Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm LIÊN HỆ THỰC TẾ TRONG GIỜ ĐỌC VĂN ĐỂ TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.02 KB, 31 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị Trường THPT Hồng Bàng
Mã số: ................................
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
LIÊN HỆ THỰC TẾ TRONG GIỜ ĐỌC VĂN
ĐỂ TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH

Người thực hiện: Đỗ

Thị Hồng Nhung

Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục



- Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn



- Lĩnh vực khác: ....................................................... 
(Ghi rõ tên lĩnh vực)

Có đính kèm: Các sản phẩm khơng thề hiện trong bản in SKKN
 Mơ hình  Phần mềm
 Phim ảnh
 Hiện vật khác
Năm học: 2014-2015



SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I.
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
II.
III.
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
Họ và tên: ĐỖ THỊ HỒNG NHUNG
Ngày tháng năm sinh: 25/12/1976
Nam, nữ: Nữ
Địa chỉ: Trường THPT Hồng Bàng
Điện thoại cá nhân: 0979 727 899
Cơ quan: 0613741284
Chức vụ: Phó Chủ tịch Cơng đồn
Đơn vị cơng tác: Trường THPT Hồng Bàng

TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
Học vị (hoặc trình độ chun mơn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân
Năm nhận bằng: 2001
Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn
KINH NGHIỆM KHOA HỌC
Lĩnh vực chun mơn có kinh nghiệm: giảng dạy mơn Ngữ văn
Số năm có kinh nghiệm: 15
Các sáng kiến kinh nghiệm đã có:
Phong cách giảng dạy của giáo viên bộ môn Văn- Tiếng Việt bậc THPT, 20052006.
Chuyên đề “Một vài suy nghĩ khi thực hiên phương pháp mới môn ngữ văn ở
Trung học phổ thông”, 2007-2008.
Chuyên đề: “Một vài suy nghĩ khi phân tích thơ thất ngôn bát cú Đường luật”,
2010-2011.
Tiết dạy nghị luận xã hội, 2011-2012.
Rèn luyện khả năng cảm thụ văn học cho học sinh Trung học phổ thông, 20122013.
Một vài suy nghĩ để dạy tốt bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” của Hồng
Phủ Ngọc Tường, 2013- 2014.
Chun đề “Ai đã đặt tên cho dịng sơng” của Hồng Phủ Ngọc Tường, 20142015.
Kinh nghiệm chủ nhiệm một lớp yếu ở trường THPT, 2014- 2015.

2


LIÊN HỆ THỰC TẾ TRONG GIỜ ĐỌC VĂN
ĐỂ TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong những năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều cải cách quan trọng từ
giáo dục ở bậc tiểu học cho đến đào tạo đại học và sau đại học. Riêng ở phổ thông,
sự đổi mới thể hiện trên nhiều phương diện, rõ nhất là về chương trình, sách giáo
khoa và đặc biệt là phương pháp dạy học. Mục đích của việc đổi mới phương pháp

dạy học ở trường phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy
học theo “phương pháp dạy học tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần
hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học
tập và thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui hứng thú trong học tập; với mục tiêu giáo
dục toàn diện cho học sinh “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự
khẳng định mình”.
Đặc trưng của văn học là một mơn nghệ thuật phản ánh đời sống bằng hình
tượng. Dạy văn là cả một quá trình phức tạp đan kết các q trình tâm lí, ngơn ngữ
văn học sư phạm. Dạy văn là một lĩnh vực hoạt động đòi hỏi nhiều sự tìm tịi của
người giáo viên khi lên lớp. Từ đời sống trong tác phẩm văn học làm sao có thể
làm đẹp và phong phú thêm tâm hồn các em. Đó là kết quả thẩm thấu, chuyển hóa
vào từng cá nhân học sinh, có khi bất ngờ, có khi ngẫu nhiên. Từ một hình tượng,
một tâm trạng, một hồn cảnh cụ thể, người thầy có thể liên hệ thực tế gần gũi với
học sinh. Phải coi học sinh là “ngọn lửa” để thắp sáng kiến thức chứ không phải là
“cái bình” để chứa kiến thức. Bởi thế người giáo viên dạy văn cần phải giúp học
sinh tự tạo được bản lĩnh để đối diện với những vấn đề nóng bỏng, bức xúc mà đời
sống xã hội và văn học đặt ra. Không để tác phẩm văn học xa rời đời sống thực tại,
để học sinh biết tự đòi hỏi những gì các em cần có trong cuộc đời này. Tuy nhiên
khi giảng dạy còn tùy thuộc vào từng bài, từng đối tượng học sinh để linh hoạt thay
đổi sao cho phù hợp. Sử dụng phương pháp liên hệ thực tế trong giờ đọc văn đạt
hiệu quả sẽ giúp các em hứng thú và cảm thụ tác phẩm sâu sắc hơn. Qua mỗi giờ
văn các em có lối sống lành mạnh hơn, ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn,
chống lại những luồng văn hóa khơng lành mạnh.
Xuất phát từ mục đích đó, tơi muốn giờ dạy văn của mình khơng chỉ nhằm mở
rộng cho học sinh những kiến thức đa dạng về đời sống, về thể loại văn học mà
còn đem đến cho học sinh những hiểu biết thực tế, tác động học sinh có sự chuyển
biến trong lối sống nhận thức qua chính các nhà thơ, nhà văn, các hình tượng nhân
vật văn học; góp phần giáo dục kĩ năng sống, giáo dục đạo đức, nhân cách, lòng
nhân ái và yêu nước của mỗi học sinh; rèn luyện cho các em những kĩ năng cần

thiết về sử dụng ngôn ngữ, diễn đạt, lập luận, năng lực ứng xử trước những vấn đề
đời sống.
Từ mục đích của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, tôi xin trao đổi
kinh nghiệm của bản thân về một số giải pháp “Liên hệ thực tế trong giờ đọc văn
để tạo hứng thú cho học sinh” ở chương trình ngữ văn bậc THPT.
3


II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở của đề tài:
1.1/ Cơ sở lý luận:
Trong nhận thức của mình Mác đã nói rõ q trình nhận thức của con người
“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, trở về thực tiễn” vì thế khi dạy
học sinh phải cho các em trở về thực tế đời sống xã hội. Phát huy khả năng cảm
thụ, năng lực hiểu biết, hình thành nhân cách người học. Từ đó giúp các em tưởng
tượng và định hình được xã hội mình đang sống và những gì mình phải làm tạo
hứng thú và niềm say mê khám phá của các em trong giờ văn. Nhà văn Nga M.
Gorki cũng đã khẳng định “Văn học là nhân học”. Học văn chính là học làm
người. Đó là một chân lí mà bất cứ giáo viên dạy văn nào cũng phải trăn trở, suy
nghĩ. Nói như Macarenco “Giáo dục chủ nghĩa cộng sản mà không giáo dục
lịng u nước và nhân ái thì giáo dục cái gì nữa?”. Viện sĩ Mikhancốp người
anh hùng của Liên Xơ khi góp ý về việc dạy văn đã nói “Khơng thể bớt khoa học
nhân văn, bớt văn trong chương trình vì bớt văn tức là bớt chất người”.
Luật giáo dục của nước CHXHCNVN trong điều 4 (yêu cầu về nội dung phươg
pháp giáo dục) cũng chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực
tự giác, chủ động, tư duy, sáng tạo ở người học, bồi dưỡng năng lực tự học,
lịng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật Giáo dục - trang 9 - 1998)
1.2/ Cơ sở thực tiễn:
Trong bộ môn văn học ở trường phổ thơng trung học nhiều năm nay thực tế
đã có nhiều đổi mới đáng kể nhưng vẫn cịn có hiện tượng học sinh học theo kiểu

cũ: đọc thuộc, sao chép, nói lại ý của sách vở, của thầy cơ mà khơng hoặc ít có sự
sáng tạo, liên tưởng khi tiếp xúc tác phẩm văn chương. Văn học là môn học về
nghệ thuật ngôn từ. Văn học phản ánh cuộc sống thơng qua các hình tượng, các chi
tiết giàu chất nghệ thuật. Việc dạy học văn theo tinh thần đổi mới phương pháp, về
cơ bản, có nhiều thuận lợi, phát huy được sự chủ động, sáng tạo của học sinh khi
lĩnh hội và vận dụng những kiến thức đã được học vào cuộc sống.
Trong những năm gần đây, tình hình học tập bộ môn Ngữ văn thật đáng báo động.
Khi tiếp xúc với tác phẩm văn học, học sinh chỉ hiểu theo một chiều, ít chịu khó
phát hiện, liên tưởng, vốn từ ngữ nghèo, diễn đạt kém. Vì vậy, khơng đạt hiệu quả
cao khi cảm nhận tác phẩm văn chương. Kết quả điều tra chất lượng các bài thi tốt
nghiệp trung học phổ thông và thi vào các trường ĐH-CĐ, chúng ta thấy xuất hiện
nhiều bài viết khiến cho người chấm dở khóc dở cười. Học sinh viết mà khơng biết
những gì mình đã viết. Đối với những lớp mà tơi trực tiếp giảng dạy, các em
thường mắc các lỗi rất phổ biến về chính tả, dùng từ, đặt câu. Rất nhiều bài văn, từ
đầu đến cuối khơng có một dấu chấm câu nào. Nhiều từ đơn giản cũng không hiểu
được nên dẫn đến việc dùng từ sai, đặt câu sai- câu què, câu cụt, câu sai cấu trúc,
sai lô-gic luôn xuất hiện trong bài làm của học sinh. Nhưng điều đáng lo lắng nhất
là kĩ năng phân tích từ ngữ của học sinh đối với các văn bản văn học. Phần lớn các
em không xác định được nghĩa của từ, kiến thức về từ cịn lơ mơ, sai sót. Vì vậy,
khi làm bài, các em hay nhầm lẫn khi phân tích những từ gần giống nhau, thường
suy luận chủ quan, khập khiễng, thậm chí đã dung tục hố văn chương khi phân
4


tích, khám phá từ ngữ trong tác phẩm văn học. Đứng trước những từ khó, học sinh
cũng chưa có thói quen tra từ điển để hiểu mà thường bỏ qua, rất đáng tiếc.
Hơn nữa, cuộc sống xã hội ngày càng diễn biến hết sức phức tạp, mỗi em học sinh
đang hàng ngày phải tiếp xúc, va chạm với biết bao luồng thơng tin văn hóa thẩm
mỹ xa lạ với những điều thầy cơ nói trong trường học. Thái độ thờ ơ, lạnh lùng của
học sinh trước nỗi đau buồn của con người trong cuộc đời cũng như trong văn

