Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VIỆC GIẢI bài tập về tìm THÀNH PHẦN CHƯA BIẾT của PHÉP TÍNH CỘNG, TRỪ, NHÂN, CHIA CHO học SINH lớp 3a

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.65 KB, 18 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
“NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG VIỆC GIẢI BÀI TẬP VỀ TÌM
THÀNH PHẦN CHƢA BIẾT CỦA PHÉP TÍNH CỘNG, TRỪ,
NHÂN, CHIA CHO HỌC SINH LỚP 3A”


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Môn Toán là một môn học rất quan trọng đối với học sinh Tiểu học. Môn học này nhằm
cung cấp kỹ năng tính tốn rất cơ sở và thiết thực thông qua việc giải tốn, học sinh sẽ có
điều kiện phát triển trí tuệ. Việc nghiên cứu đưa ra các giải pháp; giải pháp rèn kỹ năng
tính tốn là việc hết sức cần thiết, yêu cầu học sinh tính đúng, hiểu nhiều và nắm chắc
chắn các dạng phương trình đơn giản đã học được ở lớp 2 – 3 để vận dụng vào giải tốn về
tìm thành phần chưa biết của phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Đây có thể coi là giai đoạn
học tập cơ bản vì ở giai đoạn này học sinh được chuẩn bị kiến thức, kỹ năng cơ bản nhất,
được chuẩn bị về phương pháp tự học tốn dựa vào các hoạt động tích cực chủ động sáng
tạo và góp phần không nhỏ vào việc học tốt môn tốn sau này
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu để đạt được các yêu cầu trên về kiến thức, kỹ năng tính toán và kết hợp giải
các bài tập quy về dạng :
“Tìm số hạng chưa biết”; “Tìm số bị trừ, Tìm số trừ chưa biết”
“Tìm thừa số chưa biết”; “Tìm số bị chia, số chia chưa biết”
Muốn dạy và học tốt các kiến thức tốn học các em phải có khả năng tính nhẩm, tính viết
về bốn phép tính với các số tự nhiên..có hiểu biết ban đầu sơ giản về giá trị của biểu thức


số học. Giải phương trình đơn giản. Nếu ở lớp 1, 2 , 3 việc tìm x chỉ yêu cầu ở mức độ
điền dấu vào ô trống hoặc xác định tên thành phần của phép tính của x. Trong khi các
thành phần đã chỉ là số thì ở lớp năm đòi hỏi cao hơn, mức độ cao hơn là ở chỗ các thành


phần đã cho không phải là một số mà là một biểu thức tốn.
Để giải quyết rõ ràng chính xác, đòi hỏi phải giúp các em nắm kiến thức ngay từ ban đầu
việc tìm được các thành phần chưa biết và cách tìm x ở ngay chương trình của lớp 3.
III. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu qua học sinh lớp 3A3 Trường Tiểu Học
- Nâng cao chất lượng việc giải bài tập về tìm thành phần chưa biết của phép tính cộng,
trừ, nhân, chia cho học sinh lớp 3A
IV. KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Khách thể
Đối với học sinh lớp 3A
2. Phạm vi nghiên cứu
Nâng cao chất lượng việc giải bài tập về tìm thành phần chưa biết của phép tính cộng,
trừ, nhân, chia cho học sinh lớp 3A.
V. CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


1. Phƣơng pháp lý thuyết :
- Phương pháp phân tích – tổng hợp sách báo và tài liệu
2. Phƣơng pháp thực tiễn:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra thăm dò
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm


B. PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
- Môn tốn góp phần xây dựng một số phẩm chất, tính cách của người lao động mới như:
tính cẩn thận, chính xác, kiên nhẫn, vượt khó, trung thực. Có thói quen làm việc có kế
hoạch, yêu lao động ham tìm tòi… Làm cho học sinh nắm được phương pháp học tập tốt,

phát triển hứng thú học tập, phát triển năng lực và phẩm chất trí tuệ của học sinh.
- Theo phương pháp dạy học tốn ở tiểu học của đại học sư phạm thì hạt nhân của tốn là số
học, sự sắp xếp nội dung trong mối quan hệ gắn bó hỗ trợ nhau vối hạt nhân số học
không làm mất đi hoặc mờ nhạt đi nét đặc trưng của từng nội dung. Vì vậy dạy học các
yếu tố đại số …vừa giúp cho việc chuẩn bị tốt các nội dung có liên quan ở trung học. Vừa
phục vụ cho dạy học. Nội dung đó là bước đầu thực hiện quan điểm thích hợp trong nội
dung môn tốn ở tiểu học (1) các kiến thức kỹ năng chủ yếu bằng thực hành luyện tập, ôn
tập củng cố thường xuyên và phát triển vận dụng trong học tập đời sống (2). Ở lớp ba
ngồi việc yêu cầu về kiến thức kỹ năng, học sinh phải biết tên gọi và kết quả của phép
tính theo phạm vi đã được giới hạn (3) phương pháp dạy học tốn ở tiểu học là sự vận
dụng các phương pháp dạy học tốn (nói chung) cho phù hợp với mục tiêu, nội dung và
các điều kiện dạy học ở tiểu học (học sinh và thiết bị ) (4).


- Bên cạnh đó tốn học cũng có khả năng to lớn trong giáo dục học sinh về nhiều mặt: phát
triển tư duy logic, bồi dưỡng năng lực trí tuệ, nó còn giúp học sinh phương pháp suy nghĩ
làm việc góp phần giáo dục những phẩm chất, đức tính tốt đẹp của người lao động và có
một hệ thống kiến thức cơ bản cùng những phương thức rất cần thiết cho đời sống lao
động và sinh hoạt. Kỹ năng tốn học là những công cụ cần thiết để học các môn khác và
ứng dụng trong thực tiễn.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Lớp 3A3 nằm ở điểm lẽ trực thuộc Trường Tiểu học Mỹ Tú A trong vùng nông thôn sâu
đa số các em là con của gia đình nghèo, việc học của các em con chậm phát triển.
- Mặc dù được “thừa kế” về tìm thành phần chưa biết của phép cộng trừ ở lớp 2. Song ở
lớp 3 các em sẽ tiếp tục được học về giải tốn tìm thành phần trong phép tính nhân và chia
nên mức độ kiến thức đòi hỏi cao hơn, các em được tìm hiểu và giải các bài tập ứng dụng
khó hơn.
Cho nên những năm tháng đã được BGH phân công giảng dạy trực tiếp khối lớp 3. Nhiều
lần dự giờ rút ki nh nghiệm, chấm bài khảo sát. Bản thân tôi thấy được việc giải các bài

tập x thuộc 6 dạng phương trình đơn giản đối với lớp 3A3 thầy và trò còn gặp một số khó
khăn như sau:


- Đối với giáo viên:
+ Chưa quan tâm đến việc rèn luyện thao tác trong kỹ năng tìm một thành phần chưa biết
của phép tính, có khi chỉ ghi đề lên bảng nhắc nhở qua loa , học sinh tự làm bài dạng này
để câu nệ thời gian. Giáo viên chỉ dùng một số câu hỏi chung chung để các em tự tìm ra
cách giải.
Ví dụ như bài tốn: 6 x x = 18 ; x x 4 = 24
+ Bên cạnh còn số giáo viên khối 2 - 3 chưa quan tâm nhiều đến yêu cầu học sinh phải
thuộc các qui tắc tìm thành phần chưa biết của phép tính. Chưa có biện pháp cụ thể và
tính trực quan trong việc tìm các thành phần nên dễ lẫn lộn trong các bài tìm số trừ và tìm
số chia.
- Đối với học sinh:
+ Đa số học một cách thụ động. Chủ yếu chỉ nghe giảng ghi nhớ và làm theo mẫu. Do
không hình thành được thao tác giải dạng này, không xác định được cần phải làm gì?
Aùp dụng cái gì? Mà cứ nhìn vào bài cứ thấy có sẵn dấu cộng thì thay thành trừ, dấu
nhân thay là chia. Cho nên đã sai ở dạng bài tìm số trừ và tìm số chia cụ thể như các bài
sau:
a. Ví dụ : 48 – x = 8
Cần giải : x = 48 - 8 học sinh lại x = 48 + 8


