Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Ngữ văn 12 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 118 trang )

Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

Đề ra: Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”
(Nguyễn Minh Châu)
HƯỚNG DẪN
I. MỞ BÀI
“Chiếc thuyền ngoài xa” là sáng tác tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Minh Châu
thời kì đổi mới sau 1975. Tác phẩm rất tiêu biểu cho hƣớng tiếp cận đời sống từ
góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Có thể nói, đây là một trong
những tác phẩm chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc.
II. THÂN BÀI
1. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của nhà
văn Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm kể về tình huống của nghệ sĩ Phùng khi anh về
chụp bức tranh cảnh biển tại một bãi biển miền Trung. Tại đây anh phát hiện bức
tranh thiên nhiên đẹp mà trong cuộc đời cầm máy ảnh anh chƣa bao giờ đƣợc thấy.
Nhƣng đằng sau bức tranh đẹp ấy là cả một sự thật nghiệt ngã về cuộc sống của
một gia đình hàng chài. Cảnh ngƣời chồng vì đói nghèo thất học đã xem việc đánh
vợ là phƣơng thức giải tỏa những khổ đau cho mình. Rồi ở tòa án huyện anh đã
chứng kiến câu chuyện đầy cảm động của ngƣời đàn bà hàng chài khiến anh ngộ ra
biết bao điều về cách tiếp cận cuộc sống. Tất cả đƣợc đều nhìn qua cái nhìn đầy
nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính
đƣợc tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con
ngƣời, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện
sự nâng niu, trân trọng với những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vƣơn
dậy của con ngƣời dù trong bất kỳ hòan cảnh nào của cuộc đời.
2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”:
a. Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” đó là sự đồng cảm của nhà văn đối với cuộc đời người lao động sau
chiến tranh. Qua đó nhà văn lên án thói bạo hành trong cuộc sống gia đình
đang diễn ra trong xã hội: nhà văn đã miêu tả cuộc sống ấy với bao nỗi nhọc


nhằn của con ngƣời lao động thông qua hình tƣợng ngƣời đàn bà hàng chài. Nhà
văn cảm thƣơng cho số phận bất hạnh của chị (các em phân tích nỗi khổ của ngƣời
đàn bà: xấu xí, nghèo khổ, nạn nhân của bạo hành gia đình).
1|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

b. Biểu hiện thứ hai của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” đó làsự phê phán, lên án hành động vũ phu thô bạo của ngƣời chồng
trong đối xử với vợ, con (các em miêu tả cảnh ngƣời chồng đánh vợ) . Không
những vậy, nhà văn còn thể hiện nỗi lo âu, khắc khoải về tình trạng nghèo cực, tối
tăm của con ngƣời (cảnh đói nghèo, cơ cực, tình trạng bất ổn, bất trắc trong cuộc
sống …là nguyên nhân sâu xa của sự bạo hành và sự nhịn nhục chịu đựng); đồng
thời, Nguyễn Minh Châu cũng bày tỏ niềm trắc trở trƣớc cuộc sống của thế hệ
tƣơng lai (qua cách nhìn của nhà văn đối với cậu bé Phác).
c. Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài
xa” đó là ở sự khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động mà tiêu biểu
là người đàn bà hàng chài và đặt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của họ: Đó là
vẻ đẹp của lòng vị tha, sự thấu hiểu lẽ đời và tình mẫu tử sâu nặng (các em phân
tích câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện). Trong hoàn cảnh đau khổ,
nghèo khó, tăm tối vẫn ngời lên vẻ đẹp của tình yêu thƣơng, của đức hi sinh thầm
lặng.
d. Biểu hiện thứ tư của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” đó là tư tưởng nhân đạo mang tính triết lí của tác phẩm, còn được
thể hiện ở việc nhà văn đặt ra vấn đề : làm thế nào để giải phóng con ngƣời khỏi
những bi kịch gia đình, bi kịch cuộc sống con ngƣời muốn thoát khỏi đau khổ, tăm
tối, man rợ cần những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các
lí thuyết đẹp đẽ nhƣng xa rời thực tiễn, cần rút ngắn khoảng cách giữa văn chƣơng
và hiện thực đời sống. (các em đƣa thông điệp của nhà văn vào)

III. KẾT BÀI
Tóm lại, tinh thần nhân đạo trong “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là tấm lòng yêu
thƣơng, thông cảm, băn khoăn , trăn trở của Nguyễn Minh Châu trong việc phát
hiện đời sống và con ngƣời ở bình diện đạo đức thế sự. Qua đó tác phẩm thể hiện
quan niệm nghệ thuật của nhà văn ở giai đọan sáng tác thứ hai : Văn học nghệ
thuật phải gắn bó với cuộc sống, phải vì con ngƣời...Quan niệm ấy đã khiến tác
phẩm của Nguyễn Minh Châu ở giai đọan này giàu nhân bản.Đọc tác phẩm của
ông, ngƣời ta đau đớn, day dứt về thân phận con ngƣời và cùang tràn đầy khát
vọng làm ngƣời cao đẹp

2|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

Đề ra: Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm "Đời thừa" của nhà văn Nam
Cao (Sách giáo khoa 11 - Nâng cao, NXB Giáo Dục 2012)
HƯỚNG DẪN
(GIÁO VIÊN PHAN DANH HIẾU)
I. MỞ BÀI
Nam Cao là một nhà nhân đạo lớn, một cây bút xuất sắc của văn học hiện thực phê
phán trƣớc năm 1945. Nhà nhân đạo ấy đã để lại cho đời những tác phẩm thật sự
có "tấm lòng lớn" nhƣ "Đời thừa", "Chí Phèo". Trong đó, "Đời thừa" thực sự đã để
lại dấu ấn của Nam Cao về giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát: Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học dựa trên
niềm cảm thƣơng sâu sắc của nhà văn đối với số phận nhân vật. Nhà văn từ lòng
thƣơng ngƣời mà lên án tố cáo những thế lực đã chà đạp lên quyền sống của con
ngƣời. Cũng từ lòng nhân đạo, nhà văn cũng phát hiện và ngợi ca những phẩm chất
tốt đẹp của con ngƣời và kêu gọi giải phóng cá nhân ra khỏi những khổ đau và bất

hạnh. Truyện ngắn "Đời thừa" ra đời năm 1943, là tác phẩm phản ánh sâu sắc và rõ
nét về cuộc sống của những ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo ở nƣớc ta trong bối
cảnh đất nƣớc bị ngoại bang giày xéo. Tác phẩm đã gây tiếng vang lớn và thực sự
trở thành "tiếng kêu đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than". Nam Cao đã
phản ánh một cách rõ nét và chân thực những bi kịch lớn của ngƣời trí thức đƣơng
thời và cất tiếng kêu cứu thảm thiết đòi quyền sống cho họ.
2. Trong tác phẩm "Đời thừa", Nam Cao đã xây dựng thành công giá trị nhân
đạo sâu sắc ấy.
a. Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo là nhà văn xót xa thương cảm trước
những nỗi khổ đau của nhà văn Hộ khi sụp đổ giấc mộng văn chương và bi
kịch tình thương.
Nam Cao đã xót thƣơng và đồng cảm trƣớc bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ
, một nhà văn - một trí thức giữa “cơn dâu bể” của cuộc đời, giữa một xã hội “chó
đểu” (Vũ Trọng Phụng) – Nhà văn ấy giữ đƣợc phẩm giá của mình, ý thức đƣợc
“thiên chức” cao cả của mình vậy mà đành bó tay bất lực. Có thể nói, bi kịch đầu
3|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

tiên trong tấn bi kịch tinh thần của cuộc đời Hộ là bi kịch về những giấc mộng văn
chƣơng. Anh mơ ƣớc đến một ngày anh sẽ viết đƣợc một tác phẩm lớn chung cho
cả loài ngƣời. Nó đề cập đến những vấn đề bức xúc của cả xã hội của cả nhân loại.
Nó nói đƣợc những cái lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn vừa phấn khởi, nó ca tụng
lòng thƣơng tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho ngƣời gần ngƣời hơn.” Và nhất
định anh sẽ giật giải Nobel !
Thế nhƣng, trong sáng tác của mình anh đã viết những gì ? Anh đã cho ra
đời những sáng tác nhƣ thế nào ? Chao ôi ! Anh đã viết những bài mà thậm chí khi
đọc thấy tên của mình dƣới bài viết, anh phải “đỏ mặt” xấu hổ. Anh giận dữ với
chính anh. Anh khinh ghét những tác phẩm chỉ biết “gợi những tình cảm rất nhẹ rất

