Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

SKKN hướng tiếp cận tác phẩm kịch theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.49 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thể loại là một trong những phạm trù cơ bản của văn học, liên quan mật
thiết đến chủ thể sáng tác và quá trình sáng tạo tác phẩm, đến người đọc và quá
trình tiếp nhận; đồng thời thể loại còn là một phương diện quan trọng trong tiến
trình văn học ở mỗi nền văn học dân tộc và văn học thế giới.
Đọc, tiếp nhận và phân tích tác phẩm văn học cũng không thể không quan
tâm đến đặc điểm thể loại của tác phẩm. Bởi thể loại chính là một cơ sở tạo nên
tính thống nhất chỉnh thể của tác phẩm, qui định cách tổ chức, liên kết các yếu tố
nội dung và hình thức. Thể loại còn định hướng cho việc tiếp nhận của độc giả,
tạo nên một kênh giao tiếp giữa người đọc và tác phẩm.
Trong chương trình môn Ngữ văn THCS và THPT được xây dựng mới, thể
loại là một trục chính để sắp xếp hệ thống văn bản đưa vào chương trình và sách
giáo khoa. Vì thế, tri thức về thể loại văn học, về tiến trình thể loại, kỹ năng đọc –
hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại là những yêu cầu rất quan trọng phải đạt
được trong hoạt động dạy và học văn ở THCS và THPT.
Kịch là một thể loại văn học đặc biệt. Nó giữ một vị trí quan trọng trong kho
tàng thể loại văn học thế giới. Để cảm thụ và giảng dạy các tác phẩm văn học kịch
trong nhà trường phổ thông là một vấn đề được rất nhiều người quan tâm.
Để giúp cho việc tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm văn học kịch trong nhà
trường một cách thuận lợi và khoa học. Người nghiên cứu lựa chọn đề tài:
“Hướng tiếp cận tác phẩm kịch theo đặc trưng thể loại”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu, người nghiên cứu nhận thấy vấn đề thể loại văn học
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu nổi tiếng. Tuy nhiên
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể hướng tiếp cận tác phẩm văn
học văn học kịch theo đặc trưng thể loại.
3. Mục đích nghiên cứu, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu.
- Mục đích: Đề tài không thiên về lý thuyết thể loại nên chỉ dừng lại ở những
1



tri thức cơ bản, dựa vào những tài liệu lý luận văn học quen thuộc. Nghiên cứu đề
tài này người nghiên cứu mong muốn đưa đến một hướng tiếp cận tác phẩm văn
học kịch mới khoa học và phù hợp với trình độ tiếp nhận của học sinh THPT.
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp loại hình thống kê
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh

2


PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
1. Kịch là một thể loại văn học.
Kịch tồn tại song song với hai thể loại văn học khác là tự sự và trữ tình.
Nghĩa là kịch bản văn học vừa thuộc nghệ thuật sân khấu, lại vừa thuộc nghệ
thuật ngôn từ. Nó giống như có hai cộc sống. Là vở diễn sân khấu, nó sống với
công chúng khán giả. Là tác phẩm văn học, nó sốn với công chúng độc giả. Dĩ
nhiên, không phải ngay từ đầu, kịch bản đã có đời sống văn học độc lập với đời
sống sân khấu. Trải qua một thời gian dài, kịch bản mới tham gia vào đại gia đình
văn học nghệ thuật. Hiện nay, nhiều khi người ta coi trọng phẩm chất văn học của
kịch bản hơn cả phẩm chất sân khái của nó. Tuy nhiên, về nguyên tắc, không có
sự đối lập giữa “kịch để diễn” và “kịch để đọc”. Sân khấu vẫn là mảnh đất sinh
sống phù hợp nhất của tất cả các thể loại kịch bản. Cho nên, có thể bàn về đặc
trưng của kịch bản như một thể loại văn học, nhưng muốn xác định đặc trưng thể
loại của kịch bản văn học lại phải tính đến sự chi phối của nghệ thuật sân khấu.
Kịch được coi là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, vừa thuộc về sân khấu
vừa thuộc về văn học. Để đến được với công chúng trong tư cách một vở diễn,
kịch đòi hỏi sự tham gia của nhiều người : đạo diễn, diễn viên, hoạ sĩ thiết kế mỹ

thuật, nhạc công, người phụ trách ánh sáng, âm thanh. Trong tư cách là một tác
phẩm văn học, kịch tồn tại dưới dạng kịch bản văn học, độc giả có thể cảm thụ
bằng việc đọc.
2. Cốt truyện kịch tập trung cao độ.
Tính tập trung cao độ biểu hiện trước hết ở các bộ phận cấu thành cốt
truyện kịch. Có rất nhiều bộ phận, thành phần tham gia vào việc cấu thành cốt
truyện của tác phẩm tự sự. Lấy hệ thống sự kiện, biến cố làm nền tảng, cốt truyện
của tác phẩm tự sự còn bao gồm cả phần chân dung tính cách các nhân vật. Các
thành phần ngoài cốt truyện như những đoạn trử tình ngoại đề, những đoạn miêu
tả thiên nhiên, hoàn cảnh, hay miêu tả đò vật, nội thất cũng có một vị trí vô cùng
quan trọng trong kết cấu của tác phẩm tự sự. Tác phẩm kịch, dĩ nhiên, không thể
3


có những thành phần ngoài cốt truyện. Cốt truyện của tác phẩm kịch cũng có thể
có những đoạn khắc họa chân dung tính cách các nhân vật. Bộ phận cấu thành
duy nhất của cốt truyện kịch là hành động được triển khai qua một hệ thống sự
kiện diễn ra theo trật tự thời gian.
Cốt truyện tập trung là cốt truyện tạo được sự thống nhất cao độ giữa hệ
thống sự kiện, biến cố, các chi tiết, tình tiết với tư tưởng chủ đề cơ bản và hứng
thú trung tâm mà vở diễn mang đến cho công chúng. Lý luận kịch gọi đó là sư
“thống nhất của hành động”. Cốt truyện kịch do sự hạn chế về không gian và thời
gian không thể tạo ra kết cấu đa tầng mà thường có cốt truyện đơn tuyến. Bởi yêu
cầu về sự thống nhất giữa hành động cho phép mỗi vở kịch chỉ theo đuổi một mục
đích, hướng vào một vài chủ đề then chốt, cơ bản, nhằm gợi ra một vài hứng thú
nào đấy.
Do đặc tính riêng ( sáng tác để trình diễn trên sân khấu hoặc đưa lên màn
ảnh, bị chi phối bởi các yếu tố không gian và thời gian thực tế) kịch khó có thể
chứa đựng một dung lượng hiện thực rộng lớn như trong các tác phẩm thuộc loại
hình tự sự, cũng không mang xu hướng bộc lộ những rung động, những cảm xúc

