Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM một số kinh nghiệm làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.17 KB, 18 trang )

SÁNG KIẾ N KINH NGHIỆ M

ĐỀ TÀI:
“MỘT SÔ KINH NGHIỆ M LÀM TỐT CÔNG TÁC CHỦ NHIỆ M
LỚP 4”


MỤC LỤC NỘI DUNG
Phần A: Đặt vấn đề
Phần B: Nội dung nghiên cứu
I.

Mục đích nghiên cứu

II. Đối tượng phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu
III.

Nội dung và biện pháp thực hiện.

1.

Điều tra phân loại chất lượng đầu năm.

2.

Những ứng dụng trong thực tế.

3.

Các giải pháp cụ thể.


a.

Tố chất để làm nên một giáo viên chủ nhiệm lớp tốt.

b.

Giáo viên chủ nhiệm lớp là tấm gương sáng cho học

sinh noi theo.
c.

Rèn nề nếp.

d.

Rèn nề nếp học tập

e.

Những kĩ năng cần đạt

Phần C: Thực tiễn giáo dục
Phần D: Kết quả.
Phần E: Bài học kinh nghiệm và những đề xuất kiến nghị.
1.

Bài học kinh nghiệm.

2.


Đề xuất kiến nghị,


PHẦN A: ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm học 2009 - 2010 được xác định là "Năm học đổi mới quản lí và nâng cao chất lượng
giáo dục", giáo dục tiểu học tập trung thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Tiếp tục triển khai các cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, "Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục", "Mỗi
thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo" và phong trào thi đua
"Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" ở tất cả các trường tiểu học trong
phạm vi toàn quốc.
Tập trung chỉ đạo việc quản lý, tổ chức dạy học và đánh giá kết quả học tập của học sinh
theo chuẩn kiến thức, kĩ năng; tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học, bước đầu thực hiện
tích hợp trong dạy học các môn học; đổi mới đánh giá, xếp loại học sinh; chú trọng giáo
dục đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh; tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu
số; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lí; tiếp tục tổ chức
đánh giá sự phù hợp của chương trình, sách giáo khoa cấp Tiểu học.
Với chủ điểm trên tôi nhận thấy : Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm
đến sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo; Bác Hồ có dạy giáo dục là sự nghiệp “trồng
người”.Giáo dục - Đào tạo luôn góp phần gánh trọng trách đào tạo con người mới Xã Hội
Chủ Nghĩa “Vừa hồng, vừa chuyên”.
Năm nay là năm thứ ba ngành giáo dục thực hiện “ Hai không ” và cụ thể với “4 nội
dung”. Tất cả những hoạt động có chủ trương đó không ngoài việc nhằm đáp ứng mục
tiêu giáo dục, đào tạo thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước có “đủ đức đủ tài”, cho
nước nhà “sánh vai với các cường quốc Năm Châu”.
Bản thân tôi nghĩ: Muốn học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện
theo lời dạy của Bác trong sự nghiệp giáo dục này thì học sinh phải tích cực chủ động,
gia đình và xã hội phải quan tâm đúng mực, người giáo viên (đặc biệt là giáo viên chủ
nhiệm lớp) phải chủ đạo phối kết hợp thúc đẩy các hoạt động tích cực trong các mối quan
hệ giáo dục này.

Nhưng thực trạng hiện nay công tác chủ nhiệm chưa đạt được hiệu quả cao về nề nếp,
công tác tổ chức lớp học và các hoạt động khác.


Từ nhận thức trên, ngay trong thời điểm này đây, trọng trách của trường học, của người
giáo viên chủ nhiệm lớp lại tăng thêm, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường tiểu
học. Muốn góp phần mình vào việc đào tạo cho đất nước trong tương lai một lớp nhân
lực nhiệt tình trong lao động, sống có trách nhiệm, giàu lòng yêu thương con người, có
chí cầu tiến vươn lên trong cuộc sống thì ngay hôm nay, bản thân tôi phải có giải pháp
giúp các em có ý thức tự giác học tập tích cực, có chí cầu tiến vươn lên trong học tập, có
đủ kiến thức kỹ năng cơ bản của cấp học mà làm nền tảng tự tin bước tiếp ở các bậc học
sau - Đảm bảo các em tự tin, ham thích học tập, không ngại học.
Với mục đích đó tôi đã chọn nghiên cứu:
“Một số kinh nghiệm làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4”.


