Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của việt nam sau khi gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 36 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi gia nhập WTO, công nghiệp hóa cũng đặt ra những vấn đề về tính minh
bạch, chủ động của chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam, đòi hỏi sự đổi mới,
điều chính. Chính phủ đã thực hiện nhiều cải cách về thương mại sau khi gia nhập
WTO nhưng vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề còn cần được tiếp tục xem xét như việc
liên kết doanh nghiệp và Chính phủ trong việc điều chỉnh chính sách thương mại quốc
tế; cơ sở khoa học và thực tiễn khi đàm phán ASEAN mở rộng ký kết hiệp định song
phương; phát huy vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực
hiện chính sách; và cách thức vận dụng các công cụ của chính sách thương mại quốc
tế sau khi gia nhập WTO. Chính sách thương mại quốc tế phải được điều chỉnh để vừa
phù hợp với các chuẩn mực thương mại quốc tế hiện hành của thế giới, vừa phát huy
được lợi thế so sánh của Việt Nam.
Việc xem xét chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam sau khi gia nhập
WTO là việc làm vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn, góp
phần đưa Việt Nam hội nhập thành công và đạt được mục tiêu về cơ bản trở thành
quốc gia công nghiệp hóa vào năm 2020. Chính vì vậy, nhóm chúng em chọn để tài:
“Điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam sau khi gia nhập WTO”.
Nội dung bài tiểu luận gồm có ba phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc điều chỉnh chính sách thương mại quốc
tế sau khi gia nhập WTO.
Chương 2: Thực trạng về thực hiện các chính sách thương mại quốc tế ở Việt Nam sau
khi gia nhập WTO.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của Việt
Nam sau khi gia nhập WTO.
Trong quá trình nghiên cứu, bài tiểu luận của chúng em cũng sẽ không tránh
khỏi những hạn chế và thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của cô và các bạn để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin trân trọng cảm ơn!

1



CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ SAU KHI GIA NHẬP WTO
1.1.

Cơ sở của việc điều chỉnh chính sách thƣơng mại quốc tế sau khi gia nhập
WTO ở Việt Nam

1.1.1. Khái niệm chính sách thương mại quốc tế
Cùng với sự ra đời và phát triển của ngoại thương, các chính sách thương mại
quốc tế cũng được ban hành. Chính sách thương mại quốc tế (Chính sách ngoại
thương) là một hệ thống các nguyên tắc, biện pháp kinh tế, hành chính và pháp luật
dùng để thực hiện các mục tiêu đã xác định trong lĩnh vực ngoại thương của một nước
trong một thời kỳ nhất định.
Chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia trong mỗi giai đoạn phát triển
có thể khác nhau, nhưng chúng đều phải được xây dựng để thực hiện hai nhiệm vụ
trọng tâm là bảo vệ hợp lý thị trường và nền sản xuất nội địa; tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường ra bên ngoài, tham gia mạnh mẽ
vào phân công lao động quốc tế.
Có hai hình thức trong chính sách thương mại quốc tế là chính sách bảo hộ mậu
dịch và chính sách mậu dịch tự do. Các nước, căn cứ vào khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế và những cam kết quốc tế của mình, đều tìm cách kết hợp một cách khéo léo
cả bảo hộ và tự do nhằm phát huy được ưu điểm và triệt tiêu nhược điểm của cả hai
hình thức. Với Việt Nam, một nền kinh tế đang và trong quá trình chuyển đổi, đây lại
càng là một vấn đề có ý nghĩa.
1.1.2. Tính tất yếu của việc điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế ở Việt Nam
sau khi gia nhập WTO
Trong mấy thập kỷ qua, phát triển công nghiệp lan tỏa nhanh tại các nước Đông
Á và Đông Nam Á, từ Nhật Bản sang Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, Singapore,
Thái Lan, Trung Quốc,…Việt Nam đi sau khá xa các nước xung quanh về phát triển

công nghiệp. Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay ở Việt Nam,
thách thức lớn mà chúng ta phải đối mặt là trào lưu toàn cầu hóa kinh tế diễn ra ngày
càng mạnh mẽ. Nói cụ thể hơn, thị trường thế giới đang rộng mở cho hàng công
nghiệp Việt Nam, nhưng ngược lại, Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường trong nước,
tiến hành tự do thương mại. Nếu năng lực cạnh tranh của Việt Nam mạnh thì cơ hội
2


của toàn cầu hóa sẽ lớn và thách thức sẽ nhỏ. Vấn đề hiện nay của Việt Nam là phải
tạo môi trường thuận lợi để kích thích tư bản trong nước và ngoài nước tích cực đầu
tư. Trong bối cảnh đó, chính sách thương mại quốc tế có một vị trí quan trọng trong
việc hỗ trợ thực hiện chính sách công nghiệp và các chính sách khác.
Là thành viên của WTO, ASEAN, APEC, tham gia ký kết các hiệp định khung
với Liên minh châu Âu, hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế, vấn đề về tính minh bạch, chủ động của chính sách thương mại
quốc tế cũng được đặt ra, đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới, điều chỉnh từng bước nhằm
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong những năm gần đây, tuy chính phủ đã thực hiện nhiều cải cách về thương
mại sau khi gia nhập WTO nhưng vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề cần được tiếp tục
xem xét như làm thế nào để phát huy vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài, cách thức vận dụng các công cụ của chính sách thương mại quốc tế, làm thế
nào để bảo vệ các doanh nghiệp Việt Nam trước sự khốc liệt của sân chơi quốc tế,...
Một yêu cầu được đặt ra cho chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam là phải đổi
mới, điều chỉnh sao cho vừa phù hợp với các chuẩn mực thương mại quốc tế hiện
hành của thế giới, vừa phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam.
1.2.

Nội dung điều chỉnh chính sách thƣơng mại quốc tế sau khi gia nhập WTO

1.2.1. Điều chỉnh nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự do hoá thương

mại và bảo hộ mậu dịch
Sau khi gia nhập WTO, chính phủ các quốc gia phải thực hiện tự do hoá theo
một lộ trình nhất định dựa trên cơ sở những phân tích lợi ích – chi phí và kết
hợp với những phân tích khác. Tại sao thực hiện tự do hoá ngành này theo lộ trình
này và thực hiện tự do hoá ngành khác theo lộ trình khác là câu hỏi cần được giải
quyết.
Các nhà kinh tế học thường đưa ra khuyến nghị dựa trên phân tích về lợi ích –
chi phí thông thường song chính phủ không hoàn toàn đưa ra chính sách dựa trên
những phân tích như vậy.
Các chính phủ có thể đưa ra các lý do sau khi thực hiện tự do hoá thƣơng mại
ở một ngành:
Một là, theo những phân tích về lợi ích – chi phí thông thường, một môi trường
3


