Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Sinh hoạt chuyên môn qua mạng hay nhất năm 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.53 KB, 21 trang )

TRƯỜNG THCS NGA THẠCH

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN SINH HOẠT CHUYÊN MÔN
Thời gian: 14 giờ ngày 08 / 12 / 2016
Địa điểm: Văn phòng trường THCS Nga Thạch
Thành phần: - Đ/c Mai Văn Sơn – Phó hiệu trưởng trường THCS Nga Thạch.
- 8 đ/c trong tổ khoa học tự nhiên.
- Chủ tọa: đ/c Mai Thị Hường – Tổ trưởng tổ KHXH
- Thư kí: đ/c Nguyễn Thị Tâm.
NỘI DUNG
I. Đ/c Mai Thị Hường trình chiếu sáng kiến kinh nghiệm “VẬN DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY
TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD 9 NHẰM NÂNG CAO KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
Ở TRƯỜNG THCS NGA THẠCH” .

Tóm tắt nội dung sáng kiến:
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I . Cơ sở lí luận
1. Cơ sở của việc đổi mới phương pháp giảng dạy trong dạy học.
2. Cơ sở của việc vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học.
II . Thực trạng
1. Thực trạng tiếp thu kiến thức trên lớp và học bài ở nhà của học sinh trường
THCS Nga Bạch
2. Thực trạng vận dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy ở trường THCS Nga Bạch.
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện
1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu và lập sơ đồ tư duy trong học tập.
2. Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học.
3. Vận dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy ở một số nội dung cụ thể.


IV. Kết quả nghiên cứu
1. Kết quả kiểm tra kiến thức học sinh trước khi áp dụng phương pháp.
2. Kết quả kiểm tra kiến thức học sinh sau khi vận dụng phương pháp.
C. Kết luận và đề xuất
D. Tài liệu tham khảo


A. Đặt vấn đề.
Trong những năm qua, cùng với việc thực hiện một cách đồng bộ đổi mới nội dung,
chương trình, sách giáo khoa, trong đó đổi mới phương pháp dạy học(PPDH) luôn được
Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm và chú trọng. Có thể nói, đây là một bước đột phá của
ngành Giáo dục nước nhà.
Thực hiện nghiêm túc tinh thần Nghị quyết 40/2000-QH10 của Quốc hội khóa 10 và
Chỉ thị số 14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GD&ĐT đã đặc biệt chú trọng
đến việc bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên từng bước nâng cao trình độ, đổi mới PPDH,
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; xem đây là một nhiệm vụ vừa bức
thiết lại vừa trọng tâm xuyên suốt trong cả quá trình đổi mới.
Trong những năm qua, hầu hết đội ngũ giáo viên THCS trong cả nước nói chung, ở
các trường trong tỉnh, trong huyện nói riêng đã được tham dự các lớp tập huấn, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ về đổi mới PPDH do Sở, Phòng GD&ĐT tổ chức, nội dung tập
huấn chủ yếu là triển khai, vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học mới. Trong đó
có việc sử dụng sơ đồ tư duy(SĐTD) trong dạy học. Có thể khẳng định rằng đây là một
trong những PPDH rất quan trọng, vừa rất mới, rất hiện đại, lại rất khả thi, đang được
nhiều nước trên thế giới áp dụng.
Qua việc tìm hiểu và vận dụng PPDH bằng SĐTD trong quá trình dạy học, tôi nhận
thấy PPDH này đã thật sự đem lại “luồng sinh khí mới” cho học sinh trong quá trình dạy
học bộ môn Sinh học ở trường THCS. Bước đầu đã giảm bớt được tâm lý chán học ở học
sinh và khơi gợi trong lòng các em tình yêu đối với môn học, đồng thời đem đến cho các
em cái nhìn mới, cách tư duy mới, sự hưng phấn, lôi cuốn đối với môn Sinh học.
Tuy nhiên, việc ứng dụng SĐTD trong quá trình dạy học là vấn đề còn khó khăn,