x

= 40

x


= 56

b. 64 : y = 8 học sinh giải x = 64 x 8
y = 64 : 8

x

= 512

y =8
- Nếu ở các bài tốn giải như thế không đạt kết quả.
- Qua việc khảo sát đầu năm. Tôi nắm được trình độ của các em như sau:
- Học sinh làm bài 14 em trong đó : giỏi : / , khá : 4 , TB : 6, Y : 4
Đặc biệt vẫn còn nhiều học sinh tuy đã học lớp 3 nhưng vẫn chưa thực hiện được kỹ thuật
tính tốn trong phép cộng trừ ở lớp 2.
- Khi chưa có cải tiến các em còn làm bài một cách máy móc nên thường chấp nhận với
kết quả sai.
- Nếu tình trạng này kéo dài thì sẽ gây ra một tác hại lớn trong dạy và học sau này.

CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỀ RA NHẰM TÁC ĐỘNG VÀO THỰC TẾ
ĐỂ TẠO RA HIỆU QUẢ, CHẤT LƢỢNG MỚI
Học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp 1, 2, 3 ..tư duy luôn gắn liền với cái gì đó mang
tính cụ thể hơn là khái quát. Giải một bài tập tìm thành phần cũng cần có những thao tác


thật cụ thể. Tuy có mất thời gia nhưng chắc chắn chúng ta sẽ hình thành được cho các em
thói quen cẩn thận. Và con đường phát triển tư duy một cách chắc chắn, con đường có thể
xem như một quy trình có các bước đi một cách hệ thống thứ tự như sau:
- Xác định đúng tên thành phần trong phép tính
- Đọc đúng qui tắc tìm thành phần đó

- Áp dụng qui tắc tổng quát để viết thành biểu thức tốn cụ thể
- Tính giá trị biểu thức vừa tự viết.
- Trình bày và kiểm tra lại bài sẽ nộp chấm
1. Xác định tên từng thành phần trong phép tính
- Theo cơ sở lý luận xét đặc trưng học sinh Tiểu học Mỹ Tú A .
- Đối với những phép tính đã được cung cấp khái niệm ở lớp 1 và 2. Do đó thói quen làm
tính nhưng chưa xác định tên thành phần phép tính. Nên đa số các em đều quên tên gọi
của từng thành phần phép tính cộng trừ.
- Xét mức độ củng cố của chương trình học lớp ba phần này ta thấy các em chỉ được khơi
lại bằng những bài tập “Viết biểu thức dưới dạng tổng hoặc nhiều hiệu của hai số”.
Ví dụ :V iết lại biểu thức và xác định được thành phần của biểu thức
x + 2 = 12 hoặc x - 6 = 10


Để học sinh gọi đúng tên thành phần trong phép tính. Trong các giờ ôn tập hoặc bồi
dưỡng học sinh theo kế hoạch của trường, cho các em chép lại bảng công thức tổng quát
như sau : a + c = b hoặc a - x = b; a x x = b
- Có thể giải thích thêm tên từng thành phần trong phép tính a, b là gì? Và cụ thể như sau:
+ Một là trước khi thực hiện bất cứ một bài tập tìm thành phần nào trong phép tính cụ
thể. Học sinh phải gọi tên từng thành phần đó.
Ví dụ : Tìm số bị chia chưa biết
x : 5 = 4 ; Trong đó x gọi là gì ? (số bị chia)
5 là gì ? (5 là số chia); 4 gọi là gì? (4 là thương )
+ Hai là thuộc bảng công thức đó. Nếu chưa thuộc khi giải bài được phép xem lại công
thức một lần để gọi tên. Nhưng đầu giờ sau phải ngồi học tại lớp và trả lời công thức cho
cán sự lớp
- Ở lớp 3 : Trong khi giảng dạy tôi cũng chú trọng đến việc xác định được thành phần;
cũng như trong phép nhân, chia cũng có bổ sung công thức tổng quát. Cũng có giải thích
tên từng thành phần yêu cầu tương tự như trên.


