Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

thị trường bán lẻ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.2 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Xác định vấn đề nghiên cứu
Thị trường Việt Nam đã thu hút rất nhiều các nhà bán lẻ có tên tuổi lớn nhưng tiềm
năng của nó vẫn chưa được khai thác hết. Trong khi đó, các doanh nghiệp bán lẻ nội địa
lại trở nên yếu thế trong việc bảo vệ và tranh giành thị phần trên thị trường bán lẻ nội
địa.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
 Lợi thế của các công ty bán lẻ của nước ngoài khi cạnh tranh tại Việt Nam.
 Hiểu được tại sao thị trường bán lẻ Việt Nam được xem là thị trường hấp dẫn đầy tiềm
năng,

 Phân tích các yếu tố vĩ mô, vi mô tác động đến kinh doanh bán lẻ tại Việt Nam.
 Lập ma trận SWOT của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước.
 Cuối cùng trả lời câu hỏi: Công ty bán lẻ Việt Nam cần làm gì để chia sẻ “miếng bánh
béo bở”- thị trường bán lẻ với các doanh nghiệp nước ngoài?
PHẦN II: PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG MARKETING CỦA THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ
VIỆT NAM
2.1. Phân tích môi trường vĩ mô

2.1.1. Xu thế
Xu thế hiện nay là toàn cầu hóa. Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới,
môi trường kinh doanh đang có những bước chuyển mình đáng kể. Thị trường bán lẻ
hiện đại là thuật ngữ để chỉ siêu thị, chuỗi cửa hàng tiện lợi, trung tâm thuơng mại...
đang có những chuyển động rõ rệt trong môi trường kinh doanh hiện nay.


2.1.2. Môi trường nhân khẩu học
Việt Nam là một quốc gia có dân số đông, hơn 90 triệu người, trong đó người trẻ
chiếm tỉ lệ cao. Đây là lợi thế đầu tiên để ngành bán lẻ thuận lợi phát triển, bởi khả năng
thay đổi thói quen tiêu dùng dễ hình thành ở bộ phận chiếm số đông này. Kéo theo việc
2


thay đổi thói quen tiêu dùng, người trẻ cũng sẽ có thời gian gắn bó với thương hiệu mới
lâu hơn, do đó, các chuỗi cửa hàng bán lẻ sẽ nhắm vào đối tượng khách hàng này đầu
tiên.
Theo báo cáo về “Mức độ sôi động của các thị trường bán lẻ khu vực châu Á – Thái
Bình Dương 2014” do CBRE công bố, Việt Nam là một trong những thị trường bán lẻ
tiềm năng được đánh giá cao vào bậc nhất khu vực do cơ cấu dân số trẻ và sức mua ngày
càng tăngđược cải thiện nhờ tầng lớp trung lưu bành trướng mạnh mẽ.
2.1.3.

Môi trường kinh tế

Kể từ ngày 11/1/2015, Việt Nam sẽ cho phép thành lập các công ty bán lẻ 100% vốn
đầu tư nước ngoài theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Bên cạnh đó, năm
2015 là năm khu vực kinh tế chung ASEAN (AEC) thành lập sẽ cho phép các dòng tài
nguyên, hàng hóa, vốn nhân lực… di chuyển tự do và thuận lợi trong nội khối. Chưa kể
tới việc Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương TPP với 12 nước
tham gia sẽ có thể được ký kết trong năm 2015. Với hiệp định này hơn 10.000 loại hàng
hóa từ các nước thành viên sẽ được loại bỏ hoàn toàn thuế quan.
2.1.4.

Môi trường văn hóa- xã hội

Thói quen tiêu dùng của người Việt Nam thay đổi mạnh mẽ , họ không chú trọng

nhiều đến ăn mặc nữa. Không chỉ chú trọng đến ăn ngon, mà người tiêu dùng sẽ lựa
chọn những thực phẩm tốt cho sức khoẻ, ăn để khỏe để đẹp. Một nghiên cứu mới đây
của Công ty nghiên cứu thị trường TNS cho thấy, 62% người Việt Nam ở thành thị
không ăn cơm nhà mỗi ngày. Phong cách tiêu dùng cũng sẽ khác hơn, với những gia
đình trẻ, tiêu xài nhiều và tiết kiệm ít hơn.
2.1.5.

Môi trường tự nhiên

Nhận thức biến đổi khí hậu và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Các doanh
nghiệp đã nhận thức được vấn đề phát triển bền vững trong nhiều năm qua do các nước
đã ban hành những quy định có liên quan, người tiêu dùng trở nên ý thức hơn về môi
trường và dần thay đổi quyết định mua sắm phù hợp hơn. Các công ty giám sát theo
chuỗi giá trị ngay từ đầu, từ nguyên liệu gia công, quy trình sản xuất và đóng gói, nhà
phân phối và các cửa hàng... Bởi vì kỳ vọng khách hàng và quy định của Chính phủ đối
với vấn đề này khá cao, do đó chúng ta thấy những dấu hiệu tích cực và dự đoán đươc
xu hướng liên quan đến biến đổi khí hậu, phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
2.1.6.