chương là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ, day dứt. Nếu học sinh khơng thể
đồng cảm, xúc động được thì đó là dấu hiệu khơng lành mạnh trong tâm hồn, tình
cảm của các em. Có một số học sinh thì sống ích kỉ ngay cả với những người thân
trong gia đình, bạn bè của mình. Nhưng khi làm văn thì sử dụng những mỹ từ đạo
lí sáo rỗng một cách trơn tru nhưng lại thờ ơ trước những bất hạnh của người khác,
đó là sự dối trá, là sự cách biệt giữa cuộc sống và làm văn. Đâu đó có những học
sinh vơ lễ, thậm chí đánh cả thầy cơ giáo của mình, đánh nhau trước cổng trường,
những clip bạo lực được quay và tung lên mạng, những câu chuyên học trò yêu
đương và bao câu chuyện đau lòng khác… Học trị ngày nay được tiếp cận với
cơng nghệ truyền thơng hiện đại nên thật đáng lo khi con trẻ quay lưng lại với
truyền thống, bỏ qua những nếp sống đẹp mà bao đời nay dân tộc gìn giữ, phát
huy. Phải làm sao để định hướng, để dạy các em lựa chọn? Là một giáo viên dạy
văn chúng ta làm sao có thể làm ngơ trước thực trạng như thế? Ở độ tuổi từ 15- 18
các em chưa trải nghiệm nhiều, vốn hiểu biết cịn hạn hẹp, kinh nghiệm sống ít
nhưng lại rất nhạy cảm với đời sống bên ngồi. Vì vậy khi truyền thụ những kiến
thức giáo điều, xa rời thực tế khiến các em không hứng thú học tập và cảm thấy
điều thấy cơ nói là khơng có thực.
Chính vì vậy ở bài viết này tơi muốn đề cập đến việc đổi mới phương pháp liên hệ
thực tế trong mỗi tác phẩm văn chương sinh động, hấp dẫn, gẫn gũi với đời sống
thực tế của học sinh THPT ngày nay giúp các em nhận thức, tư duy được vấn đề
của cuộc sống, từ đó các em có thể lựa chọn sáng tạo, trau dồi cho mình những tình
cảm đạo đức cho phù hợp, hình thành nhân cách tốt trở thành người cơng dân có
ích cho xã hội. Trong q trình thực hiện đề tài này, bản thân tơi nhận thấy phương
pháp liên hệ thực tiễn có tính giáo dục phù hợp sẽ góp phần làm nên thành cơng
lớn trong mỗi giờ văn, giúp các em hứng thú, say mê học tập vì các tác phẩm văn
chương có khả năng khơi gợi tình cảm, định hướng các giá trị sống cho học sinh
THPT từ đó giúp học sinh có nhận thức tư tưởng đúng đắn, ni dưỡng ước mơ, lí
tưởng, biết sống và phấn đấu.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
2. 1. Dạy văn trước hết là dạy cách sử dụng ngôn ngữ:

Văn học là nghệ thuật ngơn từ, có hiểu được ý nghĩa của từ ngữ, điển cố,…
trong một tác phẩm mới có thể hiểu được mạch lạc cú pháp và toàn bộ bài văn trừ
những bài văn khơng có từ ngữ gì khó cần giải thích riêng hay những điển cố sâu
kín cần bình luận riêng. Thơng thường, từ ngữ trước sau vẫn là nhân tố quan trọng
đặc biệt cần lưu ý trong khi giảng bình.
5


Vì vậy, trong cuộc gặp gỡ các đồng chí lãnh đạo và cán bộ nghiên cứu giáo dục,
đồng chí Phạm Văn Đồng nhấn mạnh khâu giảng văn trong đó phải lưu ý đến từ
ngữ: “trong ngơn ngữ thì từ là quan trọng nhất rồi đến câu sau đó đến văn. Cho
nên dạy từ là rất cần thiết, phải hiểu tất cả ý nghĩa của từ, ý nghĩa sâu xa, ý nghĩa
phong phú, phải hiểu tất cả cách dùng từ. Bất cứ người dùng văn nào, cuối cùng
cũng thấy hiểu từ, dùng từ đúng chỗ là điều quan trọng và cũng là điều khó khăn
bậc nhất.” (tập san Đại học sư phạm, số 1 – 1974).
Điều đó chứng tỏ dạy từ là rất cần thiết, phải giảng cả nghĩa gốc rồi mới giảng
nghĩa trong văn cảnh. Nói một cách khái quát, khi giảng từ ngữ cần phân biệt hai
khâu liên hoàn: khâu nghĩa gốc và khâu văn chương. Nghĩa là khi đi vào tác phẩm
văn học, các từ ngữ thường không phải bao giờ cũng chỉ xuất hiện trong dạng cố
định và đơn giản như khi còn tồn tại trong các cuốn từ điển. Trái lại, do khả năng
sáng tạo của nhà văn, những nghệ sĩ ngôn từ- ý nghĩa và theo đó, nội dung biểu đạt
của rất nhiều từ ngữ phải được coi là kết quả của hàng loạt các thao tác tư duy hình
tượng như liên tưởng, so sánh, đối chiếu … giữa các sự vật, hiện tượng trong thực
tế khách quan, giữa tâm tư tình cảm của con người với các sự vật xung quanh cuộc
sống … như thế từ ngữ trong tác phẩm văn học sẽ mới mẻ, sinh động hơn. Vì vậy,
muốn cho học sinh hiểu tất cả ý nghĩa của từ cũng như hiểu tất cả mọi cách dùng
từ, với mỗi giáo viên, không thể bỏ qua việc phân tích các từ ngữ, tức là không thể
dừng lại ở những cơ sở đầu tiên là giải nghĩa từ một cách chung chung mà tạo điều
kiện cho học sinh vừa nắm được những giá trị nghệ thuật tinh tế của từ đồng thời
thấy được khả năng của người viết trong việc vận dụng từ ngữ để hình thành tác

phẩm.
Mơn ngữ văn là một mơn học vốn đã chưa đựng những yếu tố phù hợp với các nội
dung cơ bản của giáo dục kĩ năng sống, giúp học sinh có năng lực ngơn ngữ để học
tập, giao tiếp và nhận thức về xã hội, con người, giúp học sinh làm giàu cảm xúc
thẩm mỹ và định hướng thị hiếu để hồn thiện nhân cách.
Ví dụ: Khi phân tích hai câu thơ đầu trong đoạn trích “Trao duyên” (“Truyện
Kiều” – Nguyễn Du): “Cậy em, em có chịu lời - Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”,
giáo viên phải giúp các em khám phá ý nghĩa của các từ cậy, chịu lời, lạy, thưa.
Tại sao Nguyễn Du không dùng từ “nhờ” mà dùng từ “cậy”? không dùng “nhận”
mà dùng “chịu”? Chính vì giữa các từ ấy có sự khác biệt khá tinh vi. Đặt “nhờ”
vào chỗ “cậy”, không những thanh điệu câu thơ sẽ nhẹ đi, âm thanh không đọng ở
chữ thứ nhất của câu thơ nữa và làm giảm đi cái đau đớn, quằn quại khó nói của
Kiều. Mặt khác, ý nghĩa của một lời khẩn cầu, một sự nương tựa, gửi gắm, tin
tưởng ở một mối tình ruột thịt cũng phần nào giảm đi. Cịn giữa “chịu” và “nhận”
thì dường như có vấn đề tự nguyện hay khơng tự nguyện nữa. “Nhận” thì ít ra
cũng có ý kiến của người nhận lời. “Chịu” lời thì hình như chỉ có một sự nài ép
phải nhận vì khơng nhận khơng được. Trong tình thế của Th Vân bấy giờ chỉ có
“chịu” lời chứ làm sao có thể “nhận” lời được. Chỉ với một vài từ cân nhắc kĩ đã
gợi lên chiều sâu của một tình thế phức tạp và càng làm cho câu thơ có dáng dấp
như một lời cầu nguyện linh thiêng. Các từ “lạy”, “thưa” cũng được sử dụng rất
đắt. Đối với một cử chỉ hi sinh vì người khác như vậy, chỉ có kính phục và biết ơn,
ngày xưa phải tỏ bày bằng cái lạy. Thuý Kiều đòi lạy Thuý Vân là lạy cái hi sinh
6


cao cả ấy. Câu thơ đã thể hiện cách dùng từ độc đáo, tinh tế của Nguyễn Du và làm
nổi bật tính cách của một nàng Kiều thơng minh, sắc sảo, thâm trầm trong thấu
hiểu lẽ đời.
Từ việc dạy ngôn ngữ giúp học sinh lĩnh hội và cảm nhận tác phẩm văn chương.
Mỗi tác phẩm văn chương có một chủ đề, một kết cấu riêng biệt, người giáo viên

cần lựa chọn cách giảng cho phù hợp với mỗi bài văn, mỗi thể văn. Việc giảng giải
từ ngữ rất là quan trọng, yêu cầu bám sát từ ngữ, cắt nghĩa được cặn kẽ nghĩa của
từ. Chẳng hạn, phân tích kĩ những nhóm từ, những vế trong đoạn trích “Nỗi
thương mình” của Truyện Kiều như “bướm lả ong lơi”, “tỉnh rượu”, “tàn canh”,
“giật mình”, “thương mình”… làm nổi bật tâm trạng của Thuý Kiều ở cảnh ngộ bi
đát, ê chề, bẽ bàng nhất…, đồng thời thấy được sự sâu sắc, tinh tế trong cảm nhận
và khả năng sử dụng ngôn ngữ thật tài tình, độc đáo của Nguyễn Du.
Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh sinh động, cụ thể gây ấn tượng mạnh trong “Mấy ý
nghĩ về thơ” : “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng
chạm với cuộc sống. Tóe lên ở những nơi giao nhau của tâm hồn với ngoại vật,
trước hết là những cảm xúc” ; “Mỗi chữ như một ngọn nến đang cháy, những
ngọn nến ấy xếp bên nhau tạo thành một vùng sáng chung…”. Với cách diễn đạt
ấy, một vấn đề của lí luận văn học trừu tượng, khơ khan bỗng trở nên hết sức cụ
thể, sinh động.
Viết về nỗi khốn cùng của Đô- xtôi- ép- xki trong những năm lưu vong nơi đất
khách quê người, tác giả Xvai– gơ đã miêu tả thất sinh động qua những từ ngữ,
hình ảnh cụ thể gây ấn tượng mạnh “Trái tim ông chỉ đập vì nước Nga cịn thân
thể ơng sống leo lét trong một thế giới đối với ông là xa lạ”; “Năm mươi tuổi,
nhưng ông đã chịu hàng thế kỉ dằn vặt”.
“Tun ngơn độc lập” của Hồ Chí Minh là áng văn nghị luận mẫu mực, với ngơn
ngữ súc tích, chính xác, giàu sức biểu cảm. Chẳng hạn, khi nói về thực dân Pháp
tác giả sử dụng những từ ngữ đầy sức tố cáo và mỉa mai “chúng tuyệt đối không
cho chúng ta một chút tự do dân chủ nào”, hai chữ “tuyệt đối” nhằm nhấn mạnh
và chính xác hơn ý văn. “Bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta
rước Nhật”: hai chữ “ quỳ gối” và “rước” đã vẽ lên tư thế nô lệ, hèn nhát của
thực dân Pháp; Hoặc “Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái
lại, trong 5 năm, chúng đã bản nước ta hai lần cho Nhật” thì chữ “bảo hộ” đầy
châm biếm, chữ “bán nước ta hai lần” đã vạch rõ bộ mặt xấu xa của chúng.
Như vậy, phân tích từ ngữ trong giảng văn là chỉ cho học sinh thấy được nội dung
mà người viết muốn truyền đạt qua từ ngữ đó, đồng thời thấy được giá trị nghệ