nông bằng một thứ văn quá ƣ bằng phẳng dễ dãi” của chính mình. Anh dằn vặt ghê
gớm, anh lên án chính mình "Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất
lƣơng, còn sự cẩu thả trong văn chƣơng thì thật là đê tiện".
Chính nỗi lo về tiền bạc đã buộc anh phải viết những bài trái với lƣơng tâm
và trách nhiệm. Trong đầu anh luôn quay cuồng với những tính toán về giá cả sinh
hoạt, về bữa ăn hằng hàng… thì đâu còn chỗ cho văn chƣơng nữa. Anh phải viết
thật nhanh, thật nhiều để ngƣời vợ, đàn con và chính anh khỏi chết đói. Giá nhƣ
anh cứ bỏ dứt cái mộng văn chƣơng thì chắc đời anh chẳng khốn đốn đến thế !
Nhƣng anh cần nghĩ tới tác phẩm của anh – các tác phẩm cho toàn nhân loại nên
anh lại càng đau đớn, càng khổ đau. Chao ôi ! “Đau đớn thay cho những kiếp sống
muốn cất cánh bay cao nhƣng lại bị áo cơm ghì sát đất” (Sống mòn). Đó chính là bi
kịch của cuộc đời viết văn của anh – bi kịch của những giấc mộng văn chƣơng
chính là ở chỗ đó !
Bi kịch đầu tiên của cuộc đời nhà văn Hộ và đó cũng là nguyên nhân cho bi
kịch thứ hai – bi kịch của một con ngƣời. Giấc mộng văn chƣơng sụp đổ qua
những bài viết ẩu. Thế nhƣng Hộ vẫn còn chút an ủi. Đó chính là cuộc sống, sự tồn
tại của vợ con anh. Quả là một sai lầm khi anh kết luận: nguyên nhân trực tiếp cho
sự sụp đổ các giấc mộng văn chƣơng chính là vợ anh và đàn con nheo nhóc kia.
Thất vọng trong văn chƣơng, buồn chán trong không khí gia đình đã khiến anh tìm
niềm vui trong men rƣợu. Và rƣợu - kẻ "làm đỏ mặt và đen danh dự" đã đƣa Hộ
thành kẻ vi phạm nguyên tắc tình thƣơng. Anh trở thành kẻ vũ phu, kẻ vô học.
Rƣợu đẩy Hộ đến bờ vực của sự tha hóa. Chính anh cũng không hiểu tại sao anh về
đƣợc đến nhà. Anh chỉ biết anh đã tỉnh dậy trên giƣờng nhà mình khi tay chân rã
rời. Men rƣợu “chết tiệt” ấy chính là cái trực tiếp làm cho bi kịch trong anh xuất
hiện. Anh đã đánh đập vợ, ngƣời vợ hiền lành tận tuỵ của mình không biết bao
4|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12


nhiêu lần nữa mà kể. Anh chỉ mặt Từ mà quát mắng: “Cả con mẹ mày nữa cũng
đáng vật chết”. Anh đã làm tất cả, tất cả trong say. Sao mà tai hại quá ! Anh đã vi
phạm lẽ sống của mình, vi phạm cái tốt đẹp – cái phần “ngƣời” vô cùng cao đẹp
tƣởng còn đƣợc an ủi bởi anh đã giữ trong lẽ sống tình thƣơng của mình. Ai ngờ,
cuộc sống vẫn không cho phép anh thực hiện điều đó. Thế mà nay, chính cái lẽ
sống ấy anh cũng chà đạp nốt. Lẽ sống tình thƣơng là cái đƣợc anh đề cao nhất mà
anh còn vi phạm thì chẳng còn gì nữa cả. Bi kịch này của anh, lớn hơn gấp bội bi
kịch kia bởi lẽ sống tình thƣơng, chỗ dựa của bao giá trị nhân phẩm khác sụp đổ.
Viết về nỗi đau này, Nam Cao dƣờng nhƣ cũng đang thổn thức cùng nhân vật.
b. Biểu hiện thứ hai của giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Đời thừa" là tiếng
nói của nhà văn lên án tố cáo thế lực đã gây ra nỗi đau cho nhà văn Hộ, đẩy
Hộ đến bờ vực của sự tha hóa, của bi kịch khủng khiếp. Bi kịch ấy có nguyên
nhân sâu xa chính từ xã hội đƣơng thời. Chính xã hội ấy đã đẩy anh phải lo “cơm
áo gạo tiền”. Nỗi lo sinh kế đã khiến anh phải từ bỏ giấc mộng văn chƣơng. Và
chính những thất vọng ấy đã khiến anh chà đạp lên lẽ sống tình thƣơng của mình.
Nguyên nhân ấy có lẽ anh không hiểu đƣợc – nguyên nhân của xã hội thực dân nửa
phong kiến – nguyên nhân mà ngày ấy ngƣời ta đã nhận ra. Anh chƣa tìm đƣợc lối
thoát cho sự bế tắc. Đó là cái bế tắc của thời đại mà anh đang sống.
c. Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Đời thừa" đó chính
là nhà văn phát hiện và trân trọng nâng niu vẻ đẹp tâm hồn của nhà văn Hộ.
Hộ là nhà văn chân chính. Anh là nhà văn rất có ý thức về nghề nghiệp. Anh
mê văn, say văn và có giấc mộng đẹp, một ngày nào đó, anh sẽ viết đƣợc một tác
phẩm mà sẽ "làm mờ hết tất cả các tác phẩm ra cùng thời". Đó là tác phẩm "ca
ngợi tình thƣơng, lòng bác ái, sự công bình. Nó làm ngƣời gần ngƣời hơn". Tác
phẩm đó phải đạt giải Nobel. Đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại trong đời viết văn của
anh. Nó sẽ làm rạng danh cho anh, cho nền văn học nƣớc nhà. Đó quả là ƣớc mơ
chính đáng ! Không phải ngƣời nghệ sĩ nào cũng khao khát nhƣ vậy khi bƣớc vào
con đƣờng văn chƣơng đầy khổ ải. Nhà văn phải biết xây ƣớc mơ đẹp, và khát
vọng của Hộ là khát vọng mạnh mẽ nhất và đẹp nhất. Hộ xác định đúng con đƣờng
cho mình – xác định tƣ tƣởng cho mình.

Hộ lên án thứ văn chƣơng rẻ tiền, hời hợt, dễ dãi. Thứ văn chƣơng "cẩu thả", "bất
lƣơng". Hộ yêu cầu văn chƣơng phải sáng tạo, bởi "văn chƣơng chỉ dung nạp
những ngƣời biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chƣa ai khơi và sáng tạo
những gì chƣa có". Hộ đầy hoài bão về giấc mơ chinh phục đỉnh cao. Anh là nhà
văn chân chính.
5|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

Không chỉ vậy, Nam Cao còn phát hiện ra Hộ là con ngƣời giàu lòng nhân ái.
Chính trong lời khẳng định về tác phẩm trong tƣơng lai của mình, anh đã nói: tác
phẩm có giá trị là tác phẩm “ca tụng lòng tƣơng, tình bác ái, sự công bình”. Trong
văn chƣơng, anh muốn ca ngợi tình thƣơng và trong cuộc đời thực, tình thƣơng là
tất cả. Chính vì lẽ sống tình thƣơng của mình, anh đã đón Từ, giúp Từ thoát khỏi
những tủi nhục khi một mình trơ trọi với đứa con không cha. Những giọt nƣớc mắt
của Từ và của bà mẹ già của Từ đã khiến anh xúc động. Họ muốn khóc cho đến
khi “bao nhiêu xƣơng thịt cứ tan ra thành nƣớc mắt” nhƣng gặp anh, tình thƣơng
của anh đã toả rạng đến giúp họ thoát khỏi những đớn đau. Một ngƣời dám bỏ cái
đời bay nhảy của tuổi xanh để nuôi nấng vợ con chẳng là ngƣời dũng cảm lắm sao
! Chính tình thƣơng - lẽ sống tình thƣơng đã khiến anh làm việc ấy. Anh cao đẹp
biết dƣờng nào!
d. Biểu hiện cuối cùng của giá trị nhân đạo là niềm tin của Nam Cao vào khả
năng vươn dậy của nhân vật. Cuối tác phẩm là hình ảnh Hộ ôm từ vào lòng. Bao
nhiêu đau đớn, bao nhiêu hối hận dồn nén lại ở Hộ để rồi bật lên thành tiếng khóc.
Tiếng "khóc nức nở, tiếng khóc bật ra như quả chanh người ta bóp mạnh" của Hộ
cho ta thấy sự hối hận và đau khổ lên đến tột cùng của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản
nghèo có nhân cách. Giọt nƣớc mắt ấy đã nâng đỡ Hộ, thanh lọc tâm hồn anh, giúp
anh đứng vững trên bờ vực thẳm của sự tha hoá. Chắc chắn đằng sau những giọt
nƣớc mắt ấy là sự "trở về" của nhà văn Hộ.

3. Đánh giá chung :Tƣ tƣởng nhân đạo mới mẻ của Nam Cao thể hiện ở việc nhà
văn biết đề cao những khát vọng đẹp của ngƣời trí thức, đã biết thông cảm với
những nổi khổ của họ. Những “tƣ tƣởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo” ấy đã là đáng
quý, đáng trân trọng biết bao ! Độc đáo, mới mẻ chính là ở lòng thƣơng ngƣời –
tình ngƣời nồng đƣợm bao la đằng sau lối viết văn tƣởng nhƣ dửng dƣng lãnh đạm.
Dƣờng nhƣ những day dứt trong cuộc đời ông - cuộc đời văn sĩ khổ ải – đã nhập
vào những suy tƣ của Hộ, đã nhập vào tấn bi kịch tinh thần của Hộ. Có ngƣời nói,
Hộ chính là hình ảnh của nhà văn Nam Cao thời kì trƣớc Cách mạng.
Có thể tự tin mà nói rằng với "Đời thừa", Nam Cao đã bộc lộ đƣợc tƣ tƣởng
nhân đạo mới mẻ, độc đáo của mình khi viết những dòng bi kịch về Hộ. Kinh
nghiệm và vốn sống đã cho ông viết những điều có sức rung động, lay chuyển lòng
ngƣời đến thế! Đó chính là nhờ tƣ tƣởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của nhà văn
Nam Cao. Nhân đạo ở sự ca ngợi khát vọng đẹp đẽ của Hộ, nhân đạo ở sự cảm
thông sâu sắc với ngƣời trí thức… Và viết lên đƣợc những dòng nhƣ thế cũng là
nhờ cái nhân đạo “mới mẻ” độc đáo của Nam Cao.
6|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

Qua bi kịch tinh thần đầu tiên này của Hộ, Nam Cao đã bộc lộ đƣợc sự cảm thông,
trân trọng bao kiếp ngƣời lao khổ trong cuộc đời này. Và phải chăng tƣ tƣởng ấy
đã kế thừa đƣợc của cha ông lòng nhân đạo truyền thống. Nhà văn không “phản
ánh để phản ánh” mà sau những câu chữ tƣởng nhƣ lãnh đạm, thờ ơ chính là một
trái tim nhiệt thành, sôi nổi - một trái tim của tình nghĩa.
III. KẾT BÀI
Tóm lại, tƣ tƣởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của Nam Cao đã khiến cho nhân vật
dù qua bao thăng trầm vẫn đứng vững với tƣ cách một con ngƣời chân chính.