Môi trường công nghệ

3


Đột phá công nghệ: Công nghệ ngày càng tiến bộ thì cơ hội mới sẽ xuất hiện. Ví dụ
điển hình là việc sử dụng dữ liệu để phân tích mô hình và hành vi tiêu dùng nhằm thông
báo vị trí cửa hàng, giới thiệu sản phẩm, chiến lược tiếp thị… ngày càng phổ biến. Theo
McKinsey & Company, những người sử dụng và phân tích dữ liệu để chứng minh hiệu
quả, hiệu suất, lợi nhuận sẽ có cơ hội thành công cao hơn 5- 6% so với những người
không làm như vậy.

2.1.7.

Môi trường chính trị, pháp luật

Việt Nam sắp thi hành một loạt các hiệp đinh tự do thương mại đã cam kết với WTO,
EU và khối ASEAN như loại bỏ hàng rào thuế quan. Cụ thể, theo cam kết gia nhập
WTO của Việt Nam, bắt đầu từ ngày 11/1/2015, các nhà bán lẻ nước ngoài được phép
thành lập doanh nghiệp 100% vốn tại Việt Nam thay vì mức tối đa 50% như hiện nay.
Hiệp định thương mại tự do với EU có hiệu lực vào cuối năm 2014. Theo đó, hiệp định
thương mại hàng hóa ASEAN năm 2015, Việt Nam sẽ giảm mức thuế nhập khẩu từ các
quốc gia ASEAN xuống còn 0% cho 10000 loại hàng hóa hiện đang chịu thuế.
Các tập đoàn bán lẻ ngoại luôn được ưu ái hơn khi cần mặt bằng (tỉnh nào cũng thích
mình có siêu thị ngoại cho hoành tráng) và doanh nghiệp phân phối nội thì lao đao ngay
khi gặp khó về mặt bằng.
Môi trường cạnh tranh đang thiếu công bằng vì tuy có luật nhưng chỉ chế định với
DN nội còn với các nhà phân phối ngoại thì được “bỏ qua” rất phổ biến và khó hiểu. Ví
dụ, qui định hạn mức chi cho quảng cáo của các nhà sản xuất tối đa chỉ được 10% thì
hiện nay, các tập đoàn công ty nước ngoài (đặc biệt trong lãnh vực hàng tiêu dùng nhanh
FMCG như hóa mỹ phẩm, thực phẩm) thì chi phí của DN nước ngoài cho quảng cáo có
thể chiếm 40%. Có luật chống độc quyền nhưng thực trạng thị trường, mặt hàng dầu gội,
bột giặt, chăm sóc vệ sinh thân thể, chỉ hai, ba công ty đa quốc gia công lại đã chiếm
80% mà mọi chuyện cứ sờ sờ ra trước mắt, hàng ngày. Cứ đi một vòng các siêu thị, sẽ
dễ dàng nhận thấy trên những kệ hàng chuẩn dài 8m tất cả siêu thị hiện nay, hai ông lớn
Unilever và Procter & Gamble đã chiếm hầu hết, sản phẩm Việt chỉ còn lấp ló từ 3 tới 5
tấc, và nằm ở dưới cùng. Chiếm diện tích quầy kệ, những chỗ đẹp nhất “dễ thấy dễ lấy
dễ mua” đi liền với chiếm 80% doanh số chuyên ngành.
Trong những điều định hướng sai, có sự ưu ái, ưu tiên cho doanh nghiệp phân phối nước
ngoài hơn trong nước, vì coi đây là thành tích thu hút đầu tư nước ngoài", Khi vào
WTO, ta lại rơi vào một cực đoan khác, có khi do không hiểu sâu, có khi do... lợi ích. Ví
dụ, những điều mà quy định WTO không cấm (những quy định đèn xanh) như hỗ trợ

doanh nghiệp đào tạo nhân lực, cung cấp thông tin thị trường, tiếp thị thương hiệu chung
(tức tập thể)... thì mình không làm; quy định ENT (địa phương phải xem xét nhu cầu
kinh tế, khi nhà đầu tư mở tiếp siêu thị, cửa hàng thứ hai) có thể thực thi để bảo vệ các
nhà bán lẻ Việt Nam thì mình lại... cho thả cửa tự do!
4


Đặc biệt, nguyên nhân nguy hiểm hơn hết là Việt Nam đã không đảm bảo được một
môi trường kinh doanh và cạnh tranh công bằng, lành mạnh để người làm ăn chân chính
không bị... đánh úp, gặp rủi ro cao vì “thua” hàng giả, hàng nhái, hàng không xuất xứ,
thậm chí hàng độc hại vẫn hoành hành, tràn lan.
2.2. Phân tích môi trường vi mô
2.2.1.
Phân tích đối thủ cạnh tranh
 Chiến lược của đối thủ cạnh tranh
Những gã khổng lồ trong ngành hàng bán lẻ như Big C(Pháp), Lotte (Hàn Quốc),
Metro Cash & Cary (Đức) đã thâm nhập vào thị trường Việt Nam và bước đầu đã tạo
được nhiều thành công. Các tập đoàn này vẫn tiếp tục khai trương các siêu thị tại nhiều
tỉnh thành trong nước. Thêm vào đó, sự quan tâm đầu tư của nhiều nhà bán lẻ nước
ngoài như tập đoàn bán lẻ quốc tế Takashimaya, Index living mall.. vào thị trường bán lẻ
Việt Nam, hay sự kiện nhà bán lẻ NUTC Fair price Singapo đã liên kết với SaigonCo.op
cho ra đời hai chuỗi loại hình thương mại hiện đại: đại siêu thị Co.opXtra, Co.op Xtra
Plus và việc mở rộng hệ thống và tăng chất lượng dịch vụ của Co.opMart, HaproMart,
OceanMart, BigC, Viễn Thông A .
Từ năm 2013 đến nay, các doanh nghiệp nước ngoài đã bắt đầu đẩy mạnh chiến lược
thâm nhập và mở rộng thị trường bán lẻ tại Việt Nam, đặc biệt từ tháng 1/2015, khi quy
định cho phép thành lập các công ty bán lẻ có 100% vốn đầu tư nước ngoài chính thức
có hiệu lực, sự ra đời của các thương hiệu bán lẻ nước ngoài cùng nhiều thương vụ mua
bán – sáp nhập ngày càng rầm rộ.
Bên cạnh các tên tuổi như Lotte (Hàn Quốc), Big C (Pháp)… đã có mặt khá sớm trên