thuật của từ ngữ đó khi tham gia xây dựng các hình tượng và bộc lộ chủ đề, tư
tưởng của tác phẩm. Vì thế, nếu khơng hiểu đúng nghĩa của từ, khơng nắm được
chính xác nội dung mà người viết muốn gửi gắm qua từ thì mọi sự phân tích về giá
trị nghệ thuật của từ sẽ chỉ là sự cười ra nước mắt vì mọi giá trị nghệ thuật của từ
trước hết là nó có phản ánh đầy đủ và đúng nhất cái mà tác giả muốn truyền đạt
hay không. Vẻ đẹp của ngôn từ là nhân tố quan trọng tạo nên chất văn, giá trị thẩm
mĩ cho tác phẩm văn học. Trong giờ đọc- hiểu hướng dẫn học sinh đi tìm chất văn
trong hệ thống từ ngữ không chỉ giúp các em rung cảm trước những giá trị biểu
7


cảm của ngơn từ, mà cịn góp phần rèn luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ của các em
trong quá trình làm văn và giao tiếp trong cuộc sống.
- Nắm chắc từ ngữ với phương thức chuyển nghĩa:
Trong ngôn ngữ, mỗi từ đều có ý nghĩa cơ bản để xác định trực tiếp đặc trưng
chủ yếu của đối tượng mà nó biểu thị, ý nghĩa cơ bản này gọi là nghĩa gốc của từ.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp nghĩa gốc chỉ là nghĩa vốn có chứ khơng phải
là nghĩa duy nhất, ngồi nghĩa gốc từ cịn có thêm nhiều nghĩa mới nhờ phép
chuyển nghĩa.
Sự chuyển nghĩa của từ từ nghĩa này sang nghĩa khác là một nguồn bổ sung rất
phong phú làm giàu cho khả năng diễn đạt của ngơn ngữ vì thế trong tác phẩm văn
học người viết ln ln có ý thức vận dụng các phương thức chuyển nghĩa của từ
để làm giàu cho ngôn ngữ của mình, tinh tế, hàm súc, sinh động. Ngồi ra thơng
qua cách vận dụng các thao tác chuyển nghĩa từ, người viết cịn bộc lộ nhận thức
và đánh giá của mình đối với cuộc sống.
Như câu nói của cụ Mết trong tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành :
“Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, có người nói câu văn này có khả
năng “gánh” được cả tác phẩm. Câu nói của cụ Mết khơng đơn giản chỉ nói đến
việc kẻ thù có súng thì mình phải có giáo, nếu thế thì làm sao “giáo” có thể đọ với
“súng”? Điều mà tác giả muốn gửi gắm qua câu nói này đó là vấn đề sinh tử của

cách mạng Việt Nam trong những tháng năm đau thương ấy. Câu nói của cụ Mết
đặt ra tư tưởng của truyện, cũng là tư tưởng lớn của cuộc chiến đấu lúc bấy giờ:
phải dùng bạo lực cách mạng mới có thể tiêu diệt được bạo lực phản cách mạng.
Nhân dân miền Nam khơng cịn sự lựa chọn nào khác. Đây là chủ đề chính trị
mang đậm cảm hứng sử thi của Nguyễn Trung Thành. Nếu khơng có khả năng
phân tích từ ngữ thì khó mà hiểu được thấu đáo vấn đề.
Khi phân tích các trường hợp chuyển nghĩa chúng ta cần chú ý nêu bật tính chất
mới mẻ, sáng tạo của mỗi trường hợp cụ thể bằng cách so sánh chúng với các
trường hợp khác. Bởi vì, nếu nhà văn biết tìm tịi suy nghĩ trong cách biểu hiện thì
tính hình tượng của hình thức chuyển nghĩa sẽ gây được ấn tượng sâu sắc, sẽ tạo ra
được cái đẹp, cái mới, cái bất ngờ trong mối tương quan giữa nhiều lĩnh vực khác
nhau của thực tế.
Liên tưởng những con sóng khi cao, khi thấp, khi “dữ dội”, khi “dịu êm”, Xuân
Quỳnh đã nhìn thấy sự tương đồng của nó trong trạng thái của tình yêu con người,
đặc biệt là đối với người phụ nữ. Trên cơ sở đó, nhà thơ đã viết: dữ dội,dịu êm,…
Như vậy, từ những trạng thái sóng biển chuyển sang trạng thái của tình yêu là một
hoạt động sáng tạo của tác giả và do đó những từ: dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ đã
đem lại cho người đọc liên tưởng thú vị về những trạng thái tâm hồn của con người
khi yêu.
Như vậy, phương thức chuyển nghĩa là một công cụ để phát triển tư duy chính xác
cho người đọc lẫn người viết.
- Nắm vững từ ngữ với các hình thức đặc biệt:
+ Hình thức đồng nghĩa:
Từ đồng nghĩa là những từ gần nhau về nghĩa nhưng khác nhau về vỏ âm thanh
dùng để biểu thị các khía cạnh của một khái niệm, điều đó có nghĩa là: trong khi
8


dùng để biểu thị một khái niệm, mỗi một từ trong nhóm đồng nghĩa thường chỉ
chính xác hóa, cụ thể hóa một mặt nào đó của khái niệm mà thơi.

Trong nhóm từ đồng nghĩa, các từ thường phân biệt với nhau bằng nhiều sắc thái
khá tinh vi: sắc thái ý nghĩa, sắc thái tình cảm, sắc thái phong cách… Để phân tích
giá trị từ ngữ ấy, giáo viên trên cơ sở những phân biệt đó mà so sánh đối chiếu cái
khả năng biểu đạt của từ ngữ cần phân tích với từ ngữ khác đồng nghĩa với nó khi
ta đặt vào ngữ cảnh. Qua so sánh, giá trị nghệ thuật của từ ngữ cần phân tích sẽ
được bộc lộ rõ nét.
+ Hình thức đồng âm :
Hiện tượng đồng âm thường xảy ra trong phạm vi của những từ ngắn, có cấu trúc
đơn giản vì như vậy từ dễ chứa đựng những khái niệm khác nhau.
Nhìn chung, hiện tượng đồng âm trong tiếng Việt là một phương tiện tu từ rất có
hiệu quả, đặc biệt là ở địa hạt chơi chữ. Với tư cách là một trò chơi chữ từ đồng âm
thường được sử dụng theo nhiều cách khác nhau. Vì thế, để khai thác hiện tượng
đồng âm một cách có hiệu quả, người dạy một mặt phải chú ý đến những đặc điểm
chung của hiện tượng đồng âm, mặt khác phải phân biệt được những trường hợp cụ
thể mà ở đó hiện tượng đồng âm được sử dụng.
Một số trường hợp, hiện tượng đồng âm hay được sử dụng để tạo ra những ngữ
cảnh trong đó một hoặc một số từ có thể được hiểu nước đơi:
Ví dụ: “Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non”
Khi đọc câu ca dao này, chúng ta vô cùng ngạc nhiên trước sự sáng tạo, thông
minh của tác giả dân gian qua cách lợi dụng hiện tượng đồng âm, phơ diễn những
am hiểu của mình về từ và nghĩa của từ. Nghĩa của từ “già” chỉ một mức độ cụ thể
của tuổi tác, còn nghĩa của từ “non” ở câu thứ hai thì khó khẳng định hơn bởi vì
nó được bố trí ở sự đan chéo ở hai ngữ cảnh khác nhau: ngữ cảnh thứ nhất, “non”
là một tính từ chỉ một mức độ cụ thể của tuổi tác (trong thế đối lập với “già” ).
Còn theo ngữ cảnh thứ hai, “non” như một danh từ chỉ một sự vật trong thiên
nhiên (trong mối quan hệ với “núi”). Cái hay của từ “non” trong câu ca dao trên là
ở chỗ cùng một lúc nó khiến cho trước mặt người đọc lung linh hai ý nghĩa khác
nhau và cũng chính sự lung linh, huyền diệu đó mà người đọc có được những xúc
cảm thẩm mỹ tươi tắn, ấn tượng.

Cũng có khi người tạo ra những ngữ cảnh chứa đựng nhiều từ có quan hệ đồng âm
với một loạt các từ khác cùng thuộc phạm vi ý nghĩa.
+ Hình thức trái nghĩa:
Hai từ được coi là trái nghĩa so sánh trong cùng một trường ngữ nghĩa, chúng có
cấu trúc ngơn ngữ giống nhau nhưng độc lập nhau ở tính chất của thành tố ngôn
ngữ. Dưới sự sáng tạo của nhà văn, các từ trái nghĩa trở nên có một giá trị biểu đạt
và tác dụng tu từ học rất lớn, nhất là khi người viết muốn phản ánh thế giới khách
quan trong sự thống nhất giữa các mặt đối lập của nó.
Ví dụ:
Có tư liệu cho rằng khi sáng tác bài thơ “Thề non nước”; mới đầu câu :
“Non cao những ngóng cùng trơng
Suối khơ dịng lệ chờ mong tháng ngày”
9