thương mại tự do không bị bóp méo sẽ không tạo ra tổn thất ròng của xã hội do những
lệch lạc trong sản xuất và tiêu dùng mang lại.
Hai là, những tính toán nằm bên ngoài phân tích lợi ích – chi phí thông thường
bao gồm lợi ích đạt được nhờ lợi thế kinh tế theo quy mô thông qua sự gia nhập ngành
của nhiều doanh nghiệp ở những thị trường được bảo hộ và lợi ích đạt được nhờ việc
các chủ doanh nghiệp học hỏi thông qua cạnh tranh.
Ba là lý do chính trị. Nếu chính phủ áp dụng các biện pháp bảo hộ thì chính
phủ sẽ phải giải quyết vấn đề lợi ích chính trị của các nhóm lợi ích (vấn đề phân phối
lại thu nhập cho các khu vực bị ảnh hưởng).
Bên cạnh đó, các chính phủ cũng có thể đưa ra các lý do sau để lý giải tại sao
lại thực hiện bảo hộ một ngành:
Một là, đối với các nước lớn (có khả năng thay đổi giá thế giới) thì việc áp
dụng thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu có lợi hơn cho nước đó. Các nước nhỏ không
làm được như vậy do không có khả năng tác động thay đổi giá cả thế giới.
Hai là, sự thất bại của thị trường trong nước như thất nghiệp hoặc bán thất

nghiệp, những khiếm khuyết trên thị trường vốn, công nghệ. Khi đo lường thặng
dư của người sản xuất sẽ rất khó đo được các khoản lợi ích và chi phí.
Ba là, thuyết về điều tốt nhất hạng nhì (the second best) cho rằng khi thị trường
bị khiếm khuyết thì việc sử dụng các chính sách can thiệp mang lại điều tốt chẳng hạn
tạo ra nhiều việc làm cho khu vực công nghiệp. Tuy nhiên, chính sách thương mại
quốc tế, khi được làm theo cách này, phải được so sánh với chính sách trong
nước nhằm khắc phục cùng một vấn đề.
Chính sách ngoại thương của Việt Nam có chiều hướng nghiêng về tự do hóa
thương mại. Từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mai quốc tế WTO thì Việt Nam
phải tuân thủ theo quy định từ bước cắt giảm hàng rào thuế quan và hạn ngạch. Theo
Thông tư 216/TT-BTC ngày 13/11/2009 của bộ tài chính, có hiệu lực từ ngày
1/1/2010. theo quy định trên, các nước thuế suất được cắt giảm hơn so với mức thuế
hiện hành, cụ thể giảm từ 1% đến 6%, trong đó mức giảm chủ yếu là 2-3%. Cùng với
việc tập hợp lại các mức thuế trung bình là 10,54% (mức thuế trung bình hiện hành là
11,14%). Trong đó, các mức thuế suất phổ biến là từ 0% đến 30%, chiếm khoảng 91%
tổng số dòng thuế. Điều này có nghĩa Việt Nam đang tiến tới mở cửa thị trường.
4


Tuy nhiên, hiện nay thì Việt Nam vẫn đang sử dụng nhiều các biện pháp nhằm
bảo hộ mậu dịch như đánh thuế nhập khẩu cao đối với các mặt hàng như ô tô, mỹ
phẩm, điện thoại di động, thuốc lá, xì gà, rượu bia…sử dụng hạn ngạch với các mặt
hàng như: thuốc lá nguyên liệu, muối, bông, sữa nguyên liệu cô đặc, ngô hạt và trứng
gia cầm.
Nhìn chung, chính sách ngoại thương của Việt Nam về dài hạn theo xu hướng
là tự do hóa thương mại nhưng đối với từng thời kì nhất định thi sẽ có sự kết hợp giữa
hai chính sách tự do hóa thương mại và bảo hộ mậu dịch.
1.2.2. Điều chỉnh các công cụ của chính sách thương mại quốc tế
Trong cơ chế rà soát chính sách thương mại quốc tế của WTO, các công cụ của
chính sách thương mại quốc tế được xem xét theo hai nhóm là: các công cụ tác động

tới nhập khẩu và các công cụ tác động tới xuất khẩu.
Các công cụ tác động trực tiếp tới nhập khẩu bao gồm các công cụ thuế, hạn
ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá, các quy
định về mua sắm của chính phủ, các hàng rào hành chính, các quy định về chống bán
phá giá và trợ cấp, hạn ngạch thuế quan, nhập khẩu không tự động, các hàng rào bảo
hộ mới và các hàng rào kỹ thuật (TBT) như bảo vệ môi trường, sức khoẻ con người và
động vật.
Các công cụ tác động trực tiếp tới xuất khẩu bao gồm trợ cấp xuất khẩu, các
chương trình xúc tiến thương mại, hỗ trợ thông tin, phát triển các khu công
nghiệp, khu chế xuất.
Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, năm 1995, Việt Nam đã chính thức nộp đơn
xin gia nhập WTO và đến năm 2007 thì chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ
chức này. Trong quá trình đàm phán gia nhập và khi đã trở thành thành viên
của WTO, Việt Nam cũng như các quốc gia phải chấp nhận luật chơi của WTO. Nói
cách khác, Việt Nam phải thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của
mình.
Trước hết, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, các quốc gia thường sử
dụng đàm phán song phương. Cụ thể là, các quốc gia phải đưa ra phạm vi cam kết mở
cửa thị trường, các mức cam kết cụ thể (thường là bằng hoặc thấp hơn mức hiện
hành).
5


Thứ hai, khi đã trở thành thành viên của WTO, các quốc gia thường lựa chọn
đàm phán đa phương. Khi thực hiện đàm phán đa phương, các nước đàm phán cắt
giảm thuế quan theo ngành hoặc theo công thức cắt giảm thuế. Việc ban hành hay tăng
mới một loại thuế quan phải được cân bằng lại bằng việc giảm các loại thuế khác để
bù đắp cho các nước xuất khẩu bị ảnh hưởng.
Thứ ba, các quốc gia phải chỉnh sửa luật thương mại, luật hải quan và các bộ
luật liên quan để đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc của WTO. Các biện pháp phi

thuế quan cũng phải tuân theo các quy định của WTO.
Mặc dù WTO mang lại rất nhiều lợi ích cho các quốc gia khi tham gia những
nó cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro tiềm ẩn. Nhiêm vụ của Việt Nam là phải điều chỉnh
các công cụ của chính sách thương mại quốc tế vừa phù hợp với các nguyên tắc của
WTO vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nội địa có cơ hội phát triển. Đây là một
nhiệm vụ vô cùng khó khăn.
1.2.3. Phối hợp điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế sau khi gia nhập WTO
Thông thường, các lĩnh vực thương mại - đầu tư - công nghiệp – nông, lâm,
ngư nghiệp do các bộ khác nhau chịu trách nhiệm do đó khi thiết kế và điều chỉnh
chính sách thường gặp phải những khó khăn về phối hợp thông tin, phối hợp thiết kế
và phối hợp triển khai.
Trước hết, việc phối hợp điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế đòi hỏi phải
giải quyết vấn đề về thể chế và cơ chế phối hợp. Cụ thể là cơ chế hoạt động và quyền
lực của cơ quan chịu trách nhiệm chính về công tác điều phối việc điều chỉnh chính
sách thương mại quốc tế. Những câu hỏi cần được trả lời bao gồm:
- Việc hoạch định chính sách thương mại quốc tế do cơ quan nào chủ trì?
- Chính sách thương mại quốc tế được hiểu như thế nào?
- Các văn bản được coi là chiến lược và quy hoạch về phát triển thương mại quốc tế
của quốc gia là những văn bản nào? Nội dung nào liên quan trực tiếp và gián tiếp tới
chính sách thương mại quốc tế?
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thực hiện điều chỉnh chính sách
thương mại quốc tế là gì? Cơ chế phối hợp điều chỉnh chính sách thương mại
quốc tế đang được thực hiện ra sao? Quốc gia có một cơ quan đầu mối phối hợp điều