và suy ngẫm như trong các tác phẩm trữ tình, kịch khám phá và diễn tả đời sống
bằng việc phát hiện những mâu thuẫn và xung đột, coi đó như một phương diện
bộc lộ bản chất của đời sống hiện thực đồng thời cũng làm nên hình thức tồn tại
riêng biệt của loại hình kịch bên cạnh các loại hình khác của văn học. Đây là lý do
để Hêghen có thể khẳng định : Tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của
nghệ thuật kịch. Hoặc, nói gọn hơn, như Biêlinxki : Xung đột tạo nên tính kịch.
Xung đột kịch có thể xảy ra giữa các mặt khác nhau trong một con người, giữa
các cá nhân, giữa các nhóm cho đến các tập đoàn người với nhau hoặc có khi,
giữa một tập đoàn người với một cá nhân trong một bối cảnh xã hội và lịch sử
mang tính đặc thù. Nét chủ đạo của kịch là kịch tính. Kịch tính được tạo ra do
mâu thuẫn và xung đột một khi đã nảy ra liền phát triển liên tục, không gián đoạn
theo chiều hướng mỗi lúc một căng thẳng cho tới tình thế đòi hỏi phải giải quyết
bằng một kết cục nào đó.
4


Quá trình diễn biến của xung đột kịch được cụ thể hoá bằng hành động
kịch. Hành động kịch là yếu tố quan trọng hàng đầu của kịch phẩm. Không phải
ngẫu nhiên khái niệm kịch drama trong tiếng Hylạp cũng có nghĩa là hành động.
Đó là sự tổ chức các tình tiết, sự kiện, biến cố trong cốt truyện theo một diễn biến
logic, chặt chẽ, nhất quán chi phối bởi một quy luật nhất định mà qua đó công
chúng có thể tiếp nhận được những mâu thuẫn, xung đột trong đời sống mà kịch
tác gia muốn truyền đạt.
Sự thống nhất hành động cùng việc tạo ra những bước bất ngờ, đột biến
mang lại cho cốt truyện kịch một nhịp điệu phát triển riêng, mang tính đặc thù của
thể loại.
3. Tính chất xác định của tính cách là đặc điểm cơ bản của nhân vật kịch.
Kịch là nghệ thuật thể hiện hình tượng con người một cách sống động nhất.
Hình tượng con người trong kịch cũng thuộc loại hình tượng mang tính ước lệ cao
nhất. Nó là nhân vật của trò diễn mà trò diễn là người đóng vai các nhân vật ấy

trên sân khấu.
Là hình tượng trò diễn, nhân vật kịch chịu sự chi phối, ràng buộc chặt chẽ
bởi những điều kiện, luật lệ của nghệ thuật sân khấu. Do không gian và thời gian
hạn hẹp của sân khấu, một kịch bản không thể có nhiều nhân vật. Nhân vật kịch
thường được cụ thể hóa bằng loại chất liệu riêng. Chất liệu quan trọng nhất mà
nhà văn có thể sử dụng để xây dựng hình tượng nhân vật là lời thoại cũng với
giọng nói của các nhân vật.
Bằng lời nói, giọng nói, bằng trang phục, của diễn viên và bài trí sân khấu,
nhân vật kịch không thể miêu tả chi tiết đặc điểm xã hội, mà chỉ có thể tập trung
làm nổi bật khuynh hướng ý chí, thể hiện một loại hình tính cách nhân vật của con
người. Nhìn chung, tính cách của nhân vật kịch đơn giản hơn nhiều so với tính
cách của tác phẩm tự sự. Nhân vật kịch chủ yếu là nhân vật loại hình, vì chúng
thường được xây dựng trên nền tảng của những phẩm chất tính cách đơn nhất,
hoặc tổng số của các phẩm chất ấy. Cho nên tiếp xúc với nhân vật kịch chúng ta
dễ dàng xác định được nét chủ yếu của tính cách.
5


Việc chúng ta cảm thấy được một cách rõ ràng những tình cảm chủ yếu,
dục vọng cơ bản trong tính cách nói lên tính xác định cao độ về tính cách của
nhân vật kịch. Vai văn học của nhân vật kịch thường mang tính chất đơn nhất và
hay bị đồng nhất với vai tính cách. Cho nên, thể hiện tính cách của nhân vật kịch
vẫn là nhiệm vụ cao nhất quan trọng của các vai diễn trên sân khấu.
4. Lời thoại là hành động và là phƣơng tiện biểu hiện tính cách.
Kịch thể hiện đời sống ở hiện tại, như cái đang xảy ra, biến người xem,
người đọc thành người chứng kiến trực tiếp. Do đó ngôn ngữ kịch giống như lời
nói trong giao tiếp hàng ngày, mang tính chức năng. Nhưng ngôn ngữ kịch văn
học là lời nói được sử dụng, được tổ chức nhằm những mục đích nghệ thuật phù
hợp với bản chất thể loại. Cho nên, ngoài tính hình tượng, tính chính xác, tính
hàm súc, tính hệ thống… như ngôn ngữ văn học nói chung, lời thoại của kịch còn