PHẦN B: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. Mục đích nghiên cứu.
Từ thực trạng trên đề tài tìm ra những nguyên nhân mà công tác chủ nhiệm chưa đạt hiệu
quả. Qua đó đề xuất một số biện pháp hữu hiệu để giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm
nhằm khắc phục tình trạng nề nếp lớp.
Tiếp thu từ thực tiễn như thế; bản thân cũng biết đã có nhiều anh chị đồng nghiệp đã
nghiên cứu về chuyên đề công tác chủ nhiệm lớp. Nhưng mỗi trường, mỗi lớp, mỗi khối
lớp đều có thực tế khác nhau nên bản thân tôi trú trọng nghiên cứu kinh nghiệm làm tốt
công tác chủ nhiệm ở ngay trên lớp 4a2 của trường Tiểu học Bế Văn Đàn mà bản thân
tôi chủ nhiệm trong năm học 2009-2010 này. Tôi đã nghiên cứu ngay trong tháng đầu
tiếp xúc lớp và vận dụng, có điều chỉnh trong suốt năm học. Đến nay bước dầu khả quan
nên tôi viết lại những kinh nghiệm của mình đã làm được.
II. Đối tượng phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu.
1.


Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 4

2.

Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 4a2

3.

Thời gian nghiên cứu: Từ 01/9/2009 đến 31/5/2010

4.

Phương pháp nghiên cứu:

- Điều tra thực tế học sinh đúc rút kinh nghiệm qua giảng dạy và giáo dục.
- Tìm hiểu những thông tin lý luận của vai trò người giáo viên chủ nhiệm lớp trong công
tác giáo dục học sinh trên các tập san giáo dục.
- Học tập kinh nghiệm từ đồng nghiệp.
- Lập kế hoạch theo chủ đề năm học, tháng tuần, theo từng chủ điểm của tháng.
- Phương pháp quan sát:
+ Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của học sinh.
+ Phương pháp điều tra : Trò chuyện trao đổi với GV chủ nhiệm cũ, học sinh , hội cha mẹ
học sinh.
II.NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.


1. Điều tra phân loại chất lượng đầu năm.
Đầu năm học 2009 – 2010, được phân công chủ nhiệm lớp 4a2, trường Tiểu học Bế Văn
Đàn. Hiện nay, lớp tôi chủ nhiệm có 33 học sinh, hầu hết các em đều ở Thành Phố Điện

Biên Phủ. Ngay trong tuần lễ đầu năm học, trường tổ chức thi kiểm tra chất lượng đầu
năm. Kết quả kiểm tra của lớp tôi chủ nhiệm như sau:
TS
HS

THỐNG KÊ ĐIỂM KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG ĐẦU
NĂM
TOÁN

33 em

TIẾNG VIỆT

TRÊN TB

DƯỚI TB

TRÊN TB

DƯỚI TB

SL

TL

SL

SL

SL


26

78,8% 7

TL

21,2% 25

TL

75,8% 8

TL
24,2%

- 21,2 % học sinh yếu toán ở đây là những em chưa thạo phép nhân và phép chia.
- 24,2 % học sinh yếu Tiếng Việt ở đây đa số là do các em sai chính tả, mà trong đó nhiều
em viết chữ chưa đạt yêu cầu về chữ viết.
Đó là chất lượng trên bài kiểm tra,còn giờ học trên lớp, phần đông các em học thiếu tích
cực, tôi dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm rất khó khăn và chưa mang lại
hiệu quả thiết thực. Cả lớp chưa có học sinh vở sạch chữ đẹp.
Qua tìm hiểu tình hình học sinh trên đường đi học, tôi phát hiện có một số em la cà trên
đường đến trường (tụ tập chơi ở nhà bạn, hoặc chơi trò chơi điện tử ở những điểm dịch
vụ ).
Nếu không có giải pháp tích cực để kịp thời điều chỉnh thực trạng trên thì trong lúc học
sẽ có một số em ngồi bên lề tiết học, các em tiếp tục hụt hẫng kiến thức. Và rồi tương lai
không xa là các em sẽ nghỉ học.
Muốn điều chỉnh hệ quả phải biết được nguyên nhân. Tôi đã tìm hiểu và phân tích thực
trạng trên là do những nguyên nhân chủ quan và khách quan sau:



Toán yếu là do các em chưa thuộc bảng nhân, chưa biết chia đặc biệt là chưa hiểu ước
lượng thương trong phép chia .
Tiếng Việt yếu do ảnh hưởng của chính tả và chữ viết là do các em chưa có luyện viết
một cách tích cực và cũng vì thế mà chưa có vở sạch chữ đẹp trong lớp.
Nhiều em chưa tích cực xây dựng bài là do các em chưa có chuẩn bị bài tốt ở nhà trước
khi đến trường, đến lớp.
* Đây là do đặc thù tâm lý lứa tuổi tiểu học – Các em chưa có ý thức tự học cao, chưa tự
mình có một phương pháp học tập tích cực, nhằm hướng tới một kết quả tốt trong học
tập.
Các em còn la cà dọc đường là do một phần lớn các em có cha mẹ là buôn bán ở các chợ
còn lo công việc làm ăn nên hầu như không quan tâm để ý đến con cái và không quản lí
được giờ giấc đến trường và sinh hoạt của các em.
* Đó là hậu quả của việc gia đình quan tâm chưa đúng mức – góp phần thêm cho việc
học tập không đạt kết quả.
Hai nguyên nhân trên chỉ là khách quan. Tôi nghiêm túc nhìn nhận rằng:
*Nguyên nhân chủ quan là do chưa có một giải pháp kết hợp giáo dục tốt cho các em ở
trường, ở nhà và ngoài xã hội.
Tóm lại: Đặc điểm tâm lí lứa tuổi là tất yếu.
Môi trường gia đình, sự quan tâm của gia đình là điều kiện khách quan.
Nguyên nhân chủ quan là người giáo viên chủ nhiệm các em chưa có những giải pháp
đảm bảo công tác chủ nhiệm đạt kết quả tốt làm động cơ tích cực thúc đẩy quá trình học
của học sinh.
II. Những ứng dụng trong thực tế
Phân tích nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên, bản thân tôi xác định nội dung cần giải
quyết là:
Cần khắc phục ngay việc yếu về kĩ năng thực hành tính toán và kỹ năng viết chữ của các
em. Làm sao để các em không còn la cà dọc đường mà tự giác tập trung cho việc rèn
luyện tích cực ở nhà, tham gia chủ động chiếm lĩnh kiến thức mới ở lớp; ham thích học



tập và có quyết tâm học tập tiến bộ - Mục tiêu lớn hơn là các em tiến bộ thực sự về năm
mặt giáo dục mà mục tiêu giáo dục của ngành đã đề ra và hoàn thành chương trình bậc
tiểu học theo chuẩn kiến thức và kỹ năng yêu cầu.
Bản thân tôi đã đặt vấn đề và cũng lấy đó để làm căn cứ xây dựng những giải pháp trong
việc thực hiện chuyên đề công tác chủ nhiệm của mình.
III.Các giải pháp cụ thể :
Qua kinh nghiệm nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp 4, và trước tình hình thực tế của
lớp, bản thân tôi đã chắt lọc và thực thi những giải pháp sau:
1. Tố chất để làm nên một giáo viên chủ nhiệm lớp tốt.
Vì GVCN là cán bộ quản lý lớp cho nên người dạy giỏi và người chủ nhiệm giỏi
không nhất thiết là một. Có đồng thuận, có lệch pha trong thực tế là bình thường. Tố chất
quan trọng của GVCN là tố chất của một con người hành động. Cũng như hiệu trưởng,
chủ nhiệm lớp phải nghiêm túc và cần một bộ óc kế hoạch hoá. Đối tượng quản lý trường
học, lớp học là con người phải giáo hoá do đó không thể có một chương trình cài đặt sẵn.
Phải lao vào làm. Thấy đúng thì tổng kết và áp dụng tiếp, thấy sai phải điều chỉnh kế
hoạch kịp thời hoặc huỷ bỏ theo quy trình: xây dựng kế hoạch - thực hiện kế hoạch kiểm tra kế hoạch - tổng kết và vạch kế hoạch mới. Rất cần ở chủ nhiệm lớp các phẩm
chất nhiệt tình, sâu sát, cần cù trí nhớ tốt, quan sát tinh, tâm lí giỏi, có khả năng xây dựng
đội ngũ cán bộ HS. GVCN phải vừa là thầy, vừa là bạn của học trò.
2. Giáo viên chủ nhiệm lớp là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Trong lớp học, GVCN là người để các em noi theo. Cách hành động, suy nghĩ, cư
xử của GV sẽ ảnh hưởng rất nhiều về quan niệm của học sinh và phụ huynh về GV. Bản
thân tôi vừa là GVCN. Vì vậy, khi đến trường hoặc lên lớp, tôi đều có những tác phong
làm gương cho học sinh,những khó khăn trong đời sống, những khó khăn ở trường... giúp
các em giải quyết những khó khăn này. Trong lớp học hay ngoài lớp học, thầy cô còn
phải đóng vai người anh, người chị mà các em có thể tin tưởng, nhờ cậy được. Qua đó
các em sẽ biết sống nhẫn nại, kiên trì và giàu lòng nhân ái.
3. Rèn nền nếp:
- Đây là công tác đóng vai trò quan trọng, có thể quyết định đến học tập và mọi

phong trào của lớp. Vì lớp học có trật tự, có nề nếp tốt thì học sinh mới chú ý nghe giảng