6


chỉnh chính sách thương mại quốc tế hay không? Quy chế hoạt động của cơ quan này
như thế nào?
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thực hiện điều chỉnh chính sách

thương mại quốc tế là gì? Cơ chế phối hợp điều chỉnh chính sách thương mại
quốc tế đang được thực hiện ra sao? Quốc gia có một cơ quan đầu mối phối hợp điều
chỉnh chính sách thương mại quốc tế hay không? Quy chế hoạt động của cơ quan này
như thế nào?
- Lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế được gắn kết thế nào với việc nâng cao khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước?
Thứ hai, sau khi gia nhập WTO, để gia nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế
giới và khu vực, các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá phải giải quyết
tốt hai vấn đề là (i) thực hiện tự do hoá các ngành công nghiệp chế tạo; (ii) tăng cường
xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu của khu vực FDI. Việc phối hợp điều chỉnh chính sách
thương mại quốc tế nhằm đạt các mục tiêu về nâng cao sức cạnh tranh của hàng
công nghiệp chế tạo và tăng cường xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu của khu vực
FDI, do đó, là một nội dung cần xem xét trong quá trình phối hợp điều chỉnh chính
sách thương mại quốc tế.
Trên giác độ phối hợp điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế, vấn đề phát
triển hàng công nghiệp chế tạo yêu cầu các quốc gia phải trả lời các câu hỏi sau đây
sau khi gia nhập WTO:
- Tập trung bảo hộ những ngành chế tạo nào? Lộ trình bảo hộ như thế nào trong điều
kiện gia tăng tự do hóa thương mại?
- Các công cụ nào của chính sách thương mại quốc tế khuyến khích sự phát triển của
các ngành theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế và giá trị gia tăng của
ngành?
- Việc áp dụng lộ trình tự do hoá hay bảo hộ một ngành và các công cụ đi kèm nên
hướng vào các đối tác nào? Đối tác đầu tư nào hay các doanh nghiệp nào đang góp
phần gia tăng xuất khẩu ngành công nghiệp chế tạo nào? Những khuyến khích nào
nên được áp dụng trong tương lai và thông qua các công cụ nào của chính sách thương
mại quốc tế

7



- Tập trung bảo hộ những ngành chế tạo nào? Lộ trình bảo hộ như thế nào trong điều
kiện gia tăng tự do hóa thương mại?
- Các công cụ nào của chính sách thương mại quốc tế khuyến khích sự phát triển của
các ngành theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế và giá trị gia tăng của
ngành?
- Việc áp dụng lộ trình tự do hoá hay bảo hộ một ngành và các công cụ đi kèm nên
hướng vào các đối tác nào? Đối tác đầu tư nào hay các doanh nghiệp nào đang góp
phần gia tăng xuất khẩu ngành công nghiệp chế tạo nào? Những khuyến khích nào
nên được áp dụng trong tương lai và thông qua các công cụ nào của chính sách thương
mại quốc tế?
Phát huy khu vực FDI để tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và thâm nhập
thị trường thế giới được xem là một biện pháp lý tưởng đối với các quốc gia đang phát
triển thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Các nghiên
cứu trước đây cho thấy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo động lực để khuyến khích
xuất khẩu, thay thế nhập khẩu hay tăng cường thương mại các hàng hoá trung gian,
đặc biệt giữa công ty mẹ và chi nhánh ở nước tiếp nhận đầu tư. Câu hỏi cơ bản đặt ra
đối với việc điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế nhằm thúc đẩy xuất khẩu của
khu vực FDI là các công cụ của chính sách thương mại quốc tế cần được thực hiện
như thế nào để đạt được mục tiêu khuyến khích doanh nghiệp FDI tăng cường thương
mại các hàng hoá trung gian giữa các chi nhánh, khuyến khích các doanh nghiệp trong
nước liên kết với các doanh nghiệp FDI, tận dụng kỹ năng marketing của các doanh
nghiệp FDI để xuất khẩu vào các thị trường, cũng như thu hút và khuyến khích các
doanh nghiệp FDI Hoa Kỳ và Nhật Bản tăng cường xuất khẩu tới các thị
trường.

8


CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH THƢƠNG

MẠI QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO
2.1.

Quá trình gia nhập WTO của Việt Nam
Để tạo cơ hội cho sự đẩy nhanh phát triển nền kinh tế và thoát khỏi nguy cơ tụt

hậu, Việt Nam đã gia nhập WTO để có những điều kiện tốt nhất cho việc buôn bán với
các nước trên thế giới. Và Việt Nam cũng như bất kỳ nước nào khác muốn gia nhập
WTO đều phải trải qua một trình tự nhất định; có chăng chỉ là khác nhau về thời gian
thực hiện trình tự.. Sau 11 năm đàm phán, Việt Nam mới có thể gia nhập WTO.
Thủ tục gia nhập WTO bao gồm 3 giai đoạn là: nộp dơn xin gia nhập, đàm phán gia
nhập và kết nạp.


Nộp đơn xin gia nhập:

Nộp đơn là bước đầu tiên và bắt buộc đối với một nước xin gia nhập WTO. Ðồng thời
với việc tham gia Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) vào tháng 7-1995; là thành
viên đồng sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) vào tháng 3-1996; tham gia Diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11-1998; Việt Nam đã
sớm nhận thức tầm quan trọng của việc tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới
(WTO).
1-1-1995: Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO. WTO tiếp nhận đơn xin gia nhập
của WTO của Việt Nam và Việt Nam trở thành quan sát viên của tổ chức này.
31-1-1995: nhóm công tác (của WTO) về việc Việt Nam gia nhập WTO được thành
lập.


Ðàm phán gia nhập


Ðể gia nhập WTO, tất cả các thành viên xin gia nhập đều phải tiến hành các cuộc đàm
phán. Giai đoạn đàm phán bao gồm các bước sau:
- Minh bạch hoá chính sách:
Minh bạch hoá chính sách là việc chính phủ nước xin gia nhập phải thông báo, mô
tả (phác hoạ) bức tranh chung về các cơ chế, chính sách thương mại, kinh tế của nước
mình có liên quan đến các hiệp định của WTO.