2. Đọc qui tắc của cách tìm


- Trên cơ sở đã lý luận (3) và (4) xét theo học sinh Trường Tiểu Học Mỹ Tú A.
- Đối với qui tắc đã được cung cấp khái niệm ở lớp 1 và 2, vì do thói quen không quan
tâm đến việc thuộc qui tắc. Nên đa số các em quên 3 qui tắc tìm một thành phần trong
phép tính cộng trừ. Xét đến yêu cầu giải bài tập ở lớp 3 việc thuộc qui tắc trên cũng rất
cần thiết. Để học sinh thuộc qui tắc này trong giờ ôn tập theo kế hoạch. Khi đã hình
thành bảng, chúng tôi cho các em chép lại qui tắc bên cạnh các công thức tổng quát và
yêu cầu phải học thuộc, đồng thời sử dụng giống như việc gọi tên từng thành phần trong
bốn phép tính.
Đối với các qui tắc lớp 3. Tôi chú trọng đến việc đúng qui tắc. Mạnh dạn tổ chức giờ học
tập thể lớp đồng thời bổ sung các qui tắc dễ hiểu, dễ nắm.
3. Áp dụng các qui tắc tổng quát để viết thành biểu thức tốn cụ thể
Căn cứ vào những lý luận đề ra và căn cứ vào việc thể hiện vai trò, điều kiện của giáo
viên trên lớp.
Đây là một việc làm hết sức quan trọng. Nếu giáo viên áp dụng qui tắc tổng quát để viết
đúng những biểu thức tốn học cụ thể thì bài tập mới có thể được giải đúng.
Việc sử dụng các phép tốn trong bài các em mới thật sự thể hiện trí tuệ và tư duy. “Tính
phó thác mặc dù cho mai rũi của cộng trừ, nhân chia một cách máy móc mới được khắc
phục”. Và phải áp dụng như thế nào là hữu hiệu? theo tôi trong chừng mực này không gì


hơn là yêu cầu các em rèn luyện liên tục. Tuyệt đối cấm sử dụng cách đổi dấu ( + thành và dấu – thành dấu + hoặc dấu x thành : và dấu : thành dấu x …)
Vì tiểu học là bậc học chưa học hết số âm, đồng thời trong phạm vi đại số thì đây mới là
bậc học xây dựng cơ sở lý luận ban đầu cho các em. Nên tạm thời chưa được phép sử
dụng giá trị đã được qui nạp như thế .
Ví dụ như: muốn tìm thừa số chưa biết. Muốn tìm số chia chưa biết, số bị chia chưa biết.
Giáo viên cần hỏi lại qui tắc để các em áp dụng tính tốn.
x x2=8 ; x :5=4

Giáo viên hỏi lại muốn tìm thừa số chưa biết ta phải làm như thế nào? (ta phải lấy tích
chia cho thừa số đã biết).
GV : Muốn tìm số bị chia chưa biết ta làm sao?
(Tìm số bị chia chưa biết, ta lấy thương nhân với số chia)
Khi các em đã thấy được đâu là thừa số đã biết, đâu là thừa số chưa biết, đâu là tích số
chia, số bị chia… thì các em thực hiện được nhanh, chính xác.
4.Tính giá trị của biểu thức vừa tự viết
- Đây là một phạm vi mà yếu tố đại số đã được tổng hợp từ yếu tố học. Theo các lý luận
trên muốn tính đúng giá trị của x

ngồi việc đã gọi đúng tên thành phần và xác định giá


trị của nó, còn có một yêu cầu không thể thiếu đó là tính đúng. Việc sử dụng thành thạo
các kỹ thuật chia rất cần thiết. Ví dụ tính x : trong bài tìm số chia chưa biết.
VD : 27 : x
x

