

7

Trẻ có nề nếp giờ học không nói chuyện, tích cực tham 12/12-100%
gia vào hoạt động

8

Trẻ có thói quen nề nếp giờ chơi không tranh giành đồ 11/12- 91,7%
chơi, không đánh bạn, đoàn kết với các bạn khi chơi
12


Những kết quả đạt được ở trên không phải làm tôi mãn nguyện mà tôi sẽ
lấy đó làm động lực thôi thúc mình cố gắng hơn nữa để rèn luyện nề nếp, thói
quen cho con trẻ trong những năm học tiếp theo.
2. Một số bài học kinh nghiệm:
Từ việc thực hiện áp dụng các hình thức rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ
ở nhóm 18-24 tháng, tôi đã thu được nhiều kết quả đáng phấn khởi. Qua đây,
bản thân tôi cũng đã rút ra một số kinh nghiệm giúp rèn luyện nề nếp, thói quen
ban đầu cho trẻ đạt kết quả tốt như sau:
1. Muốn rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ được tốt thì trước hết cô giáo
phải không ngừng tự học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ. Thường xuyên tham gia các lớp tập huấn, thao giảng, dự giờ để đúc rút kinh
nghiệm cho bản thân. Tìm tòi sách báo nghiên cứu và tìm hiểu thêm về tầm quan

trọng của việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ.
2. Phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp thích hợp. Đặc
biệt quan tâm đến trẻ cá biệt không kỳ thị giữa trẻ này với trẻ khác.
3. Tăng cường làm và sưu tầm nhiều đồ chơi đẹp có tính sáng tạo, đẹp, gần
gũi với trẻ và phù hợp với nội dung với độ tuổi của trẻ. Thực sự yêu nghề mến
trẻ, tận tâm, hăng say với nghề.
4. Động viên khuyến khích trẻ và nêu gương tốt thông qua các hoạt động
trong ngày. Bản thân giáo viên luôn là tấm gương tốt, lời ăn tiếng nói phải mẫu
mực, hành vi văn hoá. Khen chê đúng mực và biết tôn trọng trẻ.
5. Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động, mọi lúc
mọi nơi. Cô tạo mọi cơ hội cho trẻ được tự làm một số việc phù hợp với khả
năng của trẻ.
6. Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp với gia
đình để tìm ra nguyên nhân và thống nhất cách dạy trẻ tốt nhất.
7. Rèn luyện bằng tình cảm của cô đối với trẻ. Cô giáo là người bạn của trẻ
khi vui chơi, là tình mẹ - con khi ăn, khi ngủ.
C. KẾT LUẬN
13


Để đạt được mục tiêu đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa có đủ đức,
đủ tài. Ngành học Mầm non luôn coi trọng sự nghiệp chăm sóc giáo dục trẻ là
nhiệm vụ vô cùng quan trọng, đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục chung. Vậy,
làm thế nào để cho trẻ em trưởng thành và phát triển được như mong muốn
trong lời Bác đã nói:

“ Trẻ em như búp trên cành

Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”
là cả một công trình lớn nhằm khai thác hết tiềm năng để hướng trẻ đến sự

phát triển một cách toàn diện và mạnh mẽ, hình thành cho trẻ những cơ sở đầu
tiên về giáo dục nhân cách làm hành trang trong suốt giai đoạn về sau của trẻ.
Như vậy, chúng ta cần phải biết phối kết hợp rộng rãi và chặt chẽ giữa nhà
trường và gia đình để thống nhất việc chăm sóc nuôi dạy các cháu theo kiến thức
khoa học.
Là giáo viên Mầm non cần nhận thức được rằng: “ Làm Mẫu giáo tức là
thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế thì trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay
quấy phải bền bỉ chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ như trồng cây
non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này
các cháu thành người tốt”. Phải thật sự nhiệt tình say mê với công việc, có tấm
lòng yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng giữa các trẻ.
Xuất phát từ thực tiễn, nhằm đáp ứng được yêu cầu của ngành học Mầm
non theo định hướng đổi mới. Với những biện pháp tôi đã thực hiện trên trẻ ở độ
tuổi 18-24 tháng trong năm học này giúp trẻ trong lớp có được nề nếp, thói quen
tốt nhất.
Vì đề tài này được áp dụng trong phạm vi hẹp ở một nhóm trẻ. Do đó, một
số
kinh nghiệm tôi đưa ra không tránh khỏi những thiếu sót. Qua đây, tôi rất
mong nhận được sự góp ý, xây dựng bổ sung của các cấp lãnh đạo Phòng giáo
dục và Ban giám hiệu nhà trường cùng các bạn đồng nghiệp giúp tôi có được bài
học kinh nghiệm tốt hơn để áp dụng trong quá trình công tác của bản thân, đặc
biệt nâng cao chất lượng của việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 18-24
tháng tuổi nói riêng và trẻ trong độ tuổi Mầm non nói chung được tốt hơn.
14


Trân trọng cảm ơn những đóng góp của Hội đồng Chuyên môn Nhà
trường và Hội đồng Thi đua của Ngành!
Lệ Ninh, ngày 19 tháng 05 năm
2012

Xác nhận của HĐKH
trường MNTT Lệ Ninh

Người viết

Trần Thị Thanh
Hương

Xác nhận của HĐKH
Phòng giáo dục đào tạo Lệ Thuỷ

15



×