Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

SKKN bồi dưỡng học sinh giỏi môn địa lý khối 9 theo hướng bền vững trường THCS đa phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.2 KB, 23 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN ĐỊA 
LÝ KHỐI 9 THEO HƯỚNG BỀN VỮNG"

1


A/­ PHẦN MỞ ĐẦU:
I. BỐI CẢNH CỦA ĐỀ TÀI:
   Trong những năm qua, chất lượng dạy và học của huyện An Phú nói chung và 
trường trung học cơ sở Đa Phước nói riêng ngày càng được nâng cao. Các phong trào 
thi đua dạy tốt – học tốt do ngành phát động được đông đảo cán bộ ­ giáo viên ­ công 
nhân viên và học sinh nhiệt tình tham gia hưởng  ứng và từng bước đạt được nhiều 
thành tích khá nổi bật như: phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm, làm đồ  dùng dạy  
học, hội thi giáo viên dạy giỏi, hội thi ca múa nhạc, hội khỏe phù đổng, thi chọn học  
sinh giỏi … Qua các phong trào đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng 
giáo dục, đồng thời tạo được niềm tin đối với các bậc phụ  huynh học sinh, các cấp  
chính quyền và đó cũng là động lực để  những người làm công tác giáo dục có những 
định hướng mới cho sự nghiệp đào tạo thế hệ tương lai của đất nước. 
   Trong các phong trào thi đua đó, có thể khẳng định rằng trường trung học cơ sở 
Đa Phước – huyện An Phú là ngôi trường đạt được kết quả  khá toàn diện và mang 
tính  ổn định ; phát triển trong đó có phong trào bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và  
học sinh giỏi môn Địa lý nói riêng.
II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 
   Năm học 2005 – 2006 là năm học đầu tiên học sinh lớp 9 trên địa bàn toàn tỉnh 
được học theo chương trình sách giáo khoa mới và cũng là năm học đầu tiên bản thân 
được Ban giám hiệu nhà trường phân công giảng dạy môn Địa lý khối 9. Với vai trò là 
người giáo viên giảng dạy lớp 9, bản thân nhận thức được rằng nhiệm vụ  khá nặng 
nề  và quan trọng – quan trọng vì phải đảm nhận công tác bồi dưỡng học sinh giỏi,  


công việc mà lãnh đạo nhà trường luôn xem là mũi nhọn, là thế mạnh của trường.
   Từ năm học đầu tiên đó đến nay, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý  
của bản thân ít nhiều đạt được một số kết quả nhất định, cụ thể là: hàng năm trường  
đều có học sinh giỏi đạt giải cấp huyện, cấp tỉnh môn Địa lý và năm học 2010 – 2011  
vừa qua trường có một học sinh giỏi đạt giải Nhì và một học sinh giỏi đạt giải Ba  
môn Địa lý trong kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh.
   Với những kết quả trên, xin chia sẻ một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi 
môn Địa lý khối 9 nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn, tạo hứng  
thú học tập cho học sinh và góp phần nhỏ bé trong thành tích chung của phong trào bồi 
dưỡng học sinh giỏi, và đặc biệt với những giáo viên đã và đang bồi dưỡng học sinh 
2


giỏi môn Địa lý có thể  xem đây là một tài liệu tham khảo, một kênh thông tin để  làm 
phong phú thêm biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi trên địa bàn An Giang nói chung và 
huyện An Phú nói riêng.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
       Đề  tài tập trung phân tích các biện pháp đã thực hiện trong quá trình bồi dưỡng  
học sinh giỏi môn Địa lý khối 9 cũng như  chia sẻ  với quý đồng nghiệp những kinh  
nghiệm đã tích lũy được từ thực tế những năm qua.
IV.  ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU :
        Từ thực tế của quá trình giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi đạt hiệu quả bản 
thân đã không ngừng rút kinh nghiệm, phân tích, so sánh các biện pháp đã tiến hành ở 
năm sau so với những năm trước để có hướng điều chỉnh ở  hiện tại sao cho phù hợp 
với thực tế. Trên cơ  sở  tổng kết, rút kinh nghiệm riêng của bản thân đã từng bước 
hình thành ý tưởng viết đề tài về công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi và qua  
nhiều năm đề tài được ra đời. Có thể nói công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được ngành 
thực hiện khá lâu nhưng việc tổ  chức trao đổi học tập hay chia sẻ  kinh nghiệm bồi  
dưỡng thì chưa thực hiện bao giờ. Do đó, đề tài ra đời là kết quả của quá trình gắn kết 
giữa lý luận và thực tiễn, đồng thời phần nào đã giải quyết được những đòi hỏi do  

thực tiễn đặt ra. 
B/­ PHẦN NỘI DUNG:
I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:
   
   Qua thực tế bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý khối 9 trong những năm học qua tôi  
nhận thấy rằng vấn đề  quan trọng là người giáo viên bồi dưỡng cần có một quan  
niệm đúng về học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lý nói riêng. Bên cạnh  
đó, cần trả lời cho câu hỏi: “việc bồi dưỡng học sinh giỏi nhằm mục tiêu gì ?” để  từ 
đó người giáo viên bồi dưỡng lựa chọn nội dung, chương trình và phương pháp bồi  
dưỡng sao cho thích hợp và đạt hiệu quả cao nhất.
    Theo Giáo sư  – Tiến sỹ  Nguyễn Viết Thịnh, giảng viên khoa Địa lý Trường  
Đại học Sư phạm Hà Nội, người được ví như  “một trong những cánh chim đầu đàn” 
của ngành khoa học Địa lý kinh tế ­ xã hội Việt Nam và cũng là người có nhiều năm  
tham gia ra đề  thi Cao đẳng, Đại học, thi học sinh giỏi quốc gia môn đia lý cho rằng: 
3


“Học sinh giỏi môn Địa lý chỉ  cần học thuộc là chưa đủ, chưa chính xác vì Địa lý là 
môn khoa học có đối tượng nghiên cứu phong phú, phức tạp. Các hiện tượng địa lý 
không chỉ phân bố trên bề mặt đất mà cả trong không gian và trong lòng đất. Hơn nữa, 
các hiện tượng ấy ở đâu và bao giờ cũng phát sinh, tồn tại và phát triển một cách độc 
lập nhưng lại luôn có quan hệ hữu cơ với nhau. Chính vì vậy, người dạy và học Địa lý  
cần có phương pháp tư  duy, phân tích, xét đoán các hiện tượng địa lý theo quan điểm  
hệ thống”.
 
