Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Luyện thi: Vợ nhặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (37.1 KB, 6 trang )

Vợ nhặt
Kim Lân
Một số người gần đây hay nhắc đến nhận xét của một cây bút văn xuôi đương đại.
Trong đó, nhà văn ấy đã kể ra bốn tác phẩm được ông cho gần như là “ thần bút”,
những tác phẩm mà người bình thường gần như không thể nào viết nổi. Hai trong số
bốn tác phẩm ấy , “ Chữ người tử tù” và “ Chùa đàn” là của Nguyễn Tuân. Điều đó có
thể không gây ra nhiều sự ngạc nhiên, bởi ai cũng biết Nguyễn Tuân là một nhà văn
độc đáo vào bậc nhất của nền văn chương hiện đại. Nhưng điều lạ lùng hơn là hai tác
phẩm còn lại hoá ra lại là của một tác giả viết không nhiều và thường giữ mình trong
giới hạn của sự khiêm tốn và lặng lẽ. Người ấy, nói theo cách của Hoài Thanh “ viết
rất ít mà được mến phục rất nhiều “ trong văn xuôi không phải ai khác ngoài Kim Lân.
Và hai tác phẩm khác thường ấy của Kim Lâm không phải là tác phẩm nào khác ngoài
“ Làng” và “ Vợ nhặt”.Nếu phải xếp thứ bậc cho hai thiên truyện ấy, theo dư luận
chung mà chính Kim Lân ghi nhận, truyện ngắn “ Vợ nhặt” có phần được coi là xuất
sắc hơn cả. Và góp phần rất lớn để làm nên thành công lạ kỳ trong “ Vợ nhặt”, vẫn
phải là một tình huống truyện rất đặc sắc mà Kim Lân đã tìm ra, tạo dựng trong tác
phẩm.
Thiên truyện ấy kể với người đọc về một anh Tràng ngụ cư, sau một vài lần ra tỉnh, tình
cờ nhặt được một người vợ, một người đàn bà đói khát rồi dẫn người “vợ nhặt” ấy về
nhà mình trong bóng mờ tối của ánh chiều chạng vạng. Đó là một đám cưới trong thời
đói kém, vào năm Ất Dậu đói kém của những người đang đói kém. Tình huống của
“Vợ nhặt” về cơ bản chỉ có thế thôi. Câu chuyện không dài, số nhân vật theo đúng
nghóa nhân vật cũng không nhiều, chỉ vẻn vẹn có ba người : hai vợ chồng và người mẹ.
Mâu thuẫn giữa ba nhân vật ấy dường như không có và câu chuyện cũng chỉ diễn ra
trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, còn lâu mới đủ một ngày - đêm. Thế nhưng, tình
huống đơn giản ấy lại vô cùng đặc sắc, bởi Kim Lân thông qua đó vẫn tạo ra được
những xung đột của những đối cực. Đó là tình huống mà nhà văn đã đẩy đến tột cùng
của sự ngang trái, éo le. Bởi hôn nhân vẫn là biểu trưng của hạnh phúc, nhưng Kim Lân
lại muốn nói đến một cuộc hôn nhân diễn ra trong một thảm hoạ lớn nhất, trong những
ngày tháng đau buồn nhất của một dân tộc mà đời sống vốn đã rất nhiều đau buồn, tai
hoạ. Ít có một tình cảnh nào trớ trêu hơn thế. Khó có một thứ xung đột nào oái oăm hơn


thế, giữa đói khát và hạnh phúc, giữa nỗi đau khổ và sự sướng vui. Nói như một nhà
triết học : “Chính mâu thuẫn được đẩy lên đến chóp đỉnh như thế thì sự muôn màu, sinh
động của cuộc sống mới được bật ra, mới lên hết được tầm lớn và chiều sâu”. Rõ ràng
tình huống truyện của Kim Lân đã làm nhân vật bằng một chất liệu rất ít mà nói được ý
nghóa rất nhiều, bằng mối quan hệ ít ỏi và đơn giản mà có thể làm người đọc thấm thía
những bản chất sâu xa của con người và cuộc sống.