thị trường, các tập đoàn của Nhật Bản, Thái Lan cũng bắt đầu đẩy mạnh đầu tư vào thị
trường Việt.
Tập đoàn Aeon (Nhật) dù đến sau nhưng cũng đã ghi dấu sự ra đời của ba đại siêu thị
phức hợp mua sắm – ăn uống – giải trí, mang lại một mô hình mới cạnh tranh trực tiếp
với các siêu thị hiện có.
 Điểm mạnh, điểm yếu của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
Điểm mạnh
Những “ông lớn” có khá nhiều lợi thế cạnh tranh so với Việt Nam. Họ thuận lợi về
vốn và mặt bằng hơn DN Việt. Công ty mẹ là những đại gia bán lẽ toàn cầu, họ trường
vốn và rõ ràng họ có chiến lược chịu lỗ nhiều năm để xây dựng mạng lưới, đội ngũ, uy
tín thương hiệu trước khi kiếm lời tại Việt Nam. Theo TS Cấn Văn Lực, Phó Tổng giám
đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) nhận định: "Các nhà bán lẻ nước
ngoài có mức độ chuyên nghiệp, mức độ đảm bảo uy tín về thương hiệu của người ta
hơn các nhà bán lẻ Việt Nam". Họ có được sự tin cậy từ phía các nhà cung ứng hàng hóa
5


trong và ngoài nước. Họ có phương thức thanh toán linh động, đa dạng. Một mặt họ vẫn
duy trì thanh toán bằng tiền mặt, mặt khác họ vẫn khuyến khích hơn việc thanh toán
không phải bằng tiền mặt, triệt để ứng dụng công nghệ thanh toán hiện đại như thẻ quẹt,
máy quẹt, thẻ tín dụng… Nó cũng hợp hơn với chủ trương trong nước của chúng ta.
Khi bước chân vào Việt Nam, họ không chỉ xây dựng những trung tâm thương mại
lớn mà chuyển sang đầu tư vào cả các cửa hàng tầm trung và siêu nhỏ. Bên cạnh đó, họ
bắt tay ngay vào xây dựng những thương hiệu riêng cũng như hợp tác với các nhà sản
xuất, kể cả nông dân để sản xuất cung cấp hàng hoá cho họ. Các nhà đầu tư nước ngoài
không chỉ thâm nhập vào Việt Nam bằng con đường liên doanh liên kết trong khâu phân
phối mà ngay từ khâu sản xuất. Đơn cử như Công ty C.P của Tập đoàn C.P Thái Lan
đang chiếm 50% thị phần trứng, 30% thị phần gà công nghiệp, 7% thị phần thức ăn chăn
nuôi ở Việt Nam. Như vậy, các doanh nghiệp ngoại đang nắm trong tay một chuỗi cung
ứng từ sản xuất cho tới phân phối. Bên cạnh đó các doanh nghiệp ngoại hầu hết đều là

những doanh nghiệp lớn có lợi thế về vốn và kinh nghiệm nhiều năm. Họ đều có chiến
lược làm việc âm thầm nhưng rất bài bản.
Điểm yếu
Vậy họ gặp phải khó khăn gì? Thứ nhất, VN vẫn giữ một số tiêu chí để hạn chế sự
phát triển cơ sở thứ hai trở đi của hệ thống bán lẻ. Điều này có thể hiểu như thế này:
Theo cam kết chúng ta phải mở cửa tức là bất cứ ai vào cũng phải chấp nhận nhưng là
chấp nhận với cơ sở thứ nhất (mở cửa cho vào). Còn với cơ sở thứ hai, thứ ba tôi có cho
mở hay không thì nó phải bắt đầu từ nhu cầu kinh tế của VN và lúc đó VN mới quyết
định có cho phép mở hay không.
Tuy nhiên, rào cản này đến năm 2018 cũng phải loại bỏ, do đó từ nay đến năm 2018
chắc chắn còn nhiều đại gia phân phối bán lẻ ngoại xuất hiện trên thị trường VN.
Thứ hai, là thủ tục để có được đất, giấy phép, điều kiện cần thiết để phát triển hoàn
chỉnh hệ thống phân phối của họ.
Thứ ba, vì là nước vào sau nên chắc chắn họ sẽ vấp phải sự cạnh tranh của những
người đi trước và thậm chí ngay cả những DN của VN. Chúng ta có thể thấy hiện chúng
ta có Sài Gòn Co.opMark, Hapro, OceanMart, Hiway, Eximart những thương hiệu đã có
tên tuổi của VN mà họ phải đối mặt.
Thứ tư, hệ thống bán lẻ truyền thống của VN cũng là sự cạnh tranh mạnh mẽ đối với
hệ thống bán lẻ hiện đại như chợ truyền thống, chợ phát luồng, hệ thống đường phố, chợ
thành thị, cửa hàng tiện lợi nằm ngay ở các khu dân cư. Đặc biệt một số lĩnh vực thức ăn

6


nhanh như phở, bún cũng là đối thủ cạnh tranh của hệ thống phân phối bản lẻ các DN
trên thế giới.
2.2.2.