   Với quan niệm trên, chúng ta hiểu rằng học sinh giỏi môn Địa lý là những học 
sinh phải nắm được những kiến thức cơ  bản của bộ  môn và phải vận dụng được  
những hiểu biết; những kỹ năng địa lý để giải quyết những nội dung cơ bản theo yêu 

cầu của đề bài, của thực tiễn cuộc sống và học sinh giỏi môn Địa lý là những học sinh 
có năng lực độc lập suy nghĩ, vận dụng tốt nhất những kiến thức, kỹ năng chắc chắn  
về địa lý.
Về mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi, có nhiều mục tiêu khác nhau tùy theo quan niệm  
của mỗi giáo viên và tùy theo môn học nhưng dù quan niệm như thế nào chung quy lại 
có những điểm tương đồng:
     ­ Bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lý nói riêng  
nhằm phát triển tư duy ở trình độ cao phù hợp với khả năng trí tuệ của học sinh.
   ­ Bồi dưỡng sự lao động và làm việc một cách sáng tạo.
   ­ Phát triển các phương pháp, kỹ năng và thái độ tự học suốt đời.
   ­ Nâng cao ý thức và khát vọng của học sinh.
   ­ Phát triển phẩm chất lãnh đạo.
   ­ Có ý thức trách nhiệm trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
   Với những mục tiêu đó, chúng ta cũng thấy rằng việc bồi dưỡng học sinh giỏi  
hiện nay của phần lớn giáo viên ít nhiều đã đáp  ứng tương đối đầy đủ  sáu mục tiêu 
trên . Điều này được minh chứng qua kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi của giáo viên vì  
những em đạt giải học sinh giỏi là những em hội đủ các mục tiêu trên.
II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP:
   Trong thực tế, qua một số năm tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý đạt kết  
quả khá khả quan: hàng năm trường đều có học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh bản thân 
luôn bám sát các mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi, đồng thời áp dụng các biện pháp 
cụ thể:
4


1. Xây dựng kế hoạch cụ thể trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi:
   Vào đầu năm học, lãnh đạo nhà trường chỉ đạo mỗi giáo viên bồi dưỡng học 
sinh giỏi ở tất cả các môn phải xây dựng kế hoạch chi tiết. Vì vậy, bản thân cũng đã 
lên kế hoạch cụ thể về: thời gian bồi dưỡng; nội dung; thời lượng; số lượng học sinh  
bồi dưỡng; chỉ tiêu phấn đấu đạt giải … và bản thân đã thực hiện nghiêm túc theo kế 

hoạch. Song song đó, Ban giám hiệu – trực tiếp là đồng chí Phó Hiệu trưởng chuyên  
môn của trường thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở  việc bồi dưỡng học sinh giỏi của 
giáo viên để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của trường đạt được kết quả cao nhất.
2. Chọn đối tượng bồi dưỡng và thường xuyên thực hiện công tác tư tưởng với 
học sinh tham gia bồi dưỡng:
   Như chúng ta đã biết theo quy chế thi học sinh giỏi thì đối tượng được thi học 
sinh giỏi là những học sinh đang học lớp 9 tại trường, có học lực ở học kỳ I của năm 
đang học đạt từ loại khá trở lên, hạnh kiểm đạt loại tốt và trung bình môn thi học sinh  
giỏi đạt từ 8,0 trở lên.
    Những năm qua việc chọn đối tượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý  ở 
trường về cơ bản được nhiều thuận lợi do:
    ­ Đa số  học sinh khối 9 đều có hứng thú và đam mê môn Địa lý. Vì vậy, học 
sinh đăng ký dự thi khá tương đối, bình quân mỗi năm có trên 05 học sinh.
   ­ Số học sinh khối 9 của trường khá đông. Hàng năm, bình quân trường có trên 
150 học sinh khối 9 được bố  trí từ  05 đến 06 lớp. Do đó, sức ép về  vấn đề  chọn số 
lượng học sinh tham gia bồi dưỡng là không đáng kể so với các trường khác.
    ­ Môn Địa lý  ở  trường là môn có truyền thống đạt giải trong các kỳ  thi chọn  
học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh nên cũng thu hút học sinh đăng ký tham gia bồi dưỡng.
    Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi bước đầu đó, trong quá trình bồi dưỡng 
bản thân cũng gặp một số khó khăn từ học sinh (và cũng có thể bắt gặp đối với những 
giáo viên đang bồi dưỡng học sinh giỏi), đó là: 
    ­ Do nhiều nguyên nhân chủ  quan lẫn khách quan nên một số  học sinh có sự  mâu  
thuẫn, chưa thông suốt giữa học sinh giỏi  ở lớp  với học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh bộ 
môn: học sinh nghĩ rằng tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi sẽ   ảnh hưởng đến thành 
tích học  ở  lớp và ngược lại, vì vậy một số  em vẫn tham gia bồi dưỡng nhưng mang  
tính hình thức, thiếu tập trung.    
5


         ­ Do nhận thức của phụ huynh còn hạn chế: bồi dưỡng học sinh giỏi không còn  

thời gian phụ tiếp chuyện gia đình.
   ­ Phải đi học bù, học thể dục, học thêm, tham gia các phong trào khác của lớp,  
trường .v.v.
     Xuất phát  từ  những khó khăn trên,  bản thân đã  thường xuyên động viên,  
khuyến khích và kiên trì phân tích cho học sinh thấy được phải làm như thế nào để đạt  
hiệu quả  cao nhất trong công việc mà vẫn sử  dụng hợp lý quỹ  thời gian. Vì nếu suy 
cho cùng việc bồi dưỡng học sinh giỏi muốn thành công hay thất bại nhờ  vào vai trò  
của người giáo viên – người giáo viên mới gặp những “lực cản” mà buông xuôi thì khó 
có thể thành công. Do đó, có ý kiến cho rằng người giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi  
được ví như đạo diễn của bộ phim, còn học sinh là những diễn viên thực hiện theo ý 
định của đạo diễn, nhưng đạo diễn cũng cần biết quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng  
của diễn viên.
3. Giáo viên bồi dưỡng nên biên soạn tài liệu theo từng chuyên đề  của nội dung 
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý:
     Có thể  cho rằng đây là biện pháp mang tính bền vững đối với công tác bồi 
dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý. Từ  thực tế  kinh nghiệm bồi dưỡng những năm qua 
cho thấy nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý rất phong phú được trải đều ở 
03 khối lớp 6, 8, 9 và ở mỗi khối lớp lượng kiến thức cần truyền đạt cho học sinh là 
vô hạn, giáo viên bồi dưỡng rất khó xác định được nội dung kiến thức nào cần bồi 
dưỡng trước cho học sinh, nội dung nào không quan trọng để  giới hạn, đặc biệt là 
phần Địa lý tự nhiên Việt Nam (khối 8) và Địa lý kinh tế ­ xã hội Việt Nam (khối 9), 
bên cạnh đó trong một vài trường hợp người giáo viên không thể bồi dưỡng kiến thức 
trong sách giáo khoa theo một trình tự cố định hết Bài 1 đến Bài 2, Bài 3 …do  không 
đủ  thời gian hoặc do kiến thức  được sắp xếp theo từng phần, từng chương theo  
phương pháp dàn trải.   Chính vì thế, bản thân đã tiến hành soạn tài liệu riêng theo 
từng chuyên đề của nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi.
   Từ nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi các năm qua theo tôi có các chuyên đề cơ 
bản sau:
   ­ Chuyên đề về Trái đất (khối 6).
   ­ Chuyên đề Địa lý tự nhiên Việt Nam (khối 8).