Chắc chắn tình huống nhặt vợ ấy, và phải là tình huống ấy mới có thể cho ta thấy con
người có thể rơi vào tình cảnh khổ cực như thế nào. Kim Lân đã tạo ra trước mắt chúng
ta một cuộc sống không ra cuộc sống, một cuộc sống cứ phảng phất hơi hướng của cái
chết, một cõi dương lẫn lộn trong đó tử khí của cái âm . Ở đó chúng ta bắt gặp những
tình cảnh dở khóc dở cười. Trên con đường ấy có thể có một anh con trai dẫn vợ về làng
và cũng có những bóng người chết đói đi lại “xanh xám như những bóng ma”. Chúng ta
có thể bắt gặp hình ảnh của đôi vợ chồng ấy, không khí của đêm tân hôn vẫn lẩn vào
trong “mùi đốt đống dấm ở những nhà có người chết cứ theo gió thoảng vào khét lẹt”,
cái mùi xua tan tử khí. Nhà văn cũng nói đến tiếng cười của một người chồng, nhưng lại
vang lên trong “tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”, tiếng khóc có
lẽ là của một người mẹ vừa bò cơn đói cướp mất đứa con rứt ruột của mình. Cuộc đời
trong “Vợ nhặt” luôn luôn bò ám ảnh bởi hình bóng của cái chết . Trong cuộc sống
không ra cuộc sống ấy, chúng ta không chỉ bắt gặp những con người không ra con
người, mà ngay cả những con đường cũng mang dấu vết “khẳng khiu”. Mà dường như
tất cả những giá trò người cũng bò biến dạng. Chúng ta đã từng được nghe biết bao lời ca
ngợi về tình yêu, hôn nhân, về người vợ, và ai cũng biết đó đã, đang và sẽ là nguồn thi
hứng lãng mạn nhất, đẹp đẽ nhất, xúc động lòng người nhất. Nhưng Kim Lân đã làm
chúng ta phải xót xa khi nghó đến một anh Tràng xấu xí như vậy cũng có thể tiện tay
nhặt được một người vợ như nhặt một thứ cây cỏ, rơm rác hay một thứ đồ vật nào đó ở
bên lề đường của một cuộc đời ảm đạm. Tình huống ấy cũng giúp chúng ta thấy rằng
giá trò người, sự đẹp đẽ của con người có thể bò biến dạng, méo mó đi đến thế nào trong
đói khát. Chúng ta cũng đau xót khi nghó đến người đàn bà vì trông chờ miếng ăn mà hi
sinh rất nhiều phẩm chất của một người con gái, bỏ qua rất nhiều sự e lệ, tự trọng để
mong có được một miếng ăn. Bốn bát bánh đúc trong những tháng ngày đói kém, chúng

đủ phép màu để làm “hai con mắt trũng hoáy” của người phụ nữ đói rách “sáng hẳn
lên”. Chúng ta cũng bắt gặp một tình yêu dường như có thể đổi bằng bốn bát bánh đúc
hay những lời tỏ tình, giao duyên theo kiểu “Rích bố cu, hở ?”, “Hà, ngon ! Về chò ấy
thấy hụt tiền thì bỏ bố”, “Làm ******* gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra
khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Ngôn ngữ của tình duyên là như vậy đấy . Thật xót ra
khi người ra buộc phải nghó : hoá ra cái đói quay quắt nọ lại cũng có thể xe duyên cho
một mối tình. Rồi thì trong đám cưới ấy, trên đường dẫn dâu cũng chỉ vẻn vẹn có hai
người : chủ rể Tràng và một cô dâu về nhà chồng với một cái áo “rách như tổ đỉa” và
tất cả của hồi môn chỉ là một cái thúng con. Rồi đêm hôm ấy, cái mà người ta thường
gọi rất văn hoa là “đuốc tân hôn” thực ra chỉ là một hai hào dầu thắp trong cái chai bé
xíu. Và bữa ăn đầu tiên mà mẹ chồng khoản đãi nàng dâu là bát cháo loãng thếch và
bát cám đắng chát mà được gọi chệch đi là “chè khoán”. Chính tình huống như thế đã
làm nảy ra trên khắp bề mặt thiên truyện những chi tiết khiến người đọc cứ phải bất
giác nở những nụ cười buồn bã và chua chát để cám cảnh cho kiếp người. Và tình
huống ấy cũng giúp cho người ta có thể nhìn vào cuộc đời mà sự đói khát khiến tất cả
trở nên méo mó, tầm thường, kệch cỡm đi. Cuộc đời ấy, chúng ta khó có thể thấy được
trong một tác phẩm nào khác, nếu không muốn nói là không thể nào thấy được. Tình
huống ấy cũng giúp chúng ta có tầm nhìn sâu sắc hơn, ảo não hơn về cuộc sống.