và hiểu bài được. Điều này giúp giáo viên rất nhiều trong việc đảm bảo hết các kiến thức
của tiết học. Với công việc này, tôi đã tiến hành như sau:
- Ngay từ khi nhận lớp, tôi đã cho các em học sinh học về Nội quy học sinh, cho các
em học cụ thể chi tiết từng mục một, phân tích kỹ để các em hiểu nội quy đó, vì nhiều khi
các em còn nhỏ, nếu Giáo viên chỉ nêu qua thì Học sinh không thể hiểu hết được yêu cầu
của Nội quy. Ví dụ xếp hàng thẳng là thế nào, trật tự nghe giảng và hăng hái phát biểu là
như thế nào, hát đầu giờ phải như thế nào, thể dục giữa giờ như thế nào cho đúng.
Lớp học phải trật tự thì Giáo viên mới giảng, tuyệt đối không có tình trạng thầy nói,
trò nói, không ai nghe ai.
- Trong công tác này luôn phải nghiêm khắc nhưng cũng cần phải nhẹ nhàng với các
em. học ra học, vui ra vui.
-Ngoài ra, tôi đã hướng dấn tỉ mỉ về yêu cầu thi đua giữa các tổ và các cá nhân ngay
từ buổi học đầu tiên để các em phấn đấu.
- Luôn duy trì đều đặn hoạt động thi đua giữa các tổ, các cá nhân, có khen chê kịp
thời. Lấy tiêu chí khen, động viên là chính.
- Bên cạnh đó, tôi luôn giáo dục các em ý thức giữ gìn môi trường xung quanh xanh,
sạch, đẹp gíup cho chúng ta có sức khoẻ tốt. Hướng dẫn các em cụ thể cả việc đi vệ sinh
đúng nơi quy định, vứt rác đúng chỗ.
- Tôi luôn đề cao vai trò của cán bộ lớp, các em này thực sự là những cô giáo nhỏ
của lớp học. tôi hướng dẫn cách các em tự quản lớp như thế nào, nhiều khi những em cán
bộ lớp được tôi phân công lại là những em hiếu động ở trong lớp để các em có ý thức sửa
chữa và động viên kịp thời nếu các em làm tốt nhiệm vụ được giao
- Là chủ nhiệm của lớp nhỏ tuổi nhưng tôi luôn đề cao tinh thần tự quản của các em,
khen tập thể cá nhân nào có ý thức tự quản tốt, từ đó giúp các em có sự ganh đua nhau.
- Cuối mỗi tuần, mỗi tháng luôn giành khoảng thời gian cho các em tự bình bầu thi
đua giữa các tổ, các cá nhân. Hàng tuần tôi sẽ thưởng cho các cá nhân xuất sắc và tổ có
nhiều điểm. Phần thưởng đôi khi chỉ là 1 chiếc kẹo song các em rất thích và tổ nào chưa

được kẹo thì phải cố gắng phấn đấu...


- Để làm tốt được những việc trên không thể ngày một ngày hai mà các em có thể
thực hiện được tốt, do vậy tôi luôn phải nhắc nhở đến khi các em quen dần, đặc biệt trong
một, hai tháng đầu Giáo viên phải chỉ dẫn tỉ mỉ cho học sinh từng tí một để các em có cái
chuẩn để thực hiện theo.
4, Học tập
- Ngay từ đầu năm học, tôi điều tra học lực của các em, phân loại học sinh để có
biện pháp giảng dạy cho phù hợp với từng đối tượng, luôn ưu tiên đến các học sinh yếu
trong lớp, giành cho các em này những câu hỏi đơn giản để các em cảm thấy tự tin khi
phát biểu ý kiến.
- Tôi cũng luôn tạo ra trong lớp một không khí thi đua học tập tốt, sôi nổi trong
mọi tiết dạy.
- Duy trì thi đua cho những HS hăng hái, thưởng điểm cho những HS trả lời đúng
và cho tổ có nhiều em phát biểu ý kiến, nhiều khi là một tràng pháo tay tuyên dương cho
những em trả lời đúng sẽ khích lệ các em rất nhiều.
- Khi xếp chỗ ngồi, tôi luôn chú ý xếp xen kẽ HS kém với HS khá, giỏi để các em
tự giúp đỡ nhau trong học tập, cuối tuần luôn có bình bầu đôi bạn nào tiến bộ nhất trong
tuần đó.
- Ngay trong đầu năm học phải cho các em hiểu các ký hiệu về học tập và được
thống nhất khi ở trong lớp như cách giơ tay, lấy đồ dùng học tập phải được sắp xếp như
thế nào, cách đứng trả lời ... từ đó rèn cho HS tác phong nhanh nhẹn trong mọi hoạt động.
- Duy trì nền nếp truy trao bài đầu giờ và kiểm tra bài của nhau trong các tiết dạy
giúp GV tiết kiệm được thời gian và hướng các em vào mục tiêu tự đánh giá kết quả của
mình.
- Luôn có kế hoạch kèm cặp các em yếu kém.trong lớp chủ động gọi các em nhút
nhát để các em tự tin và bạo dạn hơn.
5. Những kỹ năng cần đạt:
Trong công tác chủ nhiệm, đầu năm, việc đầu tiên mà tôi cần biết là nắm tình hình và