   ­ Chuyên đề Địa lý kinh tế ­ xã hội Việt Nam (khối 9).
6


   ­ Chuyên đề về Kỹ năng vẽ, phân tích và nhận xét các loại biểu đồ (chủ yếu ở 
khối 9).
   Như vậy, từ các chuyên đề trên giáo viên cần tìm những tài liệu liên quan để 
biên soạn, và thông thường các chuyên đề  này được giảng dạy chuyên sâu hơn  ở 
chương trình Địa lý lớp 12 – Nâng cao (đối với khối 8, 9) và chương trình Địa lý lớp 10  
– Nâng cao (đối với khối 6), hay được tập trung trong các bộ đề thi tốt nghiệp lớp 12,  
thi Cao đẳng, Đại học môn Địa lý. Đối với bản thân, tài liệu biên soạn chủ  yếu dựa  
vào các nguồn:
     ­ Hướng dẫn học và khai thác Atlat Địa lý Việt Nam (Tác giả: GS­TS Lê  
Thông, PGS­TS Nguyễn Minh Tuệ, Vũ Đình Hòa do Nhà  xuất bản Đại học Quốc gia 
Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2008).
    ­ Ôn tập Địa lý theo chủ  điểm (Tác giả: GS­TS Nguyễn Viết Thịnh, PGS­TS  
Đỗ Thị Minh Đức do Nhà xuất bản Đại học Sư phạm xuất bản năm 2005).
   ­ Chuyên đề Địa lý 12: Phần Địa lý tự nhiên ­ dân cư và phần Địa lý kinh tế ­  
xã hội Việt Nam (Tác giả: PGS­TS Nguyễn Đức Vũ do Nhà xuất bản Giáo dục Việt  
Nam xuất bản năm 2009).
   ­ Tuyển chọn những bài ôn luyện thực hành kỹ năng môn Địa lý (Tác giả: Đỗ 
Ngọc Tiến, Phí Công Việt do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2002).
   ­ Một số đề thi học sinh giỏi môn Địa lý cấp THCS, THPT và tốt nghiệp CĐ,  
ĐH (sưu tầm).
   Khi đã biên soạn được tài liệu giáo viên rất thuận lợi trong việc bồi dưỡng cho 
học sinh vì lượng kiến thức đã được định trước, đồng thời hạn chế việc mất thời gian 
và có thể bồi dưỡng theo sở thích của mình.
4. Về nội dung và phương pháp bồi dưỡng: 
         Giáo viên nên bồi dưỡng những chuyên đề  cơ  bản, trọng tâm trước và ưu tiên 
thời lượng cho những chuyên đề  này, hoặc trên cơ  sở  “phán đoán” sở  trường hay sở 

thích của người ra đề  mà có thể  bồi đưỡng trước những chuyên đề  đó (đương nhiên 
điều này chỉ mang ý nghĩa tương đối và thực tiễn những năm qua cho thấy đề thi học  
sinh giỏi thường tập trung vào phần đặc điểm và ảnh hưởng của khí hậu Việt Nam  
đến phát triển kinh tế), hay bản thân thích nhất chuyên đề  nào thì bồi dưỡng trước, 
nhưng không nên bồi dưỡng theo phương pháp từ  thấp lên cao theo hướng: khối 6 → 
khối 8  →  khối 9  →  biểu đồ  vì dễ  mất thời gian nhưng hiệu quả  không cao do các 
7


chuyên đề  có mối liên hệ  với nhau không nhiều (ví dụ: chuyên đề  về  Trái đất với 
chuyên đề về Địa lý tự nhiên Việt Nam) . Theo kinh nghiệm của bản thân, tôi áp dụng 
theo quy trình sau:
   Trước tiên, tôi phát tài liệu biên soạn của cá nhân phần Địa lý kinh tế ­ xã hội 
Việt nam (khối 9) để học sinh tự nghiên cứu vì phần này các em đã và đang được học 
trên lớp do đó giáo viên có điều kiện mở  rộng kiến thức cho học sinh, đồng thời đối 
với học sinh các em cũng có điều kiện khắc sâu kiến thức, nâng cao khả năng tư duy, 
các kỹ  năng địa lý bước đầu cũng được phát triển. Tiếp theo, giáo viên bồi dưỡng  
phần Địa lý tự nhiên (khối 8) và Địa lý về Trái đất (khối 6) vì hai phần này học sinh đã  
được học ở các lớp dưới giáo viên chỉ cần ôn tập lại cho học sinh thông qua nội dung 
đang học ở khối  9. Sau cùng, giáo viên tập trung vào kỹ năng vẽ và nhận xét các loại 
biểu đồ. 
    Cũng cần nói thêm rằng, mỗi giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý 
đều có những điểm giống nhau như: khung chương trình bồi dưỡng, trình độ tay nghề,  
sự nhiệt tình, trình độ học sinh, phương tiện phục vụ bồi dưỡng (Atlat, compa, thước  
đo độ, máy tính …) … nhưng kết quả  đạt được có sự  khác biệt vì mỗi giáo viên có  
hình thức tổ chức và phương pháp bồi dưỡng khác nhau. Sau đây xin trình bày một số 
phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý mà bản thân đã thực hiện trong các  
năm qua.
 a). Sử dụng phương pháp sơ đồ hóa trong bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý:
   Phương pháp sử dụng sơ đồ hay đầy đủ  là phương pháp sử  dụng sơ đồ  Grap 

được sử dụng khá phổ biến trong dạy học Địa lý để thể hiện mối quan hệ nhân ­ quả 
trong địa lý. Do cấu trúc của chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi phân phối trải rộng  
ở 03 khối lớp nhưng giữa các khối lớp có mối liên hệ hữu cơ với nhau theo một trình  
tự, đặc biệt là khối 8 với khối 9. Vì thế, giáo viên bồi dưỡng khi sử dụng sơ đồ Grap  
cần đặt nó trong mối liên hệ mắc xích, không thể tách rời.
   * Cấu tạo của một sơ đồ Grap gồm:
      ­ Các đỉnh: thể hiện bằng các ô vuông chứa đựng các đặc điểm, khái niệm.
      ­ Các nhánh: thể hiện bằng các mũi tên thể hiện các mối liên hệ giữa các yếu  
tố, đối tượng địa lý với nhau.
   * Các kiểu sơ đồ Grap thường dùng:

8


      ­ Grap chứng minh hay giải thích: dùng để thể hiện, phản ánh nội dung bài  
dạy một cách trực quan nhất.
           ­ Grap tổng hợp: dùng để  tổng hợp, ôn tập, tổng kết hay hệ  thống một  
chương, một phần kiến thức các bài học.
      ­ Grap kiểm tra, đánh giá: dùng để  phản ánh năng lực tiếp thu sự  hiểu biết  
của học sinh, đồng thời giúp giáo viên kịp thời điều chỉnh nội dung truyền đạt.
   * Cách sử dụng sơ đồ Grap: 
      ­ Giáo viên vừa giảng bài, tổ chức cho học sinh tìm ra kiến thức và các mối  
liên hệ chủ yếu vừa xây dựng sơ đồ Grap. Kết thúc buổi bồi dưỡng thì việc xây dựng  
sơ  đồ  cũng hoàn thành và nội dung bồi dưỡng (nội dung bài học) được thể  hiện một 
cách trực quan bằng sơ đồ.
       ­ Giáo viên có thể  xây dựng sẵn sơ đồ  câm và đặt câu hỏi hướng học sinh  
phân tích các mối quan hệ trên sơ đồ để giải thích nội dung học tập đồng thời có các 
ví dụ cụ thể để chứng minh.
      ­ Giáo viên cũng có thể xây dựng sơ đồ câm kết hợp với các phiếu học tập 
đã chuẩn bị  trước rồi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm tìm ra kiến thức. Cuối cùng, 

giáo viên khẳng định lại vấn đề  đúng sai và học sinh tự  hoàn thiện sơ  đồ  trên cơ  sở 
kiến thức tìm được.  
   * Ưu điểm của phương pháp sử dụng sơ đồ Grap:
      Việc sử dụng sơ đồ Grap đã được thực hiện khá lâu trong dạy học địa lý do 
có nhiều ưu điểm nổi bật và thật sự nổi bật hơn trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn  
toàn ngành đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin thông qua vẽ bản đồ tư duy trong 
dạy học và thực chất của việc vẽ bản đồ tư duy chính là phương pháp sử dụng sơ đồ 
Grap trong dạy học địa lý. Phương pháp này có những ưu điểm:
       ­ Hạn chế việc mất thời gian của giáo viên so với phương pháp dạy từng 
tiểu mục, từng phần.
       ­ Học sinh có thể  mở  rộng, đào sâu kiến thức, nhất là các kiến thức mang  
tính tổng quan, khái quát.
       ­ Giúp học sinh đễ  nhớ  và khắc sâu kiến thức bằng thói quen tư  duy logic  
thông qua sơ đồ.
      ­ Học sinh hứng thú học tập bộ môn.
9


   * Một số ví dụ cụ thể:
    ­ Câu 1: Bằng những kiến thức đã học hãy trình bày các vận động chính của 
Trái đất và hệ quả của nó.
    ­ Câu 2: Khí hậu nước ta có những đặc điểm gì ? Từ  những đặc điểm đó có  
thuận lợi và khó khăn gì cho phát triển kinh tế của nước ta ?
   ­ Câu 3: Hãy chứng minh rằng Việt Nam là nước có tiềm năng đa dạng, phong  
phú để phát triển du lịch.
   ­ ……
   Với các câu hỏi mang tính tổng hợp như trên, học sinh giỏi môn địa lý không  
thể học thuộc lòng mà thông qua các phương pháp tư duy (so sánh, phân tích, tổng hợp, 
hệ  thống hóa, khái quát hóa) và kết hợp vận dụng các kỹ  năng địa lý dưới sự  hướng 
dẫn của giáo viên phải trình bày đầy đủ và chính xác yêu cầu của đề bằng con đường  

ngắn nhất là vẽ sơ đồ Grap.
   

­  Câu 1 

  Trái đất

Tự quay quanh trục 

                                                             

Chuyển động quanh mặt 
trời 
                                              

10


Thời gian
   Hướng
  Vận tốc
Thời gian
   Hướng
 Trục nghiêng
………….
………….
………….
………….
………….
………….

………….
………….
………….
………….
………….
………….
                                                                                                                                      
………….
………….
………….
………….
………….
………….

 

           Hệ quả

      

Ngày đêm 
kế tiếp 
nhau­

Giờ khác 
nhau ở 
các nơi

            Hệ quả 


Lệch 
hướng vật 
chuyển 

Mùa trên 
trái đất

­ 

­ Câu 2:
  Khí hậu Việt Nam

11

Ngày đêm 
dài ngắn 
theo mùa

Các vành 
đai nhiệt 
trên trái đất


  Nhiệt đới ẩm gió mùa

Nhiệ
t đới
……
……
……

……

 Ẩm
……
……
……
……
……

   Phân hóa đa dạng

Gió 
mùa
……
……
……
……

Theo 
mùa
……
……
……
……

Thuận lợi:
…………………………
Khó khăn:
…………………………
…………………………


 ­ Câu 3:

Vườ

quốc 
gia
……
……

Tây 
Đông
……
……
……
……

Thuận lợi:
…………………………
Khó khăn:
…………………………
…………………………

Nhiệ
t độ
……
……
……
……


Lượng 
mưa
……
……
……
……

Khó khăn
……………………
……………………
……………………

Tài nguyên du lịch

  Tài nguyên du lịch tự nhiên

Di
sản 
thiên 
nhiên
……
……

Bắc 
Nam
……
……
……
……


           Thất thường

Hang 
động
……
……
……
……

Bãi 
biển
……
……
……
……

Thắng 
cảnh
……
……
……
……

  Tài nguyên du lịch nhân văn

Di
sản 
văn 
hóa
12

……
……

Di 
tích 
lịch 
sử
……
……

Lễ 
hội
……
……
……
……

Làng 
nghề
……
……
……
……

Ẩm 
thực
……
……
……
……



   
   Như vậy, sau khi có được nội dung của đề bài vấn đề đặt ra là học sinh phải 
tạo được sơ đồ cho từng câu hỏi và dựa vào sơ đồ đó học sinh thuyết trình sơ đồ bằng 
ngôn ngữ  viết vào bài làm kết hợp với quá trình khai thác kiến thức từ  Atlat Địa lý  
Việt Nam.
b). Sử dụng Atlat Địa lý Việt Nam trong bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý:
    Đa số  giáo viên giảng dạy địa lý nói chung và giáo viên bồi dưỡng học sinh 
giỏi nói riêng đều cố  gắng rèn luyện cho học sinh những kỹ  năng cần thiết để  khai  
thác kiến thức từ  bản đồ  và Atlat địa lý và thông thường chúng ta tiến hành theo các  
bước sau:
   ­ Bước 1: Nắm vững các ký hiệu chung ở trang bìa của Atlat.
   ­ Bước 2: Tùy theo yêu cầu của câu hỏi mà người sử dụng Atlat lựa chọn một  
trang hay nhiều trang atlat khác nhau, đồng thời các trang atlat này có mối liên hệ chặt  
chẽ với nhau nên phải nắm vững các ký hiệu riêng ở từng trang atlat.
   ­ Bước 3: Thông qua các thao tác tư duy người giáo viên hướng dẫn học sinh 
tìm vị  trí của đối tượng trên bản đồ  và tiến hành mô tả  đối tượng (hình dáng, kích 
thước, quy mô, màu sắc), cuối cùng xác định các mối liên hệ  giữa các đối tượng trên 
bản đồ để giải thích, làm sáng tỏ vấn đề.
    Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của bản thân thì đây là các bước khai thác atlat 
theo phương pháp chung nhất mà người giáo viên dạy địa lý nào cũng phải thực hiện,  
nhưng đối với giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi môn địa lý ngoài các bước khai thác 
chung cần có các bước khai thác riêng. Nói cách khác để  học sinh khai thác có hiệu 
quả  kiến thức từ  Atlat địa lý người giáo viên phải nắm vững các phương pháp biểu  
hiện các đối tượng địa lý trên bản đồ.
13


   Atlat Địa lý Việt Nam hiện nay có các phương pháp biểu hiện chủ yếu sau:

   ­ Phương pháp ký hiệu: hình học, chữ, tượng hình.
     ­ Phương pháp ký hiệu đường chuyển động như  : hướng gió, dòng biển, 
đường giao thông …
    ­ Phương pháp chấm điểm như  : điểm dân cư, quy mô đô thị, trung tâm công 
nghiệp …
   ­ Phương pháp khoanh vùng như: bãi cá, bãi tôm, phân bố các dân tộc …    
    ­ Phương pháp bản đồ  ­ biểu đồ: dùng biểu đồ  đặt vào phạm vi của đơn vị 
lãnh thổ  như: biểu đồ  thể  hiện diện tích và sản lượng lúa của An Giang và các tỉnh 
khác ở đồng bằng sông Cửu Long …
   ­ Phương pháp nền chất lượng (phương pháp thang màu).
    Các phương pháp biểu hiện trên được thể  hiện  ở  các trang bản đồ  của Atlat  
trong hai phần chính của chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi môn địa lý là: phần địa 
lý tự nhiên và phần địa lý kinh tế ­ xã hội, trong đó: 
   ­ Phần Địa lý tự nhiên Việt Nam sử dụng các phương pháp biểu hiện chủ yếu  
là: phương pháp thang màu, phương pháp ký hiệu và phương pháp ký hiệu đường 
chuyển động.
    ­ Phần Địa lý kinh tế  ­ xã hội Việt Nam sử  dụng các phương pháp chủ  yếu  
như: phương pháp bản đồ ­ biểu đồ và phương pháp ký hiệu.
    Thế  thì vì sao người giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi môn địa lý phải nắm 
vững các phương pháp biểu hiện các đối tượng địa lý trên Atlat ? 
Vì: các đối tượng địa lý trên bề mặt đất thông qua các phương pháp biểu hiện đã hàm 
chứa một kho kiến thức đồ sộ về địa lý nước nhà chứ không đơn thuần là một ký hiệu 
sơ cứng: trong ký hiệu có kiến thức và kiến thức thể hiện qua ký hiệu.
     Khi bồi dưỡng cho học sinh về  địa lý của một ngành kinh tế  hay một vùng  
kinh tế nào đó, học sinh không thể học thuộc lòng một cách “máy móc” các số liệu hay 
đọc “thao thao” về sự phân bố, mà bắt buộc học sinh phải khai thác kiến thức từ atlat  
kết hợp với các thao tác tư duy đồng thời phải nắm được mối liên hệ lôgic của chúng.

14



       Như  vậy,  ở  đây người giáo viên bồi dưỡng phải hướng dẫn học sinh nắm 
được mối liên hệ  lôgic của địa lý ngành kinh tế  hoặc vùng kinh tế. Qua thực tế, tôi 
thấy địa lý một ngành kinh tế có mối liên hệ như sau: 
          ­ Vai trò của ngành kinh tế đối với sự phát triển kinh tế­xã hội của đất nước.
          ­ Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố của ngành kinh tế.
          ­ Tình hình phát triển và phân bố của ngành. (thông thường được thể hiện đầy 
đủ trong Atlat qua các biểu đồ và thang màu)
          ­ Phương hướng, giải pháp phát triển của ngành trong thời gian tới.
          Ví dụ: Đối với câu hỏi: Bằng những kiến thức đã học hãy trình bày tình hình  
phát triển và phân bố ngành thủy sản ở nước ta. Vì sao nước ta có thế mạnh để phát  
triển ngành thủy sản.
     Với câu hỏi này người giáo viên bồi dưỡng phải hướng dẫn học sinh nắm  
được mối liên hệ lôgic của địa lý ngành thủy sản và hướng dẫn học sinh khai thác từ 
Atlat Địa lý Việt Nam:
     *  Tình hình phát triển và phân bố  ngành thủy sản  ở  nước ta:   sử  dụng atlat 
trang 20
   Toàn bộ trang Atlat (phần thủy sản) chỉ sử dụng hai phương pháp biểu hiện là:  
phương pháp bản đồ – biểu đồ và phương pháp nền chất lượng, trong đó:
   ­ Phương pháp bản đồ ­ biểu đồ có biểu đồ sản lượng thủy sản của cả nước 
qua các năm từ năm 2000 đến năm 2007, biểu đồ sản lượng thủy sản của các tỉnh năm  
2007 được đặt trong bản đồ 63 tỉnh, thành của Việt Nam.
    ­ Phương pháp nền chất lượng: có 06 thang màu thể  hiện 06 mức giá trị  sản  
xuất thủy sản trong tổng giá trị sản xuất nông­lâm­thủy sản ở 63 tỉnh, thành (từ  dưới 
5% đến trên 50%)
   Như vậy, trước tiên người giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh biết được 
có những phương pháp biểu hiện địa lý nào trên Atlat, từ  những phương pháp biểu  
hiện đó xác định có những đối tượng địa lý nào được biểu hiện. Tiếp theo, hướng dẫn  
học sinh chuyển số liệu từ biểu đồ sản lượng thủy sản của cả nước từ năm 2000 đến  
năm 2007 trên Atlat thành bảng số liệu sau:


15


    Bảng: Sản lượng thủy sản của nước ta từ năm 2000 đến năm 2007. Đơn vị: 
nghìn tấn.
   