lúng túng đối với nhiều giáo viên ở các bộ môn khác nhau, trong đó có giáo viên dạy môn
Sinh học. Khó khăn chủ yếu là không biết sử dụng SĐTD vào khâu nào trong quá trình
dạy học cho phù hợp, Phương pháp thiết kế SĐTD trong bài dạy như thế nào cho hợp lí,
hướng dẫn cho học sinh cách thức sử dụng ra sao?...Nhất là đối với những giáo viên cao
tuổi và những giáo viên chưa quen với việc ứng dụng Công nghệ thông tin, trình độ Tin
học còn hạn chế.
Bản thân tôi thật sự tâm đắc với phương pháp Sử dụng sơ đồ tư duy trong quá trình
dạy học. Bởi vì không chỉ lôi cuốn, hấp dẫn với học sinh, mà nó còn là một PPDH rất hiệu
quả, rất khoa học, rất dễ sử dụng và có thể sử dụng rộng rãi ở tất cả các khâu trong quá
trình dạy học mà nhất là rất cần thiết trong việc giảng dạy môn GDCd. Vì vậy, tôi viết đề
tài SKKN: “Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn GDCD 9 nhằm nâng cao kết
quả học tập của học sinh ở trường THCS Nga Bạch” để cùng trao đổi, chia sẻ kinh
nghiệm với đồng nghiệp.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I . Cơ sở lí luận
1. Cơ sở của việc đổi mới phương pháp giảng dạy trong dạy học.
Ngày 05/5/2006, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số
16/2006/BGDĐT nêu rõ những định hướng đổi mới phương pháp giáo dục, tạo điều
kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện việc đổi mới PPDH. Trong những năm qua, Bộ


GD&ĐT đã trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện đổi mới PPDH, đổi mới kiểm tra, đánh giá
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong đó, yêu cầu
giáo viên tăng cường tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh, hướng dẫn phương
pháp tự học cho các em.
Năm học 2012 - 2013 là năm học mà toàn ngành Giáo dục và Đào tạo đang tiếp tục
nỗ lực đổi mới phương pháp giảng dạy, để đào tạo ra những con người năng động, sớm
thích ứng với đời sống xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Trước tình hình đó, đòi hỏi đội ngũ giáo viên phải không ngừng đổi mới, cải tiến nội
dung, phương pháp soạn giảng để trong mỗi tiết dạy, học sinh sẽ được hoạt động nhiều
hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được động não suy nghĩ nhiều hơn để từ đó các

em phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, khả năng tự học, kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; đồng thời
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, tạo được hứng thú học tập cho học sinh trên con
đường chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Vì vậy, đòi hỏi mỗi giáo viên phải triệt để thực hiện
theo nguyên tắc dạy học lấy học sinh làm trung tâm nhằm phát huy tính chủ động, tích
cực, tự giác và sáng tạo của học sinh trong hoạt động dạy học.
Mặt khác, nói đến phương pháp dạy học là nói đến cách dạy của người thầy. Trong
chương trình giáo dục phổ thông, Sinh học cũng là một trong những môn học có vị trí
quan trọng. Vì đây là môn học thực nghiệm vừa mang tính lí thuyết, vừa mang tính thực
hành. Bởi vậy, để học sinh học tốt môn Sinh học ở trường phổ thông nói chung, người
giáo viên phải chú trọng đến phương pháp dạy học, phải tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu và
áp dụng những hình thức, biện pháp tổ chức dạy học mới, hiện đại, sinh động, đưa học
sinh đến với môn học này một cách tự giác, bằng niềm say mê thật sự. Có như thế mới đáp
ứng được mục tiêu yêu cầu gíáo dục của môn học.
Sơ đồ tư duy được kế thừa, mở rộng hình thức ghi chép, sử dụng bảng biểu, sơ đồ
nhưng ở mức độ cao hơn. Nó là một công cụ tổ chức tư duy được tác giả Tony Buzan
(người Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ biến rộng khắp trên thế giới. Có thể khẳng định
rằng PPDH bằng SĐTD là một trong những PPDH hiện đại. Nó giúp học sinh dễ ghi nhớ,
phát triển nhận thức, khả năng tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo...Đây là một
công cụ hữu hiệu trong quá trình dạy học hiện nay.
2. Cơ sở của việc vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học GDCD.
Lâu nay, trong quá trình dạy học, chúng ta vẫn thường sử dụng các mô hình,
sơ đồ, biểu đồ... để cô đọng, khái quát kiến thức cho học sinh, nhất là ở những bài
tổng kết các chương, các phần của môn học hay các bài ôn tập. Cách làm này có thể
nói đã đem lại những hiệu quả thiết thực nhất định trong việc ôn tập, củng cố, hệ
thống kiến thức cho học sinh bởi cách trình bày gọn, rõ, lô-gic. Thế nhưng, bên cạnh
những ưu điểm ấy, cách làm này vẫn còn những hạn chế nhất định, bởi trước hết là
cả lớp cùng có chung cách trình bày giống như cách của giáo viên hoặc của tài liệu,
chứ không phải do học sinh tự xây dựng theo cách hiểu của mình. Các bảng biểu đó
chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. Cách làm này chưa thật sự phát huy