Phân tích khách hàng


Mặc dù thương mại điện tử đã phát triển nhanh chóng trong vòng 10 năm qua, nhưng
hiện nó vẫn chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ so với tổng doanh thu bán lẻ. Như vậy, các
cửa hàng truyền thống vẫn đóng một vai trò quan trọng trong ngành bán lẻ vì khách
hàng được tương tác trực tiếp với hàng hóa, trải nghiệm sự hài lòng, có nhân viên hỗ trợ
cá nhân và có người hướng dẫn tại cửa hàng...Cơ cấu dân số trẻ và sức mua ngày càng
được cải thiện nhờ tầng lớp trung lưu bành trướng mạnh mẽ.
Việt Nam có tiềm năng phát triển lớn về sức mua với hơn 60% dân số đang ở độ tuổi
lao động và có khả năng chi trả cao. Vì thế, Việt Nam đã trở thành thị trường mục tiêu
tuyệt vời và hứa hẹn cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực bán lẻ.
Việt Nam có quy mô dân số đông và trẻ, đạt xấp xỉ 67%, đây chính là những người
tiêu dùng hiện đại, dễ dàng thích ứng với những điều mới.
2.2.3.

Cơ cấu ngành

Cả nước hiện có hơn 700 siêu thị, 132 trung tâm thương mại, số cửa hàng tiện lợi có
thương hiệu và vận hành theo chuỗi dừng lại ở con số hàng trăm, thị phần bán lẻ hiện đại
ở vùng ven và nông thôn gần như bị bỏ ngỏ.
Theo quy hoạch của Bộ, đến năm 2020 cả nước sẽ có khoảng 1.200-1.500 siêu thị, tức
là cần thêm 550 siêu thị so với hiện tại, 180 trung tâm thương mại và 157 trung tâm mua
sắm, có thể thấy, tiềm năng thị trường là rất lớn và cuộc chạy đua chiếm lĩnh thị phần sẽ
rất khốc liệt.
Theo nhận định của ông Vũ Vinh Phú - Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội trên báo
Thanh Niên, trong số gần 1.000 cửa hàng tiện lợi trên cả nước hiện nay, số lượng của
doanh nghiệp Việt chiếm khoảng 50% và con số này sẽ tăng nhanh trong thời gian tới
khi cả khối nội và khối ngoại đều đang đẩy mạnh đầu tư.
Với loại hình siêu thị, doanh nghiệp ngoại hiện nay dù chỉ chiếm 90/700 siêu thị tại
Việt Nam nhưng tổng doanh thu lại chiếm tới 30%.
Tính đến năm 2013, doanh thu từ kinh doanh bán lẻ của các doanh nghiệp nước ngoài
chiếm 74,4%, trong khi doanh thu của các chỉ chiếm 25,6%. Thời gian gần đây doanh

thu bán lẻ đã đạt mức tăng trưởng cao, theo thống kê của VietnamReport thì ngành bán
lẻ đứng thứ 6 về tỷ suất sinh lời so với tổng tài sản ROA. Nhưng mô hình bán lẻ hiện đại
ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển, chỉ chiếm tỷ trọng dưới 20% trong tổng số
doanh thu bán lẻ của Việt Nam, theo dự kiến đến hết năm 2014 đạt 40%.
7


Hiện tại, kênh phân phối theo hình thức hiện đại ở Việt Nam mới chiếm khoảng 20%
thị trường bán lẻ. Dự kiến, tỉ lệ này sẽ nâng lên xấp xỉ 50% thị trường bán lẻ vào năm
2020. “Tiềm năng phát triển hệ thống phân phối ở nước ta là rất lớn”, bản báo cáo nhận
xét.

So sánh quy mô của các chuỗi siêu thị và trung tâm thương mại
Trước khi Việt Nam gia nhập WTO, một số thương hiệu siêu thị hiện đại đã xuất hiện
như Fivimart, Citimax, G7Mart, Hapro hay Co.opMart. Tất cả đều là các thương hiệu
Việt Nam. Chỉ có hai thương hiệu nước ngoài là Big C và Metro Cash & Carry xuất hiện
trên thị trường vào thời điểm đó.
Tuy nhiên, mọi chuyện đã thay đổi kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Dù Chính phủ đã cố gắng đàm phán kéo dài thời điểm mở cửa thị trường bán lẻ
với doanh nghiệp nước ngoài tới tận đầu năm 2009, nhưng sự thất bại của doanh nghiệp
trong nước vẫn không thể tránh khỏi.
Tính đến năm 2014, đã có 10 tập đoàn bán lẻ lớn đầu tư và đang hoạt động, nổi bật là
Metro Cash & Cary kinh doanh bán buôn với 19 cơ sở tại 13 tỉnh, thành phố trên cả
nước; hệ thống 27 siêu thị Big C, hệ thống 9 trung tâm thương mại Parkson và 9 trung
tâm thương mại của Lotte. Có thể thấy, thị trường bán lẻ trong nước đã và đang có sức
hút rất lớn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Nhưng trái ngược với xu hướng liên tục mở rộng quy mô hoạt động của các tập đoàn
bán lẻ nước ngoài, các doanh nghiệp phân phối của Việt Nam lại đang bị tụt lại do sức

8



cạnh tranh kém, hoạt động chưa chuyên nghiệp, chưa khẳng định uy tín với người tiêu
dùng.