Năm

         Tổng số

        Khai thác

       Nuôi trồng

2000

         2250,5

         1660,9

           589,6

2005

         3474,9

         1987,9

         1487,0


2007

         4197,8

         2074,5

         2123,3

   
   Tiếp theo, học sinh căn cứ vào bảng số liệu (cột dọc, cột ngang) rút ra những  
nhận xét cần thiết nhất.
   *Về  phân bố thủy sản: giáo viên hướng dẫn học sinh xem chú giải riêng của 
trang Atlat để trình bày. Kết quả có được là:
   ­ Khai thác: tập trung nhiều ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bà Rịa­ Vũng Tàu,  
Bình Thuận.
   ­ Nuôi trồng: tập trung chủ yếu ở các tỉnh Cà Mau, An Giang, Bến Tre.
     ­ Những tỉnh trọng điểm về  ngành thủy sản tập trung  ở  hai vùng là: Đồng  
bằng sông Cửu Long và Duyên hải Nam Trung Bộ  (học sinh xem 06 thang màu)
* Vì sao nước ta có thế mạnh phát triển ngành thủy sản:
    Giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức đã học (các nhân tố   ảnh 
hưởng đến sự phát triển và phân bố ngành kinh tế) kết hợp với khai thác kiến thức ở 
Atlat trang 20 để giải thích.
   Trên đây là một ví dụ  tiêu biểu về khai thác kiến thức từ Atlat. Ngoài ra, đối  
với câu hỏi trên, giáo viên bồi dưỡng có thể  áp dụng với những ngành kinh tế  khác 
như: ngành chăn nuôi, cây công nghiệp, lúa (Atlat trang 19); lâm nghiệp – thủy sản  
(Atlat trang 20); các ngành công nghiệp (trang 21); thương mại (trang 24); du lịch (trang  
25); 07 vùng kinh tế (các trang còn lại của Atlat).    
   Bên cạnh phần Địa lý kinh tế ­ xã hội là phần Địa lý tự nhiên, qua kinh nghiệm  
bồi dưỡng, tôi thấy các thành phần tự  nhiên của thiên nhiên Việt Nam như: địa hình  

(Atlat trang 6, trang 7); khí hậu (Atlat trang 9); sông ngòi (trang 10); đất (trang 11); thực  
16


– động vật (trang 12) và các miền tự nhiên (trang 13; 14) được thể hiện chủ yếu bằng 
phương pháp ký hiệu, phương pháp ký hiệu đường chuyển động và phương pháp 
thang màu. Do đó, giáo viên cần tập trung hướng dẫn học sinh phân tích thang màu 
cùng các ký hiệu chung và ký hiệu riêng ở các trang Atlat nói trên kết hợp với việc sử 
dụng sơ đồ Grap như đã trình bày thì đã làm sáng tỏ được yêu cầu của đề bài. 
c). Giáo viên bồi dưỡng phải hình thành các kỹ năng về biểu đồ trong bồi dưỡng  
học sinh giỏi môn Địa lý:
    Trong nội dung thi học sinh giỏi môn địa lý cấp trung học cơ  sở  có các dạng  
biểu đồ sau:
   ­ Biểu đồ tròn.
   ­ Biểu đồ cột (đơn, ghép, thanh ngang, cột chồng).
   ­ Biểu đồ đường.
   ­ Biểu đồ kết hợp cột với đường.
   ­ Biểu đồ miền.
   Qua thực tế bồi dưỡng, vấn đề  khó nhất đối với việc hình thành các kỹ  năng 
về biểu đồ cho học sinh là kỹ năng lựa chọn được biểu đồ thích hợp nhất,  còn các kỹ 
năng khác như:
tính toán ­ xử lý số  liệu; kỹ  năng vẽ, phân tích và nhận xét các loại biểu đồ  đa phần 
học sinh đều vận dụng thành thạo. Do đó, xin được chia sẻ  về  kỹ  năng làm sao lựa  
chọn được biểu đồ thích hợp nhất.
    Các loại biểu đồ  rất phong phú, đa dạng. Mỗi loại biểu đồ  lại có thể  được  
dùng để  biểu hiện nhiều mục đích khác nhau. Vì vậy, khi lựa chọn biểu đồ  cần vẽ 
việc đầu tiên là học sinh phải đọc kỹ  câu hỏi, xem câu hỏi yêu cầu vẽ  biểu đồ  gì. 
Đây là căn cứ quan trọng nhất. Tuy nhiên, đối với học sinh giỏi thì yêu cầu về mức độ 
tư duy có cao hơn, nên trong những năm qua đề bài không yêu cầu vẽ dạng biểu đồ cụ 
thể.

    Ví dụ: Dựa vào bảng số  liệu trên hãy vẽ  biểu đồ  tròn thể hiện quy mô và cơ  cấu  
các nhóm đất chính ở nước ta năm 2000 và 2005 – với yêu cầu như trên thì không kích 

17


thích được quá trình tư  duy, đồng thời không phân hóa được học sinh, chưa thể  hiện 
được năng lực độc lập suy nghĩ và sáng tạo khi vẽ biểu đồ.
         Tuy vậy, giáo viên và học sinh cũng cần lưu ý: nếu đề bài yêu cầu vẽ dạng biểu  
đồ cụ thể thì bắt buộc phải đáp ứng theo yêu cầu của đề bài. 
    Ví dụ: Qua bảng số liệu trên hãy vẽ biểu đồ tròn thể hiện sự chuyển dịch cơ cấu  
khách du lịch  ở  nước ta qua các năm 2001, 2003, 2005, 2007, 2009: như  vậy rõ ràng 
rằng đề  bài yêu cầu vẽ  biểu đồ  tròn ( ta hiểu ngầm là 05 biểu đồ), thế  nhưng trong 
một số trường hợp học sinh lại vẽ biểu đồ miền, và điều đó đồng nghĩa với việc học 
sinh không đọc kỹ yêu cầu của câu hỏi và làm trái yêu cầu của đề.
   Như trên đã trình bày, đối với học sinh giỏi thì yêu cầu về mức độ tư duy có cao hơn 
học sinh bình thường, do đó trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh đề bài 
thường yêu cầu:  “hãy vẽ  biểu đồ  thích hợp thể  hiện…”  hay  “hãy vẽ  biểu đồ  thích  
hợp nhất thể  hiện…”.  Ở  đây, đề  bài không nói rõ dạng biểu đồ  cần vẽ, vì vậy giáo  
viên hướng dẫn học sinh phân tích kỹ câu hỏi và bước tiếp theo yêu cầu học sinh xác 
định được chức năng của các dạng biểu đồ. 
   Mỗi dạng biểu đồ có chức năng không giống nhau. Căn cứ vào chức năng của  
biểu đồ kết hợp với yêu cầu của câu hỏi trong đề  bài phần nào học sinh sẽ  lựa chọn  
được dạng biểu đồ thích hợp hay thích hợp nhất. Từng dạng biểu đồ có các chức năng 
cơ bản sau:
   ­ Biểu đồ cột (đứng, ghép, thanh ngang): thể hiện quy mô, độ lớn, khối lượng,  
tình hình phát triển.
   ­ Biểu đồ cột chồng: thể hiện tương quan về quy mô, độ lớn, khối lượng, tình 
hình phát triển, cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu.
   ­ Biểu đồ đường: thể hiện tình hình phát triển của đối tượng địa lý theo thời 