hoàn cảnh gia đình từng em, việc làm cụ thể của cha mẹ các em, cách sống và quan hệ


của từng gia đình như thế nào…Vì những yếu tố này ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả học
tập (kiến thức, kĩ năng và đạo đức) của các em.
Làm những việc này là để chuẩn bị lên kế hoạch giáo dục cụ thể trên lớp với từng đối
tượng học sinh xuyên suốt trong năm học – Biết rõ từng đối tượng, giáo dục em nào?
Giáo dục như thế nào? Giáo dục những nội dung gì ?…biết được đặc thù tâm lý từng em
như thế nào, mức độ kiến thức kĩ năng ra sao mà từ đó định hướng phương pháp giáo dục
– uốn nắn, phụ đạo kịp thời phù hợp.
Nếu công tác chuẩn bị đầu năm không tốt thì trong quá trình giảng dạy trong suốt thời
gian sau sẽ mang hình thức, tình thế, chung chung. Đến khi tình cờ phát hiện được thì nội
dung cần cung cấp cho các em sẽ không kịp thời đúng lúc, hoặc sẽ thực hiện giáo dục
theo từng thời điểm, gián đoạn–không đảm bảo đồng bộ nhất quán – thì kết quả giáo dục
sẽ không đạt, hay đạt không như mong muốn là một kết quả tất yếu.
Bản thân đã chuẩn bị giáo dục đầu năm bằng những công việc sau:
a. Nắm thông tin kết quả học tập từ năm học trước :
Tôi đã xem kết quả các mặt giáo dục của từng em trong học bạ của năm học trước - Biết
đâu năm trước em học không yếu, mà ngay đầu năm học kiểm tra của em không đạt yêu
cầu là do em ham chơi chưa tự giác ôn luyện kiến thức trong dịp hè.
Tôi đã nắm thông tin ngay trên học sinh lớp qua trao đổi với các em, các em đã thông
tin cho tôi nắm lớp mình năm vừa rồi có bạn nào yếu, yếu môn gì,bản thân em còn vướng
mắc kỹ năng nào.
Sau hai hoạt động trên, tôi tiến hành thẩm định thông tin một lần nữa bằng việc ôn sơ
lược cho các em kiến thức Toán và Tiếng Việt cơ bản .Sau đó, tôi cho các em làm một
bài kiểm tra ngắn, trong lúc làm tôi lưu ý các em trình bày thật cẩn thận.
* Kết quả chấm bài lần này là góp phần đánh giá tương đối chính xác kết quả kiến thức
và kỹ năng của từng em đã đạt được từ năm học trước.
Đơn cử như: Em Nguyễn Văn Hồng viết rất chậm và sai chính tả nhiều do em đánh vần
Tiếng Việt không đúng, môn toán em rất yếu vì trừ có nhớ chưa thạo và chỉ mới thuộc

đến bảng nhân 3; em Nguyễn Quang Trung yếu Tiếng Việt cụ thể là sai chính tả âm “ch”