có các đặc điểm khác.
Trong kịch, lời thoại cũng là hành động đầy kịch tính. Kịch khai thác một
cách triệt để chức nâng hành động của lời nói. Chức năng hành động của lời nói
bộ lộ đầy đủ nhất trong lời đối thoại của nhân vật.
Ngôn ngữ kịch có ba loại :
- Ngôn ngữ đối thoại tức lời các nhân vật đối đáp với nhau
- Ngôn ngữ độc thoại tức lời nhân vật tự bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình
- Ngôn ngữ bàng thoại tức lời nhân vật nói riêng với khán giả
Do đó, ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ khắc hoạ tính cách, ngôn ngữ biểu hiện
đặc điểm, phẩm chất của nhân vật. M. Gorki đã lưu ý điều này : Các nhân vật kịch
hình thành là do những lời lẽ của họ, và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ ấy mà thôi.
Ngôn ngữ kịch còn mang tính hành động, tức là thứ ngôn ngữ mang đặc
tính tranh luận, biện bác, tác động trực tiếp và thúc đẩy mâu thuẫn, xung đột tăng
tiến tạo kịch tính. Trong đối thoại, muốn lời thoại trở thành hành động có kịch
tính, mỗi lời nói phải bộ bộ dục vọng, một mục đích, một khuynh hướng ý chí.
Cấu trúc của đối thoại vì thế thường chứa đựng nội dung đối nghịch như: Tấn
công – phản đòn, thăm dò – lảng tránh, vu vạ - biện minh…
6


Ngôn ngữ kịch thể hiện cao độ đặc tính sống động, giàu chất thông tục của
ngôn ngữ đời thường.
5. Phân loại kịch.
Xét theo nội dung, ý nghĩa của xung đột có thể phân ra ba loại kịch : bi
kịch, hài kịch và chính kịch.
- Bi kịch là loại vở diễn phản ánh xung đột giữa những nhân vật tươi sáng,
trong trẻo, cao thượng, có phẩm chất tốt đẹp, có tinh thần hướng tới cái tiến bộ
với những thế lực đen tối, thâm hiểm, độc ác
- Hài kịch là loại vở diễn phản ánh xung đột giữa các nhân vật ở mức độ
không quá trầm trọng, phần lớn là từ các tình huống hiểu nhầm hoặc các nhân vật

cố tình chọc ghẹo nhau tạo nên tiếng cười thoải mái, vui nhộn.
- Chính kịch dùng để chỉ một loại vở diễn trung gian giữa bi kịch và hài kịch
trong đó vẫn phản ánh những mâu thuẫn, xung đột trong cuộc sống hàng ngày
nhằm hướng tới một sự khẳng định hoặc phủ định nào đó tuy vẫn có lúc sử dụng
cả những nét bi hài, buồn vui lẫn lộn.
II. DẠY HỌC THEO ĐẶC TRƢNG KỊCH.
1. Chú ý đến các vấn đề cơ bản của thể loại kịch.
1.1. Xung đột kịch.
Do tính chất đặc biệt của sự phản ánh, kịch lấy xung đột làm nội dung phản
ánh. Nghệ thuật kịch bao giờ cũng phản ánh đời sống trong một quá trình nhất
định, ở trạng thái khách quan, dười dạng trực tiếp, cụ thể sinh động như đang diễn
ra trước mắt người xem. Nó hoàn toàn khác hẳn với hội họa, điêu khắc, chỉ phản
ánh cuộc sống tập trung trong một khoảnh khắc nhất định; Nó cũng không giống
với âm nhạc và thơ trữ tình lấy việc phản ánh tâm trạng, tình cảm của con người
trước một sự kiện nào đó làm nội dung chủ yếu. Chính tính chất đặc biệt ấy buộc
nghệ thuật kịch phải chọn những chất liệu có tính chất động làm cơ sở cho nội
dung kịch, nghĩa là nó phải phản ánh cuộc sống trọng sự vận động của nó. Mà đã
nói tới vấn động là không thể không nói tới xung đột.
7


Lấy xong đột trong đời sống làm cơ sở cho sự sáng tạo nghệ thuật, nhà viết
kịch đến với hiện thực bằng con đường ngắn nhât. Pha – đê – ép đã tưng khẳng
định “Xung đột là cơ sở của kịch”. Thực tế trong sự vận động của hình tượng thơ
cũng có bộ lộ mâu thuẫn giữa những trạng thái tình cảm khác biệt của cảm xúc:
Vui và buồn, hạnh phúc và đau khổ. Trong các các phẩm tự sự như tiểu thuyết,
truyện vừa, truyện ngắn, yếu tố mâu thuẫn tồn tại ngay trong sự vận động của cốt
truyện và trong sự phát triển của tính cách nhân vật. Với kịch, yếu tố xung đột
mang một sắc thái thẩm mĩ khác. Nhà viết kịch Xô Viết Ác-bu-dốp đẵ cho rằng:
“Trong kịch không có những yếu tố tùy hứng mà người nghệ sĩ có quyền dùng

khi điều khiển số phận những con người trong các tiểu thuyết và truyện. Ở đây có
một khuôn khổ rất chặt chẽ, không có thì giờ để mạ đàm, giải thích, luận bàn”. Sự
khác biệt ấy chính là tính chất tập trung cao độ của xung đột kịch, sự chi phối trực
tiếp đến cấu trúc tác phẩm, đến nhịp độ vận động dồn dập khác thường của cốt
truyện.
Xung đột là động lực thúc đẩy sự phát triển của hành động kịch nhằm xác
lập lên những quan hệ mới giữa các nhân vật vốn được coi là kết thúc tất yếu của
tác phẩm kịch. Thiếu xung đột tác phẩm kịch sẽ mất đi đặc trưng cơ bản đầu tiên
của thể loại, sẽ là những “vợ kịch tồi”. Vì vậy người viết kịch phải tạo được
những xung đột mang tính ý nghĩa xã hộ sâu sắc, tính khái quát lớn lao nhưng
phải hết sức chân thực, nghĩa là xung đột mang tính điển hình hóa.
Thiếu ý nghĩa điển hình, tác phẩm kịch chỉ là sự mô phỏng những mâu
thuẫn vụn vặt, tầm thường của đời sống. Thiếu ý nghĩa chân thực, tác phẩm kịch
chỉ là sự giả tạo, là những dòng lý thuyết suông. Công chúng tìm đến với vở kịch
là tìm đến một sự đồng cảm hoặc phản bác đối với tác giả trước những vấn đề
quan trọng của đời sống. Nghệ thuật kich luôn là diễn đàn tư tưởng của cuộc
sống, là mối gia cảm sâu xa giữa tác giả và khán giả.
Ví dụ: Trong đoạn trích “Bắc Sơn” của Nguyên Huy Tưởng, xung đột cơ
bản trong kịch “Bắc Sơn” là xung đột giưa lực lượng cách mạng và kẻ thù. Xung
đột cơ bản ấy được thể hiện thành những xung đột cụ thể giữa các nhân vật và
8