Nhưng đó chưa phải là ý nghóa lớn nhất mà tình huống đặc sắc trong “Vợ nhặt” đã gợi
ra. Bởi vì sự xung đột giữa đói khát và hạnh phúc sẽ còn được khai khác theo chiều
hướng khác. Nhà văn cho thấy, đúng là cuộc sống con người, giá trò người có thể bò méo
mó đi nhiều, rơi vào hiểm hoạ rất nhiều trước sức mạnh tàn phá của cái đói. Nhưng
Kim Lân cũng đặt ra một thử thách để chúng ta thấy rằng : ngay cả cái đói - tai hoạ
thảm khốc nhất mà con người phải chòu đựng trong cuộc đời sẽ không thể tiêu diệt nổi,
hoàn toàn không phá huỷ nổi những giá trò nhân bản vẫn tồn tại bền chắc trong những
con người lao động. Cái đói đã không thể ngăn cản họ đến với nhau, yêu thương và
giúp đỡ lẫn nhau. Cách xử sự của anh Tràng rất mộc mạc, hồn nhiên nhưng rất khác với
cách xử sự của những kẻ giàu có hơn. Sự giàu có về vật chất đôi khi không tỉ lệ thuận
sự giàu có của tâm hồn. Vì thế, tình huống ấy giúp Kim Lân hiểu và muốn người đọc
cùng hiểu rằng đâu là cái mà con người mong muốn nhất, cần thiết có trong đời sống

của mình nhất. Đọc tình huống “Vợ nhặt”, ta mới cảm động nhận ra rằng ngay cả khi
rơi vào cái đói đến tột cùng, giữa ranh giới của cái sống và cái chết thì cái mà con
người yêu q nhất không phải là một miếng ăn. Nếu chỉ vì miếng ăn thì cuộc hôn nhân
ấy đã không thể có, và cũng không thể có được những gì diễn ra sau này. Con người
không mất đi tình thương, mong muốn có nhau, được sưởi ấm lẫn cho nhau. Phải vậy,
chúng ta mới được thấy một anh Tràng hào phóng, dám làm một việc gì đó lớn hơn cả
nhu cầu vật chất : khao một người đàn bà bốn bát bánh đúc hay mua hai hào dầu, những
việc vượt lên trên nhu cầu thực tại của mình. Và đó không phải là cách suy nghó riêng
của Tràng. Nhà văn còn cho thấy một sự đồng cảm nào đó của những người dân trong
xóm ngụ cư. Đám cưới làm họ dường như ấm áp hơn, “những khuôn mặt hốc hác, u tối
của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên”. “Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống
đói khát, tăm tối ấy”. Sự ấm áp ấy còn thấy thật rõ hơn qua hình ảnh bà cụ Tứ. Cuộc
hôn nhân ấy đã đem đến cả một nguồn sáng mới cho người mẹ già sắp gần đất xa trời.
Nhưng Kim Lân không hề ảo tưởng rằng hạnh phúc ấy có thể giúp diệt trừ cái đói. Nhà
văn vẫn giữ niềm tin rằng hạnh phúc ấy sẽ không thể bò cái đói diệt trừ. Đám cưới
không làm cho những người trong cuộc nghó rằng mình sẽ ấm no mà thậm chí còn
ngược lại. Hiểu ra điều ấy, người đàn bà lúc đầu theo Tràng với mong muốn mình bớt
đói khát hơn, nhưng Kim Lân đã để cho chò vợ ấy mau chóng nhận ra điều đó chỉ là ảo
tưởng, để rồi “nén một tiếng thở dài” khi bước vào ngôi nhà dột nát. Hay như khi bà cụ
Tứ đon đả bưng nồi cám lên, chò “đưa mắt lên nhìn, hai con mắt tối lại”.