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

Hồ Chí Minh
BÀI GIẢNG ĐÃ CÔ ĐÚC, NGẮN GỌN, DỄ HIỂU
BẢN QUYỀN - PHAN DANH HIẾU
Phục vụ cho đề: Phân tích nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh qua Tuyên
ngôn độc lập (hoặc tính luận chiến)
I. KHÁI QUÁT CHUNG
(Học thuộc lòng phần này để làm mở bài và khái quát trƣớc khi phân tích)
1. Tác giả: Hồ Chí Minh không chỉ biết đến là một vị lãnh tụ tài ba, kiệt xuất của
dân tộc Việt Nam mà còn đƣợc biết đến với tƣ cách là một nhà văn, nhà thơ lớn.
Ngƣời để lại nhiều tác phẩm lớn ở nhiều thể loại truyện, ký, thơ ca, văn chính luận.
Trong đó “Tuyên ngôn độc lập” là một áng văn chính luận mẫu mực, một nghệ
thuật lập luận tài tình có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc.
2. Tác phẩm:
Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền khắp cả nƣớc về tay nhân dân.
Ngày 2.9.1945, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn này trƣớc hàng vạn đồng bào
thủ đô, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc – kỷ nguyên độc lập tự chủ. Tác phẩm là
kết tinh của chủ nghĩa yêu nƣớc của khát vọng tự do, hòa bình và tự chủ.
II. NỘI DUNG TÁC PHẨM
1. Mở đầu, Người nêu lên cơ sở pháp lí và chính nghĩa của bản Tuyên
7|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

Ngôn:Ngƣời trích dẫn hai bản tuyên ngôn độc lập của Pháp và Mỹ: Tuyên ngôn
độc lập của Mĩ (1776): “Tất cả mọi ngƣời sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa
đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm đƣợc. Trong những quyền ấy,
có quyền đƣợc sống, quyền sung sƣớng và quyền tự do”. Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền của Pháp (1791) cũng đã nói: “Ngƣời ta sinh ra tự do bình đẳng về
quyền lợi và phải luôn tự do bình đẳng về quyền lợi”. Đó là những lẽ phải không ai

có thể chối cãi đƣợc.
Ý nghĩa của viêc trích dẫn: Có tính chiến thuật sắc bén, khéo léo, khóa miệng
đối phƣơng. Đó chính là thành công của nghệ thuật “Gậy ông đập lƣng ông” dùng
chính lời lẽ của kẻ thù để đánh lại chúng. Cái hay là ở chỗ là: Bác một mặt nhƣ
ngợi khen, một mặt lại hạ bệ chúng. Mặt khác ngƣời đọc có thể thấy Bác đã đặt ba
cuộc Cách mạng, ba nền độc lập, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau. Khẳng
định tƣ thế đầy tự hào của một dân tộc độc lập và có quyền để hƣởng tự do và độc
lập. Đây chính là sự kế thừa và phát huy bản Tuyên ngôn thứ hai của Việt Nam là
“Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi.
Từ việc trích dẫn trên Bác đã đi đến một lập luận sáng tạo: Suy rộng ra điều đó có
nghĩa là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sƣớng và quyền tự do”. Nhƣ vậy, dựa trên hai bản
tuyên ngôn nói về quyền lợi của con ngƣời Bác đã nâng lên thành quyền lợi của
dân tộc. Nghĩa là bản Tuyên Ngôn của Việt Nam còn cao hơn cả hai bản Tuyên
Ngôn của Pháp và Mỹ.
Tóm lại: Với lời lẽ sắc bén, đanh thép, Ngƣời đã xác lập cơ sở pháp lý của bản
Tuyên Ngôn, nêu cao chính nghĩa của ta. Đặt ra vấn đề cốt yếu là độc lập dân tộc.
Đây cũng là cơ sở để Ngƣời vạch tội chúng trong phần tiếp theo. Đúng nhƣ Chế
Lan Viên nhận định “Cách lập luận của Hồ Chí Minh về phía ta giống nhƣ một trái
táo còn về phía kẻ thù nó giống nhƣ một trái lựu đạn nhét vào cổ họng chúng. Nuốt
không vô mà khạc cũng không ra”.
2. Ở luận điểm tiếp theo, Hồ Chí Minh đã nêu cơ sở thực tế của bản Tuyên
Ngôn:
Bác đã nêu lên lý lẽ và lập luận hết sức thuyết phục về mặt pháp lý và thực tế nhằm
bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc thực dân. Để vạch trần luận điệu về công lao
“khai hóa” của Pháp đối với Đông Dƣơng, Bác đã nêu rõ “Những hành động trái
hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” của chúng trong 80 năm thống trị nƣớc ta về hai
phƣơng diện: Chính trị và Kinh tế.
Pháp kể công “Khai hóa”, Bác vạch trần tội ác của chúng về chính trị:chúng
tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào… “Chúng thi hành

8|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

những luật pháp dã man. Chúng ... ngăn cản việc thống nhất nƣớc nhà của ta, để
ngăn cản dân tộc ta đoàn kết… Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trƣờng học...Chúng
thẳng tay chém giết những ngƣời yêu nƣớc thƣơng nòi của ta. Chúng tắm các cuộc
khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dƣ luận, thi hành chính
sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rƣợu cồn để làm cho nòi giống ta suy
nhƣợc”.
Chưa hết, về mặt kinh tế: chúng bóc lột dân ta đến tận xƣơng tủy, khiến cho dân
ta nghèo nàn, thiếu thốn, nƣớc ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cƣớp không ruộng đất,
hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất
là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tƣ sản ta ngóc
đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Ở hai đoạn văn trên, cái tài tình của Hồ Chủ Tịch là nghệ thuật lập luận: câu
văn lặp cấu trúc, phép điệp liên tục “chúng tuyệt đối... chúng thi hành...chúng lập
ra...chúng tắm các cuộc khởi nghĩa... chúng dùng thuốc phiện...chúng cƣớp
không...” tạo nên một liên hoàn lời, tố cáo mạnh mẽ, đanh thép khiến chúng
“không thể chối cãi” và trở tay không kịp. Mặt khác, Bác cũng tranh thủ quan tâm
đến giai cấp tƣ sản, công nhân, nông dân khơi dậy tình đoàn kết hữu ái giai cấp.
Đặc biệt từ tội ác trên của thực dân bác đanh thép kết án chúng đã gây ra cái chết
thảm thƣơng cho hơn 2 triệu đồng bào miền Bắc vào nạn đói năm 1945.
Pháp kể công “Bảo hộ”: bảo hộ nghĩa là bảo vệ nhƣng chúng đã không làm
đƣợc. Bác đã tố cáo tội ác của chúng: Tội ác trong 5 năm (1940 – 1945). Trong
năm năm chúng đã bán nƣớc ta hai lần cho Nhật. Đó là mùa thu năm 1940, Nhật
xâm lăng Đông Dƣơng để mở rộng căn cứ đánh Đồng Minh... bọn thực dân Pháp
quỳ gối đầu hàng mở cửa nƣớc ta rƣớc Nhật. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, khi Nhật
tƣớc khí giới của quân đội Pháp, bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là quỳ

gối đầu hàng. Bác vạch trần thái độ nhục nhã của Pháp: quỳ gối đầu hàng, bỏ
chạy... Nhƣ vậy là chúng đã phản bội đồng minh, không đáp ứng liên minh cùng
Việt Minh để chống Nhật, thậm chí thẳng tay khủng bố, giết nốt tù chính trị ở Yên
Bái, Cao Bằng. Đó là lời khai tử dứt khoát cái sứ mệnh bịp bợm của thực dân Pháp
đối với nƣớc ta ngót gần một thế kỉ.
3. Trong phần tiếp theo của bản tuyên ngôn, Người đã nêu cao những tự hào
của Cách mạng Việt Nam: Ta luôn đứng về lập trƣờng chính nghĩa “Đem đại
nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cƣờng bạo”. Việt Nam khoan hồng
với kẻ thù bị thất thế: giúp ngƣời Pháp chạy qua biên giới, bảo vệ tài sản và tính
mạng, của cải cho họ. Láy đi láy lại hai chữ “Sự thật” nhằm nhấn mạnh thắng lợi
9|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

to lớn của Cách mạng ta khi đứng về phe Đồng minh chống phát xít, đồng thời Bác
cũng dứt khoát bác bỏ sự có mặt của Pháp trên đất nƣớc ta cũng có nghĩa là Pháp
không có cớ gì để quay trở lại Việt Nam :“Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nƣớc ta
đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải là của Pháp nữa... Sự thật là nhân
dân ta đã lấy lại Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải là tay Pháp”. Thắng lợi to
lớn của Cách mạng Việt Nam là: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”.
Chế độ Dân chủ Cộng Hòa từ đó đƣợc ra đời.
4. Ở phần cuối, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phủ định chế độ thuộc địa của thực
dân Pháp và khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc. Phủ định dứt
khoát, triệt để: “Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết
những hiệp ƣớc mà Pháp đã ký về nƣớc Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của
Pháp trên đất nƣớc Việt Nam”. Cuối cùng Bác đƣa ra Lời tuyên bố độc lập trƣớc
thế giới : Lời tuyên bố thể hiện lí lẽ đanh thép vững vàng của Ngƣời về quyền dân
tộc đồng thời thể hiện khát vọng tự do của cả dân tộc. Điều đó thể hiện qua giọng
văn hào hùng mãnh liệt đầy niềm tin: “Nƣớc Việt Nam có quyền đƣợc hƣởng tự do

