Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm SKKN nâng cao kỹ năng làm dạng bài nghị luận so sánh cho học sinh lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.17 KB, 20 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"NÂNG CAO KỸ NĂNG LÀM DẠNG BÀI NGHỊ LUẬN SO SÁNH
CHO HỌC SINH LỚP 12"

Trang 1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài:
Nghị luận so sánh văn học là một kiểu bài làm văn đóng vai trò không nhỏ trong cơ
cấu bài văn thi đại học của học sinh. Đây là kiểu bài mới, được áp dụng kể từ khi thay
sách nên không ít giáo viên còn lúng túng khi giảng dạy. Bởi lẽ, hầu hết giáo viên ra
trường trước năm 2006 ít được tiếp cận kiểu bài này, còn những giáo viên ra trường sau
kinh nghiệm giảng dạy còn nhiều hạn chế . Mặt khác, dạng đề này đòi hỏi học sinh phải
có kiến thức vững vàng, năng lực cảm nhận tác phẩm văn chương sâu rộng và nhận định
dề tinh nhạy để trình bày. Do đó, cách học thuộc bài, học theo lối mòn sẽ không phát huy
được tác dụng. Trước thực trạng trên, bằng kinh nghiệm của bản thân và sự nghiên cứu
tài liệu tôi mạnh dạn đề xuất một giải pháp giúp học sinh THPT làm tốt dạng bài này
trong quá trinh ôn tập thi học sinh giỏi, đại học.
II. Mục đích nhiệm vụ của đề tài:
II.1. Về kiến thức :
Nắm được những định hướng chung về cách làm bài nghị luận so sánh cho học sinh lớp
12 giúp các em làm bài hiệu quả và chất lượng.
Nội dung và phương pháp làm kiểu bài so sánh văn học. Đưa ra một số giải pháp
mang tính định hướng cho học sinh vận dụng trong quá trình giải quyết các đề bài nghị
luận văn học kiểu bài so sánh thường gặp.
II.2. Về kĩ năng:
Nhận diện đề, lập dàn ý, thiết kế đề kiểm tra đánh giá môn ngữ văn theo hướng đổi
mới.


II.3. Về thái độ :
Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm tra đánh giá trong môn Ngữ văn.
Đổi mới quan niệm đánh giá kết quả học tập của học sinh, tăng cường rèn luyện kĩ
năng
III. Phương pháp nghiên cứu:
Làm đề tài này, tôi đã vận dụng những phương pháp sau đây:
Phương pháp thống kê , nêu ví dụ.

Trang 2


Phương pháp thực nghiệm.
Phương pháp so sánh.
Phương pháp phân loại, phân tích.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận:
Môn ngữ văn (bao gồm ba phần: Văn học, Tiếng Việt, Làm văn) là một môn học nền
tảng về kiến thức và công cụ giao tiếp, có vị trí quan trọng trong các môn học, góp phần
tạo nên trình độ văn hóa cơ bản cho học sinh. Cùng với việc rèn kĩ năng đọc hiểu, kĩ năng
sử dụng tiếng Việt, phần Làm văn được chú trọng vì đây là phần thể hiện rõ nhất kĩ năng
thực hành, sáng tạo của học sinh.
Làm văn gồm hai dạng: nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Trong xu thế ra đề tuyển
sinh đại học những năm gần đây, dạng bài nghị luận so sánh văn học chiếm tỉ lệ cao hơn
nhiều so với trước đây.
ThS Trần Văn Nịch, Phó Vụ trưởng vụ GV-CBQLDN cho biết: Để hình thành cho học
sinh một kỹ năng thì cần phải dạy cho họ biết cách kết hợp và huy động hợp lý các nguồn
nội lực (kiến thức, khả năng thực hiện và thái độ) và ngoại lực (tất cả những gì có thể huy
động được nằm ngoài cá nhân).
Như vậy, để làm tốt bài văn nghị luận văn học học sinh cần phải được trang bị kiến thức

phong phú và kĩ năng thuần thục. Đây là cơ sở để giáo viên áp dụng trong giảng dạy nghị
luận văn học.
II. Cơ sở thực tiễn:
II.1. Đối với giáo viên.
Khảo sát cho thấy, việc dạy kiểu bài văn nghị luận văn học thường rập khuôn, áp đặt
.Thậm chí nhiều đồng nghiệp còn cung cấp cho học sinh những bài văn mẫu để học sinh
thuộc lòng, hy vọng sẽ “trúng tủ”…khiến phần lớn học sinh kiến thức nghèo nàn,và có
thói quen trông chờ, ỉ lại, nảy sinh nạn quay cóp trong thi cử.
II. 2. Đối với học sinh.
Các em học và làm bài nghi luận văn học (NLVH) một cách máy móc, còn quá lệ thuộc
vào cách học khuôn mẫu, thiếu tư duy sáng tạo. Kiến thức văn học non kém, không có