được tư duy sáng tạo, chưa thật sự kích thích, lôi cuốn được các em trong việc tích
cực, chủ động tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức của bài học. Hơn nữa, phạm
vi sử dụng hẹp vì chúng ta chỉ sử dụng chúng trong một số tiết dạy có tính chất tổng
kết các chương, các phần, các mảng kiến thức của môn học hay các bài ôn tập mà


thôi chứ chúng không được sử dụng đại trà cho tất cả các bài học, các giờ lên lớp
cũng như các khâu của tiến trình bài dạy.
Trong thời gian gần đây, chúng ta đã bước đầu được tiếp cận với những phương
pháp, kĩ thuật dạy học mới. Trong đó có việc sử dụng SĐTD. Có thể nói, đây là một
bước tiến đáng kể trong việc đổi mới PPDH hiện nay khi mà khoa học công nghệ
phát triển như vũ bão, nhất là sự bùng nổ của ngành Công nghệ thông tin. Việc sử
dụng SĐTD thay thế cho những mô hình, sơ đồ, biểu đồ... đã lạc hậu, lỗi thời để khái
quát, cô đọng kiến thức cho học sinh là một sự tất yếu, bởi SĐTD có rất nhiều điểm
ưu việt hơn. Do đó, việc ứng dụng SĐTD vào trong quá trình dạy học mô GDCD
không chỉ lôi cuốn sự hứng thú, làm “sống lại” niềm đam mê, yêu thích môn học ở
các em học sinh mà còn làm dấy lên một “phong trào” đưa SĐTD vào bài giảng trong
các tiết dạy ở giáo viên.
Tuy nhiên, hiện nay, việc đưa Sơ đồ tư duy vào ứng dụng trong quá trình
dạy học đối với môn GDCD còn là vấn đề gặp không ít khó khăn, trở ngại đối với
giáo viên, cụ thể như trong việc tổ chức, thiết kế các hoạt động dạy học với việc
sử dụng SĐTD. Qua dự giờ, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn đối với các đồng
nghiệp trong tổ, trong trường, tôi nhận thấy, hầu hết giáo viên mới chỉ dừng lại ở
việc sử dụng SĐTD để hệ thống hóa kiến thức sau mỗi bài học, hay mỗi bài ôn
tập, tổng kết một phân môn, một mảng kiến thức nào đó mà thôi. Họ chưa mạnh
dạn đưa Sơ đồ tư duy vào tất cả các khâu trong quá trình dạy học. Họ chưa phát
huy được tính phổ biến và đa năng của Sơ đồ tư duy. Do đó, chưa phát huy một
cách đầy đủ công dụng của SĐTD trong quá trình dạy học môn GDCD.

II . Thực trạng

1. Thực trạng tiếp thu kiến thức môn GDCD trên lớp và học bài ở nhà của học sinh lớp
9 trường THCS Nga Bạch.
Qua các bài kiểm tra thường xuyên và kiểm tra định kỳ của học sinh lớp 9 tôi
nhận thấy chất lượng học tập môn GDCD9 của học sinh chưa cao. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến chất lượng học tập của học sinh còn thấp đó là:
* Học tập trên lớp:
- Trên lớp các em chưa chủ động trong học tập, chưa thực sự phát huy tính chủ động
sáng tạo, không ít em tiếp thu kiến thức trên những kết luận có sẵn, nhỉều em chưa
mạnh dạn trong trả lời câu hỏi, kỹ năng xử lý và phân tích kênh chữ, kênh hình còn
hạn chế, kiết thức lưu lại trong não bộ của mỗi học sinh sau mỗi tiết học chưa nhiều;
nhiều em chưa biết cách học bằng sơ đồ tư duy ...
- Thiếu kỹ năng hoạt động nhóm; kỹ năng phân tích tổng hợp; kỹ năng hệ thống hoá
kiến thức sau mỗi bài học hay mỗi chương học. Thường hay ỷ lại hoặc lười hoạt động
trong việc tìm tòi kiến thức mới….