độc lập và thực sự đã trở thành một nƣớc tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lƣợng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do và độc lập ấy”.
5. Nghệ thuật:
“Tuyên ngôn độc lập” có lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực,
giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ vừa chính xác vừa gợi cảm. Giọng văn linh hoạt,
đa giọng điệu khi mãnh liệt hùng hồn, khi trang nghiêm tha thiết. Tuyên ngôn Độc
lập của Bác đã trở thành một áng văn chính luận mẫu mực nổi tiếng.
III. TỔNG KẾT
"Tuyên ngôn Độc lập" xứng đáng là một áng văn mẫu mực về nghệ thuật lập luận.
Nó đã kế tục truyền thống vinh quang của "Nam quốc sơn hà" và "Bình Ngô đại
cáo". Nó là lời nƣớc non cao cả và thiêng liêng, thể hiện sâu sắc tƣ tƣởng vĩ đại:
"Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Đọc đoạn văn cuối bản "Tuyên ngôn Độc
lập", chúng ta càng thấm thía tự hào về độc lập, tự do mà dân tộc ta đã giành đƣợc
bằng xƣơng máu của bao thế hệ, của bao anh hùng liệt sĩ.

10 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

Đề 1: Cảm nhận về khát vọng nghệ thuật và bi kịch của người nghệ sĩ trong “Đàn
ghita của Lorca” và “Vĩnh biệt cửu trùng đài” – Nguyễn Huy Tưởng.

DÀN Ý
1. Khát vọng nghệ thuật:
- Vũ Nhƣ Tô là một kiến trúc sƣ tài năng. Ông khao khát điểm tô cho non sông một
“kỳ quan muôn thuở” để dân ta ngàn thu hãnh diện. Đây là một khát vọng chân
chính của một ngƣời nghệ sĩ có cái tâm, cái tài.
- Lorca khao khát cách tân nền nghệ thuật đã già nua của đất nƣớc Tây Ban Nha:

“Khi tôi chết hãy chôn tôi cùng với cây đàn” (phân tích ý nghĩa của câu đề từ )
2. Bi kịch của ngƣời nghệ sĩ.
- Vũ Nhƣ Tô đam mê thi thố tài năng và rơi vào sự mê muội, mù quáng không lý
giải đƣợc mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống; Rơi vào sự bảo thủ không lối
thoát; cuối cùng chấp nhận cái chết; nghệ thuật của VNT là nghệ thuật vị nghệ
thuật nên bị nhân dân lãng quên.
- Lorca: khao khát chiến đấu vì công lý, khao khát cách tân nghệ thuật nhƣng cô
độc trong cuộc chiến (phân tích khổ 1) ; Lorca bị phát xít sát hại (khổ 2); Lorca
mang đến những khát vọng nghệ thuật và tự do cho nhân dân nên đƣợc nhân dân
ngƣỡng mộ và tôn thờ nên nghệ thuật của Lorca mãi bất tử và con ngƣời Lorca mãi
mãi sống trong lòng nhân dân TBN (phân tích khổ 3,4)

3. So sánh:
- Giống: họ đều là những ngƣời nghệ sĩ tài năng, yêu mến sự sáng tạo và khao khát
mang đến những cái đẹp cho cuộc đời; cái chết của họ đều là cái chết bi phẫn.
- Khác: VNT là kiến trúc sƣ tài năng nhƣng chƣa lý giải đƣợc sâu sắc mối quan hệ
giữa nghệ thuật và đời sống nên rơi vào nghệ thuật vị nghệ thuật.
11 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

- Lorca là một nhà thơ, một nghệ sĩ, một chiến sĩ, anh ngã xuống khi con đƣờng
sáng tạo và tranh đấu đang vào độ chín muồi; Lorca ra đi trong sự giải thoát nhẹ
nhàng không vƣớng bận những hệ lụy trần gian (nói qua qua về khổ cuối)
* Thông điệp: - Nghệ thuật cần gắn với nhân dân “nghệ thuật vị nhân sinh”, nghệ
thuật phải vì nhân dân mà phục vụ thì nghệ thuật đó sẽ trở thành bất tử.
- XH cần trân trọng và nâng bƣớc cho những tài năng phát triển.
Đề 2: Sự gặp gỡ và những khám phá riêng về người nghệ sĩ của Nam Cao và
Nguyễn Huy Tưởng qua nhân vật Hộ trong Đời thừa và nhân vật Vũ Như Tô

trong Vĩnh biệt cửu trùng đài – trích Vũ Như Tô.

BÀI LÀM

Trong thế giới của những ngƣời cầm bút, đôi khi mỗi ngƣời có một lối đi
riêng, một con đƣờng riêng. Nghệ thuật là thứ độc đáo trong thế giới độc đáo của
nhà văn mà không ai lặp lại trong cảm hứng sáng tạo của ngƣời khác. Tuy nhiên,
đôi lúc họ lại gặp nhau, đồng điệu với nhau đến ngỡ ngàng về điểm nhìn về niềm
cảm thông nhƣng tác phẩm vẫn là của riêng không trộn lẫn. Hộ trong “Đời thừa”
và Vũ Nhƣ Tô trong “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” là sự “gặp gỡ và khám phá riêng
về ngƣời nghệ sĩ” của hai nhà văn Nam Cao và Nguyễn Huy Tƣởng.
Nam Cao đƣợc biết đến với tƣ cách là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực phê phán
trƣớc năm 1945 với rất nhiều tác phẩm xoay quanh nỗi khổ đau, cùng cực, không
12 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

lối thoát của con ngƣời. “Trăng sáng”, “Đời thừa”, “Sống mòn” là những tác phẩm
về tiếng kêu cứu của ngƣời trí thức nghèo”. Còn tác phẩm “Chí Phèo” là tiếng kêu
cứu đầy tuyệt vọng của ngƣời nông dân lƣơng thiện bị đẩy vào con đƣờng cùng.
Nguyễn Huy Tƣởng lại đƣợc biết đến với tƣ cách là một nhà văn, nhà viết kịch
hiện đại với những tác phẩm tên tuổi mang tầm lịch sử nhƣ “Bắc Sơn”, “Vũ Nhƣ
Tô”. Trong đó, “Vũ Nhƣ Tô” là một vở bi kịch lịch sử có quy mô hoành tráng nhất.
Giữa Vũ Nhƣ Tô và Hộ, là khoảng thời gian cách xa hàng thế kỷ nhƣng ở họ vẫn
có những điểm tƣơng đồng khiến khi tìm hiểu ta không khỏi ngạc nhiên.
Trƣớc hết ta thấy, sự gặp gỡ giữa Nguyễn Huy Tƣởng và Nam Cao chính là ở chỗ,
họ đều xây dựng nhân vật trí thức ở cái tài hoa, nghệ sĩ. Trong mắt của hai nhà
văn, những ngƣời nghệ sĩ là những ngƣời có khát vọng lớn, muốn đem cái tài để
phục vụ cho cuộc đời. Hộ và Vũ Nhƣ Tô là hai ngƣời nghệ sĩ nhƣ thế.

Hộ là một nhà văn nghèo nhƣng đam mê văn chƣơng. Anh yêu văn chƣơng nhƣ
hơi thở của mình. Với Hộ “đói rét không có nghĩa gì với một kẻ trẻ tuổi say mê lý
tƣởng”. Anh sống với giấc mộng văn chƣơng đẹp nhất trên đời với ƣớc mơ thật lớn
lao. Anh hi vọng sẽ viết đƣợc một tác phẩm văn chƣơng sẽ “làm lu mờ tất cả các
tác phẩm ra cùng một thời”. Đó sẽ là tác phẩm “vƣợt qua mọi bờ cõi và giới hạn,
làm ngƣời gần ngƣời hơn… nó ca tụng lòng thƣơng, sự bác ái công bình”. Và tác
phẩm đó, Hộ mơ ƣớc sẽ đƣợc nhận giải Nobel. Đó là một ƣớc mơ rất chính đáng
của ngƣời nghệ sĩ khao khát đƣợc cống hiến cho đời những trang văn đẹp. Khát
khao ấy phát xuất từ một tâm hồn đẹp, coi “nghệ thuật là tất cả”. Đó là một khát
khao đẹp đẽ, trong sáng và chính đáng, một hoài bão lớn lao nó bảo cho ta biết đó
là một nhà văn chân chính, có chí hƣớng.
Với Vũ Nhƣ Tô, ông là ngƣời nghệ sĩ có tài, có tâm, đam mê nghệ thuật, khao khát
sáng tạo, sẵn sàng hi sinh tất cả cho cái đẹp. Cũng nhƣ nhà văn Hộ, Vũ Nhƣ Tô
muốn đem tài năng kiến trúc của mình dựng xây cho đất nƣớc, tô điểm cho non
sông một kỳ quan vĩ đại, một cảnh bồng lai giữa cõi trần lao lực để mai này cháu
con “ngàn thu hãnh diện”. Đó là đài Cửu Trùng “nóc vờn mây”, đồ sộ, nguy nga.
Công trình kiến trúc ấy là tâm huyết cả cuộc đời ông. Nó không phải là công trình
tầm thƣờng nữa mà để “tranh tinh xảo với hóa công”. Có ai đó từng nói rằng:
“Thiên chức của ngƣời nghệ sĩ là hái sao trên trời điểm tô cho cái đẹp của hạ giới”.
Nhƣ vậy, cả tác phẩm mơ có ngày đƣợc giải Nobel của Hộ và Đài Cửu Trùng hãnh
diện với ngàn thu của Vũ Nhƣ Tô đều là những khát vọng lớn của những ngƣời
nghệ sĩ chân chính muốn “điểm tô cho hạ giới” những vì sao sáng.
13 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