đã được Tản Đà viết “suối tn dịng lệ chờ mong tháng ngày ».
Với chữ “tn”, hình ảnh của dịng nước tượng trưng cho nỗi niềm mong đợi đã
rất đạt rồi, thế nhưng phải đợi cho tác giả thay hẳn khơng phải một từ đồng nghĩa
với nó (chảy, ứa, trào…) mà là một từ trái nghĩa “khơ” thì giá trị của câu mới
vươn lên đến tầm cao nhất. “Tuôn” trong “suối tn dịng lệ » có thể nói lên được
nỗi ngóng trơng đang giai đoạn cao nhưng nét biểu thị về thời gian thì thấp hơn từ
“khơ”. Nỗi ngóng trơng với hình ảnh: “suối khơ dịng lệ” là một nỗi ngóng trơng
đã mỏi mịn theo năm tháng. Thời gian trơi đi, dịng lệ đã chảy ra, tn ra và bây
giờ đã khô cạn hết, ấy vậy mà cái đang mong đợi vẫn chưa thấy trở về. Ở đây, nỗi
chờ mong héo hắt cả tâm hồn ấy chỉ có thể có được khi từ “khô” thay thế từ
“tuôn” trong mối quan hệ độc lập đầy sáng tạo như thế của tác giả.
Khi phân tích những từ ngữ kiểu này, người dạy bắt buộc phải có một kiến thức
tương đối hồn chỉnh về vấn đề nghĩa của từ cũng như tất cả các đối tượng khác
nhau có tổ chức ổn định. Chúng ta hồn tồn có thể coi một tác phẩm văn học như
là một hệ thống với đầy đủ tính chất của thuật ngữ này. Như vậy, tác phẩm văn học

sẽ được hình thành ra với tư cách là một cấu trúc tập thể bao gồm hai cấu trúc nhỏ
hơn. Cấu trúc ngôn ngữ (các yếu tố thuộc ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong
cách…) và cấu trúc văn học (các yếu tố thuộc chủ đề, đề tài, bố cục, hiện
tượng…). Cấu trúc ngơn ngữ của bất kì tác phẩm nào bao giờ cũng có hai lượng
nghĩa: một là cái ý do những câu, những chữ thông thường biểu đạt ra một cách
thông thường và hai là cái ẩn ý thường cũng là cái chủ ý của tác giả được chính
những câu, những chữ ấy biểu hiện ra một cách sâu xa và kín đáo. Cấu trúc ngơn
ngữ và cấu trúc văn học trong tác phẩm văn học gắn bó chặt chẽ với nhau, phân
tích các yếu tố của cấu trúc ngơn ngữ là đồng thời phân tích cấu trúc văn học và
cũng vì thế phân tích cấu trúc ngơn ngữ là điều khơng thể thiếu trong giảng bình
của bài học về tác phẩm văn chương.
- Nắm vững từ ngữ trong sự tương quan với cả đoạn, cả bài văn :
Tìm hiểu đoạn văn tố cáo tội ác của giặc Minh trong bài Đại cáo bình Ngơ
(Nguyễn Trãi), chúng ta phải giúp học sinh hiểu đây là một bản cáo trạng dài. Chi
tiết cụ thể có, nhận định khái quát có, vừa cụ thể vừa khái quát. Từng lời, từng lời
đau đớn, nhưng toàn bộ các chi tiết, các nhận định gộp lại thì cả đất nước chỗ nào
cũng như rớm máu, chỗ nào cũng căm giận, oán than. Tội ác đầu tiên thật ghê rợn,
tội khủng bố. Nhưng đây không phải là chém giết bằng giáo gươm, mà bằng hành
vi tàn bạo, dã man :
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Để làm nổi bật tội ác của giặc Minh, học sinh phải hiểu, phải phân tích những hình
ảnh, từ ngữ thể hiện trong câu văn trên. Hình ảnh vừa cụ thể vừa khái quát. Lời văn
như có máu đỏ chảy ra rồi đen lại. Đen trong dân đen, đỏ trong con đỏ là chỉ về
người dân bình thường, tuy vốn xuất phát từ màu sắc, nhưng cái đau thương của
hình ảnh hình như muốn truyền cho các từ này cái màu sắc của máu đỏ trào ra, của
thịt sẫm đen lại. Và bỏ qua cái tượng trưng, ước lệ, tác giả đã gọi sự vật đúng tên
của nó : nướng, vùi - cách nói tỉnh táo của ngịi bút hiện thực đầy căm phẫn. Ngay
lửa hung tàn, hầm tai vạ cũng như khơng muốn gói mình trong cái tượng trưng
10



ước lệ ấy mà đòi trở về với hiện thực : nướng thật, vùi thật, lửa là lửa hung tàn,
hầm là hầm tai vạ. Tỉnh táo để nói ra sự thật mà lòng nhức nhối, đớn đau. Từng
chữ như từng giọt máu. Từng chữ như đúc lại đau xót và căm thù. Cụ thể mà khái
quát. Khái quát để trở thành nhận định, trở thành lời cáo trạng, lời phát xét, để
thuyết phục lí trí lâu dài, để trái tim người đọc rỏ máu cùng nỗi đau bất tận của
người xưa.
- Đổi mới phương pháp – phân tích từ ngữ trong dạy đọc văn theo hướng phát
huy tính tích cực của học sinh :
+ Định hướng học sinh từ khâu chuẩn bị bài:
Yêu cầu học sinh đọc tác phẩm một cách thật kĩ lưỡng. Ghi lại những cảm nhận
ban đầu, những đoạn văn, đoạn thơ, những hình ảnh, chi tiết mà mình thích thú
cũng như những chỗ cịn băn khoăn, thắc mắc chưa lí giải được sau khi đọc.
Học sinh tra từ điển, đọc chú thích,… để lí giải nghĩa của từ, ngữ, câu văn, câu thơ,
hình ảnh, chi tiết nghệ thuật nào đó, giúp các em rèn luyện kĩ năng giảng giải, giải
thích một cách khoa học, hiệu quả.
Giáo viên phải tổ chức, thiết kế hệ thống câu hỏi định hướng để học sinh tiến vào
thế giới những tín hiệu nghệ thuật trong tác phẩm văn chương đồng thời gợi mở
cách thức bình giá cái hay, cái thú vị của những chi tiết đó. Bên cạnh đó, giáo viên
phải yêu cầu học sinh sưu tầm, tìm đọc, giới thiệu những phần phân tích, những lời
bình hay về tác phẩm để tăng cường sự hiểu biết và khả năng cảm thụ tác phẩm.
Tuỳ theo từng bài học cụ thể, từng đối tượng học sinh và điều kiện học tập khác
nhau mà giáo viên vận dụng cho linh hoạt, phù hợp trong việc sử dụng các biện
pháp hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học.
Khi dạy bài “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”, giáo viên đã định hướng học
sinh một số câu hỏi chuẩn bị bài, ngoài hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài trong
sách giáo khoa. Tìm những câu văn thể hiện tính cách của Tử Văn. Tác giả ca ngợi
đức cương trực, lịng nghĩa khí, và sự chiến thắng của kẻ sĩ đối với bọn gian tà như
thế nào? Những từ ngữ diễn tả thái độ của Tử Văn trước tên Bách bộ họ Thôi,

trước Thổ công và trong khi xử kiện ở Diêm Vương ?
Học sinh phải hiểu được thái độ của Tử Văn trước những lời buộc tội của viên
Bách hộ họ Thôi. Viên Bách hộ họ Thơi xuất hiện với hình dáng một cư sĩ, tức là
thổ thần địa phương, hộ nước giúp dân. Hắn lại quở trách Tử Văn bằng nguyên lí
đạo nho, buộc Tử Văn phải dựng trả đền như cũ, nếu khơng thì sẽ “khó lịng tránh
khỏi tai vạ”. Nhưng đối lại, Tử Văn : mặc kệ, cứ ngồi ngất ngưởng, tự nhiên. Mặc
cho tên gian tức giận, thề thốt, doạ nạt, phất áo ra đi, Tử Văn vẫn cứ một mực điềm
nhiên. Lấy cái không hề biến đổi để chọi với cái biến đổi đủ mặt, bên nào mạnh
hơn bên nào ? Tử Văn một mực làm thinh, một mực an nhiên nhưng bên trong đã
phục sẵn một tình thế đảo ngược: Cái mặc kệ, ngất ngưởng của Tử Văn, cái bất
biến ấy mới là sức mạnh so với cái vạn biến ; là một thứ im lặng để thu sức vào
bên trong, chờ đợi cơ hội.
Ngồi ra, lời bình cuối truyện là một lời bình hay. Hay ý nghĩa hay cả lời văn:
“Người ta thường nói : Cứng thì gãy, kẻ sĩ lo khơng cứng mà thơi, cịn gãy, khơng
gãy là việc trời. Sao nên đốn trước là sẽ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm? Ngô Tử
Văn chỉ là một anh áo vải. Duy giữ được cái cứng nên dám đốt cháy đền tà, bẻ gãy
11


yêu quỷ, chỉ một hành động mà cái tức của thần, của người đều được rửa sạch, vì
thế mà rạng danh đời Minh Tào, rồi được trao chức vị để đền công, thật là xứng
đáng. Làm kẻ sĩ chớ kiêng sợ sự cứng cỏi”. Lời bình đề cao cái cứng cỏi của Tử
Văn, cái cứng cỏi vì chính nghĩa, dù có nhất thời chịu khuất nhưng chắc chắn được
mọi người ủng hộ và nhất định sẽ chiến thắng. Muốn cho cái cứng cỏi ấy càng rỡ
sáng thì khơng thể khơng đặt nó bên cạnh những mảng đen tối của cuộc đời. Cho
nên ca ngợi phải đi đôi với sự phê phán. Phê phán cái độc ác, ngu dốt, lừa bịp của
hệ thống chính quyền phong kiến.
+ Tập cho học sinh phát hiện những từ ngữ quan trọng, những câu then chốt,
những chi tiết, hình ảnh nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm:
Trong tác phẩm bao giờ cũng nổi lên những điểm sáng thẩm mĩ. Đó là một số từ

ngữ, hình ảnh, chi tiết quan trọng hơn, kết tinh cao nhất tư tưởng và tài nghệ của
nhà văn. Người xưa thường gọi là thi nhãn (mắt thơ), nhãn tự (chữ mắt), cảnh cú
(câu thơ kêu vang lên)…Những chi tiết được gọi là quan trọng cũng đồng thời là
những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm văn chương, bởi cái quan trọng và
cái hay bao giờ cũng thống nhất trong lĩnh vực của văn chương nghệ thuật.
Nắm bắt được những chi tiết quan trọng hay những tín hiệu thẩm mĩ đang ẩn hiện
trong tác phẩm văn chương là thao tác cần thiết để đến với cái hay, cái đẹp của tác
phẩm văn chương. Có nhà nghiên cứu văn học đã từng nói đó là “những cái nút
động, mà khi ta ấn vào thì cả bài văn sáng bừng lên".
Vậy những nút động ấy nằm ở đâu? Chắc chắn là ở những từ ngữ đắt nhất, ở
những thủ pháp đặt câu, dựng đoạn công phu, ở cách sử dụng ngữ âm sáng tạo của
nhà văn, đó là những lớp từ láy, từ tượng thanh, tượng hình và cả những từ khơng
phải là tượng thanh, tượng hình, tưởng như rất bình thường cũng lại chính là những
tín hiệu nghệ thuật.
Ví dụ: từ “đoàn binh” trong bài thơ “Tây Tiến”. Tại sao tác giả khơng dùng từ
đồn qn? Bởi từ đồn binh nghe có sức nặng và âm vang hơn. Người đọc có
cảm giác như đang lắng nghe những bước chân kiêu hùng của đoàn binh Tây Tiến.
Và chẳng hạn như từ “thẹn” trong bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão. Học
sinh phải biết tại sao tác giả dùng từ thẹn, ý nghĩa của nó, cảm nhận được điều mà
tác giả muốn gửi gắm,…Khi dạy bài này tại lớp 10B2, tôi đã hướng dẫn các em
khám phá, phân tích các từ ngữ quan trọng của bài thơ, và từ đó, các em đã lĩnh hội
nội dung tư tưởng bài học tốt hơn. Các em đã rất thích thú khi tự khám phá ý nghĩa
của từ, hiểu tác phẩm và có một số em thuộc lịng bài thơ ngay tại lớp.
Những tín hiệu nghệ thuật có khi nằm ở ngay nhan đề của tác phẩm.
Ví dụ như nhan đề các tác phẩm Vợ nhặt, Đôi mắt, Rừng xà nu,…
+ Xây dựng hệ thống câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề hướng dẫn, tổ chức học sinh phân
tích từ ngữ trong đọc văn :
Hướng dẫn học sinh đọc- hiểu bài kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng? » của Hồng
Phủ Ngọc Tường, chắc chắn giáo viên phải giúp cho học sinh cảm nhận được vẻ
đẹp thơ mộng, độc đáo, riêng biệt của dòng sông Hương và cố đô Huế. Để đạt