trong nội tâm của một số nhân vật (Thơm, bà cụ Phương). Xung đột kịch diễn ra
trong chuỗi các hành động kịch có quan hệ gắn kết với nhau. Trng hồi bốn, xung
đột giữa cách mạng và kẻ thù được thể hiện trong sự đối đầu giữa Ngọc cùng
đồng bọn với Thái Cửu. Xung đột ấy lại diễn ra trong hoàn cảnh cuộc khởi nghĩa
bị đàn áp, kẻ thù đang truy lùng những chiến sĩ cách mạng. Những xung đột ở hồi
kịch này còn diễn ra ở nhân vật Thơm đã có bước ngoặt quyết định, khiến cô lựa
chọn đứng hẳn về phía cách mạng.

Nói tới xung đột kịch, ta cũng cần chú ý đến vai trò tư tưởng của người
viết. Phản ánh những xung đột trong đời sống người viết muốn gửi gắm một ý
nghĩa tư tưởng nào đó tới khán giả như Pô-gô-đin, nhà viết kịch Xô Viết, nói tới
mỗi quan hệ giữa xung đột và tư tưởng: “ Xung đột là điều kiệ quan trọng đầu
tiên của tác phẩm, nó mang lại cho tác phẩm kịch sự sống và sự vận động. Nhưng
xung đột bao giờ cũng phụ thuộc vào một cái cao nhất và cũng là linh hồn của nó,
đó là tư tưởng chủ đề của tác phẩm”. Mối quan hệ giữa hai yếu tố này là mối quan
hệ biện chứng, tác động lẫn nhau, nhưng tư tưởng chủ đề là cái gốc, có tính chất
quyết định.
Ví dụ trong vở “Tôi và chúng ta”, Lưu Quang Vũ muốn ca ngợi những con
người mạnh dạn đổi mới, có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm,
để phát triển sản xuất, đem lại nguồn lợi, hạnh phúc cho mọi người. Tác giả tổ
chức những chất liệu mà anh thu thập được trong cuộc sống thành xung đột giữa
những người cùng sống trong một nhà máy. Một bên tiêu biểu cho loại người máy
móc, bảo thủ như phó giám đốc Nguyên Chính, còn một bên là giám đốc Hoàng
Việt đại diện cho cái mới, dám nghĩ dám làm. Thông qua cuộc đấu tranh đó mà
khán giả tiếp thu được vở kịch theo những chiều hướng mà tác giả mong đợi.
1. 2. Hành động kịch
Theo Arixtốt “Hành động là đặc trưng của kịch”. Nếu xung đột được coi là
điều kiện cần thiết làm nảy sinh tác phẩm, thì hành động lại là yếu tố duy trì sự
vận hành của tác phẩm. Trong mối tương giao đó, xung đột là nơi qui tụ, chọn lọc
và tổ chức hành động kịch. Tính kịch của tác phẩm nằm trong xung đột nhưng
9


xung đột lại là yếu tố để giải tỏa mâu thuẫn nằm trong xung đột ấy. Hành động
kịch thường phát triển theo hướng thuận chiều với xung đột kịch. Xung đột càng
căng thẳng thì thiên hướng hành động càng trở nên quyết lietj, vì thế sức hấp dẫn
của tác phẩm tăng lên.
Hành động kịch cần được hiểu trong tính thống nhất , toàn vẹn của nó.

Hành động kịch không phải là những hành động đơn lẻ, ngắt quãng mà là một
chuổi hành động liên tục, xoay quanh một trục xung đột. hành động kịch ở đây
chính là cốt truyện kịch được tổ chức một cách thống nhất, chặt chẽ trong khuôn
khổ của một chỉnh thể nghệ thuật. Các cốt truyện bằng hành động ấy xoáy vào
trung tâm xung đột bằng sự liên kết theo một quy luật riêng: quy luật nhân quả.
Mọi hành động trong tác phẩm kịch dù trực tiếp hay gián tiếp đều dựa trên luật
nhân quả.
Hình thức nhân quả trực tirps là hình thức mà hành động thứ nhất là
nguyên nhân sinh ra hành động thứ hai và có thể cho đến hết.
Ví dụ trong đoạn trích “Nỗi oan hại chông” trích vở chèo cổ “Quan âm Thị
Kính”
Hành động 1: Hai vợ chồng Thiện Sĩ ngồi học và khâu vá dưới trăng, sau
đó Thiện Sĩ ngủ thiếp đi. Đây là nguyên nhân của hành động thứ hai.
Hành động thứ 2: Thị Kính nhìn thấy và cắt chiếc râu mọc ngược cho
chồng là kết quả của hanfhh động 1 và là nguyên nhân của hành dộng 3.
Hành động thứ 3: Bố mẹ Thiện Sĩ vu oan cho Thị Kính có ý giết chồng,
đuổi Thị Kính đi là kết của hành động 2 và là nguyên nhân của hành động tiếp
theo: Thị Kính giả trai đi tu.
Hình thức nhân quả gián tiếp là hình thức mà hành động thứ nhất có khi là
nguyên nhân của hành động thứ 4 hoặc thứ 5.
Ví dụ: Trong vở Ô-Ten-Lô (Hồi 1, cảnh 1 và 2).
Cảnh 1: Vẫn theo hình thức nhân quả trực tiếp.
Hành động 1: Iagô rủ Rôđơrigơ đến nhà Brabanxiô báo Đétxđêmôna đã bỏ
nhà đi theo Ôtenlô.
10


Hành động 2: Iagô chọc tức Brabanxiô về việc Đétxđêmôna tự ý lấy Ôtenlô
sau đso lánh mặt vì sợ lộ.
Hành động thứ 3: Brabanxiô đem gia nhân đi lùng bắt Ôtenlô.