Điểm chung nữa giữa Vũ Nhƣ Tô và Hộ đó là, cả hai ngƣời nghệ sĩ đều đam mê
sáng tạo cái đẹp, trau chuốt cho cái đẹp, sống chết vì cái đẹp: Vũ Nhƣ Tô rất tự tin
và ý thức sâu sắc về tài năng, giá trị của bản thân. Ông đã dũng cảm, khôn khéo

chống trả những đợt tấn công gay gắt, quyết liệt buộc Tƣơng Dực phải đi từ nhân
nhƣợng này đến nhân nhƣợng khác và cuối cùng phải chấp nhận thực hiện hai điều
kiện mà ngƣời thợ cả nêu ra: “thứ nhất, đài phải xây theo đúng kiểu bản đồ này,
không thay đổi một li nào. Thứ hai: Hoàng thượng và triều đình phải trọng đãi
công ngang sĩ”. Những lời đanh thép, gan ruột của ông đã hé lộ bao nhiêu suy cảm
tinh tế, sâu xa về chân tài và sự khổ luyện để đạt đƣợc chân tài; về vai trò, trách
nhiệm của nhân tài đối với nƣớc non và những điều phải làm để phát hiện, bồi
dƣỡng nhân tài – nguyên khí của quốc gia; về mối quan hệ gắn bó và bình đẳng lẽ
ra nên có giữa công và sĩ (đặt trong thang bậc phong kiến: sĩ, nông, công,
thương)…Những điều mà dƣờng nhƣ đến tận thời điểm này không thể nói là không
còn nóng bỏng thời sự. Xây Cửu Trùng Đài, với ông còn chính là thi thố tài năng
với trời đất, tranh tinh xảo với hóa công. Nhƣ vậy, rõ ràng, khát vọng cao đẹp gắn
liền với ý thức về tài năng đã mang đến một Vũ Nhƣ Tô thật hoàn hảo giữa đời.
Nhà văn Hộ cũng thế, ƣớc mơ cao đẹp luôn gắn liền với ý thức tài năng. Hộ ghét
cay ghét đắng cái thứ văn chƣơng “vô vị, nhạt nhẽo, quấy loãng trong một thứ văn
chƣơng bằng phẳng, dễ dãi”. Ý thức của ngƣời cầm bút mách bảo hộ phải có lòng
tự trọng với nghề nghiệp bởi “văn chƣơng không cần đến những ngƣời thợ khéo
tay làm theo một vài kiểu mẫu đƣa cho, văn chƣơng chỉ biết dung nạp những ngƣời
biết đào sâu tìm tòi, sáng tạo, khơi những nguồn chƣa ai khơi và sáng tạo những gì
chƣa có”. Hộ chăm chút cho cái tài của mình ngày một thêm nảy nở, anh đọc
“chăm chú quá…Cái mặt hốc hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên quyển sách, trông
khắc khổ đến thành dữ tợn”. Hộ say mê đọc sách, và đọc sách theo anh là một cách
để chăm chút tài năng: “Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tƣởng không
biết chán”. Với anh khi “gặp đƣợc một đoạn hay lắm nên ngừng đọc, ngẫm nghĩ
và để cho cái khoái cảm ngân ra trong lòng”. Anh coi văn chƣơng nhƣ một thứ đạo
lành để ngƣỡng vọng, để nguyện ngắm và đi theo. Tâm hồn anh thật sáng trong
biết bao. Không chỉ thế, Hộ còn rất coi trọng tình thƣơng. Tình thƣơng với anh là
một thứ đạo cao đẹp nhất. Anh đã từng nhủ lòng rằng mình “có thể hi sinh tình yêu
chứ không thể hi sinh tình thƣơng” bởi anh muốn làm “ngƣời” đúng nghĩa. Mất
tình thƣơng con ngƣời thành sỏi đá cao hơn sẽ trở thành dã thú. Mất tình thƣơng,

con ngƣời sẽ bị sai khiến bởi lòng ích kỷ. Nhƣ vậy, Hộ là con ngƣời đáng đƣợc
kính trọng, một nhà văn đáng đƣợc tôn thờ.
14 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

Nam Cao và Nguyễn Huy Tƣởng còn khám phá ra ở những con ngƣời nhƣ Hộ và
Vũ Nhƣ Tô không chỉ là tài năng thật sự mà còn có lòng tự trọng về nghề nghiệp:
Vũ sẵn sàng từ chối mọi bạc vàng châu báu của Tƣơng Dực, sẵn sàng đƣa cả gia
đình bỏ trốn vì không muốn đƣa cái tài năng của mình để phụng sự cho tập đoàn
phong kiến ăn chơi sa đọa ấy. Chỉ khi Đan Thiềm khuyên can, Vũ Nhƣ Tô mới
mới bắt đầu thỏa hiệp nhƣng luôn đƣa ra những yêu cầu đối với Tƣơng Dực để vừa
thực hiện đƣợc khát vọng của mình vừa tránh nguy biến cho gia đình. Nhà văn Hộ
cũng thế, anh luôn coi trọng nghề nghiệp, xem nghề viết văn là tất cả “nghệ thuật
là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa”. Đặc biệt, Hộ đã
khẳng định cái lòng tự trọng ấy của mình khi anh cho rằng “mà tuy khổ thì khổ
thật, nhƣng thử có ngƣời giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chƣa
chắc tôi đã đổi”. Nhƣ vậy Hộ có thể khổ, vợ con anh có thể nheo nhóc nhƣng
lƣơng tâm nghề nghiệp và lòng tự trọng về cái nghề cầm bút cao quý ấy đã làm giá
trị nhà văn trong anh cao lên một tầm mới. Thật đáng khâm phục biết bao.
Điểm gặp gỡ của Nam Cao và Nguyễn Huy Tƣởng còn là việc cả hai nhà văn đều
thể hiện bi kịch của những ngƣời nghệ sĩ trong một xã hội nhiều khổ đau. Đó là bi
kịch giữa khát vọng, hoài bão lớn lao mâu thuẫn không lối thoát với thực tế đời
sống. Nam Cao đã đứng về ngƣời nghệ sĩ trong thời buổi “mƣa âu gió mỹ” để cảm
thƣơng cho nỗi khổ đau của những con ngƣời “muốn nâng cao giá trị cuộc đời”
nhƣng cuối cùng lại bị nợ áo cơm ghì cho sát đất. Hộ phát “điên lên”. Bởi vì anh
phải lao vào cuộc sống đời thƣờng với biết bao bon chen, xô bồ. Đau đớn nhất là
anh phải tàn phá nghề văn mà anh nâng niu, gìn giữ rất thiêng liêng. Điều anh có
thể làm lúc này đó là viết ẩu, viết cẩu thả, viết để có tiền. Anh phải viết nhƣ một

con rối cái thứ văn “rất nhẹ, rất nông” quấy loãng trong những tình cảm hời hợt,
phải viết những bài báo mà ngƣời ta đọc là quên ngay, phải “đỏ mặt” vò nát sách
khi thấy tên mình ở đó. Điều đó cắt vào tâm trí Hộ những nỗi đớn đau, bế tắc,
không lối thoát. Một kẻ coi văn chƣơng là lẽ sống, coi nghệ thuật là tất cả, ngoài
nghệ thuật ra không còn gì đáng quan tâm, kể cả đói rét cũng không thể tàn phá
đƣợc tình yêu và nỗi say mê ấy. Một kẻ đã luôn miệng nói về một tác phẩm tầm
cỡ, phá vỡ mọi giới hạn để đƣa con ngƣời đến với yêu thƣơng, bác ái công bằng.
Một kẻ luôn khao khát giải văn chƣơng cao quý để nâng tầm giá trị. Kẻ đó nay đâu
còn. Hắn là một kẻ khốn nạn, đê tiện. Một kẻ đáng khinh. Bởi hắn không mang lại
một giá trị gì cho văn chƣơng cả ngoài những thứ vô vị. Bi kịch của Hộ là ở đó.
Khổ đau của Hộ cũng từ đó mà ra.