được yêu cầu đó, giáo viên phải tổ chức một hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp học
sinh tiến vào những tín hiệu nghệ thuật của bài kí. Sau đây là một vài câu hỏi tiêu
biểu:
12


Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra nhiều vẻ đẹp khác nhau của dịng sơng
Hương và đặt tên cho những vẻ đẹp ấy. Em hãy cho biết đó là những vẻ đẹp nào?
Vẻ đẹp sông Hương được tác giả khám phá từ những phương diện nào? Những từ
ngữ, hình ảnh nào giúp các em nhận biết điều đó?
Căn cứ vào hệ thống từ ngữ đặc sắc của tác phẩm, em hãy cho biết vẻ đẹp của
sông Hương ở phương diện khơng gian, địa lí?
Cảm nhận của tác giả về sơng Hương trước khi nó về với vùng châu thổ êm đềm?
Tại sao tác giả lại so sánh sông Hương với “cơ gái Di-gan phóng khống và man
dại”?
Những từ ngữ nào cho thấy sông Hương đã thành con sông của thi ca, nhạc hoạ,
bồi đắp phù sa văn hoá cho đất cố đô, gợi nên một nguồn thơ vô tận? Tại sao tác
giả nói sơng Hương là dịng sơng của “thời gian ngân vang”, là “sử thi viết giữa
màu cỏ lá xanh biếc”?...
Nói chung, giáo viên phải định hướng, gợi mở để học sinh tiếp cận với những tín
hiệu nghệ thuật, phân tích những từ ngữ quan trọng, những từ ngữ gợi hình và
truyền cảm sâu sắc để các em nhận thức đầy đủ nội dung tư tưởng và nghệ thuật
của tác phẩm.
Điều đó chứng tỏ để cảm nhận vẻ đẹp của sơng Hương ở phương diện khơng gian
địa lí, các em phải phân tích được giá trị của những từ ngữ: Khi đi qua giữa lịng
Trường Sơn, sơng Hương có vẻ đẹp “phóng khống và man dại” như “một cơ gái
Di-gan”; khi ra khỏi rừng, sơng Hương nhanh chóng mang một “sắc đẹp dịu dàng
và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”; dịng sơng
hiện lên với nhiều từ ngữ giàu giá trị thẩm mĩ khác: dịng sơng mềm như tấm lụa,
tạo nên những phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm

xanh, trưa vàng, chiều tím”, vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí, như cổ thi, dịng sơng
mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình u,…
Ngồi ra, để khám phá vẻ đẹp sơng Hương ở phương diện văn hoá và lịch sử, học
sinh buộc phải phân tích được các từ ngữ quan trọng và đặc sắc như: đó là “bản
trường ca của rừng già; là dịng Linh Giang; nó sống hết lịch sử bi tráng…; là
dịng sơng của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi
nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến cơng, để rồi khi nó trở về
với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước, có một
dịng thi ca về sơng Hương, dịng sơng ấy khơng bao giờ tự lặp lại mình trong cảm
hứng của các nghệ sĩ, sông Hương trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya,…
Như vậy, giáo viên đã dẫn dắt học sinh khám phá, cắt nghĩa, bình giá cái hay, cái
đẹp của văn bản. Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là bài kí đặc sắc của Hoàng Phủ
Ngọc Tường. Giúp các em cảm nhận được tình yêu và niềm tự hào của tác giả về
quê hương, đất nước, thấy được vẻ đẹp đầy chất thơ của dịng sơng Hương và bề
dày văn hố, lịch sử của đất cố đô.
Khi thực hiện phương pháp giảng dạy này, chúng tôi nhận thấy các em học sinh
tiếp thu bài học nhanh hơn, hiểu bài học sâu sắc hơn.
Khi phân tích những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của chuỗi từ ngữ đó,
các em khơng những có được những cảm thức thẩm mĩ tồn diện về vẻ đẹp sông
13


Hương, cảnh vật và con người cố đô Huế mà cịn giúp các em rèn luyện kĩ năng
phân tích từ ngữ, hình ảnh trong tác phẩm văn chương. Và hơn hết, các em sẽ khắc
sâu kiến thức, nhớ bài học lâu hơn, bởi chính các em đã tự khám phá, thẩm thấu
bài học bằng con đường phân tích, bình giảng những tín hiệu nghệ thuật của tác
phẩm.
Mặt khác, chính thao tác phân tích từ ngữ trong tác phẩm văn chương sẽ giúp các
em lĩnh hội tốt hơn đối với những bài học về Tiếng Việt và vận dụng hiệu quả hơn

trong khi làm các bài văn nghị luận, nhất là nghị luận văn học. Các em tự tìm tịi,
phát hiện, suy nghĩ, giải thích, đánh giá cái đặc sắc, thú vị của đoạn văn, đoạn thơ
trên cả bình diện nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Giáo viên không phải phân tích
thay, bình thay cho học sinh. Điều đó sẽ tránh được phương pháp dạy học theo lối
cung cấp kiến thức áp đặt cho học sinh, buộc học sinh học thuộc những kiến giải
của thầy.
+ Nghiên cứu, học tập các đoạn bình giảng đặc sắc của các nhà văn, nhà thơ, nhà
nghiên cứu, phê bình văn học :
Trong quá trình chuẩn bị bài học và sau khi học xong tác phẩm, giáo viên cung cấp
cho học sinh danh mục những bài, những đoạn giảng bình đặc sắc và yêu cầu học
sinh tìm đọc, nghiên cứu, chỉ ra cái hay trong lời bình của người viết. Khám phá
này khơng chỉ giúp các em hiểu được những phát hiện độc đáo, ngôn ngữ bình, kĩ
thuật bình mà cịn giúp các em rèn luyện kĩ năng phân tích từ ngữ trong giờ đọc
văn. Bởi đây là biện pháp có nhiều tác dụng đối với việc nâng cao khả năng cảm
thụ và bình giá thơ văn của học sinh, giúp các em thêm hiểu, thêm yêu văn học, bồi
dưỡng cách tư duy văn học, thị hiếu thẩm mĩ và sự nhạy bén trong cảm thụ văn
chương. Học sinh cũng học được từ đó các kĩ thuật bình giảng văn thơ và nghệ
thuật sử dụng ngơn ngữ trong phân tích, bình văn thơ hiệu quả hơn. Số học sinh có
sổ tay văn học chưa nhiều nhưng so với năm học trước thì đã có sự khởi sắc. Các
em đã biết chắt lọc những kiến thức cơ bản, ghi lại những đoạn văn hay, độc đáo
bình giảng về các từ ngữ then chốt, quan trọng trong văn bản đã học. Thái độ học
tập cũng có nhiều chuyển biến.
2.2. Dạy văn là dạy kĩ năng sống:
Như ta đã biết tiếp nhận văn học là một hoạt động nhằm chiếm lĩnh giá trị tư
tưởng, giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Thơng qua q trình đầu tiên là tiếp
xúc, cảm thụ văn bản ngôn từ đến việc cảm nhận, hiểu ra chân giá trị của hình
tượng nghệ thuật và cảm hứng của nhà văn, tài năng diễn tả của nhà văn để làm
nên tác phẩm đó. Và cuối cùng là quá trình kết thúc sự tiếp nhận ở người đọc qua
việc hiểu, rung cảm, có được những rung cảm, những ấn tượng và chịu ảnh hưởng
của tác phẩm, của hình tượng nghệ thuật trong đời sống cá nhân.

Quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học đã giúp cho con người có được những thói
quen, những tình cảm lành mạnh, những suy ngẫm để tự rèn luyện, tự điều chỉnh
bản thân bởi vì chức năng tiếp nhận văn học khơng chỉ đơn thuần là q trình
người đọc tiếp xúc với tác phẩm văn học mà nó cịn diễn ra quá trình nhận thức ở
họ khi người đọc và người học có ý thức cao về những vấn đề trong tác phẩm văn
học.
14


Ví dụ 1 : Khi dạy tác phẩm « Vợ nhặt » của nhà văn Kim Lân, hình ảnh bà cụ Tứ hình ảnh người mẹ Việt Nam nghèo khó nhưng yêu thương con, giàu lòng vị tha,
mang lại niềm tin cho các con. Đứng trên bờ vực thẳm của cái chết bà vẫn nhen
nhóm niềm tin, động viên con vượt qua.
Hoặc trong tác phẩm « Chiếc thuyền ngồi xa » của nhà văn Nguyễn Minh Châu,
với hình ảnh một người mẹ hi sinh bản thân mình vì con, sự chịu đựng « ba ngày
một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng », « xin lên bờ để đánh » chỉ để chắt chiu
hạnh phúc nhỏ nhoi « nhìn đàn con được ăn no ».
Thật đúng là « Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ », người mẹ luôn là chỗ dựa,
là niềm tin, là nguồn động viên, là ánh sáng để cho con bước vào đời. Nếu lúc nào
đó trên đường đời con có vấp ngã, đổ vỡ, bế tắc, mất mát, mệt mỏi …thì con lại
khao khát trở về bên mẹ với ngôi nhà thân quen con sẽ tìm lại được sự yên tĩnh
trong tâm hồn.
Khi dạy hai tác phẩm này tôi lại liên hệ với những người mẹ thực tế hiện nay, từ đó
khơi gợi cho học sinh những suy nghĩ, tình cảm của mình đối với người mẹ của
mình. Có thể từ trước đến nay các em chưa quan tâm lắm đến tình cảm của mẹ
dành cho mình, sống vơ tư, hoặc có những suy nghĩ lệch lạc…thì sau bài học này
các em sẽ dành nhiều tình cảm và sự quan tâm đến mẹ mình hơn.
Sau khi học xong tác phẩm tơi cho các em làm bài kiểm tra 15 phút với đề bài
« Em có suy nghĩ gì về mẹ của mình ? Em đã thực sự sống vì mẹ hay chưa ? ». Khi
chấm bài tôi thật sự ngỡ ngàng và vui, khơng ngờ bài học lại có thể tác động đến
các em sâu sắc như vậy, có những bài khiến tơi khơng cầm được nước mắt. Có học