Trang 3


khả năng cảm nhận văn học một cách sáng tạo. Vì thế số điểm học sinh đạt được còn
khiêm tốn.
II. 3. Thực trạng ra đề thi :
Nghị luận so sánh là một kiểu bài làm văn đóng vai trò không nhỏ trong cơ cấu bài văn
thi đại học những năn gần đây. Đây là kiểu bài mới, chưa được cụ thể hóa bằng một bài
học riêng trong chương trình Ngữ văn bậc trung học phổ thông, do đó ảnh hưởng ít nhiều
đến chất lượng làm bài của học sinh cũng như quá trình định hướng ôn tập cho học sinh
từ phía giáo viên. Góp phần tháo gỡ những khó khăn trên, bài viết này xin đưa ra một số
gợi ý để giúp cho các em ôn tập tốt trong các kì thi.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
III.1. Những kiến thức cơ bản về kiểu bài so sánh :
Khái niệm so sánh văn học cần được hiểu theo ba lớp nghĩa khác nhau. Thứ nhất, so sánh
văn học là "một biện pháp tu từ để tạo hình ảnh cho câu văn". Thứ hai, nó được xem như
một thao tác lập luận như : phân tích, bác bỏ, bình luận đã được đưa vào chương trình
giáo khoa ngữ văn lớp 11. Thứ ba, nó được xem như "một phương pháp, một cách thức

trình bày khi viết bài nghị luận, tức là như một kiểu bài nghị luận cạnh các kiểu bài nghị
luận về một đoạn trích, tác phẩm thơ ; nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi... ở
sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12. Tuy nhiên, so sánh văn học như một kiểu bài nghị luận
văn học chưa được cụ thể bằng một bài học độc lập. Vì vậy, việc xác lập nội hàm khái
niệm như kiểu bài, mục đích, yêu cầu, đến cách thức làm bài cho kiểu bài này thực sự rất
cần thiết.
Kiểu bài so sánh văn học yêu cầu thực hiện cách thức so sánh trên nhiều bình diện : đề
tài, nhân vật, tình huống, cốt truyện, cái tôi trữ tình, chi tiết nghệ thuật, nghệ thuật trần
thuật, phong cách nghệ thuật... Quá trình so sánh có thể chỉ diễn ra ở những tác phẩm của
các tác giả cùng hoặc không cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu,
trường phái khác nhau của một nền văn học. Mục đích cuối cùng của kiểu bài này là yêu
cầu học sinh chỉ ra được chỗ giống và khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó
thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm ; thấy
được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm ; sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn.
Không dừng lại ở đó, kiểu bài này còn góp phần hình thành kĩ năng lí giải nguyên nhân
của sự khác nhau giữa các hiện tượng văn học - một năng lực rất cần thiết góp phần tránh
khuynh hướng "bình tán", khuôn sáo trong các bài văn của học sinh hiện nay. Lẽ hiển
nhiên, đối với đối tượng học sinh trung học phổ thông, các yêu cầu về năng lực lí giải cần
phải hợp lí, vừa sức. Nghĩa là các tiêu chí so sánh cần có mức độ khó vừa phải, khả năng
lí giải sự giống nhau, khác nhau cũng cần phải tính toán hợp lí bằng những đơn vị kiến

Trang 4


thức cụ thể phù hợp với năng lực và nhận thức của các em. Chuẩn kiến thức kĩ năng trong
từng bài, từng cấp học sẽ là căn cứ kiểm định vấn đề này.
III.2. Dàn ý chung kiểu bài nghị luận so sánh:
Trong thời gian qua, kiểu bài này tôi đã lồng ghép trong các tiết ôn tập và chữa bài kiểm
tra, áp dụng cho học sinh khối 12 ở trường THPT Hàm Rồng. Về cơ bản, học sinh đã vận
dụng một cách hiệu quả trong việc giải quyết các đề bài yêu cầu so sánh trong bài làm

văn nghị luận văn học, đồng thời tiến hành rèn luyện cho đối tượng là học sinh tham gia
đội tuyển học sinh giỏi, học sinh thi Đại học. Việc ứng dụng phương pháp này cũng được
đưa ra thảo luận ở tổ chuyên môn để cùng thống nhất trong việc giảng dạy. Sau đây là
một số định hướng cơ bản cho kiểu bài nghị luận so sánh văn học.
DÀN Ý KHÁI QUÁT
Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn so sánh văn học cũng có ba phần như một
bài nghị luận thông thường. Tuy nhiên chức năng cụ thể của từng phần lại có những điểm
khác biệt so với kiểu bài nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn bản thơ, đoạn
trích văn bản văn xuôi, hay kiểu bài cảm nhận về một vấn đề văn học khác. Dàn ý khái
quát của kiểu bài này như sau :
MỞ BÀI
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về đối tượng so sánh.
THÂN BÀI
1. Làm rõ đối tượng thứ nhất (bước này cần vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận
nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
2. Làm rõ đối tượng thứ hai ( bước này thực hiện các thao tác như phần trên)
3. So sánh : Nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội
dung và hình thức nghệ thuật (bước này cần vận dụng nhiều thao tác lập luận nhưng chủ
yếu là thao tác lập luận phân tích và thao tác lập luận so sánh).
4. Lí giải sự khác biệt : Thực hiện thao tác này cần dựa vào ba tiêu chí cơ bản sau:
- Bối cảnh xã hội, lịch sử, văn hóa - môi trường tồn tại của đối tượng nghị luận.
- Tư tưởng, phong cách của nhà văn.
- Đặc trưng thi pháp của thời kì văn học
Bước này cần vận dụng nhiều thao tác lập luận phân tích nhưng chủ yếu là thao tác
lập luận phân tích.
Trang 5