Cảnh 2: (Theo hình thức nhân quả gián tiếp)
Hành động thứ 4: Ia gô tìm Ô ten lô và nói xấu Brabanxi ô để gây hiềm
khích giữa hai người. Hành động này có nguyên nhân từ hành động thứ 2.
Trong thực tế hinh thức nhân quả trực tiếp thường được dùng trong các
kịch bản ca kịch dân tộc như Tuồng, Chèo, viết theo lối tự sự, có tuyến kịch rõ
rang, còn hình thức nhân quả gián tiếp lại được dùng trong các kịch bản nói, viết
thành nhiều tuyến kịch, chồng chéo lên nhau, cùng song song phát triển.
Mối quan hệ giữa hành động kịch và nhân vật kịch là trục chính để xác
định tinh cách nhân vật, Dù ở dạng nào, nhân vật kịch cũng khẳng định bản chất
của mình bằng hành động. Bao nhiêu tính cách là bấy nhiêu trăn trở, giằng xé dữ
dội từ bên trong và được thể hiện bằng những hành động quyết liệt bên ngoài.
1.3. Ngôn ngữ kịch.
Khi nói về các yếu tố văn học, Giooc-ki đã coi “Ngôn ngữ là yếu tố đầu
tiên của văn học”. Điều đó có nghĩa là không có ngôn ngữ sẽ không có văn học.
Đối với nghệ thuật kịch, vài trò quan trọng đó của ngôn ngữ được nhiều tác giả
kịch nổi tiếng thế giới công nhận. A.N. Axtropxki nhà sáng lập ra nền kịch ở Nga
thế kỉ XIX đã coi nguôn ngữ là điều kiện đầu tiên của tính nghệ thuật. Giooc-ki
trong bài “Bàn về kịch” đã khẳng định “ngôn ngữ đối thoại có ý nghĩa to lớn và
thậm chí là có ý nghĩa quyết định đối với việc sáng tác kịch”. So với các thể loại
khác, hệ thống ngôn ngữ kịch mang tính đặc thù rõ rệt.
Ngôn ngữ nhân vật: Đây là hình thái tồn tại duy nhất của ngôn ngữ kịch. So
với hệ thống ngôn ngữ tự sự đây là điểm khác biệt rất rõ. Ngôn ngữ tác giả, biểu
hiệ trong các lời chỉ dẫn về hoàn cảnh, về nhân vật… chỉ có giá trị hướng dẫn
người đọc, diễn viên, đạo diễn, họa sĩ trong khi đọc kịch bản, còn khi dựng trên
sân khấu chúng sẽ biến mất và nhường chỗ cho tiếng nói của họa sĩ trong các
cảnh trí, cho ngôn ngữ hành động của diễn viên. Ngôn ngữ nhân vật bao gồm hai
11


hình thức chủ yếu là đối thoại và độc thoại. Mỗi hình thức ngôn ngữ sẽ giữ một

chức năng riêng với khả năng phản ánh đặc thù.
Trong ngôn ngữ nhân vật, chúng ta chú ý nhiều đến ngôn ngữ đối thoại.
Ngôn ngữ đối thoại là sự đối đáp qua lại giữa nhân vật. Ngôn ngữ đối thoại được
coi là dấu hiệu đầu tiên của ngôn ngữ kịch. Ngôn ngữ độc thoại được là tiếng nói
của nhân vật chỉ nói với chính mình. Để nhân vật tự nói lên những uẩn khúc bên
trong, các tác giả kịch nhằm khai thác chiều sâu tâm lý nhân vật. Khi trình diễn
trên sân khấu, người ta có thể thay đổi màu sắc, ánh sáng, sử dụng tiếng vọng,
hoặc tái hiện những hình bóng đã lùi vào quá khứ. Sân khấu hiện đại còn sử dụng
thủ pháp đồng hiện: Nhân vật tự phân thân để đối thoại cùng nhau như: “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ. Ngôn ngữ nhân vật kịch dù đối
thoại hay độc thoại trước hết đó là ngôn ngữ khắc họa tính cách. Từ những lời ăn
tiếng nói của riêng mình, nhân vật kịch “ phải biểu hiện ở mức chính xác tối đa
một cái gì đó điển hình” (Gorki). Sự chính xác tối đa theo yêu cầu của Gorki
chính là ở chỗ: Mối nhân vật một nguồn gốc xuất thân, bản chất xã hội là một đặc
điểm cá tính riêng phải có tiếng nói riêng thật phù hợp. Đó là một đòi hỏi tất yếu,
bời vì bản chất của nhân vật kịch chỉ có thể được bộc lộ qua chính lời lẽ của chính
họ mà thôi.
Trong sân khấu kịch nói không sử dụng ngôn ngữ xa lạ với đời sống.
Các nhân vật kịch đối đấp với nhau một cách tự nhiên giản dị theo cách đối thoại
trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên sự giản dị, tự nhiên ấy không hề mâu thuẫn
với những cách nói năng giàu ẩn ý, giàu hình tượng và triết lý sâu xa mà chúng ta
thường bắt gặp trong các tác phẩm kịch. Là một hình thái ngôn ngữ nghệ thuật,
ngôn ngữ kịch phải đạt đến trình độ điêu luyện. Tuy vậy tác phẩm kịch loại bỏ
hoàn toàn những lời lẽ thô thiển cũng như những cách nói năng tự nhiên chủ
nghĩa. Trong vở “Tôi và chúng ta”, Lưu Quang Vũ đã thể hiện rất rõ điều đó nên
người đọc, người xem có thể tiếp thu được một cách dễ dàng nội dung đối thoại
của các nhân vật.