2.3. Tổng hợp ma trận SWOT của các doanh nghiệp nội đang hoạt động thị trường bán
lẻ Việt Nam
Điểm mạnh
- Hiểu rõ thị trường Việt Nam, nhu cầu
và hành vi, thị hiếu của người tiêu dùng
trong nước.
-Có sự kết nối cơ bản ban đầu với các
hoạt động liên quan như sản xuất, cung
ứng dịch vụ, đối tác… tốt hơn so với các
DN nước ngoài mới tham gia thị trường.
-Có sự ủng hộ của người tiêu dùng cũng
như của các cơ quan, tổ chức trong nước.
-thị phần bán lẻ hiện đại ở Việt Nam mới
chiếm khoảng 25% tổng mức bán lẻ.
-Xác định rõ thị trường mục tiêu, có các
hoạt động quảng bá thương hiệu bài bản,
hiệu quả,
-Từng bước chủ động xây dựng hệ
thống bán lẻ văn minh, hiện đại đi đôi với
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,
thái độ phục vụ văn minh, nâng cao sức
cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường.

Điểm yếu
-Ngành bán lẻ tại Việt Nam còn phát

triển manh mún ở quy mô nhỏ lẻ
-Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước
chính là yếu tài chính và thiếu "chiến lược
dài hơi", thiếu tầm nhìn, thiếu tính chuyên
nghiệp, từ công nghệ quản trị chuỗi, tổ
chức trưng bày hàng hóa.
-Giá cả thiếu cạnh tranh, nguồn hàng
chưa phong phú, đa dạng, mức độ kiểm
soát chất lượng hàng hóa chưa đáp ứng
yêu cầu, mạng lưới chưa rộng khắp
và chưa tương xứng với đa dạng nhu cầu
của khách hàng.
-Thiếu tính liên kết giữa các lực lượng
tham gia thị trường bán lẻ
-Nhà bán lẻ mạnh ai nấy bán, cạnh
tranh lẫn nhau, dẫn tới tất cả đều phát triển
manh mún, thiếu bài bản
-Đội ngũ nhân sự bán lẻ thiếu chuyên
nghiệp từ khâu nhập hàng, trưng bày đến
giao tiếp với người tiêu dùng
-Giữa nhà sản xuất Việt Nam với tiểu
thương vẫn còn khoảng cách khá xa cả về
tâm lý đến phương thức, chính sách bán
9


hàng, chăm sóc người tiêu dùng
Cơ hội
-Việt Nam có thị trường tiêu thụ nội địa
rộng lớn với dân số trên 90 triệu dân, đứng

thứ 14 trên thế giới và thứ 8 tại khu vực
châu Á.
-Tổng mức bán lẻ hàng năm cũng
không ngừng tăng lên, từ 11% giai đoạn
1996-2000 lên đến 26% giai đoạn 20062010. Năm 2014, tổng mức bán lẻ cũng đã
tăng 10,6% so với năm 2013
-Mức GDP trung bình của nước ta đang
xấp xỉ 2.000 USD/người. Trong tương lai
giá trị này sẽ ngày càng tăng
-Thị phần bán lẻ hiện đại Việt Nam còn
đang bị bỏ ngỏ khá nhiều, đặc biệt là các
vùng nông thôn
-Từ ngày 11/1/2015, Việt Nam sẽ cho
phép thành lập các công ty bán lẻ 100%
vốn đầu tư nước ngoài theo cam kết của
Việt Nam khi gia nhập WTO. năm 2015 là
năm khu vực kinh tế chung ASEAN
(AEC). Kí Hiệp định Đối tác kinh tế chiến
lược xuyên Thái Bình Dương TPP.

Thách thức
-Người tiêu dùng còn chưa quen với
việc mua sắm trong các chuỗi bán lẻ có
thương hiệu.
-Từ ngày 11/1/2015, Việt Nam sẽ cho
phép thành lập các công ty bán lẻ 100%
vốn đầu tư nước ngoài theo cam kết của
Việt Nam khi gia nhập WTO. năm 2015 là
năm khu vực kinh tế chung ASEAN
(AEC). Kí Hiệp định Đối tác kinh tế chiến

lược xuyên Thái Bình Dương TPP
-Cuộc đổ bộ của các doanh nghiệp
ngoại vào thị trường Việt Nam như Aeon
– Nhật Bản, Lotte – Hàn Quốc, Metro –
Đức, BigC – Pháp, Walmart – Mỹ
-Môi trường kinh doanh chưa hoàn
thiện, môi trường pháp lý chưa có nhiều
cải tiến, đội ngũ công nhân thiếu kỹ năng,
giá bất động sản cao…

-Chính phủ đầu tư cho ngành bán lẻ
trong nước mạnh lên thông qua những quy
định phù hợp, nhất là tạo cho doanh
nghiệp Việt cơ hội tiếp cận nguồn vốn và
mặt bằng kinh doanh cũng như tạo lập sự
minh bạch, bình đẳng về môi trường kinh
doanh...