KẾT BÀI

- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu
- Nêu những cảm nghĩ của bản thân
III.3. Kiểm định dàn bài trên bằng cách so sánh với đáp án câu III.a - Đề thi tuyển
sinh Đại học - Cao đẳng năm 2009, khối C như sau :
Câu III.a. Theo chương trình chuẩn (5.0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh
Châu).
Mục đích và yêu cầu của kiểu bài này là người viết trên cơ sở cảm nhận được cái hay về
nội dung và vẻ đẹp về nghệ thuật của hai đoạn văn, so sánh để thấy được sự khác nhau
của hai đoạn văn đó trên cả bình diện nội dung và nghệ thuật để từ đó thấy được sự giống
và khác nhau trong phong cách nghệ thuật cũng như sự đóng góp của hai nhà văn đó cho
nền văn học nước nhà. Cụ thể
MỞ BÀI
Giới thiệu khái quát về đối tượng so sánh
Giới thiệu khái quát về hai nhân vật trong hai tác phẩm :
- Kim Lân là nhà văn chuyên viết về nông thôn và cuộc sống người dân quê, có sở trường
về truyện ngắn. Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc , viết về tình huống "nhặt vợ" độc đáo,
qua đó thể hiện niềm tin mãnh liệt vào phẩm chất tốt đẹp của những con người bình dị
trong nạn đói thê thảm.
- Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mỹ, cũng là cây bút tiên phong
thời đổi mới. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc ở thời kì sau, viết về lần giáp
mặt của một nghệ sĩ với cuộc sống đầy nghịch lí của một gia đình hàng chài, qua đó thể
hiện lòng xót thương, nỗi lo âu đối với con người và những trăn trở về trách nhiệm của
người nghệ sĩ.
THÂN BÀI
1. Làm rõ đối tượng thứ nhất : Nhân vật người vợ nhặt :
- Giới thiệu chung : Tuy không miêu tả thật nhiều nhưng nhân vật người vợ nhặt vẫn là
một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sống động,
theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban đầu và về sau.
- Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu :

Trang 6


+ Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng là một lòng ham sống mãnh liệt. (dẫn chứng)
+ Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người hiểu biết, ý tứ.(dẫn chứng)
+ Bên trong vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn lại là một người phụ nữ hiều hậu, đúng
mực, biết lo toan. (dẫn chứng)
2. Làm rõ đối tượng thứ hai : Nhân vật người đàn bà hàng chài
- Giới thiệu chung : Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng
của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sắc nét, theo lối tương phản giữa bên ngoài và
bên trong, giữa thân phận và phẩm chất.
- Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu.
+ Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu
đức hi sinh. (dẫn chứng)
+ Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc, can đảm,
cứng cỏi. (dẫn chứng)
+ Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời. (dẫn
chứng)
3. So sánh : Nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội
dung và hình thức nghệ thuật :
- Tương đồng : Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh.
Những vẻ đẹp đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực lam lũ làm khất lấp. Cả hai
đều khắc họa bằng những chi tiết chân thực...
- Khác biệt : Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là phẩm chất của
một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh, trong nạn đói thê thảm.
Vẻ đẹp được khắc sâu ở nhân vật người đàn bà hàng chài là những phẩm chất của một
người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính, trong tình trạng
bạo lực gia đình...
4. Lí giải sự khác biệt : Thực hiện thao tác này cần dựa trên ba tiêu chí cơ bản như đã nói
ở phần trên.

+ Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến đổi từ thấp
đến cao (cảm hứng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến
như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại (cảm hứng thế sự - đời tư trong khuynh hướng
nhận thức lại)

Trang 7


+ Sự khác biệt giữa con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con người đa dạng phúc
tạp (Chiếc thuyền ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này.
KẾT BÀI
- Khái quát những nét giống và khác nhau tiêu biểu và nêu những cảm nghĩ của bản thân.
(Học sinh dựa vào gợi ý trên để viết kết bài. Có nhiều cách kết bài khác nhau, hướng dẫn
trên chỉ có tính chất tham khảo)
Bảng so sánh trên đây chỉ ra rằng, dàn bài khái quát mà tôi đề xuất về cơ bản đã thể hiện
được một cách tuần tự hệ thống ý trong đáp án của đề thi tuyển sinh Đại học - Cao đẳng
khối C năm 2009. Tiếc rằng, trong đáp án của đề thi tuyển sinh Đại học - Cao đẳng khối
C năm 2009 lại chưa yêu cầu so sánh về nghệ thuật xây dựng nhân vật và yêu cầu lí giải
về nguyên nhân sự khác biệt giữa hai nhân vật là do đâu. Rất có thể, hội đồng ra đề đã ý
thức rằng nếu thêm phần này vào sẽ là "quá sức" đối với thí sinh, vì rằng để trả lời cho
câu hỏi này, học sinh phải nắm vững đặc điểm hoàn cảnh lịch sử, xã hội văn hóa, phải
nắm được phong cách nghệ thuật nhà văn, đặc trưng thi pháp của mỗi thời kì... Theo tôi,
kiểu bài so sánh văn học cần phải có thêm hai phần này và đối với đề thi khối C yêu cầu
ở đáp án có mức độ khó cao hơn ở các khối khác. Có như vậy mới đánh giá đúng năng
lực của học sinh thi vào khối C (đề của khối C thường khó hơn các khối thi khác có thi
môn Ngữ văn). Hơn thế, trong quá trình thực hiện yêu cầu phân hóa trong việc ra đề thi
thì yêu cầu này cần phải được chú trọng hơn bao giờ hết.
Trong quá trình làm bài, học sinh không nhất thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình
trên. Có thể phối hợp nhiều bước cùng một lúc. Chẳng hạn, có thể đồng thời vừa phân
tích làm rõ, vừa thực hiện nhiệm vụ so sánh trên hai bình diện nội dung và hình thức