sinh đã viết « Em thấy mình thật ích kỉ, cơ có biết khơng vì sự ích kỉ của em mà mẹ
đã ra đi mãi mãi : em đòi mẹ mua cho em một chiếc xe đạp điện đi học để bằng
bạn bè, mà nhà em thì nghèo lắm, mẹ đã đi làm mướn bất cứ cơng việc gì để kiếm
tiền trong khi mẹ bị bệnh tim. Bây giờ xe đạp thì em đã có nhưng em khơng cịn
mẹ, em nhớ mẹ, em cần mẹ biết bao, em hối hận nhiều lắm cô à, giá mà thời gian
quay trở lại thì… »
Có học sinh thì lại chia sẻ bằng những dịng tình cảm ấm áp « Em may mắn cịn có
mẹ cơ à, mẹ em rất thương em dù ba em đã bỏ mẹ con em đi vì mẹ em sinh tồn
con gái. Mẹ đau lịng nhưng đã ở vậy ni chị em em đến tận bây giờ, mẹ có thể
nhịn mặc ăn đói nhưng không bao giờ để chúng em phải thiếu thốn. Em yêu mẹ
nhiều lắm, em nguyện sẽ ngoan, học giỏi, thành đạt, trở thành niềm hãnh diện của
mẹ, để chứng minh cho ba thấy là đã sai lầm khi bỏ mẹ con em mà đi… »
Rồi lại có học sinh viết « Em khơng thể cảm nhận được tình u của mẹ vì từ khi
em sinh ra em đã khơng có mẹ rồi, em chỉ cảm nhận được tình u của nội dành
cho em, chắc có lẽ tình cảm của nội dành cho em cũng như của người mẹ cô
nhỉ ? »
Khi phân tích đến cảnh đánh vợ dã man của người đàn ông làng chài, giáo viên cho
các em nói lên suy nghĩ của mình về hành động đó, và để chấm dứt tình trạng bạo
lực gia đình theo em chúng ta cần làm gì ?
Có học sinh thì cho rằng chúng ta cần phải thông cảm cho người đàn ơng vì họ bế
tắc nên mới làm thế, bởi sau khi đánh vợ con ông ta lại tiếp tục làm việc vì gia đình
15


chứ khơng rượu chè bê tha…Có học sinh thì lại kiên quyết dù vì bất cứ lí do gì
hành động đó cũng phải lên án và chấm dứt…
Giáo viên chốt lại : Đây là một hiện tượng chúng ta vẫn bắt gặp đây đó trong cuộc
sống, ở đây người mẹ khơng chỉ bị hành hạ về thể xác mà cịn bị dày vò về tinh
thần. Còn những đứa con, chúng sẽ ra sao nếu môi trường sống không thay đổi ?
Tất cả mọi người, các cơ quan đoàn thể hãy hành động một cách có trách nhiệm,

hãy tìm những giải pháp thiết thực để người phụ nữ được sống bình đẳng, được tôn
trọng ; trẻ em được bảo vệ, được u thương, được sống trong n bình.
Ví dụ 2 : Khi dạy tác phẩm « Một người Hà Nội » của nhà văn Nguyễn Khải, qua
việc dạy con của bà Hiền, giáo viên có thể cho học sinh nhận xét, từ đó liên hệ đến
gia đình mình.
CH : Bà Hiền dạy con từ những cái nhỏ nhất : ngồi ăn, cầm bát đũa, múc canh…
đến cách ứng xử, cách sống phải có lịng tự trọng. Em có suy nghĩ như thế nào ?
Liên hệ tới gia đình mình ? (học sinh phát biểu theo suy nghĩ, cảm nhận, hiểu biết
của mình ).
Câu hỏi này của tơi đã trở thành một cuộc tranh luận khá ngoạn mục trong tiết học,
rất nhiều ý kiến được đưa ra :
- Em thấy bà Hiền quá khắt khe, đằng nào cũng ăn, ăn sao cho no, cho đảm bảo
sức khỏe là được rồi. Ở nhà em mỗi người cứ múc vào một tô ăn cho thoải mái, lại
đỡ phải rửa nhiều chén bát, đỡ phải chờ đợi, ai về trước thì ăn trước…Cịn sống
thì phải có lịng tự trọng, nhưng tùy lúc, có những hồn cảnh phải dẹp bỏ lịng tự
trọng của mình…
- Em nhất trí với cách dạy con của bà Hiền, cách sống như vậy thể hiện nề nếp,
lịch sự, phép tắc của một gia đình. Ở nhà em dù mâm cơm chỉ có rau mắm cũng
phải dọn mâm đồng hồng, khơng được ăn tô, ba mẹ em cũng luôn chỉnh sửa con
cái về cách ăn uống… Đã sống trên đời thì bất cứ lúc nào cũng phải có lịng tự
trọng, có lịng tự trọng tức là con người có danh dự được mọi người tin tưởng, yêu
mến…
Giáo viên chốt lại : Đây khơng phải là chuyện sinh hoạt vặt vãnh mà nó là văn hóa
sống, là đạo đức của con người, khiến con người không thể sống tùy tiện, buông
tuồng. Con người sống phải có lịng tự trọng dù trong bất kì hồn cảnh nào. Bởi
lịng tự trọng khơng cho phép con người ta sống ích kỉ, hèn nhát. Mất lịng tự trọng
thì con người sống khơng cịn ý nghĩa, chỉ cịn một tâm hồn chết. Yêu cầu học sinh
lấy ví dụ những tấm gương có lịng tự trọng.
Ví dụ 3 : Tác phẩm « Rừng xà nu », của nhà văn Nguyễn Trung Thành hay tác
phẩm « Những đứa con trong gia đình », của nhà văn Nguyễn Thi là tác phẩm tiêu

biểu cho khuynh hướng sử thi của nền văn học Cách mạng.
Học xong tác phẩm giáo viên có thể đặt câu hỏi : Chúng ta đang sống trong một
đất nước hịa bình, tự do. Em có suy nghĩ gì về cuộc sống hơm nay, trách nhiệm
của mình đối với đất nước ?
Giáo viên chốt lại : cuộc sống hôm nay thật tươi đẹp, để có được ngày hơm nay
cha ông ta đã phải đổ biết bao xương máu. Mỗi chúng ta phải ý thức được giá trị
của cuộc sống, phải biết bảo vệ và dựng xây. Để xứng đáng với những gì mà cha
16


ông ta đã hi sinh, mỗi người cần cố gắng học tập, rèn luyện để có thể góp sức mình
xây dựng cuộc sống hôm nay ngày càng tươi đẹp hơn.
Qua truyện kể về một buôn làng, về cuộc đời anh hùng, học sinh nhận thức được
những bài học về chân lí cách mạng, nhận thức về lí tưởng sống, lịng yêu nước,
mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Từ đó học sinh nhận thức được rằng : cần
phải sống, phải phấn đấu không phải chỉ cho bản thân mình mà cần phải biết sống
vì cộng đồng, vì quê hương, biết phấn đấu cho lí tưởng sống tốt đẹp. Học sinh sẽ đi
tìm kiếm những giá trị truyền thống, giá trị tinh thần tốt đẹp trong truyền thống đấu
tranh, tình u với cộng đồng, bản làng, q hương, đó là những giá trị bền vững
và quý giá.
Với tác phẩm « Những đứa con trong gia đình », qua câu chuyện về một gia đình
nơng dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung với cách
mạng giúp học sinh nhận thức được sức mạnh của dân tộc trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước từ góc nhìn truyền thống gia đình ; mối liên hệ giữa truyền
thống gia đình và truyền thống dân tộc ; sự lựa chọn và lí tưởng sống của mỗi cá
nhân, mỗi gia đình, dịng tộc làm nên truyền thống của đất nước. Học sinh tìm
kiếm những vẻ đẹp của thế hệ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước, liên hệ đến thế hệ
mình đang sống, tìm thấy giá trị truyền thống, giá trị tinh thần tốt đẹp trong truyền
thống đấu tranh, tình u và niềm tự hào về gia đình, dịng dõi, quê hương.
3. GIÁO ÁN MINH HỌA :

Tiết:
67- 68D

Đọc văn:
Giáo viên:
NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH Đỗ Thị Hồng Nhung
(Nguyễn Thi)
A. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT:
- Hiểu được nguồn gốc tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn và những chiến thắng của dân
tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước
- Thấy được một số đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.
B. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC, KĨ NĂNG:
1/ Kiến thức:
Hiểu được phẩm chất tốt đẹp của con người trong gia đình Việt, nhất là Chiến và Việt.
Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình và tình yêu đất nước, yêu cách mạng; giữa
truyền thống gia đình và truyền thống dân tộc tạo nên sức mạnh to lớn của con người
Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Nghệ thuật trần thuật đặc sắc, nghệ thuật xây dựng tính cách miêu tả tâm lí nhân vật,
ngơn ngữ phong phú, góc cạnh, đậm chất hiện thực và màu sắc ở Nam Bộ
2/ Kĩ năng:
Tóm tắt, đọc- hiểu truyện ngắn hiện đại theo đặc trưng thể loại; so sánh văn học.
3/ Thái độ: giáo dục các em niềm tự hào dân tộc, lòng yêu nước, và thái độ căm thù giặc
sâu sắc, tình cảm với truyền thống gia đình, dân tộc.
4/ Năng lực:
HS có thể hình thành các năng lực sau:
Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản.
Năng lực giải quyết những tình huống đặt ra trong các văn bản.
Năng lực đọc – hiểu truyện ngắn theo đặc điểm theo thể loại.

17



Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về ý nghĩa của văn bản.
Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về nội dung và nghệ thuật của văn bản
C. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN:
- Sách giáo khoa, Chuẩn kiến thức kĩ năng, sách tham khảo.
- Thiết kế giáo án.
D. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN:
Diễn giảng, phát vấn, thảo luận, gợi mở, đàm thoại...
E. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP:
1. Ổn định lớp – kiểm tra bài cũ:
Câu 1: Tóm tắt truyện Những đứa trong gia đình của Nguyễn Thi?
Câu 2: Vẻ đẹp của nhân vật Tnú qua tác phẩm “Rừng xà nu”, Nguyễn Trung Thành?
2. Bài mới:
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS Nội dung bài học
Hoạt động 1: Giới Lắng nghe, tạo tâm
thiệu bài mới: Kể về thế vào bài.
nhân vật chị Út Tịch
trong tác phẩm “Người
mẹ cầm súng”, từ đó
dẫn dắt vào tác phẩm
này.
Hoạt động 2: Hướng
dẫn học sinh tìm hiểu
phần tiểu dẫn trong
SGK.
Dựa vào phần tiểu dẫn
hãy tóm tắt vài dịng về
tiểu sử của tác giả

Nguyễn Thi?
Hãy cho biết những nét
cơ bản về tư tưởng và
phong cách của tác giả
qua tác phẩm "Những
đứa con trong gia
đình"?