10


11


PHẦN 3: TƯƠNG LAI CỦA CÁC CÔNG TY BÁN LẺ TRONG NƯỚC
Trả lời câu hỏi: các công ty bán lẻ Việt Nam cần phải làm gì để chia sẻ miếng bánh
béo bở thị trường bán lẻ hiện đại với các doanh nghiệp nước ngoài?
Bên cạnh những DN trong nước như Hapro, Co.opmart, Fivimart, Ocean mart,... đến
nay chúng ta đã cho phép một số DN trong lĩnh vực phân phối có vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam như Tập đoàn Casino của Pháp (các siêu thị BigC), Metro của Ðức (các

trung tâm Metro Cash&Carry), Lotte (Hàn Quốc), Aeon (Nhật Bản), Parkson (Ma-lai-xia), Robinson của Thái-lan (với trung tâm mua sắm Robins),... Ngoài ra, các tập đoàn bán
lẻ lớn của thế giới như Walmart (Mỹ), Auchan (Pháp), Emart (Hàn Quốc),... hiện cũng
đang quan tâm đến việc thành lập cơ sở của mình tại Việt Nam. Ðiều dễ nhận thấy, phần
lớn các tập đoàn này đều có thế mạnh về tài chính, kinh nghiệm, công nghệ,... cộng với
sự ưu đãi đầu tư của một số địa phương khiến các DN trong nước cùng lĩnh vực sẽ phải
đối mặt với rất nhiều khó khăn trong cạnh tranh, phân phối hàng hóa. Đây là giai đoạn
cạnh tranh khốc liệt giữa DN bán lẻ trong nước và nước ngoài. Cuộc cạnh tranh này
ngày càng cam go hơn đối với các DN trong nước, do không cân sức về nhiều yếu tố
như vốn, kinh nghiệm, hàng hóa,...
3.1. Bị các thương hiệu nước ngoài thâu tóm

Vài năm trở lại đây, nhiều thương hiệu Việt đình đám dần rơi vào tay các nhà đầu tư
nước ngoài. Và xu hướng thâu tóm thương hiệu Việt sẽ chưa dừng lại nhất là khi cánh
cửa hội nhập đang rộng mở hơn bao giờ hết.
Sau hơn hai thập niên mở cửa, nhiều doanh nghiệp (DN) Việt Nam đã xây dựng được
những thương hiệu nổi tiếng trong nước như: Thorakao, Biti’s, Phở 24, X men, Diana,
Trung Nguyên, Toàn Mỹ, Tribeco, Vinamilk, Mỹ Hảo, P/S, Highlands Coffee... Tuy

12


nhiên, trong một thời gian ngắn, rất nhiều trong số các thương hiệu này, bằng nhiều hình
thức, đã thuộc quyền sở hữu của các công ty nước ngoài.
Hai thương vụ mua bán đình đám, thu hút sự chú ý của cả giới trong và ngoài ngành,
đó là CTCP Diana và Phở 24 “bán mình” cho đối tác ngoại là Unicharm (Nhật Bản) và
cho Highlands Coffee.
Thương hiệu gạch men Prime bán cho Tập đoàn SCG của Thái Lan.
CTCP Kinh Đô bán 80% cổ phần của mảng kinh doanh bánh kẹo của cho đối tác Hoa
Kỳ là Tập đoàn Mondelez International. Nguyễn Kim bán 49% cổ phần của mình cho
một công ty con thuộc Central Group - tập đoàn bán lẻ hàng đầu của Thái Lan. Tribeco

bị thâu tóm bởi Uni President; hay câu chuyện của bia Huda cũng từng khiến người tiêu
dùng, nhất là người tiêu dùng miền Trung phải tiếc nuối; hoặc ICP (có thương hiệu mỹ
phẩm dành cho nam giới X-Men) bán 85% cổ phần cho Tập đoàn Marico (Ấn Độ)…
3.2. M&A

Trong xu thế hội nhập, các DN bán lẻ trong nước sẽ gặp "cơn bão" thâu tóm của các
nhà bán lẻ nước ngoài. Nếu không có chính sách hỗ trợ rõ ràng của Nhà nước về địa
điểm, nguồn vốn, cơ sở hạ tầng..., đến một lúc nào đó, các DN trong nước sẽ buộc phải
sáp nhập, thậm chí phải bán lại cho các tập đoàn nước ngoài để tiếp tục phát triển và tồn
tại.
Theo các chuyên gia kinh tế, đã đến lúc nhìn nhận việc có mặt các liên doanh với
doanh nghiệp nước ngoài tại thị trường bán lẻ như một tín hiệu tích cực chứ không phải
theo hướng bị thôn tính. Các doanh nghiệp nên coi đây là những cuộc mua bán, sáp nhập
bình thường, có hiệu quả cho doanh nghiệp và toàn thị trường. Đối với các doanh nghiệp
bán lẻ trong nước, phải nỗ lực hơn để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, hàng hóa
nếu không rất khó đứng vững trên thị trường. Theo Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu
quản lý kinh tế trung ương Võ Trí Thành, tham gia thị trường bán lẻ chính là tham gia
sân chơi của nhiều doanh nghiệp bán lẻ. Vì vậy, có nhiều cách để phối hợp với doanh
13