15 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

Bi kịch vỡ mộng văn chƣơng lại đẩy Hộ vào vòng xoáy của bi kịch thứ hai. Rƣợu –
màu trắng nhƣng đã làm Hộ đỏ mặt và đen danh dự. Anh hành động nhƣ một kẻ vũ
phu tàn ác, nhẫn tâm trƣớc ngƣời vợ thảo hiền, yếu đuối với bàn tay da “xanh trong
xanh lọc” đã yêu anh nhƣ cái tình “của con chó dành cho ngƣời chủ”. Bởi anh đổ
lỗi cho hoàn cảnh là vì vợ con. Anh đã vi phạm vào nguyên tắc tình thƣơng của
chính mình đạp đỗ hết bao khuôn vàng thƣớc ngọc mà anh đã đặt ra. Anh đã rơi
vào biên giới của sự xấu xa, sa đọa. Phần “ngƣời” cao đẹp trong anh từng bƣớc bị
chính anh hủy hoại. Con ngƣời lúc này của anh bị đạp đổ đã giết chết “con ngƣời”
anh lúc trƣớc, anh tự giết mình để một lúc nào đó đau đớn bất lực thốt lên “Thôi ta
đã hỏng thật rồi”.
Vũ Nhƣ Tô cũng rơi vào bi kịch nhƣ thế, bi kịch vỡ mộng. Ngƣời kiến trúc sƣ vĩ
đại ấy đã rơi vào bi kịch của ngƣời nghệ sĩ có tài và có hoài bão lớn, nhƣng không
giải quyết đƣợc mối quan hệ phức tạp giữa nghệ thuật và đời sống, đặc biệt là

không lý giải đƣợc một cách đúng đắn vấn đề sáng tạo nghệ thuật cho ai và để làm
gì. Nghệ thuật xứng đáng đƣợc tôn vinh vì nó là sản phẩm cao quý trong sáng tạo.
Nhƣng vì nghệ thuật mà hy sinh và chà đạp lên những giá trị khác của cuộc sống
thì cần phải xem xét lại. Xuất phát từ mục đích cao cả là sáng tạo nghệ thuật,
nhƣng Vũ Nhƣ Tô đã làm cho “dân lầm than, man di oán giận”, vì thế trở thành
đối tƣợng cho dân chúng, thợ thuyền dồn nỗi căm hận. Vũ Nhƣ Tô là hiện thân
của niềm say mê nghệ thuật . Khi gặp ngƣời “đồng bệnh” Đan Thiềm khuyên nên
“tô điểm non sông” thì tài năng bung nở với một sức bật không gì có thể ngăn cản.
Vũ Nhƣ Tô xây Cửu Trùng Đài với một quyết tâm lớn, mặc cho “dân gian lầm
than”. Chà đạp lên tính mạng dân chúng không phải là tính cách của ngƣời thợ cả
đôn hậu Vũ Nhƣ Tô. Vậy vì sao quyền sống của dân lại bị hy sinh một cách không
thƣơng xót? Bởi vì trong cuộc đấu tranh vì nghệ thuật thì con ngƣời nghệ sĩ đã
chiến thắng con ngƣời đời thƣờng. Với Vũ Nhƣ Tô, cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi
đƣợc sáng tạo nghệ thuật, Vũ Nhƣ Tô và niềm say mê không giới hạn là trạng thái
gây ra bi kịch. Cuối cùng Cửu Trùng Đài thành tro bụi, Vũ Nhƣ Tô ra pháp
trƣờng.
Đó là những điểm gặp gỡ tƣơng đồng giữa Nam Cao và Nguyễn Huy Tƣởng khi
viết về những con ngƣời tài hoa nhƣng có số phận nghiệt ngã, nạn nhân của một xã
hội đầy những trái ngang, bất công. Bên cạnh điểm giống nhau ấy, ta thấy giữa Hộ
và Vũ Nhƣ Tô cũng có nhiều điểm khác biệt.

16 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

Vũ Nhƣ Tô chỉ có một bi kịch. Ông khát vọng nghệ thuật và đam mê sáng
tạo nhƣng những đam mê ấy của ông lại đặt lầm nơi lạc chốn, lạc điệu với thời thế,
xa rời thực tế, nên đã phải trả giá bằng chính sinh mệnh của bản thân và của cả
công trình thấm đẫm mồ hôi tâm não của mình. Thật đau đớn thay, bi kịch thay

cho đến khi cuộc nổi loạn nổ ra, Đan Thiềm mặt cắt không còn hột máu, hốt hoảng
đến báo cho Vũ Nhƣ Tô, nếu không chạy trốn thì ông sẽ bị giết, nhƣng Vũ Nhƣ Tô
vẫn không chịu đi và vẫn day dứt một câu hỏi: “Tôi có tội gì? Tôi làm gì nên tội?
Làm gì phải trốn?”. Khi tất cả chỉ là ảo vọng. Đan Thiền và ông bị bắt, Cửu Trùng
Đài bị thiêu huỷ thì ông mới bừng tỉnh, ngửa mặt lên trời mà cất lên tiếng than ai
oán tuỵệt vọng “Trời ơi! Phú cho ta cái tài để làm gì. Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm!
Ôi Cửu Trùng Đài!”. Vậy đó, trong xây dựng nghệ thuật, không có cái đẹp tách rời
cái chân cái thiện. Tác phẩm nghệ thuật không thể chỉ mang cái đẹp thuần tuý, nó
phải có mục đích chân chính là phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc đời. “Văn chƣơng
không chỉ là văn chƣơng mà thực chất là cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát và là
nơi đi tới của văn chƣơng”. Ngƣời nghệ sĩ phải có hoài bão lớn, có khát vọng sáng
tạo những công trình vĩ đại cho muôn đời, nhƣng cũng biết xử lý đúng đắn mối
quan hệ giữa khát vọng đó với điều kiện thực tế cuộc sống với đòi hỏi của muôn
dân. Vũ Nhƣ Tô thì không nhƣ thế. Cho nên đến khi chết Vũ Nhƣ Tô mới tỉnh giấc
mộng của mình.
Nhƣng Hộ thì ngƣợc lại, anh không phải là bị mù quáng nhƣ Vũ Nhƣ Tô đến nỗi
không nhận ra đúng sai. Hộ đam mê nhƣng không đến nỗi mù quáng. Hộ biết xấu
hổ trƣớc những hành động sai trái của mình. Tự biết phải mắng mình nhƣ một
thằng khốn nạn bởi sự cẩu thả bất lƣơng của mình đối với văn chƣơng. Biết ân hận
về những việc đã làm. Nam Cao có lẽ cũng đã rơi lệ khi miêu tả sự giằng xé, khổ
tâm, sự ân hận của Hộ khi sau một cơn say dài anh tỉnh dậy và ôm lấy Từ mà khóc.
Nƣớc mắt anh nhƣ “quả chanh bị bóp mạnh”. Nƣớc mắt ấy là nƣớc mắt của con
ngƣời có nhân cách có phẩm giá. Nƣớc mắt của một tâm hồn khổ hạnh nhƣng ấm
áp tình ngƣời.
Leptonxtoi từng nói “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu
con ngƣời, ƣớc mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng bái ái luôn luôn
thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng
bầu máu nóng của mình cho nhân loại”. Tác phẩm “Đời thừa” và “Vũ Nhƣ Tô”
cùng ra đời một thời điểm. Và phải chăng hai nhà văn đều cùng chung một nỗi
niềm với những ngƣời nghệ sĩ đã dành trọn cuộc đời cho nghệ thuật ? Hƣớng đến

Vũ Nhƣ Tô – một kiến trúc sƣ tài năng, nhà văn còn gợi những suy nghĩ sâu sắc về
17 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

mối quan hệ giữa ngƣời nghệ sĩ với hoạt động sáng tạo nghệ thuật và thực tế đời
sống nhân dân. Với nhân vật Hộ - một nhà văn chân chính, Nam Cao cũng đã cất
lên tiếng kêu cứu đối với con ngƣời. Xã hội phải biết tạo điều kiện sáng tạo cho
các tài năng, vun đắp tài năng, quý trọng nâng niu những giá trị nghệ thuật đích
thực. Hãy đạp đổ xã hội ấy đi, hãy cứu lấy ngƣời trí thức. Hai nhà văn cũng bất lực
trong việc giải quyết bi kịch nhân vật. Có thể là do tầm nhìn hạn chế về “con ngƣời
là nạn nhân của hoàn cảnh”.
Nhìn chung hai nhà văn đều có điểm tƣơng đồng về ngƣời nghệ sĩ nhƣng cách thể
hiện lại khác nhau. Bi kịch của Vũ Nhƣ Tô là bi kịch mà chính ngƣời nghệ sĩ
không thể lý giải đƣợc, bi kịch của Hộ là bi kịch ngấm ngầm, dai dẳng có lẽ vì bản
thân Nam Cao từng phải sống nhƣ thế, cơ cực nhƣ thế. Bi kịch của Vũ Nhƣ Tô đẩy
ông đến với cái chết đầy bi tráng. Bi kịch của Hộ đƣa Hộ trở về với thiên chức nhà
văn, sự tỉnh ngộ và nhận thức mang đến cái kết có hậu.
Có thể nói, xây dựng nhân vật Hộ và Vũ Nhƣ Tô, nhà văn Nam Cao và Nguyễn
Huy Tƣởng đã không hẹn mà cũng nhau tái hiện trên trang giấy của mình những
nhân vật tƣ tƣởng. Ở những nhân vật ấy vừa có những điểm chung thống nhất, hài
hòa vừa có những điểm riêng tạo nên phong cách và cá tính sáng tạo ở mỗi nhà
văn. Từ đó thông qua hai nhân vật, các nhà văn đã đặt ra vấn đề có ý nghĩa xã hội,
lịch sử: Xã hội phải biết tạo điều kiện sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài năng,
quý trọng nâng niu những giá trị nghệ thuật đích thực.