HS đọc phần tiểu I. Giới thiệu chung:
dẫn
1. Tác giả (SGK)
a. Tiểu sử: SGK
Học sinh tóm tắt trả
lời.
HS nêu ý chính

b. Tư tưởng - phong cách
- Gắn bó sâu sắc với nhân dân Nam
Bộ, là nhà văn của nhân dân Nam Bộ
thời kỳ chống Mỹ.
- Nhân vật tiêu biểu:
Người nông dân Nam Bộ với những
nét tính cách tiêu biểu.

Hiểu biết của em về HS trả lời
hoàn cảnh ra đời, giá trị
tác phẩm "Những đứa
con trong gia đình”
Gọi 1-2 HS tóm tắt văn Hs đọc diễn cảm
bản sau khi đọc xong.

văn bản theo hướng
dẫn của GV.
HS đọc chú thích
phần chân trang.
- Phát biểu chủ đề của Trình bày một phút.

18

2. Tác phẩm "Những đứa con trong
gia đình".
- Truyện ngắn xuất sắc - ra đời trong
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
- Đọc và tóm tắt văn bản:
- Giải nghĩa từ khó:
SGK trang 58-60.
- Chủ đề: qua truyền thống yêu nước


tác phẩm?

của một gia đình nơng dân Nam Bộ,
nhà văn muốn nói tới sự gắn bó sâu
nặng giữa tình cảm gia đình và tình
yêu nước, tình yêu cách mạng.
III. Đọc, hiểu văn bản

Hoạt động 3:
Tiếp tục hướng dẫn HS
tìm hiểu văn bản.
Hãy đề xuất hướng tìm Hs thảo luận trả lời

hiểu văn bản?
Truyện "Những đứa HS suy nghĩ trả lời
con trong gia đình"
được trần thuật chủ yếu
từ điểm nhìn của nhân
vật nào?
Nhân vật được đặt
trong tình huống như
thế nào? Hãy nêu tác
dụng của cách trần
thuận đó đối với kết HS lắng nghe
cấu truyện và việc khắc
họa tính cách nhân vật?
Những nét thống nhất
tạo nên nét truyền
thống của gia đình Việt
- Chiến?
Cho HS phân nhóm, trả
lời GV bổ sung, giảng
giải, kết luận.

Tìm những chi tiết
trong tác phẩm đề cập
đến hình tượng chú
Năm? Trong số những
chi tiết ấy em ấn tượng
với chi tiết nào nhất?
Vì sao?
GV bình chi tiết tiếng
hị

Từ đó nêu những nhận
xét khái quát của em về
nhân vật này?

A. NỘI DUNG:
1. Cảm nhận chung
- Kể chuyện: tự sự qua dòng hồi tưởng
của Việt khi bị trọng thương nằm lại 1
mình ở chiến trường, trong bóng tối.
→ nhà văn có điều kiện nhập sâu vào
thế giới nội tâm nhân vật để dẫn dắt
câu chuyện.
⇒ Diễn biến câu chuyện biến đổi linh
hoạt, tự nhiên.
- Sự hịa quyện, gắn bó giữa tình cảm
gia đình với tình yêu đất nước, những
truyền thống gia đình với truyền thống
dân tộc tạo nên sức mạnh to lớn của
người Việt nam, dân tộc Việt nam
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
2. Hình tượng nhân vật:
HS suy nghĩ, thảo a. Nét chung thống nhất của gia
luận, trả lời
đình:
+ Căm thù giặc sâu sắc
Đại diện nhóm, trả + Gan góc, dũng cảm, khao khát, chiến
lời
đấu, giết giặc.
+ Giàu tình nghĩa, rất mực thủy chung
son sắt với quê hương, Cách mạng.

→ truyền thống gia đình trong mối
quan hệ với truyền thống Cách mạng,
dân tộc tạo nên 1 dịng sơng truyền
thống.
b. Nét riêng tiêu biểu từng thành viên
(1) Chú Năm:
HS hệ thống, trả lời - Hay kể về sự tích gia đình, tác giả
của cuốn biên niên sử gia đình.
- Dặn dị các cháu
Hs lắng nghe
- Tiếng hò đầy tâm tư:
HS thảo luận trả lời. tha thiết, nhắn nhủ, lời thề , trái tim,
tâm hồn
+ Luôn hướng về truyền thống, đại
diện và lưu giữ truyền thống. Ơng là
khúc thượng nguồn của dịng sông
truyền thống, là nơi kết tinh đầy đủ
hơn cả truyền thống của gia đình

19


GV nhận xét, bổ sung
Hình tượng người mẹ HS thảo luận theo (2) Má Việt - Chiến:
được nhắc đến như thế nhóm, đại diện Hiện thân của truyền thống:
nào trong tác phẩm? Vì nhóm trả lời
+ Tảo tần, đảm đang, tháo vát thương
sao bảo người mẹ
yêu chồng con hết mực.
chính là hiện thân của

+ Ghìm nén đau thương đời mình để
truyền thống?
sống, chở che cho đàn con và chiến
đấu.
Em có suy nghĩ gì về HS phát biểu tự do
hình ảnh người mẹ Việt theo hiểu biết và
Nam truyền thống và cảm nhận của chính
người mẹ Việt Nam mình.
thời hiện đại? Đối với
em, mẹ của em có vai
trị như thế nào trong
cuộc sống của em?
GV nhận xét, lý giải,
kết luận.
→ Bà là biểu tượng về người phụ nữ
GV bình 1 vài chi tiết ở HS lắng nghe
trong đoạn trích, có thể
nơng dân Nam Bộ thời chống Mỹ
mở rộng trong những
chi tiết ở phần trước.
So với mẹ, chị Chiến HS tìm những chi (3) Chị Chiến:
có những điểm nào tiết tiêu biểu, nhận - Giống mẹ: + Vóc dáng
giống và khác? Nguyễn xét
+ Đức tính: gan góc, đảm
Thi có dụng ý như thế
đang
→ kế thừa
nào trong việc xây
dựng hình tượng chị
- Tính cách

Chiến?
Vừa trẻ con: tranh cơng bắt ếch,
tranh đi tịng qn, tranh công bắt tàu
giặc
→ Vừa ý thức là chị:
+ Thương em , lo cho em, nhường
nhịn em.
→ 1 cô bé hồn nhiên, vô tư ở tuổi mới
lớn
- Khác mẹ
+ Trẻ trung, thích làm dáng
+ Có điều kiện trực tiếp cầm súng
đánh giặc trả thù nhà, thực hiện lời thề
sắt đá.
→ biết kế thừa và phát huy truyền
thống tốt đẹp của gia đình và dân tộc
Em ấn tượng ở nhân HS lựa chọn, suy (4) Việt
vật Việt bởi những nét nghĩ, trả lời.
- Tính tình hồn nhiên, trẻ con
tính cách tiêu biểu nào?
+ Ln giữ trong mình cái ná thun, cho
tới khi đã vào bộ đội.


20


+ Bị thương rất nặng tới lần 2 "trong
bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo", Việt
không sợ chết mà lại sợ ma và bóng

đêm.
+ Yêu chị nhưng hay tranh giành với
chị.
+ Rất u q đồng đội nhưng khơng
nói thật là mình có chị, sợ mất chị,
phải giấu chị.
- Có tình thương yêu gia đình sâu đậm:
+ Tình cảm chi em, đối với linh hồn
má, với chú Năm.
+ Hình ảnh cha mẹ thân yêu luôn chập
chờn trong hồi ức khi bị thương.
- Tính chất anh hùng, tinh thần chiến
đấu dũng cảm:
+ Luôn ý thức phải sống và chiến đấu
để trả thù nhà, đền nợ nước xứng đáng
với truyền thống gia đình.
+ Can đảm chịu đựng khi bị thương.
+ Tư thế luôn sẵn sàng chiến đấu dù
đang bị kiệt sức.
→ Một con sóng vươn xa nhất trong
dịng sơng truyền thống, người tiêu
biểu cho tinh thần tiến công cách
mạng.
Viêt là một thành công trong ngòi bút
của Nguyễn Thi, tuy hồn nhiên bé nhỏ
trước chị nhưng lại vụt lớn trước kẻ
thù, chững chạc trong tư thế của một
người chiến sĩ.

GV gợi ý, phân tích, HS lắng nghe

bình 1 vài chi tiết.

Bài học kĩ năng sống:
Sự lựa chọn của thế hệ
thanh niên thời đánh
Mỹ: truyền thống gia
đình và truyền thống
dân tộc, sức mạnh của
huyết thống, quyết tâm
đánh giặc để trả thù
nhà, đền nợ nước.

H. Em có kết luận như HS thảo luận theo Tiểu kết:
thế nào về "Những đứa nhóm, đại diện trả Mỗi con người trong gia đình là một
con trong gia đình"?
lời
khúc sơng trong dịng sơng truyền
thống. Mỗi khúc sơng có một đặc điểm
riêng nhưng họ vẫn hướng về tô đậm
hơn, phát huy hơn truyền thống gia
đình gắn chặt trong mối tình đất nước
thời kháng chiến chống Mỹ
Khái quát những nét cơ HS suy nghĩ trả lời 3. Ngôn ngữ nghệ thuật:
bản về ngôn ngữ nghệ 01 phút.
- Xây dựng nhân vật bằng chi tiết cụ
thuật của tác phẩm?
thể, làm rõ góc cạnh của cuộc sống, tạo
nên khơng khí chân thực và có linh
hồn.
- Ngôn ngữ mang đậm chất Nam Bộ.

- Phát huy tối đa ngôn ngữ độc thoại

21


nội tâm.
→ tài năng Nguyễn Thi trong nghệ
thuật kể chuyện
* Chi tiết đắt giá nhất: Chị em Chiến
khiêng bàn thờ má sang gởi nhà chú
Năm → tập quán lâu đời gợi sự thiêng
liêng, nhân vật trở nên trưởng thành
hơn có thể gánh vác việc gia đình và
viết tiếp trang sử truyền thống tốt đẹp
của gia đình và dân tộc (lần đầu tiên
Việt thấy rõ lịng mình: thương chị lạ,
cịn mối thù thằng Mỹ thì có thể rờ
thấy vì nó đang đè nặng trên vai) .