nghiệp nước ngoài như là thông qua chuyển nhượng quyền thương mại, qua liên doanh,
cùng nhau cổ phần thông qua hình thức M&A. Như vậy, thị trường sẽ cho ta biết hoặc tự
các doanh nghiệp sẽ biết phải làm như thế nào là tốt nhất. Vấn đề là qua quá trình ấy,
doanh nghiệp có học hỏi, vươn lên không. Nếu doanh nghiệp có đủ tiềm lực thì vẫn làm
chủ khi thay đổi chủ sở hữu.
Trong khi đó, Tập đoàn Vingroup với nguồn tài chính dồi dào và lợi thế bất động sản
đã nhanh chóng mở rộng hệ thống bằng các thương vụ thâu tóm. Việc nhận chuyển
nhượng 100% cổ phần từ Công ty cổ phần đầu tư An Phong, Tập đoàn Vingroup đã trở
thành chủ sở hữu mới của hệ thống Trung tâm thương mại – siêu thị Maximark. Đây là

hệ thống phân phối hiện đại có uy tín tại khu vực Nam Trung bộ và Nam bộ.
Vingroup cũng mua lại 100% cổ phần của Vinatexmart thuộc Tập đoàn Dệt May Việt
Nam (Vinatex) với giá trị 229,5 tỷ đồng. Với thương vụ này, Vingroup đã sở hữu toàn
bộ hệ thống chuỗi siêu thị Vinatexmart với 39 cửa hàng.
Bên cạnh đó, Vingroup còn thực hiện thương vụ mua lại 80% cổ phần (tương đương
245 tỷ đồng) công ty Hợp Nhất và đổi tên thành công ty Vinlinks, với mục đích cung
cấp dịch vụ giao nhận và chuyển phát nhanh cho Vingroup, nhất là các đơn vị hoạt động
trong lĩnh vực bán lẻ.
Hay như CityMart và FiviMart hợp tác với Tập đoàn Aeon (Nhật Bản) đổi tên thành
hệ thống bán lẻ AeonCityMart từ tháng 11/2014. Hàng loạt các trung tâm của tập đoàn
này cũng được khai trương như Aeon Tân Phú Celadon (Tp. Hồ Chí Minh), Aeon Bình
Dương Canary và Aeon Long Biên (Hà Nội).
Bên cạnh đó, Aeon cũng đẩy mạnh phát triển chuỗi cửa hàng tiện lợi khi mua lại hai
thương hiệu Citimart và Fivimart với 41 cửa hàng.
Một thương vụ gây chú ý thời gian gần đây là Tập đoàn BJC (Thái Lan) xúc tiến mua
lại hệ thống 19 siêu thị Metro với trị giá hơn 600 triệu USD.
Tập đoàn này cũng mua một phần hệ thống cửa hàng tiện lợi Family Mart và đổi tên
thành B’s mart… Trong khi đó, một tập đoàn khác của Thái Lan cũng thâu tóm hệ thống
trung tâm điện máy Nguyễn Kim và mở thêm trung tâm mua sắm Robins tại Việt Nam.
Có thể thấy, bên cạnh việc tạo ra các mô hình kinh doanh hiện đại như các trung tâm
thương mại, đại siêu thị quy mô lớn, mua bán – sáp nhập các doanh nghiệp nhỏ hơn là
cách thức các tập đoàn nước ngoài tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường bán lẻ Việt Nam.
Ttrong đánh giá hoạt động M&A năm 2014 – 2015, trong tổng giao dịch M&A trên
thị trường thì tỷ trọng giao dịch M&A trong bán lẻ là cao nhất. khi vào đây phát triển hệ
thống Aeon Mall, nhưng sau đó đã liên kết với các nhà bán lẻ trong nước như Fivimart
và Citimart.
14


Do đó, nếu các nhà bán lẻ không đẩy nhanh quá trình M&A thì họ sẽ chậm chân trong

quá trình này. Chính sự trưởng thành của thương mại hiện đại Việt nam đã đến thời
điểm bùng nổ, nên quá trình M&A sẽ bùng nổ theo. M&A là cách có được thị trường
nhanh nhất và xâm nhập mạng lưới nhanh nhất, nên nếu mà mình chậm chân thì sẽ mất
cơ hội.
Quá trình M&A trong hội nhập là tất yếu, đặt các DN trong nước đứng trước hai lựa
chọn: Hoặc là hợp tác liên doanh liên kết với tập đoàn nước ngoài để nâng cao năng lực
quản trị, gìn giữ và phát triển thương hiệu.
3.3. Tự thay đổi chiến lược, tầm nhìn để trực tiếp đối đầu, cạnh tranh với các tập
đoàn bán lẻ nước ngoài
Trước sức ép cạnh tranh như vậy, các DN bán lẻ trong nước luôn nỗ lực chiếm lĩnh
thị trường. Các DN Việt Nam nên tận dụng tốt các thế mạnh vốn có của mình như nắm
bắt tốt hơn thị hiếu người tiêu dùng, xác định rõ thị trường mục tiêu, có các hoạt động
quảng bá thương hiệu bài bản, hiệu quả, từng bước xây dựng hệ thống bán lẻ văn minh,
hiện đại đi đôi với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thái độ phục vụ văn minh,
nâng cao sức cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường. DN nhận thấy nguồn lực đủ, đủ quyết
tâm và năng lực quản trị để vào cuộc chơi lớn thì cần phải dồn lực để tiếp tục củng cố và
phát triển. Tức là DN sẽ trực tiếp đối đầu, cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài.
Tập đoàn Vingroup, lý giải thương vụ mua Maximark nằm trong chiến lược tăng tốc
mở rộng hệ thống bán lẻ Vingroup trên toàn quốc. Là thương hiệu Việt 100%, Vingroup
sẽ hợp lực cùng các doanh nghiệp (DN) trong nước góp phần giữ vững thị phần cho
hàng Việt và tăng khả năng cạnh tranh với các đối thủ nặng ký nước ngoài.
Tương tự, đại diện Saigon Co.op cho hay từ nay đến cuối năm sẽ mở thêm khoảng ba
siêu thị, nâng tổng số siêu thị của hệ thống này lên 80. Đến năm 2016 sẽ tiếp tục mở
thêm 6-8 siêu thị nữa.
Điều này cho thấy siêu thị Việt đang cố gắng “vùng vẫy” để trở thành người chơi chủ
động trên chính sân nhà, không phải “gả bán” cho các đại gia ngoại.
Các nhà bán lẻ khác như Saigon Co.op cũng đang có những bước đi để đa dạng hóa
các mô hình bán lẻ. Chẳng hạn, ngoài hệ thống siêu thị Co.opmart còn có các cửa hàng
Co.op Food, Co.op Extra Plus và đặc biệt là trung tâm mua sắm hiện đại như SC
Vivociy với mạng lưới ngày càng mở rộng.