âm “tr” và đấu huyền, dấu sắc; em Nguyễn Văn Lam đọc rất yếu nên không hiểu nổi một
đề toán có lời văn.
b. Thu thập thông tin về sinh hoạt ,giao tiếp của học sinh:
Bản thân đã tìm hiểu qua bạn học chung lớp, tìm hiểu trong cuộc họp phụ huynh, phụ
huynh gần nhà, nắm được nếp sinh hoạt hằng ngày ở gia đình và trên đường đi học của
những em học sinh cần lưu tâm.
Qua đó tôi biết được những em ngoài giờ học ở trường, khi về nhà là các em thường
xuyên đi chơi; hoặc những em thường xuyên la cà trên đường đi học từ đó dẫn đến xao
lãng việc học ở nhà và khi đến trường học tập thụ động nên kết quả học tập rèn luyện
không cao.
Có thể chỉ ra một vài em như: em Vũ Điện Biên đi học, trên đường về em thường vào
chơi game video; hay như em Nguyễn Minh Hiếu la cà dọc đường bắn bi với các bạn
khác trên đường về nhà…..Đặc biệt những em la cà chơi dọc đường này hầu hết là có cha
mẹ bán rau ở chợ nên đa số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình.
Đã chuẩn bị tốt bằng các hoạt động nắm thông tin về kiến thức, kỹ năng, hành vi đạo đức
của từng em, trên cơ sở đó tôi tiến hành giải pháp kế tiếp.
6. Giáo dục thông qua tập thể và đôi bạn cùng tiến.
Với tâm lí học sinh tiểu học tập thể là vô cùng quan trọng, chúng ta thấy đấy em
học sinh nào mà bị cô lập chỉ chơi một mình là một điều tủi hổ nên giáo viên cần phát
huy tối đa sức mạnh của tập thể lớp.
Tôi xin được nêu một ví dụ về một học sinh ở lớp: Em Yến luôn đi học trễ và ăn mặc
không đúng đồng phục quy định. Có một hôm thứ 2 em Yến ăn mặc tươm tất và dự
chào cờ đầu tuần cùng toàn trường vào lớp tôi khen ngợi sự tiến bộ của Yến và đề nghị cả
lớp biểu dương bằng một tràng pháo tay, em Yến hơi ngượng nhưng trong lòng tràn ngập
niềm vui vì được cô giáo và các bạn tin tưởng đó cũng là niềm cổ vũ lớn cho Yến có
được sự tự tin, tự điều chỉnh hành vi của mình.
Mặt khác tôi còn quan tâm đến xây dựng đôi bạn (ngồi cùng bàn) cùng tiến: Học tốt

chăm chú nghe giảng phát biểu sôi nổi trật tự, nói lời hay làm việc tốt…Sắp xếp, những
em nhút nhát ngồi cùng bàn với em nhanh nhẹn, mạnh dạn, những em học khá giỏi ngồi
cùng những em häc yếu kém , những em chưa gọn gàng ngăn lắp ngồi gần với bạn luôn


có ý thức gọn gàng để các em học tập gióp đỡ lẫn nhau. Đánh giá biểu dương hàng tuần
vào giờ sinh hoạt tập thể lớp và đồng thời ghi tích vào sổ điểm cá nhân đề nghị lớp biểu
dương và tuyên dường trước cờ những em có tiến bộ.
Đặc biệt tôi luôn chú trọng vào những biểu hiện, hành vi cụ thể của các em để xem
xét đánh giá (nhìn nhận sự tiến bộ là chính, không chê trách phê phán mặc cảm trong các
em)
7. Kết hợp chặt chẽ 3 môi trường giáo dục.
- "Gia đình nhà trường và xã hội."
* Về nguyên lí giáo dục “Giáo dục kết hợp chặt chẽ giữa 3 môi trường giáo dục: "
Gia đình - Nhà trường - xã hội.” Vì vậy kết hợp với gia đình là không thể thiếu được,
nó vừa mang tính lý luận đồng thời hết sức thực tiễn. Để làm tốt tôi đã:
- Tổ chức họp phụ huynh học sinh định kì : đầu năm , giữa năm, cuối năm học để
gặp gỡ, nắm bắt thông tin về học sinh; trao đổi với phụ huynh học sinh về hướng kết hợp
giáo dục đạo đức các em để tránh tình trạng “ Trống đánh xuôi , kèn thổi ngược” Nhằm
tạo sự hiểu biết cảm thông giữa giáo viên chủ nhiêm và phụ huynh học sinh.
- Thông qua sổ liên lạc phụ huynh học sinh nắm được tình hình học tập, đạo đức
của học sinh và ngược lại GV chủ nhiệm nắm chắc hơn những biểu hiện hành vi tích cực
hoặc tiêu cực tiêu cực của các em để cùng giáo dục.
- Thống nhất với phụ huynh học sinh một số yêu cầu và biện pháp giúp các em học
tập ở nhà, tuỳ điều kiện cụ thể nên có thời gian biểu học tập, sinh hoạt, vui chơi giải trí
cho các em, phụ huynh học sinh đóng vai trò động viên, nhắc nhở các em thực hiện tránh
chê bai tuyệt đối, không dùng bạo lực đối với các em.
- Qua mỗi học kì họp phụ huynh học sinh.
+ Báo cáo đầy đủ quá trình rèn luyện phấn đấu của từng học sinh và kết quả điểm
số, xếp loại từng môn, có nhận xét đánh giá so sánh với thời điểm trước.

+ Trao đổi những phát hiện mới về hành vi đạo đức của học sinh (nếu có) để phụ
huynh nắm bắt cùng cộng đồng trách nhiệm, động viên khuyến khích nếu là biểu hiện tốt,
ngăn ngừa giáo dục nếu là biểu hiện chưa tốt.