nghệ thuật, vừa lí giải nguyên nhân vì sao có sự khác biệt. Hoặc chỉ trong bước so sánh,
học sinh có thể vừa so sánh, vừa lí giải. Tuy nhiên, nếu thực hiện theo quy trình này thì
bài viết không khéo rơi vào rối rắm, luẩn quẩn. Tốt nhất là hướng dẫn học sinh thực hiện
từng bước theo như dàn ý khái quát.
III.4. MỘT SỐ DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN KIỂU BÀI SO SÁNH THƯỜNG GẶP:
Như đã trình bày, kiểu bài nghị luận so sánh văn học có yêu cầu khá phong phú, đa dạng
khó có thể tìm ra một dàn ý khái quát thỏa mãn tất cả các dạng đề bài. Trong yêu cầu
từng đề bài cụ thể thuộc kiểu bài này, học sinh cần linh hoạt, sáng tạo. Vấn đề cốt lõi của
mọi bài nghị luận là làm thế nào để vừa "trúng" vừa "hay". Nguyên tắc trình bày một bài
nghị luận so sánh văn học cũng không đi ra ngoài mục đích đó. Sau đây là một số dạng
đề so sánh thường gặp.
III. 4.1. So sánh về phong cách sáng tác của một nhà văn ở hai giai đoạn khác nhau.

Trang 8


Mục đích của kiểu bài này là giúp học sinh nhận rõ được sự thống nhất và thay đổi trong
phong cách nghệ thuật của một nhà văn suốt quá trình sáng tác. Kiểu bài này được cụ thể
hóa bằng một hệ thống dàn ý chi tiết sau :
a/ Yêu cầu về kĩ năng :
Sử dụng thao tác lập luận so sánh, phân tích bình luận.
b/ Yêu cầu về kiến thức :
- Cần chỉ ra sự thống nhất trong phong cách của nhà văn trong cả quá trình sáng tác.
- Chỉ ra những thay đổi đáng kể trong phong cách nghệ thuật ở giai đoạn sáng tác sau đó.
- Lí giải nguyên nhân cụ thể về sự thay đổi đó.
(Yêu cầu học sinh cần nhớ trong chương trình Ngữ văn THPT có ba tác gia : Tố Hữu ;
Hồ Chí Minh ; Nguyễn Tuân là có thể so sánh ở kiểu bài này).
Đối với kiểu bài so sánh về sự giống nhau và khác nhau trong phong cách nghệ thuật của
một nhà văn ở hai giai đoạn sáng tác sẽ có hai dạng đề.
Dạng thứ nhất:

Đề bài :
Anh/chị hãy nêu sự giống nhau và thay đổi trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Tuân trước và sau cách mạng tháng tám 1945.
Yêu cầu của kiểu bài này là học sinh tái hiện kiến thức cơ bản trong bài giới thiệu về
tác gia Nguyễn Tuân trong chương trình Ngữ văn 12 nâng cao. Việc nắm vững kiến thức
cơ bản này sẽ là chìa khóa để học sinh hiểu được những tác phẩm của Nguyễn Tuân.
MỞ BÀI
Giới thiệu khái quát về Nguyễn Tuân trong đời sống văn học nước nhà.
THÂN BÀI
* Luận điểm 1: Nét chung trong phong cách nghệ thuật
- Cái Tôi "Tài hoa - Uyên bác - Độc đáo"
- Tiếp cận cảnh vật nghiêng về góc độ văn hóa thẩm mỹ, cảnh tráng lệ, có tính cách
sinh động, cảnh thường đập mạnh vào giác quan.
- Tiếp cận con người nghiêng về góc độ tài hoa nghệ sĩ, đó là những con người hội tụ
cả : Tài - Tâm - Khí phách mà Nguyễn Tuân gọi đó là "Thiên lương" và thường đặt nhân
vật vào một tình huống oái oăm để bộc lộ tính cách, Nhân vật không phụ thuộc vào hoàn

Trang 9


cảnh, luôn chủ động và vượt lên hoàn cảnh bằng bản lĩnh phi thường. Truyện của Nguyễn
Tuân mang giá trị nhân văn sâu sắc.
- Ngôn ngữ : Điêu luyện, dùng từ Hán - Việt, miêu tả sự vật, cảnh vật dưới nhiều góc
độ và bằng sự quan sát của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau.
* Luận điểm 2: Nét riêng :
+ Trước cách mạng tháng Tám 1945.
- Thể loại truyện ngắn, có yếu tố của tùy bút (cảm xúc của cái tôi qua thái độ, tình cảm
của nhà văn). Có sự dung hòa giữa lãng mạn và hiện thực.
- Có sự đối lập trong nghệ thuật giữa cái cao thượng với cái tầm thường, giữa cổ và
kim, nhân vật là những kẻ sĩ tài hoa bất đắc chí, những con người trong quá khứ "Vang

bóng một thời".
+ Sau cách mạng :
- Thể loại tùy bút có yếu tố truyện ngắn (Xây dựng nhân vật, cốt truyện, tình tiết...)
- Cảm hứng thiên về thiên nhiên tráng lệ
- Nhân vật khác trước : là những con người của hiện tại, những con người của đời
thường trên mặt trận chống quân thù và trong cuộc sống lao động sản xuất.
* Luận điểm 3: Lí giải nguyên nhân
- Hoàn cảnh sống : Trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng đã có sự thay đổi.
- Tư tưởng : "Là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp" (Nguyễn Đăng Mạnh) nên sau cách
mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Tuân đã hòa nhập nhanh chóng với cuộc kháng chiến,
săn tìm được nhiều cái đẹp trong đời sống chiến đấu và lao động sản xuất...
- Đặc trưng thi pháp :Văn học sau 1945 thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn, ông đã tìm đến với thể loại tùy bút để thỏa mãn với năng lực sáng tạo nghệ
thuật của mình.
* Luận điểm 4: Đánh giá : Khẳng dịnh sự đóng góp to lớn của Nguyễn Tuân cho nền
văn học nước nhà.
KẾT LUẬN
Nêu ấn tượng của bản thân về tác giả Nguyễn Tuân.
Dạng thứ 2:
Đề bài :