Chuỗi siêu thị Fivimart của Công ty cổ phần Nhất Nam đã cố gắng đổi mới, mở rộng
hệ thống bán lẻ nhằm tăng thị phần DN bán lẻ trong nước. Fivimart đã ký hợp đồng trực
tiếp với các nhà sản xuất nhằm bảo đảm chất lượng sản phẩm hàng hóa, kéo giá siêu thị
15


gần về với giá chợ. Công ty Nhất Nam đã phối hợp Sở Công thương các địa phương tìm
được nhà sản xuất uy tín, trực tiếp đưa sản phẩm về tổng kho, tự đóng gói, bảo đảm giá rẻ
và chất lượng. Còn Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro)
Nguyễn Tiến Vượng cho biết, từ khi thành lập, Hapro đã mở rộng rất nhanh hệ thống bán
lẻ. Ðến nay, Hapro phải tạm dừng mở rộng, nhằm cơ cấu lại những cửa hàng theo hướng
chuyên nghiệp, phù hợp từng khu vực, ngành hàng; phát triển mạng lưới bán lẻ về vùng
nông thôn, đến tận huyện, xã, mục tiêu đến năm 2020, sẽ có 50% doanh thu từ khu vực
nông thôn. Nhưng việc triển khai đang gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu do thu nhập của
khu vực này còn thấp. Do khó thay đổi nhận thức, thói quen tiêu dùng truyền thống của
nông dân, việc đầu tư về khu vực nông thôn thực tế của Hapro chưa đem lại hiệu quả.
Ðiều đó giải thích vì sao các DN nước ngoài với nội lực mạnh mẽ cũng chỉ cố gắng chen
chân vào các thành phố lớn, bỏ ngỏ thị trường nông thôn. "Ta không thể cạnh tranh trực
diện với các DN nước ngoài "trên đường lớn", cho nên phải tìm các "đường nhỏ, ngõ
ngách" để phát triển và tồn tại. Thị trường nông thôn là một hướng đi khả thi, nhưng nếu
không có chính sách hỗ trợ của Nhà nước, nhất là về đất đai, thì các DN trong nước sẽ
không thể đứng vững được trong cuộc cạnh tranh khốc liệt này.
Các chuyên gia cho rằng, muốn giữ và phát triển thị trường trong nước, các DN nhỏ
cần giải quyết tốt 3 kênh bán hàng: siêu thị, hệ thống truyền thống (cửa hàng gia đình,
chợ truyền thống…) đưa hàng về nông thôn. Do các hệ thống siêu thị lớn yêu cầu kiểm
tra chất lượng mặt hàng nghiêm ngặt, và chi phí bán hàng rất cao, chiết khấu đến 30% và
thanh toán chậm… Vì vậy các DN nhỏ thường rất khó tiếp cận để đưa hàng vào hệ
thống siêu thị lớn, và hầu hết tâm lý người tiêu dùng Việt vẫn còn tư tưởng “chuộng
hàng ngoại” nên các công ty đa quốc gia đều có chính sách chiếm vị trí tốt nhất ở các
đầu kê hàng và độ bao phủ sản phẩm của họ trong các siêu thị là đáng kể.

Để bảo vệ mình, các doanh nghiệp Việt cần phát huy hơn nữa sự liên kết giữa nông
dân với doanh nghiệp, cùng với đó là cải tiến kỹ thuật, thay đổi tư duy mua bán và đặc
biệt là hoàn thiện môi trường kinh doanh”
Trước sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp bán lẻ
Việt Nam đã có những bước thay đổi để bắt nhịp với xu hướng của thị trường.
16


Bên cạnh đó, vì đa số doanh nghiệp Việt là doanh nghiệp vừa và nhỏ với vốn ít,
nguồn lực quản trị kém, các doanh nghiệp cần chủ động trong việc theo dõi nhu cầu thị
trường, điều chỉnh chiến lược kinh doanh, phát triển thương hiệu phù hợp với xu hướng
hiện đại… cũng như có giải pháp cải tiến quản trị nguồn nhân lực, mang lại dịch vụ và
chất lượng tốt hơn cho người tiêu dùng.

17



×