12



Lê Sơn: - Chỉ em làm giả thì được huân chương, còn làm thật thì lại … no
đòn !
Hoàng Việt: - Da tôi dày lắm, câu yên chí!
Lê Sơn: - Anh thật là… Thôi được, hứa với anh: Tôi không chạy đâu! Chỉ
tuần sau là quy trìn sản xuất mới sẽ được triển khai. Ông Đông Ki Sốt! Khổ thân
tôi, tôi lại giống kị mã Xan-chô, rất yêu và không thể thiếu được Đông Ki-sốt.
Này nhưng dứt khoát các cối xay gió nó sẽ cho chúng ta ăn đòn nhử tử đấy!
(Anh đi khuất)
Như vậy có thể thấy, cái khó của một vở kịch là đòi hỏi mỗi nhân vật phải
tự biểu hiện tính cách bằng lời nói và hành động. Tài năng của một nhà viết kịch
bộ lộ ngay trong khả năng vận dụng tối đa sức mạnh đặc biệt của ngôn ngữ hội
thoại để cấu trúc tác phẩm và khắc họa hình tượng. Khi tìm hiểu tác phẩm kịch,
người đọc, người xem phải nắm bắt được những đặc điểm cơ bản này để có thế
tìm hiểu sâu vào thế giới nghệ thuật của nhà văn.
2. Giáo án minh họa
Tiết
VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI
(Trích kịch Vũ Như Tô - Nguyễn Huy Tưởng)
A. Mục tiêu cần đạt: giúp hs
- Hiểu và phân tích xung đột qua tính cách, diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô và
Đan Thiềm trong hồi V của vở kịch.
- Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật của vở kịch.
B. Tiến trình bài giảng:
ổn định lớp.
Kiểm tra (5 phút): Nêu những yêu cầu cơ bản đối với cuộc phỏng vấn?
Bài mới (35 phút)
Hoạt động của GV và Yêu cầu cần đạt
HS
I. Tiểu dẫn:

1. Tác giả:
- Sinh năm 1912 và mất năm 1960, xuất thân trong
- Căn cứ vào tiểu dẫn một gia đình nhà nho ở làng Dục Tú, Từ Sơn, Bắc
sgk, trình bày đôi nét về Ninh (nay là Dục Tú, Đông Anh, Hà Nội).
tác giả Nguyễn Huy - Năm 1943, tham gia hội văn hoá cứu quốc do Đảng
Tưởng?
lãnh đạo, từng là đại biểu quốc dân đại biểu Tân Trào
13


(1945).
- Có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử, có đóng góp
lớn trên hai thể loại: Tiểu thuyết và kịch. Sinh thời,
Nguyễn Huy Tưởng luôn khao khát viết được những
tác phẩm có quy mô lớn, dựng nên được những bức
tranh, những hình tượng hoành tráng về lịch sử bi
hùng của dân tộc, khao khát nói lên những vấn đề có
tầm triết lí sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ
thuật. Điều đó phần nào thể hiện ở Vũ Như Tô.
- Tác phẩm tiêu biểu: Vũ Như Tô (1941), Luỹ hoa
(1960), Sống mãi với Thủ đô (1961),… Nhận Giải
thưởng Văn học Hồ Chí Minh đợt I (1996).
2. Kịch Vũ Như Tô.
a. Hoàn cảnh sáng tác: - Bi kịch lịch sử có quy mô hoành tráng (5 hồi), viết
về sự kiện có thực xảy ra Thăng Long khoảng 15161517, dưới triều Lê Tương Dực. Từ một sự kiện lịch
sử xảy ra ở thế kỉ XVI, tác giả đã hư cấu, sáng tạo vở
kịch Vũ Như Tô, đặt ra vấn đề sâu sắc về cuộc sống
và nghệ thuật.
b. Tóm tắt:
- Tác phẩm hoàn thành vào mùa hè năm 1941.

- Đọc tóm tắt sgk.
c. Đặc điểm của thể loại
Bi kịch là một thể của loại hình kịch (đối lập với hài
bi kịch.
kịch). Bi kịch có đặc điểm riêng thể hiện qua mâu
thuẫn, xung đột, nhân vật.
- Xung đột kịch được tạo dựng từ những mâu thuẫn
“không thể giải quyết” được.
- Nhân vật chính: thường là những anh hùng, những
con người có những say mê, khát vọng lớn lao, đôi
khi có những sai lầm trong suy nghĩ và hành động.
- Kết thúc bi kịch: các nhân vật thường có kết thúc bi
thảm, điều đó có ý nghĩa thức tỉnh, khơi gợi tình cảm
II. Văn bản:
1. Xuất xứ:
nhân văn của con người.
Trích toàn bộ hồi V, hồi cuối của vở kịch.
2. Tìm hiểu:
a. Các mâu thuẫn của
vở kịch.
- Mâu thuẫn thứ nhất: Nhân dân lao động khốn khổ
- Các mâu thuẫn cơ bản > < bọn hôn quân, bạo chúa và phe cánh của chúng
của vở kịch Vũ Như Tô sống xa hoa. Mâu thuẫn này vốn có từ trước, đến khi
được thể hiện cụ thể như Lê Tương Dực bắt Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài thì
thế nào trong hồi V?
mâu thuẫn càng căng thẳng.
Để xây Cửu Trùng Đài, triều đình ra lệnh tăng sưu
thuế, bắt thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người
14



chống đối.
Thợ phải làm việc cật lực mà vẫn đói khát vì bị ăn
chặn
--> Dân căm phẫn vua làm cho dân cùng, nước kiệt.
Thợ oán Vũ Như Tô vì nhiều người chết bởi tai nạn,
vì ông cho chém những kẻ chạy trốn.
Trịnh Duy Sản can ngăn Lê Tương Dực, báo sẽ có
loạn và đòi đuổi bọn cung nữ, giết Vũ Như Tô.
Nhưng vua không những không nghe mà còn sai đánh
đòn Trịnh Duy Sản (hồi III).
Tin lụt lội, mất mùa, tin “dân gian đói kém nổi lên tứ
tung” truyền đến Thăng Long. Vũ Như Tô bị đá đè bị
thương song vẫn hăng hái đốc thúc thợ xây Cửu
Trùng Đài. Thợ định nổi loạn. Lợi dụng tình hình rối
ren ấy, Trịnh Duy Sản - kẻ cầm đầu phe đối nghịch
trong triều đình - đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ
làm phản, giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan
Thiềm, thiêu huỷ Cửu Trùng Đài (hồi IV và V).
=> Như vậy mâu thuẫn đến hồi V trở thành cao trào,
lên tới đỉnh điểm và được giải quyết: hôn quân Lê
Tương Dực bị Trịnh Duy Sản giết, Nguyễn Vũ tự sát,
- Vũ Như Tô đứng trước Kim Phượng và đám cung nữ bị những kẻ nổi loạn
mâu thuẫn gì?
bắt , bị nhục mạ.
- Mâu thuẫn thứ hai: đó là khát vọng nghệ thuật của
nghệ sĩ Vũ Như Tô > < lợi ích trực tiếp, thiết thực của
nhân dân.
Vũ Như Tô là kiến trúc sư thiên tài, khát vọng của
ông là xây dựng cho đất nước toà lâu đài vĩ đại để