Trang 10


(1). "Biết đọc vỡ sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan
coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà mình một đôi câu đối do tay ông Huấn
Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ,
ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời. Viên
quản ngục khổ tâm nhất...thì ân hận suốt đời" (Chữ người tử tù)
(2). "Ông lái đò nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật

phục kích của lũ đá nơi cửa ải(...) Cưỡi lên thác sông đà, phải cưỡi đến cùng như cưỡi
hổ. Dòng thác hùm beo đang hùng hục tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm
sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng
nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường thẳng chéo về phía cửa đá ấy... đứa thì ông
đò đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. (Người lái đò sông Đà)
Từ hai đoạn văn trên, anh/chị hãy chỉ ra sự thống nhất và thay đổi trong phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng tháng Tám 1945.
Mục đích của kiểu bài này là học sinh vận dụng kĩ năng cảm nhận cái hay, cái đẹp
của hai đoạn văn và từ đó vận dụng thao tác lập luận phân tích, so sánh để làm nổi bật sự
giống nhau và khác nhau trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân ở hai thời kì
sáng tác qua hai đoạn trích văn bản cụ thể.
Ta có thể xây dựng một dàn ý với những yêu cầu sau :
MỞ BÀI
Dẫn dắt và giới thiệu về hai đoạn trích, từ đó khẳng định cả hai đoạn văn trên đều
thể hiện được tư tưởng và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
THÂN BÀI
* Luận điểm 1: Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác và vị trí của hai đoạn trích.
* Luận điểm 2: Nét chung :
- Cả hai đoạn trích đều đã thể hiện được một cái "Tôi" : Tài hoa - Độc đáo - Uyên
bác.
- Cách tiếp cận cảnh vật : Nghiêng về góc độ văn hóa thẩm mỹ, cảnh sắc tráng lệ,
dữ dội, đập mạnh vào giác quan (Người lái đò sông Đà).
- Miêu tả con người : Là những con người có khí phách, tài hoa :
+ Ngục quan : Tuy không có tài sáng tạo cái đẹp nhưng lại có tài cảm thụ và thưởng
thức cái đẹp...(dẫn chứng)
+ Ông lái đò : Chèo đò trên dòng nước hung bạo thuần thục, khéo léo đến tài hoa...

Trang 11



- Ngôn ngữ : Sử dụng ngôn ngữ và cách quan sát, miêu tả, dựng cảnh bằng con mắt
của nhiều ngành nghệ thuật và khoa học khác nhau. (Dẫn chứng).
* Luận điểm 3: Nét riêng :
- Đoạn trích trong truyện ngắn Chữ người tử tù :
+ Thể loại : truyện ngắn có pha chất tùy bút (Cảm xúc của cái "tôi" qua thái độ của
nhà văn với nhân vật) (Dẫn chứng)
+ Có sự đối lập : Sự đấu tranh tư tưởng của Ngục quan, một con người đại diện cho
bộ máy cai trị của chính quyền thực dân phong kiến lại ngưỡng mộ và tôn thờ vẻ đẹp tài
hoa nghệ sĩ của một tử tù. Đối lập giữa cái thiện, cái đẹp với cái ác, cái xấu ; giữa cái cao
cả và cái tầm thường...
+ Ngôn ngữ : Dùng từ Hán Việt, tạo không khí cổ kính, trang nghiêm.
- Đoạn trích trong tùy bút Người lái đò sông Đà.
+ Thể loại : Tùy bút có yếu tố của truyện ngắn (Cốt truyện, tình huống, nhân vật...).
+ Nhân vật : Là con người trong lao động sản xuất.
+ Ngôn ngữ : Có sử dụng các thuật ngữ của lĩnh vực quân sự tạo không khí trận mạc
căng thẳng, cam go quyết liệt.
+ Sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa làm cho cảnh vật sống động.
* Luận điểm 4: Lí giải về sự khác nhau :
- Hoàn cảnh xã hội và đặc điểm thẩm mỹ, đặc điểm thi pháp có sự thay đổi : văn học
sau 1945 mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
- Tình cảm của nhà văn đã có sự thay đổi, không còn "bất mãn" như trước 1945.
* Luận điểm 5: Đánh giá : Khẳng định sự đóng góp to lớn của Nguyễn Tuân cho nền
văn học nước nhà.
KẾT LUẬN
Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu, đồng thời nêu cảm nghĩ của
bản thân.
III.4.2. So sánh về phong cách nghệ thuật của hai nhà văn:
Mục đích của kiểu bài này là giúp học sinh thấy được những điểm giống nhau và
khác nhau trong phong cách nghệ thuật của hai nhà văn trong một giai đoạn sáng tác,
thấy được sự đóng góp của họ cho nền văn học nước nhà trong giai đoạn đó. Để làm một

cách có hiệu quả và thống nhất, người viết cần đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản sau.
Trang 12