gian.
   ­ Biểu đồ tròn: thể hiện cơ cấu và quy mô của đối tượng, chuyển dịch cơ cấu  
( từ 02 đến 03 biểu đồ).     
    ­ Biểu đồ  miền: thể  hiện cơ  cấu của đối tượng, chuyển dịch cơ  cấu (nhiều 
năm).
     ­ Biểu đồ  kết hợp cột và đường: thể  hiện quy mô, độ  lớn, khối lượng và 
tương quan giữa các đối tượng.
   Qua chức năng của các dạng biểu đồ, giáo viên hướng dẫn học sinh như sau: 
18


   → Nếu yêu cầu của đề có cụm từ: hãy vẽ biểu đồ thích hợp nhất thể hiện “sự phát 
triển”, “tăng trưởng”, “tốc độ tăng” … thì vẽ biểu đồ đường.
   → Có cụm từ: “cơ cấu” liên quan đến biểu đồ tròn, “chuyển dịch cơ cấu” liên quan 
đến biểu đồ miền.
  Sau khi căn cứ vào yêu cầu của câu hỏi cũng như căn cứ vào chức năng của các dạng  
biểu đồ nhưng học sinh vẫn chưa chắc chắn, cuối cùng giáo viên hướng dẫn học sinh  
căn cứ vào bảng số liệu theo quy ước sau:
   ­ Đối với bảng số liệu thể hiện thời gian theo khoảng cách (1995­ 2000; 2000­ 2005;  
2005­2010;…) thì không vẽ được biểu đồ đường vì biểu đồ đường chỉ  được vẽ  trong  
trường hợp thời gian được thể hiện theo thời điểm (2000, 2002, 2004, 2006, 2008 …).
   ­ Đối với bảng số liệu thể hiện theo giá thực tế (đơn vị: tỷ đồng) thì không vẽ được 
biểu đồ  cột vì các cột chênh lệch nhau về  độ  cao rất lớn và không so sánh với nhau  
được giá trị theo thời gian vì giá thực tế khác nhau.
   ­ Đối với bảng số liệu có thể vẽ được cả biểu đồ cột chồng và biểu đồ miền  
thì căn cứ vào mốc thời gian để chọn một loại biểu đồ  thích hợp nhất: nếu mốc thời 
gian ít (chẳng hạn 3 
năm) thì vẽ  biểu đồ  cột chồng; nếu mốc thời gian nhiều (thông thường từ  4 năm trở 
lên) thì vẽ biểu đồ miền (để đảm bảo tính trực quan của biểu đồ).
   ­ Đối với bảng số liệu có thể vẽ được cả biểu đồ  tròn và biểu đồ  cột chồng  

thì cũng căn cứ vào mốc thời gian để chọn một loại biểu đồ thích hợp nhất: nếu mốc  
thời gian ít (thông thường 2 năm) thì vẽ biểu đồ tròn; nếu mốc thời gian nhiều (thông 
thường từ 3 năm trở lên) thì vẽ biểu đồ cột chồng. 
    ­ Đối với bảng số  liệu yêu cầu vẽ  biểu đồ  kết hợp, cần xác định đúng loại  
biểu đồ  phù hợp với từng loại chỉ  tiêu trong bảng. Ví dụ: bảng số  liệu yêu cầu vẽ 
biểu đồ kết hợp cột với đường thì cần xác định chỉ tiêu nào cần thể hiện theo đường,  
chỉ  tiêu nào cần thể  hiện theo cột (Biểu đồ  thể  hiện nhiệt độ  và lượng mưa: đường 
biểu diễn thể hiện nhiệt độ, hình cột thể hiện lượng mưa), hay bảng số liệu yêu cầu  
vẽ  biểu đồ  kết hợp cột chồng và đường thì cũng cần xác định chỉ  tiêu nào được thể 
hiện bằng cột chồng, chỉ tiêu nào được thể  hiện bằng đường (Biểu đồ  khách du lịch 
và doanh thu từ du lịch ở atlat trang 25.
   ­ Trong bảng số liệu có cụm từ  “chia ra”, “phân ra”, “trong đó”,… thì liên hệ 
đến các biểu đồ thể hiện cơ cấu (tròn, cột chồng, miền).
19


   ­ Trong bảng số liệu có hai hoặc ba đối tượng với hai đại lượng khác nhau, có 
mối quan hệ hữu cơ với nhau thì vẽ biểu đồ kết hợp.
    ­ Đối với bảng số liệu mà thời gian cho một năm, hay nhiều năm thì: trường 
hợp cho 1 năm không vẽ  được biểu đồ  đường, 2 năm vẽ  được biểu đồ  tròn hay cột 
chồng, 4 năm trở lên vẽ biểu đồ miền.
   Nhìn chung, qua các căn cứ  để lựa chọn dạng biểu đồ  thích hợp vừa nêu trên 
phần lớn học sinh do bản thân bồi dưỡng đã vận dụng thành thạo các căn cứ  để   có 
thể lựa chọn được biểu đồ thích hợp. Tuy vậy, khi vẽ bất kỳ dạng biểu đồ nào người  
giáo viên cũng phải đảm bảo được 3 yêu cầu:
   ­ Khoa học (chính xác, không được sai số).
   ­ Trực quan (rõ ràng, dễ đọc).
   ­ Thẩm mỹ (đẹp). 
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
       Từ năm học 2005 – 2006 đến năm học vừa qua 2010 – 2011 bản thân đã thực hiện  

các biện pháp đã nêu trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý khối 9 và kết quả 
đạt được là khả quan: hàng năm trường đều có học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh môn  
Địa lý. Cụ thể theo bảng số liệu sau:
                 Số học sinh đạt giải
         Năm học