muôn đời nhân dân hãnh diện. Nhưng hoàn cảnh đất
nước không có điều kiện cho ông thực hiện khát vọng
chân chính đó. Nghe theo lời khuyên của cung nữ
Đan Thiềm, ông phải lợi dung quyền thế, tiền bạc của
vua Lê Tương Dực để thực hiện khát vọng của mình.
Thật trớ trêu, niềm khao khát ấy đẩy Vũ Như Tô vào
tình trạng đối nghịch với lợi ích của nhân dân, ông bị
nhân dân, nhất là những người thợ coi là kẻ thù.
=> Như vậy Vũ Như Tô đứng trước mâu thuẫn: muốn
thực hiện lí tưởng nghệ thuật lại đi ngược với quyền
lợi của nhân dân. Nếu xuất phát từ lợi ích của nhân
dân thì không thể thực hiện được ước mơ nghệ thuật.
Đây là nguồn gốc tấn bi kịch không lối thoát của Vũ
Như Tô.
15


Hai mâu thuẫn trên có quan hệ mật thiết và tác động
lẫn nhau.
Củng cố (4 phút): nắm đựơc những nét chính về tác giả, về vở kịch Vũ Như Tô,
mâu thuẫn cơ bản trong đoạn trích.
Hướng dẫn (1 phút): soạn tiếp tiết 2.
Tiết 2.
Mục tiêu cần đạt, cách thức tiến hành, phương tiện thực hiện: như tiết 1
Tiến trình bài dạy:
ổn định lớp.
Kiểm tra (5 phút): Trình bày những mâu thuẫn chính của vở kịch và đoạn trích?
Bài mới (35 phút).
Hoạt động của GV và Yêu cầu cần đạt
HS

b. Nhân vật Vũ Như Tô.
- Nhân vật này được giới - Là kiến trúc sư có tài “ngàn năm chưa dễ có một”,
thiệu như thế nào?
“chỉ vẩy bút là chim hoa đã hiện lên trên mảnh lụa
thần tình biến hoá như cảnh hoá công”, ông có thể
“sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có
thể xây dựng lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà
không hề tính sai một viên gạch nhỏ”. Ông là hiện
thân cho niềm khát khao, say mê sáng tạo cái đẹp.
- Vũ Như Tô là nghệ sĩ có nhân cách lớn, có lí tưởng
nghệ thuật cao cả. Là nghệ sĩ chân chính, gắn bó với
nhân dân, nên mặc dù Lê Tương Dực doạ giết ông
vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân, kiên quyết
từ chối xây Cửu Trùng Đài (hồi I). Ông cũng không
phải là kẻ hám lợi, khi vua ban thưởng vàng bac, lụa
là ông chia hết cho thợ. Lí tưởng nghệ thuật của Vũ
Như Tô là chân chính nhưng là lí tưởng cao siêu, xa
rời hiện thực đời sống nhân dân. Say sưa với mơ ước
xây toà lâu đài vĩ đại “bền như trăng sao” để cho
“dân ta nghìn thu còn hãnh diện” mà ông không
nhận ra Cửu Trùng Đài xây bằng mồ hôi, nước mắt,
xương máu của nhân dân.
Hồi V của vở kịch, tâm trạng Vũ Như Tô đầy căng
thẳng, ông tìm câu trả lời: Xây Cửu Trùng Đài đúng
hay sai? Là có công hay có tội? Vũ Như Tô không
trả lời thoả đáng câu hỏi đó. Khát vọng muốn khẳng
định tài năng, khát vọng sáng tạo nghệ thuật muốn
làm đẹp cho đất nước, muốn tô điểm cho đời nhưng
đặt lầm chỗ, xa rời thực tế nên phải trả giá bằng sinh
- Tại sao nói Vũ Như Tô mệnh của bản thân và của cả công trình nghệ thuật.

16


là nhân vật bi kịch?

- Vũ Như Tô là một nhân vật bi kịch vì ông mang
trong mình không chỉ những say mê, khát vọng lớn
mà cả lầm lạc trong suy nghĩ và hành động. Ông
không nghĩ việc xây Cửu Trùng Đài cho đất nước lại
xem là tội ác. Đến khi cuộc nổi loạn nổ ra, Đan
Thiềm hốt hoảng báo cho ông nếu không trốn, ông sẽ
bị giết, ông vẫn không chịu đi, vẫn tin và việc làm
“quang minh chính đại” của mình, vẫn hi vọng sẽ
thuyết phục được An Hầu Hoà, một trong những kẻ
cầm đầu phe nổi loạn. Khi ông và Đan Thiềm bị bắt,
- Tiếng kêu của nhân vật Cửu Trùng Đài bị thiêu huỷ, ông mới bừng tỉnh, đau
thể hiện điều gì?
đớn, ngửa mặt lên trời kêu lên: “Ậi mộng lớn! Ậi
Đan Thiềm! Ậi Cửu Trùng Đài!”. Mộng lớn tan
vỡ, tất cả chỉ còn nỗi đau mất mát. Tiếng kêu ấy dồn
dập vang lên hoà vào nhau thành nỗi đau bi tráng.
Đó là âm hưởng chủ đạo của đoạn trích.
c. Nhân vật Đan Thiềm.
- Phân tích tính cách và
diễn biến tâm trạng của
Đan Thiềm?