a/ Yêu cầu kĩ năng : Sử dụng thao tác phân tích, bình luận, so sánh.
b/ Yêu cầu kiến thức :
- Cần chỉ ra sự thống nhất trong phong cách nghệ thuật của hai nhà văn trong quá
trình sáng tác.
- Chỉ ra những nét khác biệt trong phong cách nghệ thuật của hai nhà văn.
- Lí giải nguyên nhân của sự khác biệt.
- Đánh giá về sự đóng góp của hai nhà văn cho nền văn học.
Ví dụ :
Đề bài.
(1). "Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có
chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chuếc thuyền
nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn lại nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn
nào hòn nấy trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm, méo mó hơn cả cái mặt
nước chỗ này".
(Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân)
(2). "Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng
già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những thác, cuộn xoáy như những cơn
lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những
dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã
sống một nửa cuộc đời mình như một cô giá Di - gan phóng khoáng và man dại".
(Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Anh/chị hãy làm sáng tỏ những nét giống nhau và khác nhau trong phong cách nghệ
thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường qua hai đoạn trích trên.
Những yêu cầu cơ bản :
MỞ BÀI :
Giới thiệu được cảm hứng chung của hai đoạn văn trên : Đều thể hiện được cảm xúc

mãnh liệt trước vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên, qua đó bộc lộ được tình yêu quê hương
đất nước và niềm tự hào trước vẻ đẹp của đất nước.
THÂN BÀI
* Luận điểm 1: Giới thiệu ngắn gọn về hai tác giả và hoàn cảnh sáng tác của hai tác
phẩm.

Trang 13


* Luận điểm 2: Những nét chung : Đều thể hiện được cái tôi tài hoa, phóng túng. Cảm
hứng mãnh liệt trước cảnh sắc thiên nhiên.
* Luận điểm 3: Những nét khác biệt :
- Phân tích đoạn văn (1) :
+ Tiếp cận cảnh vật : Nghiên về gốc độ văn hóa thẩm mỹ. Sự vật có cá tính mạnh mẽ,
sống động. (Dẫn chứng và phân tích).
+ Đậm yếu tố truyện ngắn : Có tình huống, sự việc...(dẫn chứng và phân tích).
+ Bút pháp miêu tả : Vận dụng cách quan sát của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau
để miêu tả sự vật (dẫn chứng và phân tích).
+ Ngôn ngữ : Uyên bác, sắc sảo, tài tình...(dẫn chứng và phân tích).
- Phân tích đoạn văn (2) :
+ Tiếp cận cảnh vật nghiêng về góc độ văn hóa lịch sử (dẫn chứng và phân tích)
+ Thể hiện cái tôi trữ tình đậm nét : Sự say mê tìm tòi, quan sát, tích lũy...(Dẫn chứng
và phân tích).
+ Bút pháp miêu tả : Sử dụng nhiều biện pháp : So sánh, liệt kê (dẫn chứng và phân
tích)
+ Ngô ngữ : Sử dụng lời văn thật đẹp, thật sang (dẫn chứng và phân tích)
* Luận điểm 4: Lí giải về sự khác biệt :
- Hoàn cảnh sống, hoàn cảnh sáng tác.
- Quan điểm thẩm mỹ :
+ Nguyễn Tuân không thích sự hời hợt bằng phẳng mà thích cái đẹp phải nổi loạn.

+ Hoàng Phủ Ngọc Tường : Yêu cảnh sắc thiên nhiên gắn với truyền thống văn hóa,
lịch sử được viết bằng ngòi bút thật đẹp, thật sang
* Luận điểm5: Đánh giá về sự đóng góp của hai tác giả trên cho nền văn học nước nhà
giai đoạn 1945 - đến nay.
KẾT LUẬN :
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau cơ bản.
- Nêu cảm xúc của bản thân.
III.4.3. So sánh về phong cách nghệ thuật của hai nhà thơ:

Trang 14


Đây là một dạng đề khó, thường dành cho đối tượng theo học chương trình nâng cao,
yêu cầu học sinh tích hợp được kiến thức một cách khoa học không những chỉ làm sáng
tỏ được vẻ đẹp của văn bản mà còn chỉ ra được những nét giống nhau và khác nhau, lí
giải được nguyên nhân của sự khác nhau đó. Nhưng về cơ bản, kiểu bài này áp dụng một
cách đầy đủ những yêu cầu của dàn ý khái quát đã trình bày ở phần trên.
Ví dụ :
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

(1)

Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
(Tương tư - Nguyễn Bính SGK Ngữ văn 11 NC tập 1- trang 55 )

(2)

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
(Sóng - Xuân Quỳnh SGK Ngữ văn12 NC tập 1 trang 121)
Anh/chị hãy làm sáng tỏ những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Bính và Xuân Quỳnh qua hai đoạn thơ trên.
Yêu cầu cơ bản :
MỞ BÀI : Cần nêu được cảm hứng bao trùm cả hai đoạn trích : Cả hai đoạn trích đều
làm nổi bật được một đặc điểm trong bản chất của tình yêu, đó là sự thủy chung trong
tình yêu được biểu hiện qua nỗi nhớ.
THÂN BÀI :