9


24-8-1995: Việt Nam nộp bị vong lục về chế độ ngoại thương VN và gửi tới Ban
thư ký WTO để luân chuyển đến các thành viên của ban công tác.
Năm 1998-1999: Các phiên hỏi và trả lời với ban xem xét công tác xét duyệt. Việt
Nam đã trả lời khoảng 2.600 nhóm câu hỏi do các thành viên WTO đưa ra và đã thông
báo hàng chục ngàn trang văn bản cho các thành viên WTO về hệ thống chính sách, pháp
luật có liên quan đến các lĩnh vực thuế, đầu tư, nông nghiệp, thương mại hàng hoá,
thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ...
- Ðàm phán mở cửa thị trường:
+ Ðàm phán đa phương: các cuộc họp giữa Việt Nam với Nhóm công tác được tiến
hành ở Geneva, trụ sở của WTO. Tính đến 12-2005, Việt Nam đã tiến hành 10 phiên đàm
phán đa phương.
1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh bạch
hóa các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999, và 11-2000. Kết thúc
4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá trình
minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị trường.
4-2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt Nam đưa ra
Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm phán song phương.
+ Ðàm phán song phương: là đàm phán giữa Việt Nam (nước xin gia nhập) với từng
thành viên khác nhau của WTO bởi vì mỗi nước thành viên có những lợi ích thương mại
và yêu cầu, toan tính khác nhau

Đầu năm 2002: Việt Nam gửi bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ tới WTO
và bắt đầu tiến hành đàm phán song phương với một số thành viên trên cơ sở bản chào
ban đầu về thuế quan và dịch vụ.
9-10-2004: Việt Nam và EU đạt thỏa thuận về việc Việt Nam gia nhập WTO.
9-6-2005: Việt Nam và Nhật Bản đạt được thỏa thuận cơ bản về vấn đề mở đường
cho Việt Nam sớm gia nhập WTO.
12-6-2005: Việt Nam cử một phái đoàn đàm phán hùng hậu sang Washington
trước thềm chuyến thăm Mỹ chính thức của Thủ tướng Phan Văn Khải với quyết tâm đi
đến kết thúc đàm phán song phương.
10


18-7-2005: Việt Nam và Trung Quốc đạt thỏa thuận về việc mở cửa thị trường để
Việt Nam gia nhập WTO.
31-5-2006: Ký thỏa thuận kết thúc đàm phán song phương với Mỹ - nước cuối
cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.
26-10-2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác chính
thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có 14 phiên
họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006.


Kết nạp

7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để chính
thức kết nạp Việt Nam vào WTO
2.2. Chính sách thƣơng mại quốc tế của Việt Nam trƣớc và sau khi gia nhập WTO
2.2.1. Hình thức của chính sách thương mại quốc tế – Tự do hóa và Bảo hộ mậu dịch
ở Việt Nam
Chính sách thương mại quốc tế là một bộ phận trong chính sách kinh tế đối ngoại
của một quốc gia. Hai hình thức của chính sách thương mại quốc tế là Tự do hóa và Bảo

hộ mậu dịch
2.2.1.1. Tự do hóa thương mại
a. Khái niệm:
Là một hình thức trong đó nhà nước từng bước giảm dần và tiến tới xóa bỏ những cản trở
trong quan hệ buôn bán với bên ngoài, thực hiện việc tự do hóa thương mại.
b. Mục đích:
+ Mở rộng thị trường
+ Tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu trên cơ sở có đi có lại
+ Tạo điều kiện cho việc hợp tác phát triển quan hệ kinh tế quốc tế
+ Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm
nâng cao khả năng hội nhập nền kinh tế quốc tế.
c. Ưu điểm:
+ Thúc đẩy sự lưu thông hàng hóa giữa các nước
11


+ Kích thích sản xuất trong nước phát triển
+ Đem lại nhiều lựa chọn cho người tiêu dùngvới mức giá thấp hơn.
d. Nhược điểm:
+ Ảnh hưởng đến cán cân thanh toán
+ Gây ra hiện tượng thất nghiệp
+ Mất cân đối về thu nhập
+ Đe dọa sự tồn tại của những ngành sản xuất non trẻ
2.2.1.2. Bảo hộ mậu dịch
a. Khái niệm:
Là hình thức trong đó nhà nước áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ thị trường
nội địa, bảo vệ nền sẳn xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu từ
nước ngoài.
b. Mục đích:
+ Hỗ trợ, bảo vệ và khuyến khích một số ngành công nghiệp trong nước

+ Đảm bảo duy trì việc làm; đảm bảo sự phát triển cân đối của cơ cấu kinh tế
+ Phân phối lại thu nhập đảm bảo sự công bằng trong xã hội
+ Đảm bảo cân bằng cán cân thương mại
+ Tránh áp lực và tác động xấu từ bên ngoài
+ Tăng cường hiệu ứng lan tỏa giữa các ngành.
c. Ưu điểm:
+ Khai thác tối đa nguồn lực trong nước đe phục vụ cho nhu câu sản xuât và tiêu dùng;
+ Giúp sản xuất trong nước phát triển ổn định, giúp các ngành công nghiệp non trẻ có
điều kiện tồn tại và phát triển
+ Tăng ngân sách nhà nước
d. Nhược điểm:
+ Trì trệ sản xuât trong nước
+ Hạn chế sự lựa chọn và khả năng thỏa mãn nhu câu của người tiêu dùng
+ Đối mặt với các biện pháp trả đũa của các quôc gia khác

12


2.2.2. Biểu hiện của tự do hóa thương mại và bảo hộ mậu dịch ở Việt Nam
2.2.2.1.

Giai đoạn trước khi gia nhập WTO

a. Thuận lợi:
+ Quyết tâm chính trị cải cách, hội nhập, sự đồng thuận của cả dân tộc trong công cuộc
canh tân đất nước, đó là những cơ sở kinh tế - xã hội, thể chế, giáo dục, v.v... của 20 năm
đổi mới, tăng trưởng và phát triển
+ Việt Nam có vị trí chiến lược trong khu vực, có thể phát huy để phát triển kinh tế, thu
hút đầu tư
+ Khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão, tiến trình toàn cầu hóa đang tiếp tục được

đẩy mạnh
+ người tiêu dùng Việt Nam được tiếp cận với những hàng hóa và dịch vụ đa dạng hơn,
giá sẽ giảm đi theo mức giảm thuế và mức độ cạnh tranh, tiến bộ khoa học - công nghệ sẽ
được đẩy mạnh
+ Thanh niên có nhiều cơ hội hơn trong tìm kiếm cơ hội học tập, làm việc trong nước và
ngoài nước
b. Khó khăn:
+ Trình độ phát triển của nước ta còn thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém. Điển hình là ở khu
vực nông nghiệp, kinh tế gia đình nhỏ lẻ, ở sự thiếu hiểu biết và thiếu chuẩn bị để cạnh
tranh và phát triển trong hoàn cảnh mới.
+ Hệ thống an sinh xã hội, bảo hiểm còn kém phát triển, rất cần phải cải cách và phát
triển để đáp ứng nhu cầu của những biến động về kinh tế và xã hội
+ Khó khăn lớn nhất thuộc về tư duy phát triển, tư duy kinh doanh, trình độ phát triển của
thể chế kinh tế thị trường và bộ máy nhà nước
+ Phải cạnh tranh với những đối thủ mạnh hơn ngay trên thị trường trong nước, tuân thủ
những quy định khắt khe và cao hơn so với trước đây
2.2.2.2.