`- Nắm bắt các thông tin ở học sinh qua phiếu sinh hoạt hè, để động viên kịp thời
những em có thành tích tốt,uốn nắn những biểu hiện sai trái lệch lạc của học sinh . Đồng
thời giáo viên cần kết hợp chặt chẽ với các đoàn thể trong trường đặc biệt là Đoàn, Đội
để tổ chức cho các em tham gia vào các hoạt đông lành mạnh và bổ ích.
C. THỰC TIỄN GIÁO DỤC.
Bản thân đã lần lượt tổ chức thực hiện 4 hoạt động sau:
1. Họp phụ huynh thông báo tình hình từng em, bàn giải pháp hỗ trợ từ phía gia đình
:
Trong cuộc họp phụ huynh học sinh đầu năm, tôi đã thông báo cụ thể chi tiết về học lực
và hạnh kiểm từng em mà qua thời gian đầu tiếp nhận lớp tôi đã ghi nhận được (về kiến
thức,kỹ năng trình bày đọc,viết…).
Ví dụ như tôi đã thông báo với phụ huynh em Nguyễn Việt Thắng rằng em thông minh
nhất lớp, toán em giỏi nhưng kết quả học tập năm lớp 3 của em chỉ là học sinh tiên tiến vì
chính tả em còn yếu, tôi đã đề nghị gia đình có giải pháp giúp em luyện chính tả ở nhà để
năm nay kết quả học tập của em tốt hơn; hay như em
Nguyễn Như Bình là học sinh giỏi nhưng em viết văn chưa hay vì thường sai trong dùng
từ và đặt câu viết văn;…..
Qua đó tôi bàn cụ thể với phụ huynh từng em, cần chú trọng quan tâm hỗ trợ các em rèn
luyện kĩ năng gì hoặc vun đắp mảng kiến thức nào cho các em; và kèm theo chuẩn bị
dụng cụ học tập và phương pháp giáo dục tại nhà ở nhà hỗ trợ cho việc học ở trường
(trang bị tập luyện chữ viết ở nhà; Kiểm tra nhắc nhở việc luyện viết, luyện đọc và chuẩn
bị bài trước khi đến lớp) - Đặc biệt chú trọng khuyến khích các em rèn luyện thường
xuyên liên tục và có hệ thống.
2. Trao đổi với phụ huynh của các em học sinh yếu:
Tôi thường xuyên trao đổi những phụ huynh có con em là học sinh yếu.

Trong lần trao đổi đó tôi thông báo cụ thể con em họ còn khiếm khuyết kiến thức kỹ năng
cơ bản nào, cần phải vun đắp cái gì và mức độ quan tâm ra sao ở tại gia đình. Đồng thời
tôi đề nghị phụ huynh đưa các học sinh yếu học phụ đạo một buổi thứ sáu trong tuần –


vào những tuần không sinh hoạt tổ khối (Lịch học này tôi có xin và thông qua Ban Giám
Hiệu trường).
Có thể nêu ra một vài trường hợp tiêu biểu như: Tôi đưa cho phụ huynh của em Nguyễn
Văn Hồng xem bài viết chính tả của em để gia đình nhận ra chữ em quá yếu và chính tả
em còn sai nhiều lắm; và cũng tương tự như vậy với trường hợp của các em Hoàng,
Hồng, Lam.… yếu về môn Tiếng Việt. Sau đó, tôi đề nghị phụ huynh sắp xếp cho các em
đi học phụ đạo bằng lịch học cụ thể và đề nghị phụ huynh quản lí giờ giấc của các em.
3. Tổ chức học phụ đạo đúng đối tượng ở trường :
Theo chân lí của giáo dục là người dạy phải biết mình “dạy ai” và khi dạy phải xác định
mình “dạy cái gì” thì khi phụ đạo học sinh yếu tôi xác định quan điểm đó rất cần được
vận dụng - Nếu phụ đạo cho các em mà phụ đạo chung chung trên nền kiến thức cơ bản
là không đạt hiệu quả. Vì mỗi em có mức độ yếu khác nhau – về từng môn và ngay trong
mỗi phân môn. Có bù đắp đúng mạch kiến thức mà em khiếm khuyết thì mới mong hình
thành kĩ năng cơ bản cần đạt theo chương trình lớp học, bậc học .
Vì vậy khi vào học tôi chia các em ra thành từng nhóm nhỏ phù hợp với từng nội dung
cần vun đắp cho các em và tổ chức dạy như dạy một lớp ghép.
Trong cùng một buổi phụ đạo tôi đã chia thành ba nhóm :
-

Hoàng, Yến, Gia Long là nhóm yếu về toán phân số và toán chia.