Trang 15


* Luận điểm 1: Giới thiệu về tác giả (tư tưởng và phong cách của hai nhà thơ), hoàn
cảnh sáng tác của hai tác phẩm và vị trí của đoạn trích.
* Luận điểm 2: Khái quát về sự giống nhau
- Đề tài : Đều viết về tình yêu đôi lứa, một đề tài quen thuộc trong thơ ca.
- Nghệ thuật : Đều sử dụng chất liệu dân gian (sử dụng các hình tượng nghệ thuật
truyền thống) và biện pháp tu từ ẩn dụ.
* Luận điểm 3: Khái quát về sự khác nhau :
- Phân tích đoạn thơ (1)
+ Thể hiện được bản chất của sự tương tư : một tình yêu đơn phương, có sự nhớ

nhung và trách móc.
+ Nghệ thuật : Mượn hình ảnh ước lệ và sử dụng một cách sáng tạo thành ngữ. Có sự
ảnh hưởng sâu sắc của thơ mới.
- Phân tích đoạn thơ (2)
+ Bộc lộ rõ tình cảm của người con gái trong tình yêu : Nỗi nhớ người yêu, khẳng
định một tình yêu chung thủy son sắc.
+ Nghệ thuật : Xây dựng hai hình tượng sóng đôi (Sóng và Em), sử dụng biện pháp
nghệ thuật nhân hóa và so sánh.
* Luận điểm 4: Giải thích về sự giống nhau và khác nhau.
- Nguyễn Bính :
+ Là người nhạy cảm với thời đại đầy biến động, trong đó những nề nếp nghìn đời sau
lũy tre xanh đang bị lung lay trước sự xâm nhập của cuộc sống đô thị. Nguyễn Bính là
một nhà thơ mới nhưng lại trở về đào sâu vào truyền thống văn hóa dân gian nên đã đem
đến cho thơ một vẻ đẹp chân quê.
+ Tương tư sáng tác trước cách mạng tháng Tám 1945 nên có sự ảnh hưởng sâu sắc của
thơ mới lãng mạn.
- Xuân Quỳnh :
+ Thể hiện một tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi
tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng bình dị về hạnh phúc đời
thường.

Trang 16


+ Bài thơ Sóng sáng tác lấy cảm hứng từ chuyến đi vè vùng biển Diêm Điền (Thái
Bình), trước những con sóng biển đã gợi cảm hứng cho tác giả, đồng thời bài thơ có sự
ảnh hưởng của cảm hứng lãng mạn sau cách mạng tháng Tám 1945.
* Luận điểm 5: Đánh giá : Cả hai nhà thơ đã có sự đóng góp tích cực cho thơ ca ở hai
thời kì trước và sau cách mạng tháng Tám 1945.
KẾT LUẬN :

- Nêu khái quát những điểm giống nhau và khác nhau.
- Nêu cảm xúc của người viết.
III.4.4. So sánh về đề tài, nhân vật, tình huống, cốt truyện, cái tôi trữ tình, chi tiết nghệ
thuật:
Đối với kiểu bài này yêu cầu học sinh thực hiện đầy đủ các bước như dàn ý khái quát.
Ví dụ : Cảm nhận của anh/chị về hình tượng bóng tối và ánh sáng trong hai truyện
ngắn "Hai đứa trẻ" của Thạch lam và "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân.
Yêu cầu như sau.
MỞ BÀI :
Giới thiệu khái quát về hai đối tượng so sánh (cảm nhận).
THÂN BÀI :
* Luận điểm 1: Làm rõ đối tượng thứ nhất.
- Giới thiệu về tác giả, hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn Hai đứa trẻ, cần lưu ý rằng
những truyện của Thạch Lam thường lấy cảm hứng từ những kí ức trong cuộc đời nhà
văn để sáng tạo nên cốt truyện.
- Phân tích hình tượng ánh sáng : Có hai loại ánh sáng trong truyện đó là ánh sáng gần
(ngọn đèn, bếp lửa, con đom đóm) loại ánh sáng này yếu ớt, lù mù gợi cuộc sống leo tét,
uể oải, nó tồn tại dai dẳng, gợi lên cuộc sống lạc hậu, tù đọng, không biết đến ngày mai.
Ánh sáng xa (Ánh đèn điện của bờ hồ, Hà Nội rực sáng, ánh sáng của đoàn tàu, ánh sáng
của dải Ngân Hà) đó là ánh sáng rực rỡ, ánh sáng của những ước mơ, hi vọng, nó chỉ
thoáng qua. (Dẫn chứng)
- Hình tượng bóng tối : Bóng tối có sự lan tỏa theo không gian, mỗi lúc một lớn hơn và
bao trùm cả phố huyện và cuối cùng ngập đầy dần trong mắt. gợi lên cuộc sống tù đọng,
bế tắc, ngột ngạt, nghèo đói, không lối thoát.(Dẫn chứng)

Trang 17


- Nghệ thuật : Lời văn giản dị, nhẹ nhàng nhưng tạo nên ấn tượng mạnh mẽ, cảnh vật
gợi buồn, điều này chỉ có thể gặp trong thơ mới nên truyện của Thạch Lam có dung hòa