Thế nhưng Kim Lân cho chúng ta hiểu rằng dù có thế, việc người vợ để cho Tràng nhặt
về không phải là một sự dại dột, nực cười bởi cuộc hôn nhân ấy đem lại cho người phụ
nữ kia nhiều sự đổi thay trong cuộc sống. Người ấy không no hơn, lành lặn hơn nhưng ít
nhất cũng không còn cong cớn, trơ trẽn, đanh đá mà trở nên “hiền hậu đúng mực”, mà
được sống trong cảm giác của một người vợ dọn bữa cơm cho chồng ăn, cùng tham gia
dọn dẹp nhà cửa, quét tước cho quang quẻ. Người ấy không ấm no, nhưng vẫn ra người
hơn.
Chúng ta cũng thấy sự thay đổi ấy ở Tràng, không phải bởi anh bớt đi vẻ ngộc ngệch,
ngây ngô thường ngày mà vì chính người như anh cũng cảm thấy khác đi. Cảm giác êm
ái cứ lớn dần lên trên suốt con đường “đón dâu”. Lần đầu tiên Tràng muốn “nói một

vài câu rõ tình tứ” nhưng rồi chẳng biết nói thế nào. “Trong một lúc Tràng hình như
quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm
đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình
nghóa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở
người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thòt Tràng, tựa hồ như có bàn
tay vuốt nhẹ trên sống lưng”.Rồi đến khi vợ hỏi, anh chàng to xác ấy lại trả lời một
cách đến là ngờ nghệch, ngây thơ : “Có mình tôi mấy u”. Và cũng có thể thấy được sự
đổi thay ấy trong khi Tràng giới thiệu vợ mình với mẹ : “Kìa nhà tôi nó chào u”. Chao
ơi, cái người mà Tràng gọi là “nhà tôi” ấy lại chỉ là một người đàn bà nhặt được theo
không, trong ngày cưới không có xe hoa, pháo nổ. Nhưng câu nói vẫn chan chứa tình
cảm. Mấy tiếng ấy nghe vẫn như có gì nở ruột nở gan, vì nó là sự xác nhận rành rọt
không chỉ với mẹ Tràng mà còn cho chính Tràng rằng tất cả đã trở thành sự thực, cái
điều mà ít phút trước Tràng còn ngờ như trong giấc mơ : “Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?
Hà.!..”.Sự đổi thay ấy làm Tràng tự hào, sung sướng - cái cảm giác mà trước đó chắc
chắn không hề có. Dù cho sự thực ấy có nặng nề, ảm đạm thì nó vẫn là lý do duy nhất
khiến Tràng lần đầu tiên được sống trong cảm xúc rất người : “Bỗng nhiên hắn thấy
hắn thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ
cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.... Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”. Sự đổi thay ấy
thật sự lớn lao khi người ta nhận ra rằng mình đã nên người. Và như thế, nhu cầu hạnh
phúc của con người vẫn không hề mất đi, cho dù người ta phải rơi vào cảnh đói khổ.
Nhà văn vẫn có thể nhìn thấy trong sự éo le hình ảnh của đời sống con người, hình ảnh
đem lại cho người ta một niềm tin rằng những gì đã là nhân bản thì sẽ không thể mất đi.
Và Kim Lân cũng chỉ ra rằng sự đói khát cũng không thể lấy mất ở con người niềm tin,
niềm tin vào hạnh phúc và tương lai. Nhà văn ấy đã thành công trong việc biến thành
hình tượng một điều mà từ trước chỉ là ấn tượng. Tương lai cũng có thể rất bình dò trong
hình ảnh một đàn gà hay lớn lao hơn. Khi ấy người ta dù rất thiết tha tin tưởng nhưng
vẫn chưa hiểu hết về những ngày mai. Bởi vậy nhà văn mới xây dựng nên trong óc
Tràng hình ảnh người ta nườm nượp đi phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Niềm
sung sướng gắn liền với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng, dễ làm người ta liên tưởng đến
hình ảnh tượng trưng cho người dân Việt Nam. Đó chính là sức mạnh tinh thần mà

không gì có thể huỷ hoại, cho dù có là cái đói.
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhân vật bà cụ Tứ có lẽ không xuất hiện nhiều như vợ
chồng anh Tràng. Người đọc chỉ bắt gặp hình ảnh người mẹ già trong nửa sau của câu
chuyện. Nhưng điều thú vò là dù có thế, nhân vật ấy, hình tượng người mẹ ấy vẫn sống
rất bền lâu trong kí ức, xúc cảm và lòng mến yêu của người đọc. Bởi qua ngòi bút Kim
Lân, người mẹ rõ ràng có nhiều nét mà Tràng và người vợ nhặt còn chưa có, hay chưa
có đến mức độ cao như thế.