- Tiến, Lam, Trung là nhóm cần phụ đạo về chính tả và rèn chữ viết.
- Hồng, Yến, Hoàng, Trung, là nhóm rất yếu về đọc viết và tính toán cơ bản về cộng
trừ, nhân chia.
Phần D. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

Với nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của người giáo viên chủ
nhiệm lớp ở bậc tiểu học nói chung lớp 4 nói riêng “ Trẻ em không vin lớn gãy cành” Để
lớp có nề nếp tốt người giáo viên chủ nhiệm phải kiên trì nhẫn lại giáo dục các em
thường xuyên, liên tục. Qua áp dụng công tác chủ nhiệm trên tôi nhận thấy nhìn chung
các em trong tập thể lớp 4a2 đều ngoan ngoãn, thực hiện đầy đủ 4 nhiệm vụ của người
học sinh, Nề nếp học tập và rèn luyện của lớp tốt, đã nâng cao được ý thức của đội ngũ tự


quản, các em cán sự lớp có tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu về mọi mặt, mỗi học
sinh đã có ý thức tự học tự rèn luyện tốt, tích cực tham gia các phong trào của lớp của
trường cũng như của Đội đề ra. Luôn kính trọng và biết ơn thầy cô, đoàn kết với bạn bè.
Tập thể lớp không còn học sinh cá biệt, không còn những em chậm chạp, chưa mạnh dạn,
tác phong sinh hoạt bừa bộn nữa.
* Kết quả các phong trào:
- Báo tường : Giải nhì 20/ 11; Giải 3 / 22/12; Giải nhì 26/3.
- Hội khỏe phù đổng cấp trường: - Giải nhì diễu hành
- Giải nhì Trại nhanh
- Giải 3 bóng đá nam
- Kể chuyện hay : đạt 3 giải
- Thi đọc diễn cảm 10 giải
- Thi viết chữ đẹp: Cấp trường 11 giải
Cấp thành phố : 1 giải
- Thi tiếng hát học sinh: Giải nhất
- Mua tăm tre ủng hộ người mù, người tàn tật 2 đợt: 136 000 đồng
- Ủng hộ các bạn có hoàn cảnh khó khăn :
32 bộ quần áo, 56 quyển vở, 25 cái bút.
- Làm kế hoạch nhỏ 2 đợt : 330 000 đồng
- Làm kế hoạch nhỏ ủng hộ xây tượng Kim Đồng : 165 000 đồng
- Ủng hộ cho các bạn nhỏ nhiễm chất độc màu da cam hàng trăm nghìn đồng (
Các bạn đến trường biểu diễn văn nghệ )

* Xếp loại đạo đức:

Thực hiện đầy đủ

Đầu năm

Cuối học kì I

30 em đạt : 90,9 %

33 em đạt 100 %


Thực hiện chưa đầy đủ

3 em đạt:

9, 1 %

* Ở cuối học kì I, kết quả học tập của lớp có tiến bộ rõ rệt. Kết quả thi kiểm tra cuối
học kì I như sau:
THỐNG KÊ ĐIỂM KIỂM TRA CUỐI HỌC KỲ I MÔN TOÁN VÀ TIẾNG VIỆT
TSHS Môn

33
em

Giỏi

Khá


TBình

Yếu

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

18

54,5
%

10

30,3
%


5

15,2
%

0

0

T.Việt 17

51,5
%

11

33,3
%

5

15,2
%

0

0

Toán


THỐNG KÊ ĐIỂM KIỂM TRA GIỮA HỌC KỲ II MÔN TOÁN VÀ TIẾNG
VIỆT
TSHS Môn

33
em

Giỏi

Khá

TBình

Yếu

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL


TL

20

60,6
%

9

27,2
%

4

12,2
%

0

0

T.Việt 22

66,6
%

11

33,3
%


2

6,1 %

0

0

Toán

Chất lượng thống kê 2 môn toán và Tiếng việt ở trên là chất lượng thi nghiêm túc ,
không chạy theo thành tích.
Về hành vi ý thức: Đa số chữ viết đã tiến bộ - đã có 11 em trong lớp đạt vở sạch chữ đẹp
cấp tường , trong đó 2 em tham gia thi viết chữ đẹp cấp Thành phố;1 em tham gia thi viết


chữ đẹp cấp tỉnh, không còn trường hợp la cà dọc đường hay chơi trò chơi điện tử trên
đường đi học về nữa. Vào lớp đa số các em đã tham gia xây dựng bài mới tích cực.
- Dạy và học theo hướng đổi mới phương pháp rất thuận lợi và đạt hiệu quả khả quan.



×