Đề ra: Anh/chị hãy phân tích hình tượng rừng xà nu (cây xà nu) trong tác
phẩm "Rừng xà nu" của nhà văn NGuyễn Trung Thành. SGK Ngữ văn 12.
Tập 2. NXB Giáo dục 2012

(RẤT QUAN TRỌNG CHO THI TỐT NGHIỆP)
HƯỚNG DẪN
(Bài của Thầy Phan Danh Hiếu, chủ biên cuốn sách CẨM NANG LUYỆN
THI ĐH NGỮ VĂN - NXB ĐHQG Hà Nội 2014. Mua online gọi số chú Toàn:
0908588758)
I. MỞ BÀI

18 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

Nguyễn Trung Thành là nhà văn đã gắn bó máu thịt với chiến trƣờng Tây
Nguyên trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Chính vùng đất
và con ngƣời nơi đây đã để lại nhiều dấu ấn trong những trang viết của ông qua
“Đất nƣớc đứng lên” và “Rừng xà nu”. Tác phẩm “Rừng xà nu” ra đời trong giai
đoạn kháng chiến chống Mĩ ác liệt. “Rừng xà nu” có thể đƣợc xem là bản anh
hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân
dân Tây Nguyên anh hùng. Để viết nên bản giao hƣởng anh hùng ca đấy, ngoài
những con ngƣời Tây Nguyên đáng yêu nhƣ Tnú, cụ Mết, Mai, Dít…, phải kể đến
một hình tƣợng không kém phần hấp dẫn. Đó là cây xà nu, một hình tƣợng vừa
giàu ý nghĩa thẩm mĩ, vừa giàu ý nghĩa nhân sinh.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát: Tác phẩm “Rừng Xà Nu” ra đời vào thời điểm mùa hè năm 1965
khi đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ. Tác phẩm đƣợc in trong
tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Bối cảnh của thiên truyện là
mảnh đất Tây Nguyên với những con ngƣời anh hùng, kiên trung, bất khuất.
Truyện có hai cuộc đời lồng vào nhau: cuộc đời của Tnú và cuộc đời của rừng xà
nu.
2. Nội dung phân tích

a. Cây xà nu là một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của
người dân làng Xô Man: theo tác giả thì đó là “một loại cây hùng vĩ và cao
thƣợng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh
nhã vừa rắn rỏi mênh mông, tƣởng nhƣ đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời
sau, từng cây, hạng vạn, hàng triệu cây vô tận. Không khí ở đây thơm lừng…”
+ Hình tƣợng cây xà nu đƣợc tác giả miêu tả từ nhiều góc độ và đƣa lại hiệu quả
thẩm mĩ đặc biệt. Với kết cấu trùng điệp, cây xà nu có mặt từ đầu đến cuối tác
phẩm. Nó hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và dân làng Xô Man của anh.
Gần hai mƣơi lần, tác giả nói đến “Rừng xà nu”, “đồi xà nu”,”cây xà nu”, “nhựa
xà nu”, “kh i xà nu”, “lửa xà nu” điều này cho thấy xà nu là mạch hồn của tác
phẩm.
+ Xà nu gắn bó với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày thân thuộc với dân làng: lửa xà
nu cháy bập bùng trong nhà ƣng tập trung cả dân làng để nghe cụ Mết kể về cuộc
đời Tnú. Khói xà nu đen nhẻm thân hình lũ trẻ; khói xà nu còn làm tấm bảng đen
cho anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ cụ Hồ…
19 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

+ Xà Nu còn tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống làng Xôman:
ngọn đuốc xà nu cháy sáng trên tay cụ Mết dẫn cả dân làng đi vào rừng sâu lấy
giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Đêm đêm cả dân làng thức mài vũ khí dƣới
ánh đuốc xà nu bập bùng. Giặc đốt đôi bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu và
lửa xà nu chứng kiến cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man.
b. Cây xà nu tượng trưng cho phẩm chất và số phận con người Tây Nguyên
trong kháng chiến chống Mỹ. Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do
đại bác của kẻ thù gợi nghĩ đến những mất mát đau thương mà đồng bào ta
đã phải trải qua trong thời kì cách mạng miền Nam bị khủng bố khốc liệt.
+ Mỗi ngày giặc bắn đại bác ba lần vào làng nhƣng làng Xô Man vẫn bình

yên vì “Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Đổi
lại, vì bảo vệ cho dân làng nên cánh rừng xà nu lại chịu nhiều đau thƣơng mất
mát: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. C
những cây bị đạn đại bác chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận
bão”. Ở chỗ khác, nhà văn miêu tả kỹ hơn: “C những cây con vừa lớn ngang tầm
ngực người đã bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi, ở những cây này nhựa còn trong,
chất dầu còn loãng, chỉ năm mười hôm là cây chết ”.
Qua việc miêu tả ấy, bằng nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ tƣợng trƣng tác giả đã làm
hiện lên nỗi đau thƣơng mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù.
Viết về nỗi đau của cây mà ta cứ ngỡ nhƣ nỗi đau của con ngƣời. Mỗi một cây xà
nu ngã xuống ta cứ ngỡ nhƣ một con ngƣời Xô Man ngã xuống. Phải chăng đó là
hình ảnh của anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai, anh Quyết… những ngƣời đã ngã
xuống vì chính nghĩa dƣới bàn tay tàn bạo của kẻ thù. Nhƣng trong đau thƣơng,
cây xà nu vẫn hiện lên bởi những vẻ đẹp thăng hoa đến sững sờ. Đẹp trong dáng
ngã kiêu hùng, bất khuất “đổ ào ào như một trận bão”. Đẹp bởi đƣờng nét, màu
sắc, hình khối, trong đau thƣơng mà vẫn hiện hữu hƣơng thơm và ánh sáng “nơi
chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt, rồi
dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành cục máu lớn”. Đó chính là vẻ đẹp gắn
liền với chất bi tráng, chất sử thi hào hùng của vùng đất thiêng Tây Nguyên hùng
vĩ.
c. Trong bom đạn chiến tranh, thương tích đầy mình cây xà nu vẫn hiên
ngang vươn lên mạnh mẽ như người dânTây Nguyên kiên cường bất khuất,
không khuất phục trước kẻ thù tàn bạo.
20 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

+ Bằng bút pháp miêu tả tác giả đã mang đến cho ngƣời đọc sức sống
hoang dại, mãnh liệt của rừng xà nu: “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở

khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã c bốn năm cây con mọc lên,
ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”.Đúng nhƣ có lần
Nguyễn Trung Thành đã từng viết “Một cây ngã cả rừng cây lại mọc/ Người nối
người đã mấy vạn mùa xuân”. Sự sống của xà nu quả là bất diệt, bất tử, không một
thế lực nào, không mƣa bom bão đạn nào của kẻ thù có thể hủy diệt đƣợc. Nhƣ một
mẫu số nhân “một ngã” thì“bốn năm cây con mọc lên” thách thức, kiêu hãnh.
Đúng nhƣ lời cụ Mết đã khẳng định: “Không c cây gì mạnh bằng cây xà nu đất
ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên, đố chúng nó giết hết được cả rừng xà nu này”.
+ Quả đúng là “Một cây ngã cả rừng cây lại mọc”, thế hệ này ngã xuống, thế hệ
khác đứng lên thay thế, tiếp tục chiến đấu với kẻ thù. Con ngƣời Xô man cũng vậy:
anh Xút bà Nhan hi sinh thì có thế hệ của Mai và Tnú lớn lên tiếp tục xông pha
vào mƣa bom bão đạn để viết tiếp trang sử của làng. Mai ngã xuống khi tuổi xuân
và hạnh phúc đang căng nồng thì Dít lớn lên nhanh chóng trở thành bí thƣ chi bộ.
Rồi thế hệ bé Heng đang tiếp bƣớc cha anh. Tất cả tạo nên một đội ngũ trùng
điệp“Người nối người đã mấy vạn mùa xuân”. Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu
qua những hành động hủy diệt, tàn phá thể hiện sự bất khuất, kiên cƣờng, sự vƣơn
lên mạnh mẽ của con ngƣời Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc
chiến đấu một mất một còn với kẻ thù.
+ Vẻ đẹp nữa của cây xà nu đó là loài cây ham ánh sáng mặt trời, yêu tự do.
Sự sống của nó chính là sự vƣơn lên để sinh tồn. Cây xà nu rất ham ánh sáng và
khí trời: “n ph ng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng rọi từ trên
cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, vô số những hạt bụi vàng bay ra từ nhựa cây
thơm mỡ màng”. Đó chính là tiếng gọi của tình yêu tự do. Cũng nhƣ Tnú, nhƣ dân
làng Xôman yêu tự do, khát khao ánh sáng nên họ đã cầm giáo, cầm gƣơm quyết
tâm bảo vệ vùng trời tự do ấy. Có thể nói, đặc tính “ham ánh sáng” của cây xà nu
tƣợng trƣng cho niềm khao khát tự do, lòng tin vào lý tƣởng Cách mạng của ngƣời
dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam.
+ Và ở rừng Xà Nu còn xuất hiện những cây khác vững chãi, không chịu
khuất phục trƣớc giông bão, đạn bom của kẻ thù : “C những cây xà nu cành lá
xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ, đạn đại bác không giết nổi

chúng. Những vết thương của chúng ch ng lành như trên một cơ thể cường tráng.
Cứ thế ba năm nay , rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho cả dân
21 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