- Nếu Như Tô là người nghệ sĩ đam mê sáng tạo cái
đẹp thì Đan Thiềm là người đam mê cái tài, ở đây là
tài sáng tạo cái đẹp. “Bệnh Đan Thiềm” là bệnh mê

đắm tài hoa siêu việt của người sáng tạo nghệ thuật,
sáng tạo ra cái đẹp:
Đan Thiềm thuyết phục Vũ Như Tô mượn quyền uy
và tiền bạc của Lê Tương Dực để thực hiện hoài bão
xây dựng cho đất nước công trình nghệ thuật đồ sộ,
vĩnh cửu. Đam mê cái tài mà nàng luôn khích lệ Vũ
Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài, sẵn sàng quên
mình để bảo vệ cái tài ấy. Đan Thiềm xứng đáng là
tri âm tri kỉ của Vũ Như Tô.
- Đứng trước sự vỡ mộng, diễn biến của Đan Thiềm
khác Vũ Như Tô. Tâm trí của nàng không hướng về
việc xây Cửu Trùng Đài thành hay bại mà hướng vào
sự sống còn của Vũ Như Tô. Đan Thiềm “hớt hơ hớt
hải”, “mặt cắt không còn giọt máu”, giọng nói “hổn
hển”, đứt đoạn, nhiều lần giục Như Tô “trốn đi”,
“lánh đi”, “chạy đi”, chắp tay lạy van xin “Tôi xin
ông, ông nghe tôi trốn đi” nhưng không sao làm cho
Như Tô tỉnh ngộ, Như Tô vẫn bướng bỉnh chống lại
số phận. Đến khi quân nổi loạn kéo vào, nàng đã bật
khóc. Nàng nói với Ngô Hạch, sẵn sàng đổi mạng
sống để cứu Như Tô: “Tướng quân nghe tôi. Bao
nhiêu tội tôi xin nhận hết. Nhưng xin tướng quân tha
17


cho ông Cả. Ông ấy là một người tài”. Khi biết
không cứu nổi Như Tô, Đan Thiềm buông lời vĩnh
biệt “Ông Cả! Đài lớn tan tành! Ông Cả ơi! Xin cùng
ông vĩnh biệt!”
d. Cách giải quyết mâu

thuẫn.
- Những mâu thuẫn ở trên
được giải quyết như thế
nào trong hồi cuối của vở
kịch?

- Mâu thuẫn thứ nhất: được giải quyết dứt khoát theo
quan điểm của nhân dân: bạo chúa Lê Tương Dực bị
giết.
- Mâu thuẫn thứ hai: chưa được giải quyết dứt khoát.
Vũ Như Tô đến lúc chết vẫn không nhận ra sai lầm
của mình, vẫn đinh ninh mình vô tội. Ông không
đứng về phía Lê Tương Dực nhưng muốn mượn tiền
bạc, uy quyền của hắn để thực hiện hoài bão nghệ
thuật của mình và vô tình gây nỗi thống khổ cho
nhân dân. Ông có tội hay có công? Vũ Như Tô phải
hay những người giết Vũ Như Tô phải? Cửu Trùng
Đài không thành, nên mừng hay nên tiếc? Đó là
những câu hỏi đầy day dứt mà chính tác giả cũng
không thể giải quyết một cách rạch ròi, dứt khoát.
Lời đề từ nói lên điều đó. Cách nêu vấn đề của tác
giả là hợp lí bởi lẽ: chân lí chỉ thuộc về Vũ Như Tô
một nửa, còn nửa kia lại thuộc về quần chúng
nhân dân.

Củng cố (4 phút): - Phân tích những mâu thuẫn cơ bản của vở kịch Vũ Như Tô
- Ý nghĩa lời đề tựa vở kịch
- Cảm nhận nhân vật Vũ Như Tô - Đan Thiềm ?
Hướng dẫn (1 phút): chuẩn bị bài Thực hành về sử dụng một số kiểu câu trong
văn bản.

III. KẾT QUẢ
Học sinh hứng thú học tập nắm đuợc bài từ đó làm cho văn bản kịch trở
nên sinh động hấp dẫn và hoạt động học tập Ngữ văn hiệu quả hơn
Kết quả khảo sát HS
Lớp dạy

Số HS

Yếu

Trung bình

Khá

Giỏi

11Văn

28

0

0

14 = 50%

14 = 50%

11Anh


34

0

0

22 = 65%

12 = 35%

11Lí

31

0

3= 9%

20 = 65%

8 = 26%

18


PHẦN KÊT LUẬN
Tìm hiểu tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại đang là xu hướng được
nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ. Nó không những góp phần nâng cao khả năng nhận
thức của người tiếp nhận mà còn giúp cho người truyền thụ có thể hướng đến khả
năng nâng cao chất lượng giảng dạy, đổi mới hướng tiếp cận, đổi mới phương

pháp. Đặc biệt đối với tác phẩm kịch, tìm hiểu tác phẩm kịch theo đặc trưng thể
loại sẽ giúp chúng ta năm bắt chính xác, khoa học đặc trưng về nội dung cũng
như nghệ thuật của kịch. Từ đó, người tiếp nhận có một cái nhìn chính xác và
thấu đáo hơn trong quá trình nghiên cứu cũng như đánh giá tác phẩm kịch.
Đề tài không nhằm mục đích đề ra một lý thuyết mới trong quá trình tiếp
cận một thể loại văn học mà chủ yếu hướng tới một cách tiếp cận hiệu quả đối với
các tác phẩm kịch nói chung và các tác phẩm kịch trong nhà trường THPT nói
riêng. Chính vì vậy, đề tài không thiên về lý thuyết thể loại mà chủ yếu trình bày
những hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân trong việc tìm hiểu tác phẩm, cảm
nhận và khám phá tác phẩm kịch. Với mục tiêu đó, người nghiên cứu mong muốn
đóng góp công sức của mình vào quá trình hoàn thiện phương pháp đọc – hiểu tác
phẩm văn học trong nhà trường phổ thông.
-------------------------------------

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lí luận văn học - Phương Lựu - Nhà xuất bản Giáo dục, 1998
2. Lí luận văn học - Trần Đình Sử - Nhà xuất bản Giáo dục, 1998
3. Lí luận văn học - Nguyễn Văn Hạnh - Trần Như Phương, Nxb GD, 1999
4. Thiếtkế bài giảng Ngữ văn 11, T1, Phan Trọng Luận, chủ biên, Nxb GD, 2007
5. Sách giáo viên, Ngữ văn 11, T1, Nxb GD, 2011
6. Sách giáo khoa Ngữ văn 11, T1, Nxb GD, 2011

20




×