Số  học sinh dự          Cấp huyện
thi

          Cấp tỉnh

     2005 ­ 2006

             05

               05

             04

     2006 ­ 2007

             05

               02

             02

     2007 ­ 2008

                  Ngành không tổ chức thi học sinh giỏi


     2008 ­ 2009

             10

               08

20

              /


     2009 ­ 2010

             03

               01

              /

     2010 ­ 2011

             03

               03

             02

C/­ PHẦN KẾT LUẬN:
I. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

   
   Từ  những kết quả đã đạt được trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi những năm  
qua, bản thân đúc kết được những kinh nghiệm sau:
    ­ Thứ  nhất, người giáo viên cần xây dựng kế  hoạch cụ  thể  trong việc bồi dưỡng  
học sinh giỏi vì qua kinh nghiệm bản thân thấy rằng: kế hoạch vừa là kim chỉ nam cho 
người giáo viên thực hiện, đồng thời vừa là động lực để người giáo viên phấn đấu tốt  
hơn trong quá trình bồi dưỡng. Hơn thế  nữa, thông qua kế  hoạch còn được lãnh đạo 
nhà trường kịp thời động viên, khuyến khích, tháo gở những khó khăn khi bồi dưỡng, 
và điều này đồng nghĩa với việc lãnh đạo nhà trường đã thể  hiện sự  quan tâm đến  
việc bồi dưỡng học sinh giỏi của giáo viên. Đây chính là một trong những nguyên nhân 
dẫn đến thành công trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
    ­ Thứ  hai, người giáo viên phải thật sự  có tâm huyết với công tác bồi dưỡng học 
sinh giỏi.Từ  sự  tâm huyết, nhiệt tình đó người giáo viên mới có thể  từng bước thực 
hiện công việc bồi dưỡng như: biên soạn tài liệu, chọn phương pháp bồi dưỡng hay 
san sẻ những khó khăn của học sinh trong quá trình bồi dưỡng (kể cả khó khăn từ phía 
gia đình, khó khăn trong học tập của các em) … chỉ  có như  thế  mới mang lại thành 
công cho giáo viên bồi dưỡng.
   ­ Thứ ba, người giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi phải có tinh thần tự học suốt đời,  
không ngừng tìm tòi, học tập, nghiên cứu tài liệu, cập nhật những kiến thức, thông tin 
trên tất cả các lĩnh vực qua báo, đài, Internet, thực tiễn cuộc sống … để  phục vụ cho  
việc bồi dưỡng.
   Tuy nhiên, với vai trò là người giáo viên bồi dưỡng bản thân chưa thật sự  hài lòng  
với kết quả trên vì tuy hàng năm có học sinh đạt giải cấp huyện, tỉnh nhưng số lượng  
học sinh đạt giải chưa nhiều. Do vậy, trong những năm học tiếp theo bản thân sẽ 
21


không ngừng tổng kết, rút kinh nghiệm, không ngừng học hỏi để  công tác bồi dưỡng  
học sinh giỏi ngày càng ổn định, phát triển theo hướng bền vững.
II. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:   

     Với những kết quả  trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi những năm qua đã 
mang lại nhiều ý nghĩa hữu ích, thiết thực cho bản thân nói riêng và cho học sinh, tổ 
chuyên môn, trường, ngành nói chung.
   ­ Đối với tổ chuyên môn, trường và ngành: từ kết quả trên góp phần nâng cao 
chất lượng giảng dạy của tổ, của trường và đóng góp nhỏ bé vào thành tích chung cho 
tổ, trường nói riêng và phong trào bồi dưỡng học sinh giỏi của huyện nói chung.
   ­ Đối với bản thân: thông qua việc bồi dưỡng học sinh giỏi có điều kiện thuận 
lợi để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; trau dồi, học hỏi mở rộng  thêm kiến 
thức, đồng thời với thành tích trên đã tạo nền tảng vững chắc để bản thân tiếp tục bồi  
dưỡng học sinh giỏi trong những năm tiếp theo mà trước mắt là năm học 2011 – 2012 .
   ­ Đối với học sinh: học sinh hứng thú học tập môn Địa lý và ngày càng tích cực 
hơn trong quá trình giảng dạy chính khóa trên lớp. Ngoài ra, các em còn thực hiện 
thành thạo những kỹ năng địa lý khi được học lên bậc trung học phổ thông, và nhiều 
học sinh giỏi môn Địa lý  ở  lớp 9 tiếp tục được bồi dưỡng trong đội tuyển học sinh 
giỏi môn Địa lý lớp 12.
III. PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA ĐỀ TÀI:
   Qua một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý khối 9 của bản 
thân tin tưởng rằng quý thầy; cô đã, đang và sẽ  bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và 
môn Địa lý nói riêng, đặc biệt là quý thầy cô đang công tác ở  vùng sâu, vùng xa, biên 
giới như huyện An Phú có thể xem đây là một tài liệu tham khảo, một kênh thông tin  
hữu ích để  phục vụ  cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi để  tô thắm thêm kết quả  bồi 
dưỡng học sinh giỏi, góp phần làm rạng rỡ thêm thành tích dạy và học của ngành giáo 
dục huyện nhà An Phú thân yêu nói riêng và quê hương An Giang nói chung.
IV. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT:

22


   ­ Hàng năm, ngành cần mở  các lớp tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ môn  
Địa lý cho tất cả giáo viên đang dạy Địa lý vì thông qua các lớp tập huấn, đặc biệt là  

tập huấn về chuyên môn mỗi giáo viên có cơ  hội học tập, tiếp thu được nguồn kiến  
thức mới, bổ  ích phục vụ  cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi mà năm học 2010 –  
2011 vừa qua là một điển hình. (tháng 10/2010 Sở  mời PGS – TS Nguyễn Đức Vũ 
thuộc Đại học Huế về tập huấn chuyên môn cho giáo viên dạy Địa lý cấp THCS).
    ­ Cần tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh đạt thành tích trong các kỳ  thi  
chọn học sinh giỏi được đi tham quan để nâng cao kiến thức thực tế.
     ­ Các chế  độ  khen thưởng và hình thức khen thưởng đối với giáo viên bồi 
dưỡng và học sinh đạt giải cần kịp thời và đa dạng hơn. Qua đó, động viên, khích lệ 
kịp thời tinh thần giáo viên và học sinh nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học  
tập.
Đa Phước ngày 26 tháng 10 năm 2011
Người viết
 LÊ PHẠM DUY LIÊN

23



×