Giai đoạn sau khi gia nhập WTO

a. Phát triển tích cực:
+ Xuất nhập khẩu tăng mạnh và đóng vai trò then chốt đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam (trong hai năm 2007 và 2008, mức tăng xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt bình
13


quân khoảng 25 %/ năm. Năm 2009, do khủng hoảng toàn cầu nên tỷ lệ tăng xuất nhập
khẩu của Việt Nam bị tụt xuống đáng kể, nhưng vẫn ở mức cao so với nhiều nền kinh tế
khác)
+ Cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam tiếp tục thay đổi theo hướng giảm dần các

mặt hàng nguyên liệu thô, nông sản chưa chế biến và tăng dần số lượng cũng như giá trị
các mặt hàng hàng chế biến, hàng công nghiệp có giá trị gia tăng cao
+ Đầu tư quốc tế tăng ngoạn mục (đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), cho đến cuối 2005,
Việt Nam đã thu hút được tổng số khoảng trên 70 tỷ USD vốn đăng ký. Riêng mấy năm
gần đây, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, FDI vào Việt Nam tăng vọt từ 12
tỷ USD năm 2006 lên 21 tỷ USD năm 2007 và 64 tỷ USD năm 2008. Mặc dù năm 2009
có nhiều khó khăn do hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu,
Việt Nam vẫn tiếp tục là một điểm đến quan trọng của FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký
là 21,3 tỷ USD)
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có tiến bộ (trong những năm đầu của thập niên 2000, tỷ lệ
các khu vực công nghiệp, dịch vụ và nông lâm nghiệp trong tổng giá trị nền kinh tế quốc
dân còn ở mức lần lượt là 38 %, 39 % và 23 %, thì đến nay (2008-2009) tỷ lệ tương ứng
là 40 %, 39,5 % và 20,5 %)
+ Cải thiện kinh tế vĩ mô
b. Yếu kém còn tồn tại:
+ Chất lượng của sự phát triển kinh tế chưa cao và tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định (công
nghiệp tuy phát triển nhanh, nhưng chủ yếu dưới dạng gia công, chế biến trình độ thấp,
giá trị gia tăng hạn chế, sử dụng nhiều lao động, đất đai và tài nguyên, gây ô nhiễm môi
trường nặng, các ngành công nghệ cao và dựa trên tri thức chưa phát triển đáng kể)
+ Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn
thấp (3 năm gần đây, Việt Nam tiếp tục bị tụt bậc trong bảng xếp hạng cạnh tranh quốc
gia của thế giới)

14


2.2.3. Mối quan hệ giữa tự do hóa và bảo hộ mậu dịch ở Việt Nam trước và sau khi
gia nhập WTO
Cả chính sách bảo hộ mậu dịch và tự do hóa thương mại đều có những ưu điểm và
nhược điểm riêng. Chính vì vậy, thực tế hiện nay ở Việt Nam, cả hai chính sách này được

kết hợp với nhau trong quá trình xây dựng các chính sách TMQT. Trong đó, xu hướng
bảo bộ mậu dịch được điều chỉnh theo hướng giảm dần đồng thời xu hướng tự do hóa
thương mại ngày càng được tăng cường.
Bên cạnh tự do hóa thương mại, gia nhập WTO là một cam kết pháp lý có tác
động sâu rộng tới nhiều chính sách kinh tế trong nước. Những thay đổi về mặt chính sách
mà các nước mới gia nhập áp dụng khi gia nhập WTO thường liên quan tới nhiều biện
pháp trong nước. Đối với Việt Nam, thực tế đã chứng minh cần đưa ra các cải cách toàn
diện để các quy định và chính sách trong nước của Việt Nam phù hợp với các quy tắc của
WTO. Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam về cơ bản đã điều chỉnh lại
toàn bộ hệ thống pháp lý đối với các hoạt động thương mại và các thủ tục pháp lý (US
Aid, 2007). Đặc biệt, cần tăng cường minh bạch hóa và thúc đẩy một hệ thống pháp trị.
Trong cam kết “cả gói” của mình, Việt Nam đồng ý đưa ra một số biện pháp chính sách
cụ thể như tự do hóa các biện pháp kiểm soát giá và cải cách các mức thuế tiêu thụ đặc
biệt và tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Việt Nam cũng đồng ý tuân thủ với các
quy tắc của WTO về sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), rào cản
kỹ thuật đối với thương mại (TBT), ưu đãi đầu tư, giá trị hải quan, cấp phép nhập khẩu,
Quy tắc xuất xứ và thủ tục chống bán phá giá. Các biện pháp được soạn thảo nhằm hạn
chế vai trò của một nền kinh tế do Nhà nước dẫn dắt cũng bao gồm việc tự do hóa quyền
kinh doanh ngoại thương. Những cải thiện nữa bao gồm thiết lập điểm hỏi đáp dịch vụ,
TBT và SPS.
Khó thực hiện chính sách bảo hộ hơn. Chính sách kinh tế phải phù hợp với các
quy định của WTO. Gia nhập WTO thường khuyến khích việc quản lý kinh tế dựa trên
các quy định pháp lý, việc cải cách toàn diện hệ thống pháp luật của Việt Nam đã diễn ra
và rất có thể sẽ tiếp tục trong nhiều năm tới. Gia nhập WTO, những ưu đãi theo từng
ngành cụ thể sẽ dần dần được loại bỏ, giảm sự phân biệt đối xử. Các chính sách ngày
15


càng thống nhất đối với tất cả các ngành từ lâu đã là mục tiêu của quá trình tự do hóa
thuế quan trong các vòng đàm phán liên tiếp của GATT.

2.3.

Vấn đề thực hiện các công cụ chính sách thƣơng mại quốc tế ở Việt Nam

2.3.1. Vấn đề thực hiện các biện pháp thuế quan
2.3.1.1. Sơ lược về thuế quan
a. Khái niệm:
Thuế quan là loại thuế đánh vào hàng hóa khi hàng hóa đó đi qua lãnh thổ hải
quan của một nước.
b. Phân loại: Hiện nay, có rất nhiều cách phân loại thuế quan.
 Phân loại thuế quan theo mục đích đánh thuế:
- Thuế quan tài chính: loại thuế được sử dụng với mục đích làm tăng thu cho ngân sách
Nhà nước.
- Thuế quan bảo hộ: loại thuế được sử dụng nhằm mục đích bảo hộ thi trường và nền sản
xuất nội địa thong qua việc đánh thuế cao đối với hàng hóa nhập khẩu.
 Phân loại thuế quan theo đối tượng đánh thuế:
- Thuế quan xuất khẩu: loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài.
- Thuế quan nhập khẩu: loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài.
- Thuế quan quá cảnh: loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa được vận chuyển quá cảnh
qua một lãnh thổ hải quan thứ ba.
Ngoài ra, thuế quan còn được phân loại theo phương pháp tính thuế và phân loại
theo mức thuế.
2.3.1.2. Thực tiễn về áp dụng các công cụ thuế quan
11/2006, Việt Nam gia nhập WTO và trở thành thành viên chính thức của tổ chức
này vào 1/2007. Thực tế, 6 năm trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại
thế giới WTO đã đóng góp đáng kể cho tăng trưởng kinh tế, góp phần xóa đói giảm
nghèo, thúc đẩy thương mại, đầu tư và tự do hóa tài chính. Trong 6 năm đầu gia nhập
WTO, Việt Nam đã thực hiện đầy đủ và đúng lộ trình các cam kết với WTO trong các
lĩnh vực nói chung cũng như trong lĩnh vực thuế quan nói riêng.
16