Động não: Đọc xong HS chọn, trả lời
truyện ngắn, em có ấn
tượng với chi tiết nào
nhất? Vì sao?
HS lắng nghe
GV bình

Hoạt động 4: Hướng HS lưu ý phần ghi B. NGHỆ THUẬT:
dẫn học sinh tổng kết
nhớ, đúc kết, ghi - Truyện mang màu sắc sử thi.
* Kĩ năng sống: Giao chép

- Tình huống truyện : Việt - một chiến
tiếp, trình bày, trao đổi
sĩ Qn giải phóng - bị thương phải
về cách thể hiện sức
nằm lại trên chiến trường. Truyện kể
mạnh của dân tộc
theo dòng nội tâm của Việt khi liền
trong cuộc kháng chiến
mạch (lúc tỉnh), khi gián đoạn (lúc
chống Mĩ cứu nước (từ
ngất) của "người trong cuộc" làm câu
góc nhìn truyền thống
truyện trở nên chân thật hơn ; có thể
gia đình)
thay đổi đối tượng, khơng gian, thời
gian, đan xen tự sự và trữ tình.
- Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể vừa
giàu ý nghĩa, gây ấn tượng mạnh.
- Ngơn ngữ bình dị, phong phú, giàu
tính tạo hình và đậm sắc thái Nam Bộ.
- Giọng văn chân thật tự nhiên, nhiều
đoạn gây xúc động mạnh.
C. Ý NGHĨA VĂN BẢN
- Tác phẩm thể hiện ý HS trình bày cá Qua câu truyện về những con người
nghĩa tư tưởng gì của nhân
trong một gia đình nơng dân Nam Bộ
nhà văn?
có truyền thống yêu nước, căm thù
Kĩ năng sống:
giặc, thuỷ chung với quê hương, với

- Tuổi trẻ ngày nay cần HS trình bày cá cách mạng, nhà văn khẳng định : sự
có trách nhiệm gì đối nhân
hồ quyện giữa tình cảm gia đinh và
với đất nước? Lí tưởng
tình u nước, giữa truyền thống và
của em là gì?
truyền thống dân tộc đã tạo nên sức
mạnh tính thần to lớn của con người
Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước
- Tìm đọc trọn vẹn tác
IV. Hướng dẫn tự học:
phẩm Những đứa con
trong gia đình.
- So sánh hai nhân vật

22


Việt và Chiến.
Từ đó nói lên suy nghĩ
của em về trách nhiệm
của tuổi trẻ hiện nay
đối với đất nước.
* Dặn dò:
- Nắm cốt truyện, nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
- Chuẩn bị cho tiết học sau: ôn tập “Rừng xà nu”, theo câu hỏi hướng dẫn của GV.

III.


HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI:
Trong năm học 2014- 2015, qua 3 lớp 10B2, 12C4, 12C6 tôi trực tiếp giảng
dạy, tôi đã vận dụng phương pháp liên hệ thực tế trong giờ ngữ văn, một kết quả
tôi nhận thấy rõ là các em hoạt động tích cực, tham gia thảo luận có hiệu quả và
đặt ra nhiều vấn đề khá thú vị. Giờ học văn đối với các em khơng cịn nhàm chán
mà thực sự đã trở thành tiết học để các em phát hiện những thông tin mới mẻ, chia
sẻ những quan điểm, những cách nhìn riêng, khơi gợi, ni dưỡng những cảm xúc
và mĩ cảm nghệ thuật. Qua đó các em rèn luyện kĩ năng động não, hợp tác, phản
biện. Từ đó giúp các em hứng thú và đam mê hơn với mỗi giờ học văn, định hình
được xã hội mình đang sống và những gì mình phải làm để hồn thiện nhân cách
của mỗi con người. Các em biết yêu thương, gắn bó với nhau hơn, biết xúc động
và đồng cảm, chia sẻ với những người gặp hoàn cảnh éo le. Đồng thời phát huy
được năng lực nhiều mặt của học sinh như: cảm nhận tinh tế, khả năng phẩm bình,
cách sử dụng ngơn ngữ, diễn đạt ...ngày càng tốt hơn.
Kết quả khảo sát đầu năm khi chưa thực hiện đề tài:
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
140
0
10
55

Yếu, kém
75

Kết quả cuối năm khi đã thực hiện đề tài:
Tổng số HS
Giỏi

Khá
140
05
40

Yếu
25

Trung bình
70

Như vậy, so với kết quả khảo sát đầu năm tỉ lệ học sinh giỏi, khá và trung
bình đã tăng lên rõ rệt; học sinh yếu giảm hẳn và học sinh kém không cịn.
Có thể thấy phương pháp đổi mới liên hệ thực tế trong giờ văn đã có tác động tích
cực đến sự chuyển biến tư tưởng, tình cảm, nhân cách học sinh. Với mục đích
hướng dẫn học sinh đi sâu khám phá giá trị từ ngữ trong văn bản văn học để các
em có thể cảm thụ sâu hơn, tốt hơn khi tiếp cận kiến thức trong giờ đọc văn, chúng
tôi đã tiến hành thực hiện các biện pháp trên đây. Kết quả sau khi áp dụng phương
pháp giảng dạy này, chúng tơi nhận thấy ở học sinh đã có những tiến bộ nhất định.
Bước đầu, học sinh đã hạn chế được thói quen thụ động, quen nghe, quen chép,
quen ghi nhớ và tái hiện lại kiến thức một cách máy móc những gì giáo viên đã
giảng, đã cho ghi lại. Các em đã đầu tư thời gian nghiên cứu văn bản, rèn luyện kĩ
23


năng phân tích từ ngữ, hợp tác với giáo viên trong giờ học. Biết trao đổi, tranh luận
với giáo viên. Một số học sinh đã có sự chủ động, tìm hiểu, khám phá bài học, đã
có thói quen tra từ điển để củng cố, mở rộng vốn hiểu biết về từ ngữ. Vì vậy, về cơ
bản, học sinh đã có những bước tiến đáng kể. Trong nhiều bài làm của học sinh đã
xuất hiện những ý tưởng độc lập trong suy nghĩ, rất hạn chế trường hợp giải thích,

phân tích từ ngữ một cách ngô nghê, lạc lõng, hay cách diễn đạt thuần tuý theo ý
vay mượn của người khác trong sách vở tham khảo.
Trong thời gian tới tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, tìm tịi đổi mới phương pháp giảng
dạy để mỗi giờ văn sẽ đem đến cho học sinh niềm say mê môn học và đạt được
hiệu quả giáo dục cao.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG:
1/ Đề xuất:
Liên hệ thực tế để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ đọc hiểu là công việc
thường xuyên và cần thiết ở tất cả các môn học. Tuy nhiên ở bộ mơn văn các đặc
thù của nó vẫn là sự sáng tạo dựa trên sự đồng cảm, sự cảm nhận của người học
qua người dạy văn và văn bản ngôn từ trong tác phẩm. Sự sáng tạo trong văn
chương khơng hề có sự giống nhau bởi sự liên tưởng, tưởng tượng ở mỗi người
khác nhau, tuy vậy vẫn có chỗ giống nhau trong tiếp nhận tác phẩm văn học giữa
các đối tượng: tác giả - người dạy- người học. Theo tơi để có sự gặp nhau ấy, cả
người dạy và người học phải có một trường liên tưởng, một sự tưởng tượng phong
phú, linh hoạt để từ đó người dạy có thể đưa người học vào tác phẩm bằng hệ
thống các câu hỏi, bằng lời bình, cách đọc, lời phân tích và người học tiếp nhận tác
phẩm bằng q trình tích luỹ từ ngữ, vốn hiểu biết và khả năng cảm nhận được tác
phẩm văn chương để lĩnh hội từ người dạy những gì tâm đắc nhất, đồng thời mở
rộng tầm hiểu biết, suy nghĩ trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “ Học sinh nhớ nhiều, học nhiều là
điều đáng khuyến khích nhưng đó quyết khơng phải là điều chủ yếu. Điều chủ yếu
là dạy học sinh cách suy nghĩ sáng tạo. Chúng ta phải xem lại cách giảng dạy văn
trong trường phổ thông của chúng ta, không nên dạy như cũ bởi vì dạy như cũ thì
khơng những việc dạy văn không hay mà việc đào tạo con người cũng khơng có kết
quả. Vì vậy dứt khốt chúng ta phải có cách dạy khác, phải dạy cho học sinh biết
suy nghĩ, suy nghĩ bằng trí óc của mình và diễn tả suy nghĩ đó theo cách của mình
thế nào cho tốt nhất”. Thiết nghĩ dạy học sinh biết suy nghĩ sáng tạo trong giờ đọc
văn là điều cần thiết.
Qua thực tế giảng dạy, chúng ta thấy học văn khơng phải chỉ để cảm thụ mà cịn

phải biết suy ngẫm về tác phẩm. Suy ngẫm để tự nhận thức để rồi sống tốt hơn, đẹp
hơn, cao thượng hơn. Mỗi học sinh cần tích lũy cho mình kinh nghiệm sống để làm
hành trang bước vào đời. Bởi vậy sự đổi mới về phương pháp liên hệ thực tế trong
giờ dạy văn có ý nghĩa xã hội lớn. Làm sao để tác phẩm văn chương khơng xa rời
cuộc sống, từ đó nâng cao chất lượng giờ học để học sinh đam mê, hứng thú học
tập hơn. Người thầy cũng sẽ cảm thấy giờ dạy nhẹ nhàng, thoải mái, chất lượng
hơn. Muốn vậy người thầy phải lựa chọn những phương pháp, những câu hỏi đúng
lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng tâm lí học sinh; phải tìm tịi nắm bắt kịp thời những
24


thơng tin xã hội... Học trị sẽ đam mê, hứng thú hơn, thẩm thấu tác phẩm một cách
tự nhiên, hiểu bài sâu hơn, nhớ bài lâu hơn, khơng mang tính chất gị ép, xóa được
khoảng cách giữa tác phẩm văn chương với đời sống hiện thực.
2. Khuyến nghị:
Vẻ đẹp của mỗi tác phẩm văn chương là do nhiều yếu tố tạo thành. Khi dạy văn,
giáo viên cần bám sát văn bản, nắm vững đặc trưng cơ bản của thể loại. Cùng với
việc giúp các em nắm được những giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản, hãy
để các em được rung cảm và cảm thụ chất văn của văn bản, được thăng hoa với
những cảm xúc thẩm mỹ mà văn học đem đến cho con người.
Để mỗi giờ dạy tạo được niềm hứng khởi thực sự cho thấy và trị, người giáo viên
phải khơng ngừng học hỏi, đổi mới phương pháp, tâm huyết với nghề.
Kính đề nghị cấp trên tổ chức nhiều hơn các hoạt động chuyên môn để giáo viên
có điều kiện học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ: tổ
chức các buổi chuyên đề, hội thảo; các giờ thao giảng cần sắp xếp thời gian và kế
hoạch sao cho đa dạng về thể loại văn bản; nhân rộng những sáng kiến kinh
nghiệm mang tính thực tiễn cao.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của cá nhân tôi về “Liên hệ thực tế trong
giờ đọc văn để tạo hứng thú cho học sinh” xin chia sẻ với quý đồng nghiệp. Với
kinh nghiệm chưa thật phong phú, sâu sắc, chắc chắn bài viết vẫn cịn chỗ thiếu

sót, hạn chế, rất mong được q đồng nghiệp đóng góp ý kiến để sáng kiến kinh
nghiệm này có thể ứng dụng rộng rãi và mang lại hiệu quả giáo dục cao. Xin chân
thành cảm ơn!

V.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
25


×