=3
= 27 : 3

Yêu cầu HS tính đúng x = 9
Vậy với vai trò hạt nhân của tốn, số học thì việc tính kết quả đúng phải được tiến hành
luyện tập cũng cố liên tục ngay với các bài luyện tập.
Theo tôi, với các phép tính các em đã học kỹ thuật tính ở lớp 1, 2 thì chúng ta phải
thường xuyên nhắc nhở củng cố lại. Phụ đạo thêm về kỹ thuật tính tốn, còn riêng đối với
phép nhân, phép chia ở lớp 3, chúng ta ngồi việc rèn luyện theo yêu cầu bài tập thực hành
còn phải tổ chức nhiều tiết phụ đạo củng cố lại kiến thức, mà nhất là các em còn hạn chế
về việc thuộc cửu chương , cần hỏi đến nhiều hơn để từ đó luôn bồi dưỡng các em nhiều
hơn các bạn khác, để tính tốn nhanh, đúng chính xác.

5. Hình thức thực hiện
Ngay từ đầu năm học, sau khi cùng thành viên trong khối bản thân đã nghiên cứu và đưa
ra hiện trạng trên đang là vấn đề đặt ra cần giải quyết.


- Với nhiệm vụ và trách nhiệm, trong quá trình thực hiện các giải pháp mới như nêu trên ,
bản thân tôi đã đặc biệt chú trọng thêm một số vấn đề sau:
+ Phát huy tối đa vai trò trung tâm, vai trò chủ động tích cực sáng tạo trong học tập của
học sinh.
+ Quan tâm đến phương pháp chủ động tích cực. Trong đó giáo viên tổ chức hướng dẫn
các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm để thông qua đó các em giành lấy những kiến thức
mới, và đã cụ thể ở các bài như: tìm thừa số chưa biết, số bị chia chưa biết…với một kết
quả khả quan
+ Xây dựng các bài tập mẫu: trong đó giáo viên chỉ điều khiển và chú trọng đến các yếu
tố học sinh có thể đã quên bằng cách gợi ý hoặc cho ví dụ mẫu để qua đó học sinh tự tìm
hiểu biết và xác định được các thành phần làm cho đúng, sau đó giáo viên và học sinh
cùng nhận xét, về bài làm của em thực hiện đúng chưa, nếu chưa đúng thì cần sửa chữa,
tính tự lực và tư duy của học sinh được tôn trọng.
+ Quan tâm đến việc giải bài tập ở nhà và đánh giá để tìm ra giải pháp phù hợp giúp học
sinh khắc phục. Nếu các em không thực hiện cần tìm hiểu xem vì sao không làm trao đổi
cặn kẻ với phụ huynh học sinh (trực tiếp), có việc làm như thế nếu nắm rõ tình hình
nguyên nhân giáo viên tiến hành bồi dưỡng ngay sau đó để các em nắm bắt kiến thức kịp
thời cùng các bạn.


- Trong quá trình thực hiện như thế tôi thấy được kết quả rất là khả quan
- Đối với tiết dạy trở nên sinh động hơn , hấp dẫn hơn
- Học sinh tích cực chủ động và sáng tạo trong học tập, việc thực hiện tìm thành phần
trong phép tính cộng trừ, nhân, chia của học sinh tăng dần cụ thể ở các bài tập như sau:
6. Kết quả khảo sát chất lƣợng tốn tìm thành phần trong phép tính

Đề :

30 - x = 3

HS thực hiện :

; x + 8 = 16 ; x

x 6 = 18 ; 42 : x = 7 ;

x = 30 – 3 ; x = 16 – 8 ; x = 18 : 6 ; x = 42 : 7
x = 27

;x

=

8

; x

=3

; x

=6

Học sinh đã thực hiện : đúng chính xác, rõ ràng, biết áp dụng qui tắc tính tốn và bản thân
tôi thấy được khá giỏi chiếm 80% cao hơn so đầu năm và điều đó đem lại kết quả như
sau:

Học sinh làm bài:
- Các bài tập dạng tìm x

không còn học sinh yếu kém bản thân tôi thấy có hiệu quả.