Năm 2007, Việt Nam đã cắt giảm thuế đối với trên 1.800 dòng thuế với mức cắt
giảm từ 1% đến 30% tùy từng loại hàng. Trong đó, mặt hàng dệt may là có mức cắt giảm
lớn nhất. Đến năm 2008, tiếp tục cắt giảm 1.740 dòng thuế gồm những mặt hàng thuộc
26 ngành hàng như: nông thổ sản, rau quả tươi, cà phê… với mức giảm từ 1-7%, trong
đó, đa số các mặt hàng có mức giảm 2-3%. Có thể thấy, trong năm này, mức cắt giảm đối
với tất cả các mặt hàng thực hiện theo lộ trình giảm dần chứ không cắt giảm đột biến như
dệt may năm 2007.
Theo lộ trình, năm 2009, chính phủ tiếp tục cắt giảm 1.770 dòng thuế trong 337
nhóm mặt hàng với mức giảm dao động trong khoảng từ 1-10%. Năm 2010, số dòng thuế
được giảm là trên 1.650 với mức giảm thêm từ 1-6%.
Năm 2011 đã cắt giảm 924 dòng thuế, mức cắt giảm cao nhất là 10% như xì gà từ
120% xuống 110%, giảm thấp nhất là 1%, còn lại chủ yếu là từ 1-3%. Đặc biệt, thực hiện
kiên định mục tiêu đã đề ra, năm 2011, Việt Nam tiếp tục giữ các mức thuế suất trần theo
cam kết WTO đối với một số nhóm hàng có mức thuế cao và mang tính chất nhạy cảm
như thuế thuốc lá 135%, xì gà 110%, ô tô nguyên chiếc 82% và 77% với rượu, bia.
Nhìn chung các cam kết về thuế được thực hiện tuân thủ đầy đủ các cam kết trong
WTO theo đúng lộ trình. Mức thuế bình quân giản đơn của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi
năm 2011 là 10,47% và trong một số trường hợp, mức thuế suất áp dụng đã được quy
định thấp hơn so với mức cam kết để phù hợp với mục tiêu điều hành kinh tế vĩ mô và
khuyến khích sản xuất kinh doanh trong nước, thúc đẩy xuất khẩu, trong đó chủ yếu là
nhóm hàng vật tư, nguyên nhiên vật liệu, linh kiện phục tùng và máy móc, thiết bị trong
nước không sản xuất được…
Đặc biệt, năm 2012 là năm có sự thay đổi lớn, theo đó, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi
năm 2012 gồm 9.558 dòng thuế, tăng 1.258 dòng thuế. Trong số 9.558 dòng thuế này thì
phải cắt giảm 945 dòng thuế theo cam kết WTO cho năm 2012 với mức cắt giảm chủ yếu
từ 1-3%, gồm các mặt hàng thủy hải sản, hoa quả, thực phẩm chế biến, bánh kẹo, rượu,
thuốc lá… Số lượng mức thuế suất cũng được giảm từ 48 xuống 33 mức, giảm 15 mức so
với năm 2011.


17


Có thể nói, Thông qua việc thực hiện các cam kết với WTO, Việt Nam cũng đã
từng bước củng cố, cải cách kinh tế quốc gia ở các lĩnh vực, trong đó, thuế quan là một
trong những lĩnh vực chủ chốt đã có những thay đổi đáng kể.
2.3.2. Vấn đề thực hiện các biện pháp phi thuế quan
Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về thế nào được coi là biện pháp phi
thuế quan. Tuy nhiên, theo WTO, một công cụ được coi là phi thuế khi bản thân nó phải
làm hạn chế thương mại. Biện pháp phi thuế quan bao gồm biện pháp khuyến khích đẩy
mạnh xuất khẩu và biện pháp quản lý nhập khẩu phi thuế.
Dưới đây, ta sẽ bàn về thực tiễn áp dụng các biện pháp này.
2.3.2.1.Biện pháp khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu
a. Tín dụng xuất khẩu
Tín dụng xuất khẩu là biện pháp mà Nhà nước hoặc tư nhân cấp cho nhà nhập
khẩu nước ngoài một khoản tín dụng khi mua hàng của nước mình. Thực chất, tín dụng
xuất khẩu là biện pháp bán chịu hàng hóa, thanh toán tiền sau và cho hưởng lãi suất thấp
đối với khoản tiền trả chậm này.Nhà nước lập các quỹ bảo hiểm xuất khẩu để bảo hiểm
cho các rủi ro tổn thất đối với khoản tín dụng mà nhà xuất khẩu nước mình dành cho
người mua nước ngoài.
Ở Việt Nam, những quy định về trợ cấp tín dụng xuất khẩu được ghi rõ trong
Quyết định 133/2001/QĐ-TTg ngày 10 tháng 9 năm 2001 về Quy chế tín dụng hỗ trợ
xuất khẩu. Quy định này rất chặt chẽ về đảm bảo tiền vay và tình hình tài chính.
Chính sách hỗ trợ tín dụng xuất khẩu của Quỹ hỗ trợ phát triển hiện tại chỉ tập
trung vào hỗ trợ xuất khẩu ngắn hạn chứ không tập trung vào xuất khẩu trung và dài
hạn. Về điều kiện cho vay, nếu doanh nghiệp thuộc nhóm đối tượng cho vay, có hợp đồng
xuất khẩu, có phương án sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ, có tài sản đảm bảo tiền
vay tối thiểu trị giá 30% thì được xem xét cho vay. Việc cho vay tín chấp được chấp nhận
nhưng tương đối khó khăn. Các doanh nghiệp được Quỹ hỗ trợ phát triển cho vay vốn chủ

yếu là các doanh nghiệp Nhà nước (chiếm tới 85% số vốn cho vay của Quỹ trong giai
đoạn 2000-2004).

18


b. Chính sách trợ cấp và bán phá giá hàng hóa
Trợ cấp là việc chính phủ dành cho doanh nghiệp những lợi ích mà trong điều kiện
thông thường doanh nghiệp không thể có được. Những lợi ích đó có thể phát sinh từ việc
chính phủ trực tiếp cấp tiền (cho không, cho vay với điều kiện ưu đãi, cấp thêm vốn), bảo
lãnh trả các khoản vay, hoãn các khoản thuế phải nộp, cung cấp hoặc mua hàng hóa, dịch
vụ với giá thuận lợi cho doanh nghiệp…
Hàng hóa được trợ cấp xuất khẩu khi bán ra thị trường nước ngoài có giá thấp,
thậm chí thấp hơn giá bán trên thị trường nội địa của nước xuất khẩu.
Việt Nam hỗ trợ xuất khẩu trong giai đoạn 1999-2001: Tổng giá trị cho 4 mặt hàng gạo,
thịt lợn, cà phê, rau quả: 1098.5 tỷ; tổng khối lượng cho 4 mặt hàng trên: 3124 tấn
Bán phá giá hàng hóa là hành động mang sản phẩm của một nước sang bán một nước
khác, với mức giá xuất khẩu thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm đó khi bán cho
người tiêu dung ở thị trường nội địa nước xuất khẩu.
Việt Nam hiện chưa có kinh nghiệm với việc áp dụng các biện pháp chống
bán phá giá hàng hoá của nước ngoài tại thị trường Việt Nam. Quy định về chống bán
phá giá và trợ cấp bắt đầu được đưa vào trong Luật thuế xuất nhập khẩu (sửa đổi) của Việt
Nam từ năm 1998. Hiện tại, các quy định về chống bán phá giá được quy định tại Pháp
lệnh về chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam ban hành vào tháng 5 năm
2004. Các quy định về chống trợ cấp hàng nhập khẩu được điều chỉnh tại Pháp lệnh về tự vệ
trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam ban hành tháng 5 năm 2002.Một số
hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam hiện đang bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá
tại nước ngoài.
Việt Nam không thuộc nhóm quốc gia bị kiện phá giá nhiều nhất trên thế giới.
Tính đến 30 tháng 6 năm 2006, Việt Nam bị kiện phá giá 22 lần, trong đó năm 2005 bị

kiện 7 lần, 2004 bị kiện 7 lần, 2002 bị ba lần và một lần vào các năm 1997, 1999 và
2000. Các ngành đã từng bị kiện phá giá của Việt Nam là tỏi, giày dép, bột ngọt, cá tra
basa, bật lửa gas, tôm., xe đạp, đèn huỳnh quang, bột sắn, ô xít kẽm, chốt cài bằng thép
không gỉ.