So với Tràng, hình như bà cụ Tứ là hiện thân đầy đủ hơn cho nỗi khổ sở. Nỗi khổ ấy in
dấu ngay ở trong hình hài “lọng khọng”, trong dáng đi bận rộn, vất vả, “vừa đi vừa lẩm
bấm tính toán gì trong miệng” như thể lúc nào cũng có việc để lo toan. Con người ấy
hình như sự sống chỉ còn leo lét, bởi trong chữ “lọng khọng” ấy còn phảng phất ấn
tượng của chữ “lọm khọm”. Cụ đã già lắm, tuổi tác đã chất nhiều lắm trên mái đầu.
Nhưng chữ “lọng khọng” ấy còn gợi đến hai chữ “lòng khòng”, đến dáng đi mà tấm
lưng đã còng xuống vì gánh nặng thời gian. Cảm giác ấy được cộng thêm vào bởi cặp
mắt “hấp háy” nhìn không rõ, bởi ý nghó đã chậm chạp, nghó mãi chẳng ra. Vì thế mà
cụ phải mất nhiều lần “hấp háy mắt”, nhiều sự băn khoăn mà vẫn chưa đoán ra người
đàn bà lạ đang “đứng ngay ở đầu giường con mình” là ai. Hay tuổi già còn thể hiện qua
một lối nói năng đã có vẻ dớ dẩn, không đâu vào đâu của người có tuổi, mà lại không
phải người nói hay. Và kinh nghiệm của cả cuộc đời đau khổ đã khiến bà nhìn cuộc hôn
nhân của con mình khác nhiều so với vợ chồng Tràng. Đã đành là buồn nhiều hơn, lo
lắng nhiều hơn bởi lẽ cụ đã đo lường cuộc hôn nhân ấy bằng cả những khổ đau của
cuộc đời, của cả người chồng đã mất và đứa con gái xấu số. Cũng không ai nghó sâu xa
về những khó khăn mà những đứa con rồi đây phải chòu bằng bà cụ. Bà là người duy
nhất trong câu chuyện “rỏ nước mắt” trước cuộc hôn nhân. “Trong kẽ mắt kèm nhèm
của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”.
Nhưng bà cụ Tứ cũng là hiện thân cho tấm lòng nhân ái của người mẹ. Bởi người mẹ ấy
cũng đã chấp nhận người con dâu mới không phải vì hiểu rằng trong hoàn cảnh khác,
con mình không dễ gì lấy được vợ chứ chưa nói đến có một người phụ nữ cho không. Bà
chấp nhận con dâu còn xuất phát từ lòng mong muốn và cả nỗi vui mừng khi thấy con
mình được nên người, nhà mình đã có thêm người để trở thành một gia đình theo đúng

nghóa. Và lòng thương con làm người mẹ ấy vượt qua được rất nhiều, không chỉ là nỗi
lo “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Chỉ vì
niềm vui có con người mà bà cụ cũng rất tự nhiên vượt qua những thành kiến đã tồn tại
từ hàng ngàn đời trong xã hội. Rõ ràng người mẹ ấy đã sống đúng theo một triết lý đầy
tình nhân ái của những người dân lao động Việt Nam : “Người sống - đống của”. Bởi
vậy Kim Lân đã không viết “U cũng bằng lòng” mà nhất đònh viết “U cũng mừng
lòng”, để thấy người mẹ sẵn sàng coi con người hơn gấp nhiều lần của cải. Và rồi người
đọc, trong muôn vàn chi tiết, sẽ nhớ mãi một chi tiết nhà văn dành cho bà mẹ. Một câu
thôi mà lột tả đúng cái thần thái của một tấm lòng vò tha cao q đang ngượng ngập,
vụng về tìm cách giấu dòng nước mắt xót thương vì sợ phiền cho chính người mình
thương xót : “Có đèn đấy à ? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa.... Dầu bây giờ đắt gớm lên
mày ạ.” Và người đọc bỗng thấm thía biết bao tấm lòng bà cụ Tứ nhân từ.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×