C. KẾT QUẢ
I. KẾT LUẬN
Sau khi đã nghiên cứu về các hiện trạng trên và đã dùng một số biện pháp áp dụng vào
thực tế đối với học sinh lớp 3A3, bước đầu cũng đem lại được nhiều cái hay, cái đúng
+ Cái hay ở đây là cải thiện được phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Trong quá
trình dạy học đã có động cơ thích thú khi học tốn, các em đã tự mình tìm tòi học hỏi, đã
có thái độ học tập chăm chỉ. Với quá trình như thế các em cũng tích cực chủ động và
sáng tạo tron g học tập, khả năng tư duy cũng tăng dần ở các bài tập áp dụng.
+ Còn cái đúng là học sinh đã hiểu bài một cách chắc chắn ngay tại lớp, nắm được bài
một cách nhanh nhẹn cơ bản , có kỹ năng tính tốn chính xác, các kiến thức được học luôn
ghi nhớ bền lâu.
Muốn thực hiện tốt sáng kiến kinh nghiệm trên người giáo viên phải luôn quan tâm đến
việc thực hiện đúng hệ thống thao tác rèn kỹ năng khi giải các bài dạng trên. Mức độ đầu
tư là làm thế nào để cho học sinh có ý thức kiên nhẫn, trong từng bước đi luôn đòi hỏi
giải pháp của giáo viên phù hợp. Đối với bước đầu củng cố… giáo viên nên quan tâm
đến việc bồi dưỡng hoặc tìm hiểu thêm về trình độ các em và vận dụng tốt các kiến thức ,
kỹ năng khi giải bài dạng này phải tin tưởng một cách tuyệt đối, bản thân người giáo viên
cần quan tâm đến một số vấn đề sau:


+ Luôn nắm vững nội dung SGK những yêu cầu cơ bản, về các bước dạy nội dung giảng
dạy. Khi dạy các bài có sự đầu tư thích đáng để dạy tốn này HS thấy nhẹ nhàng hơn, chất
lượng hơn.
+ Thường xuyên trao dồi phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ

+ Khai thác tốt các yêu cầu SGK và đối tượng HS trong việc sử dụng các phương pháp sư
phạm
+ Mạnh dạn thực hiện các giải pháp cải tiến cần thiết cho việc dạy – học
+ Quan tâm đến vấn đề soạn bài trước khi lên lớp, mức đầu tư thể hiện rõ ràng đối với
các bài tìm thành phần chưa biết trong 4 phép tính
+ Thường xuyên vận động, khích lệ tinh thần học tập cho các em nhiều hình thức, có các
câu hỏi gợi mở dẫn dắt đi vào các bài tập học sinh còn lúng túng.
+ Đánh giá HS phải thể hiện được các giải pháp khắc phục như kèm thêm. Quan tâm đến
việc sử dụng thiết bị đồ dùng dạy học, trong việc củng cố các kiến thức cho học sinh.
+ Ngồi ra phải biết kết hợp với đồng nghiệp và PHHS nhiều trong mục tiêu dạy và học
môn tốn

II. ĐỀ XUẤT


Để nâng cao hiệu quả trong dạy học tốn cũng như giúp học sinh học tốt việc giải các bài
tập về tìm thành phần chưa biết trong phép tính cộng trừ, nhân chia ở lớp 3, rất mong
được có sự hỗ trợ của các phương tiện dạy học khác và sự đầu tư về SGK, SHD, tài liệu
tham khảo, thiết bị… Cũng như sự nghiên cứu để cung cấp thêm kinh nghiệm từ phía
Ban lãnh đạo, BGH và cùng các đồng nghiệp thật sự đem đến một cách có hiệu quả.
Tuy sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả tương đối khả quan nhưng việc hồn thiện bản thân
nó cũng như các sáng kiến kinh nghiệm khác cũng nhằm phục vụ cho việc luyện kỹ năng
tính tốn vẫn là một vấn đề đặt ra cần có sự đầu tư nghiên cứu, đầu tư nhiều ở đồng nghiệp
để áp dụng cho các em ở các lớp học tiếp theo.



×