19


c. Các biện pháp khác
Ngoài ra, hiện nay còn có một số biện pháp khác nhằm khuyến khích xuất khẩu
như bán phá giá hối đoái, mở rộng nhập khẩu tự nguyện, các hiệp định thương mại,…
2.3.2.2. Các biện pháp quản lý nhập khẩu phi thuế
a. Hạn ngạch nhập khẩu
Quy định của Nhà nước về số lượng hoặc giá trị hàng hóa cao nhất được phép
nhập khẩu trong một thời gian nhất định (thường là một năm) được gọi là hạn ngạch nhập
khẩu.
Hiện nay, các quốc gia ít sử dụng công cụ hạn ngạch mà dung thuế quan thay dần
cho hạn ngạch.
Hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng với 7 nhóm hàng vào năm 1995, 6 mặt hàng
vào năm 1996. Đến năm 1997, vì lý do cân đối nên Việt Nam tăng số lượng mặt hàng
nhập khẩu bị kiểm soát bằng hạn ngạch. Đến năm 2004, Việt Nam bãi bỏ hệ thống hạn
ngạch nhập khẩu. Tuy nhiên, năm 2005, Việt Nam thực hiện bãi bỏ thuế nhập khẩu đối với
6 mã hàng để thực hiện quản lý bằng hạn ngạch.
b. Hạn ngạch thuế quan
Hạn ngạch thuế quan là chế độ trong đó quy định sẽ áp dụng một mức thuế bằng
không hoặc thấp hơn đối với hàng hóa được nhập khẩu theo đúng số lượng quy định,
nhằm đảm bảo cung cấp với giá hợp lý cho người tiêu dùng. Khi hàng hóa nhập khẩu
vượt quá số lượng quy định thì sẽ áp dụng mức thuế cao (còn gọi là thuế lần 2) để bảo hộ
các nhà sản xuất trong nước.
Hiện nay, Việt Nam chuyển sang thực hiện quản lý chuyên ngành thông qua hệ

thống giấy phép con do các cơ quan được uỷ quyền cấp phép (Ngân hàng Nhà nước, Bộ
Y tế, Bộ Công nghiệp, Bộ Quốc phòng). Trong khuôn khổ WTO, Việt Nam được áp
dụng hạn ngạch thuế quan (TRQ). Đây là công cụ mới đối với Việt Nam. Ban đầu hạn
ngạch thuế quan được áp dụng đối với 7 mặt hàng là thuốc lá nguyên liệu, muối, bông, sữa
nguyên liệu cô đặc, sữa nguyên liệu chưa cô đặc, ngô hạt và trứng gia cầm. Tính đến hết
năm 2005, số mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch thuế quan đã giảm từ 7 xuống 3 mặt hàng là
sữa và kem chưa cô đặc hoặc đã pha thêm đường hoặc chất ngọt khác; ngô, xơ bông chưa
20


chải thô hoặc chưa chải kỹ; phế liệu bông (kể cả phế liệu sợi và bống tái chế). Như vậy, số
mặt hàng được điều chỉnh bằng hạn ngạch thuế quan còn quá nhỏ bé so với các quốc gia
như Hoa Kỳ và Thái Lan.
c. Cấm nhập khẩu
Cấm nhập khẩu là biện pháp quản lý của Nhà nước trong đó Nhà nước cấm nhập
khẩu những mặt hàng nhất định vào thị trường nội địa. Hình thức cấm: Cấm theo mặt
hàng; cấm theo thị trường.
Theo Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ,
các mặt hàng sau nằm trong danh mục hàng hóa bị cấm nhập khẩu ở Việt Nam:
- Vũ khí, đạn dược, vật liệu nổ, trừ vật liệu nổ công nghiệp, thiết bị kỹ thuật quân sự.
- Pháo các loại, trừ pháo hiệu cho an toàn hàng hải theo hướng dẫn của Bộ giao thông
vận tải; các loại thiết bị gây nhiễu máy đo tốc độ phương tiện giao thông.
- Hàng tiêu dùng đã qua sử dụng, bao gồm các nhóm hàng: Hàng dệt may, giày dép, quần
áo; hàng điện tử; hàng điện lạnh; hàng điện gia dụng; thiết bị y tế; hàng trang trí nội thất;
hàng gia dụng bằng gốm, sứ, sành, thủy tinh, kim loại, nhựa, cao su, chất dẻo, và các chất
liệu khác; hàng hóa là sản phẩm công nghệ thông tin đã qua sử dụng
- Các loại văn hóa phẩm cấm phổ biến và lưu hành tại Việt Nam.
- Phương tiện vận tải tay lái bên phải theo quy định, trừ các loại phương tiện chuyên dùng
có tay lái bên phải hoạt động trong phạm vi hẹp.
- Vật tư, phương tiện đã qua sử dụng, gồm: Khung gầm của ô tô, máy kéo có gắn động

cơ; xe đạp theo quy định; xe hai bánh, ba bánh gắn máy theo quy định; ô tô cứu thương
theo quy định; ô tô các loại đã thay đổi kết cấu chuyển đổi công năng so với thiết kế ban
đầu, bị đục sửa số khung, số máy.
- Phế liệu, phế thải, thiết bị làm lạnh sử dụng C.F.C.
- Sản phẩm vật liệu có chứa amiăng thuộc nhóm amifibole.
- Hoá chất độc bảng I được quy định trong Công ước vũ khí hoá học
Ngoài ra, còn có một số biện pháp quản lý nhập khẩu phi thuế khác, bao gồm: biện
pháp tài chính tiền tệ, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, quy định về xuất xứ của hàng hóa,
thủ tục hải quan, hàng rào kỹ thuật trong thương mại quốc tế,…
21


2.4.