làng”. Hình ảnh ấy của cây rừng xà nu khiến ta liên tƣởng đến hình ảnh của cụ
Mết với giọng nói uy nghiêm, của sức sống Tnú, của Mai, của Dít… Đó là vẻ đẹp
của bức thành đồng kiên cố, tấm lá thép vĩ đại của làng Xô man. Vì vậy mà suốt
năm năm chƣa hề có cán bộ nào bị giặc bắt hoặc chết trong rừng làng này. Bởi
rừng xà nu đã mang tầm vẻ đẹp “Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”. Tất cả nối
tiếp nhau tạo thành một đội ngũ trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau chạy đến tận
chân trời.
Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu cùng sự rộng lớn, bạt ngàn của
rừng xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ ngƣời dân Tây Nguyên đoàn
kết bên nhau kháng chiến. Phải chăng đó là vẻ đẹp của cụ Mết, ngƣời truyền và giữ
ngọn lửa tinh thần cách mạng với chân lí ngời sáng “Chúng n đã cầm súng, mình
phải cầm giáo”. Là vẻ đẹp của ngƣời anh hùng Tnú với tinh thần kìm nén đau
thƣơng để biến thành sức mạnh quật khởi. Là vẻ đẹp của Dít với đôi mắt mở to
trong suốt, bình thản. Dít nhƣ cây xà nu nhanh chóng trƣởng thành, nhanh chóng
trở thành bí thƣ chi bộ cùng cụ Mết lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc. Vẻ đẹp
của bé Heng, thế hệ xà nu măng non, chƣa trƣởng thành nhƣng tinh thần thì
đã “nhọn hoắt như những mũi lê”... Có thể nói hình tƣợng xà nu nổi bật xuyên
suốt tác phẩm, câu chuyện mở ra trong vẻ đẹp mãnh liệt của sự sống trƣớc đau
thƣơng mất mát để rồi khép lại vẫn là hình ảnh hào hùng của sự thách thức . Bên
cạnh“bốn năm cây xà nu đã bị đánh ngã đã c vô số những cây con đang mọc
lên”. Mới mọc thôi nhƣng tinh thần chiến đấu lại rất mãnh liệt “C những cây mới
nhú khỏi mặt đất nhọn hoắt như những mũi lê”.
3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng: Thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối chiếu,

ngôn ngữ sử thi hào hùng, thủ pháp nhân cách hóa … đã tạo nên sự chuyển hóa,
hòa hợp giữa hình tƣợng thiên nhiên và con ngƣời, tạo nên một bản hợp xƣớng đầy
chất thơ hào hùng tráng lệ về sức sống bất diệt về cuộc chiến đấu bất khuất kiên
trung của nhân dân Tây Nguyên giành tự do.
III. KẾT BÀI
Tóm lại, Nguyễn Trung Thành đã khắc họa thành công hình tƣợng cây xà nu tiêu
biểu cho vẻ đẹp hào hùng, đầy sức sống của thiên nhiên và con ngƣời Tây Nguyên.
Trong nghệ thuật miêu tả cây xà nu, chất thơ và chất sử thi hòa quyện nhuần
nhuyễn, thể hiện rõ một phong cách văn xuôi vừa say mê, vừa trầm tƣ, vừa giỏi tạo
hình, vừa giàu sức khái quát của Nguyễn Trung Thành.
22 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

Phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo
trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao.

Thầy Phan Danh Hiếu. Yêu cầu ghi rõ nguồn khi copy từ trang này.

HƯỚNG DẪN
I.

MỞ BÀI

Nam Cao là đại biểu ƣu tú của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông là cha đẻ của
những tác phẩm tên tuổi : “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Đời thừa”… trong đó Chí Phèo
là kiệt tác của Nam Cao và cũng là kiệt tác của văn học hiện thực phê phán. Thông
qua hình tƣợng nhân vật Chí Phèo và con đƣờng tha hóa của ngƣời nông dân trƣớc
Cách mạng, Nam Cao đã khắc họa thành công tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm

ngƣời của nhân vật Chí Phèo mang đến cho bạn đọc bao niềm xúc động sâu sắc.
II.

THÂN BÀI

1.
Bi kịch là gì ? Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống và
khát vọng cá nhân. Hiện thực đời sống không đủ điều kiện để cá nhân thực hiện
đƣợc khát vọng của mình dẫn đến cá nhân rơi vào hoàn cảnh bi đát (có thể dẫn đến
cái chết). Trong văn học Việt Nam ta đã từng bắt gặp bi kịch tình yêu của Thúy
Kiều, bi kịch nghệ thuật của nhà văn Hộ, bi kịch của Vũ Nhƣ Tô… nhƣng bi kịch
lạ lùng nhất là bi kịch “bị cự tuyệt quyền làm ngƣời” của Chí Phèo.
2.
Bi kịch ấy ngay từ đầu tác phẩm đã hiện lên qua tiếng chửi của
Chí Phèo. Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trƣớc mắt ngƣời đọc không phải bằng
xƣơng bằng thịt mà là bằng tiếng chửi "hắn vừa đi vừa chửi". Đó là hình ảnh vừa
quen vừa lạ. Quen vì đó là tiếng chửi của những thằng say rƣợu. Lạ vì hắn chửi
mà không có ai chửi nhau với hắn, không ai lấy làm điều. Chí "chửi trời, chửi đời,
chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ
nào đã đẻ ra thân hắn". Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận
23 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

con ngƣời ít nhiều nhận thức đƣợc bi kịch của chính mình. Chửi cũng là một cách
để giao tiếp nhƣng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng
đến rợn ngƣời. Cay đắng hơn nữa, đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo lại là “tiếng chó
cắn lao xao”. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài ngƣời. Xã hội mà dù sống
trong nó Chí cũng không còn đƣợc xem là con ngƣời nữa. Qua tiếng chửi ấy, ta

nhận ra bốn thái độ: Thái độ của ngƣời chửi: hằn học, hận thù; thái độ ngƣời nghe:
dửng dƣng, khinh miệt; thái độ nhà văn: xót xa, thƣơng cảm; thái độ ngƣời đọc: tò
mò… Vậy Chí Phèo là ai?
3.
Bi kịch của một đứa con hoang bị bỏ rơi. Lật lại trang đời của Chí,
ngƣời đọc không sao cầm đƣợc nƣớc mắt trƣớc một hoàn cảnh đáng thƣơng. Ngay
từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ giữa một cánh đồng
mùa đông sƣơng trắng. Rồi Chí đƣợc dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh
sống trong bất hạnh, tủi cực "hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho
nhà người khác, năm hai tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến". Đây là quãng
thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lƣơng thiện, quãng
đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà ngƣời ta
cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa
run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng nhƣ bao con ngƣời khác, anh cũng có ƣớc
mơ giản dị: "có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải.
Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào
ruộng làm". Đó chính là một ƣớc mơ lƣơng thiện. Nhƣng đớn đau thay, cái xã hội
bất lƣơng ấy đã bóp chết cái ƣớc mơ đó của Chí khi còn trứng nƣớc. Một cơn ghen
vu vơ của lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã
tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một
kẻ lƣu manh hóa, một kẻ tội đồ.

4.
Bi kịch tha hóa, lưu manh là con đường dẫn đến bị cự tuyệt
quyền làm người.Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt ngƣời của Chí, phá hủy cả
nhân tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh canh điền hiền lành
nhƣ đất nữa. Trƣớc mắt ngƣời đọc là một tên lƣu manh với một nhân hình gớm
ghiếc "cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm
gườm trông gớm chết... cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với
một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế". Cả cái nhân tính cũng bị xã

hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những tội ác trời không dung
24 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12

thứ khi hắn bỗng dƣng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay
ngƣợc lại lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ
một ngƣời nông dân hiền lành lƣơng thiện Chí trở thành thằng lƣu manh "con quỷ
dữ của làng Vũ Đại". Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi
Chí lớn lên trong vòng tay yêu thƣơng vậy mà nay Chí đã quay lƣng lại với chính
cái nơi mà hắn đƣợc yêu thƣơng và chở che. Từ đây Chí sống bằng rƣợu và máu và
nƣớc mắt của biết bao nhiêu ngƣời dân lƣơng thiện: "Hắn đã đập nát biết bao
nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân
lương thiện". Hắn làm những việc ấy trong lúc say " ăn trong lúc say, ngủ trong
lúc say, thức dậy vẫn còn say... đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi
say nữa say vô tận". Chƣa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi
vì "những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài
mênh mang". Nam Cao đã cho ngƣời đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống
của nhân dân ta trƣớc cách mạng tháng Tám. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt
ƣớc mơ và khát vọng, ngƣời nông dân bần cùng hóa dẫn đến lƣu manh hóa. Một
cuộc sống tối tăm không ánh sáng. Nhà văn xót thƣơng cho nhân vật, cay đắng và
đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thƣơng
của nhà văn dành cho những kiếp ngƣời nhƣ Chí Phèo.

5.
Gặp Thị Nở và khao khát hoàn lương. Nam Cao không trách
giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành cho nhân vật vẫn nồng nàn yêu thƣơng. Ông
phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần chút tình thƣơng
chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị

Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con ngƣời xấu đến "ma chê quỉ
hờn", kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm
hồn Chí Phèo để thức tỉnh, gợi dậy bản tính ngƣời nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái
tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn ngủi
với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí.
Có nhà phê bình đã cho rằng: Thị Nở là một sứ giả mà Nam Cao phái đến để thức
tỉnh Chí Phèo. Đó là sứ giả của tình yêu thƣơng và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của
nhà văn. Nhƣng có lẽ cần phải nói thêm, Thị Nở không chỉ là vai trò sứ giả của
lòng nhân đạo mà Thị còn là một “thiên sứ” của tình yêu. Vị thiên sứ này không có
đôi cánh thiên thần nhƣng có đôi tay đầy ắp tình ngƣời. Thiên sứ ấy nhƣ một ngọn
gió, một ngọn lửa thổi vào tâm hồn của Chí. Nếu là gió, gió sẽ thổi bay lớp tro tàn

25 | P a g e


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×