giữa lãng mạn và hiện thực. (Dẫn chứng)
* Luận điểm 2: Làm rõ đối tượng thứ hai.
- Hình tượng ánh sáng : Biểu tượng cho cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiên Lương của con
người. Cái đẹp bao giờ cũng chiến thắng. (Dẫn chứng)
- Hình tượng bóng tối : Biểu tượng cho sự tàn bạo, dơ bẩn của xã hội phong kiến suy
đồi. Sự xấu xa đê tiện cái thấp hèn. (Dẫn chứng)
- Nghệ thuật : Ẩn dụ, giọng văn trang nghiên cổ kính (Dẫn chứng)
* Luận điểm 3: So sánh sự giống nhau và khác nhau trên cả bình diện nội dung và
hình thức nghệ thuật.
- Giống nhau : Đều sử dụng hình tượng ánh sáng và bóng tối để tạo ý đồ riêng cho
sáng tạo nghệ thuật. Đều sử dụng biện pháp nghệ thuật đối lập. Hình tượng bóng tối đều
nói về cái âm u, tù túng, xấu xa ngột ngạt của xã hội. Ánh sáng đều hướng con người đến
cái cao thượng, vươn tới những khát vọng cao đẹp.
- Khác biệt :
+ Nguyễn Tuân : Hình tượng ánh sáng và bóng tối vừa có sự đối lập, vừa có sự bổ
sung, nâng đỡ, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng.
+ Thạch Lam : Bóng tối vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho cuộc sống tù đọng bế tắc,
quẩn quanh nơi phố huyện vừa được sử dụng như một phông nền chính làm nổi bật giá trị
nhân văn của tác phẩm.
* Luận điểm 4: Lí giải về sự khác biệt.
- Nguyễn Tuân : Cảm hứng thẩm mỹ bắt nguồn từ cái đẹp lớn lao, cao cả, bi hùng hoặc
mô tả những con người có nhân cách lớn... nên dựa trên thủ pháp nghệ thuật đối lập gay
gắt, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng nhằm miêu tả những tương phản mạnh mẽ,
những chuyển biến bất ngờ, đột ngột. Đó vừa là một thủ pháp trong xây dựng tình huống
truyện, vừa là sự dẫn dắt đi đến kết thúc của sự chiến thắng giữa chân lí, cái đẹp với cái
xấu, cái ác.
- Thạch Lam : Chú ý đến cái bình dị, nhỏ nhoi trong cuộc sống nên ánh sáng và bóng
tối trong tác phẩm của ông không có sự chuyển biến dữ dội, bất ngờ.
KẾT BÀI :
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.


Trang 18


- Có thể nêu cảm nghĩ của bản thân.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Về nhận thức : Học sinh đã không còn thái độ e ngại, lo sợ đối với kiểu đề bài nghị
luận so sánh văn học. Thậm chí có nhiều học sinh đã có sự thích thú, chủ động tích cực
với những đề bài này. Điều đó đã góp phần làm chuyển biến tích cực tình trạng học sinh
không yêu thích học môn Ngữ văn hiện nay trong nhà trường.
Về kĩ năng : Học sinh đã biến vận dụng thành thạo một cách bài bản các bước từ việc
tìm hiểu xác định từng dạng đề bài cụ thể đến việc thực hiện các thao tác nghị luận phù
hợp với mỗi dạng đề bài; biết sử dụng các thao tác lập luận, huy động kiến thức và từng
bước nâng cao chất lượng bài làm của mình. Từ những yêu cầu cơ bản của kiểu bài nghị
luận so sánh văn học, học sinh đã biết vận dụng trong các đoạn văn nghị luận cần mở
rộng vấn đề hay nhấn mạnh một nội dung nào đó trong một kiểu bài khác, làm cho bài
viết ngày càng thuyết phục hơn, đồng thời giúp cho bài làm của học sinh sát hơn với
những yêu cầu của đáp án.
Kết quả cụ thể : Trong kì thi Đại học và Cao đẳng năm học 2010 - 2011 bộ môn Ngữ
văn đã đạt được kết quả như sau :
Số HS Điểm Tỉ
dự thi
0
- lệ
<5
%

Điểm

42


22

0

0

5 - 6,5

Tỉ
lệ
%

Điểm

52

20

7 - 8,5

Tỉ
lệ
%

Điểm

46

1


9 - 10

Tỉ
lệ
%
2

Đặc biệt học sinh Thiều Việt Hà đạt 9 điểm, Phạm Thu Trang 8.5 điểm, Nguyễn Thị
Xuyên 8.5 điểm, Nguyễn Thị Xuân 8.5 điểm, Đoàn hoàng Ly Quân 8,5 điểm.
Trong kì thi chọn học sinh giỏi các môn văn hóa cấp tỉnh, đội tuyển bộ môn Ngữ văn
của nhà trường do tôi phụ trách, kết quả thu được như sau : 3 giải nhất, 5 giải nhì ; 2 giải
ba.
Những kết quả trên là cơ sở để khẳng định cho việc áp dụng những phương pháp trên
là có hiệu quả và phù hợp cho tình hình dạy học hiện nay và phù hợp đối với việc ôn tập
cũng như xu hướng ra đề thi trong các kì thi thi tốt nghiệp, thi vào Đại học và Cao đẳng
trong thời gian tới.

Trang 19


C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Dạng đề bài nghị luận văn học kiểu bài so sánh bốn năm gần đây đã trở nên quen thuộc
đối với học sinh trong các kì thi Đại học Cao đẳng và các kì thi học sinh giỏi cấp Quốc
gia, cấp tỉnh. Mặc dù vậy các em cũng gặp không ít những khó khăn trong quá trình triển
khai các thao tác nghị luận để bài viết thực sự có hiệu quả thuyết phục. Đồng thời để các
thầy giáo, cô giáo giảng dạy bộ môn này cũng có sự thống nhất về phương pháp thì việc
trao đổi chuyên môn trong tổ bộ môn phải được tiến hành thường xuyên, rút ra những
hạn chế còn tồn tại, tìm ra các giải pháp tốt nhất để hướng dẫn cho từng loại đối tượng
học sinh.

Bộ giáo dục cần có sự bổ sung trong chương trình Ngữ văn 11 bằng một bài học cụ thể
để hướng dẫn cho học sinh biết cách làm một bài nghị luận văn học kiểu bài so sánh,
đồng thời cũng giúp cho việc ra đề thi trong các kì thi có tính khoa học, hợp lí.
Trong khuôn khổ của bài viết này, quá trình trình bày sẽ không tránh khỏi những thiếu
sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ các đồng nghiệp, để sáng kiến kinh
nghiệm của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của mình viết.

Trang 20



×