Thực trạng về phối hợp hoàn thiện chính sách thƣơng mại sau khi gia nhập

WTO
2.4.1. Chính sách thương mại nội địa
Chiến lược hội nhập của Việt Nam ở giai đoạn hiện nay là dựa trên những kinh
nghiệm hội nhập ngành trong quá khứ để đưa ra một lộ trình hội nhập trong các cuộc đàm
phán song phương và mở rộng ASEAN. Riêng đối với Trung Quốc, Bộ Thương mại cân
nhắc kỹ càng hơn các thế mạnh và ngành mạnh của Trung Quốc như ô tô, xe máy, dệt
may. Hai điều được các nhà hoạch định chính sách thương mại ở Việt Nam quan tâm là
các ngành của Việt Nam đang được bảo hộ cao và tình hình buôn lậu từ Trung Quốc. Nếu
hàng hoá Trung Quốc vẫn tiếp tục tràn vào Việt Nam một cách phi pháp thì việc bảo vệ
các nhà sản xuất trong nước không có tác dụng.
2.4.2. Chính sách thương mại quốc tế
Xuất khẩu của Việt Nam đang ở trong giai đoạn đầu với các sản phẩm chủ yếu sử
dụng công nghệ thấp và sử dụng nhiều lao động. Các nhà đầu tư hướng về xuất
khẩu thích lựa chọn các khu chế xuất và khu công nghiệp làm nơi xây dựng cơ sở sản

xuất. Trên giác độ chính sách thương mại quốc tế, về thủ tục hành chính, doanh nghiệp
FDI hướng vào xuất khẩu gặp ít khó khăn hơn các doanh nghiệp FDI hướng vào thay thế
nhập khẩu. Về cơ sở hạ tầng, không chỉ các doanh nghiệp FDI mà các doanh nghiệp
tại Việt Nam đều mong muốn một hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu tốt hơn
(đường xá, cảng, điện, nước).
Để thúc đẩy xuất khẩu, các công cụ thuế quan và phi thuế quan cần tập trung bảo
hộ những sản phẩm cuối cùng chứ không phải những sản phẩm trung gian. Tuỳ
theo ngành, các công cụ thuế quan cần được áp dụng một cách linh hoạt.
Chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam còn lúng túng trong việc hỗ trợ các
doanh nghiệp ở khu vực thay thế nhập khẩu. Mặc dù các chính sách, cơ chế cho xuất
nhập khẩu đã thông thoáng hơn và rõ ràng hơn theo hướng hướng vào xuất khẩu song các
ngành ở khu vực thay thế nhập khẩu như ô tô, điện tử, thép còn thể hiện nhiều bất cập ở
công tác điều hành như biểu thuế xuất nhập khẩu và các chính sách hỗ trợ khác.

22


2.4.3. Đánh giá nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu
dịch của Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
Chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam đã chuyển từ thay thế nhập khẩu
sang hướng vào xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Điều này được thể hiện ở
sự thay đổi các Chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
Với việc gia nhập WTO, Việt Nam có thể tiếp cận các thị trường xuất khẩu và
nhập khẩu một cách ổn định và dễ dự đoán hơn, từ đó, số lượng và chất lượng hàng hóa,
dịch vụ xuất nhập khẩu sẽ tăng theo. Gia nhập WTO cũng thúc đẩy quá trình tự do hóa
nhập khẩu, từ đó cho phép tiếp cận với các đầu vào nhập khẩu (công nghệ, trang thiết bị
và phương pháp quản lý hiện đại) cũng như hàng hóa tiêu dùng đa dạng và rẻ hơn; các
đầu vào nhập khẩu rất quan trọng đối với một nền kinh tế đang hiện đại hóa nhanh chóng
như Việt Nam.
Các nhà phân tích kinh tế nhấn mạnh lợi ích quan trọng của việc các nền kinh tế

thực hiện tự do hóa nhập khẩu có thể tiếp cận thị trường trong nước tốt hơn, đặc biệt khi
các thiết bị nhập khẩu cũng như các đầu vào sản xuất có giá rẻ hơn, hàng nhập khẩu đa
dạng hơn. Thông qua việc giảm và ràng buộc thuế nhập khẩu, loại bỏ hạn ngạch nhập
khẩu và cải cách các biện pháp hạn chế khác, các chính sách của Việt Nam sẽ có độ tin
cậy cao hơn và môi trường kinh doanh trong nước được cải thiện, điều này sẽ đem lại lợi
ích trong nước đang kể
Liên quan tới các cam kết mở cửa thị trường, có bằng chứng rõ ràng rằng cái mà
những người theo chủ nghĩa trọng thương thường gọi một cách không chính xác là “giá
của việc gia nhập” – xét từ các nhượng bộ về mở cửa thị trường – đang ngày càng tăng.
Các nhượng bộ của Việt Nam khi gia nhập cũng theo xu hướng này do Việt Nam đã đưa
ra các nhượng bộ quan trọng về thuế quan, loại bỏ các hạn chế định lượng và xóa bỏ trợ
cấp xuất khẩu đối với hàng động sản cũng như rất nhiều khoản trợ cấp trong nước khác.
Việt Nam đồng ý đưa ra một số biện pháp chính sách cụ thể như tự do hóa các biện pháp
kiểm soát giá và cải cách các mức thuế tiêu thụ đặc biệt và tư nhân hóa các doanh nghiệp
nhà nước. Việt Nam cũng đồng ý tuân thủ với các quy tắc của WTO về sở hữu trí tuệ, tiêu
chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT), ưu
23


đãi đầu tư, giá trị hải quan, cấp phép nhập khẩu, Quy tắc xuất xứ và thủ tục chống bán
phá giá. Các biện pháp được soạn thảo nhằm hạn chế vai trò của một nền kinh tế do Nhà
nước dẫn dắt cũng bao gồm việc tự do hóa quyền kinh doanh ngoại thương. Những cải
thiện nữa bao gồm thiết lập điểm hỏi đáp dịch vụ, TBT và SPS.
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng hướng vào xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư
nước ngoài là hoàn toàn phù hợp vì Việt Nam cần thiết phải là một bộ phận của nền kinh
tế thế giới và phải tham gia có hiệu quả vào mạng lưới sản xuất khu vực và thế giới.

24



CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH
THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO
3.1.

Quan điểm điều chỉnh chính sách thƣơng mại quốc tế sau khi gia nhập WTO
Quan điểm về hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế sau khi gia nhập WTO

cần bao gồm những nội dung sau:
Một là, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hôi nhập
kinh tế quốc tế phải chủ động gắn liền với mục tiêu công nghiệp hóa và các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của đất nước. Chủ động hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế thể
hiện ở nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại và bảo hộ mậu dịch trong
quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế cho phù hợp với bối cảnh của Việt
Nam; hoàn thiện các công cụ thuế quan và phi thuế quan cho từng ngành, từng kĩnh vực,
từng hàng hóa cụ thể và chủ động tổ chức hoàn thiện chính sách.
Hai là, việc hoàn thiện chính sách thươn mại quốc tế là một trong các hoạt động
góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Qua
đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gia tăng khả năng tiếp cận thị trường và khả năng cạnh
tranh trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc
tế sẽ tạo điều kiện tăng cường gắn kết sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và cộng đồng
doanh nghiệp.
Ba là, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế phải đảm bảo tuân thủ các
nguyên tắc chung, thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ thành viên của các tổ chức khu vực và
quốc tế mà Việt Nam tham gia nhưng không bỏ cuộc trong một lịch trình nhất định. Các
quyền lợi về thâm nhập thị trường, tham gia đàm phán và các nghĩa vụ mở cửa thị
trường, báo cáo tài chính thực hiện cắt giảm các biện pháp can thiệp vào thương mại, đầu
tư cần phải được thực hiện. Việt Nam phải điều chỉnh chính sách cho phù hợp với luật
chơi chung của tôt chức.
Bốn là, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tes phải đảm bảo sự tham gia
của không chỉ các cơ quan quản lý nhà nước ( hoạch định và thực thi chính sách) mà cả

các đối tượng khác như cộng đồng doanh nghiệp ( các hiệp hội, các doanh nghiệp) và
giới nghiên cứu. Sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng doanh
25


×