- Học sinh chưa biết cách tổng hợp kiến thức bằng phương pháp sơ đồ hoá theo cách
suy nghĩ tư duy sáng tạo của mình để trình bày trước lớp theo cách hiểu riêng.
* Học tập ở nhà:
- Sử dụng sơ đồ tư duy trong ôn tập kiến thức ở nhà chưa hiệu quả, làm bài tập và
nghiên cứu trước bài mới chưa cao.
- Hầu hết các em chưa biết cách học ”chủ yếu học vẹt đọc thuộc lòng” do đó chất
lượng kiểm tra bài cũ ở nhà còn thấp”có tới 75% học sinh không thuộc bài”.
2. Thực trạng vận dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy ở trường THCS Nga Bạch.
Qua đợt tiếp thu BDTX về các kỹ thuật dạy học do phòng GD&ĐT tổ chức và
triển khai thực hiện, vận dụng trong soạn giảng ở các nhà trường từ năm học 20112012 cho đến nay. Trường THCS Nga Bạch đã tích cực triển khai áp dụng thực hiện,
tuy nhiên trong thực tế vận dụng vào giảng dạy và qua dự giờ thanh tra, thao giảng
cũng như dự giờ sinh hoạt chuyên đề chúng tôi thấy nhìn chung giáo viên vận dụng
sơ đồ tư duy vào giảng dạy trong các tiết học còn rất khiêm tốn. Một số GV còn gặp
khó khăn trong việc tổ chức, thiết kế và sử dụng SĐTD trong dạy học.

Đại đa số giáo viên mới vận dụng SĐTD vào tổng kết bài học, một số ít vận dụng
vào giảng dạy một nội dung của bài học nhưng mới dừng lại dưới hình thức giáo viên
hỏi, học sinh trả lời sau đó giáo viên chốt lại kiến thức dưới dạng sơ đồ tư duy mà
chưa hình thành cho các em kỹ năng tự xử lý thông tin để tổng hợp và sơ đồ hoá kiến
thức bằng SĐTD sau đó lên trình bày trước lớp theo cách hiểu riêng.
Giáo viên chưa hướng dẫn cho các em cách học bằng SĐTD một cách khoa học
cũng như chưa chú ý nhiều đến việc hướng dẫn học sinh định hướng để xây dựng,
củng cố và khắc sâu kiến thức một cách có hệ thống bằng sơ đồ tư duy.
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện
1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu và lập sơ đồ tư duy trong học tập môn GDCD.
Để có thể sử dụng tốt và phát huy một cách có hiệu quả SĐTD trong quá trình
dạy học, trước tiên giáo viên cần cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư duy có
sẵn, đồng thời cho học sinh xem video các bài dạy mẫu sử dụng sơ đồ tư duy trong
dạy học “phần học sinh thảo luận nhóm để hình thành sơ đồ tư duy theo ý tưởng vẽ vào
giấy bìa sau đó lên trình bày trước lớp” để các em có cái nhìn tổng quát về nó (tiếp xúc
nó, hiểu nó, rồi “bắt chước” vẽ nó). Đây là bước chuẩn bị ban đầu hết sức quan
trọng. Tuy nhiên, rất nhiều giáo viên bỏ qua bước này hoặc giới thiệu một cách rất sơ
sài, qua loa. Vì thế, học sinh chưa hiểu biết cặn kẽ, cụ thể về sơ đồ tư duy, chưa nắm
vững phương pháp tạo lập, chưa có kĩ năng vẽ SĐTD đã dẫn đến nhiều tiết dạy


không thành công do các em mãi loay hoay với giấy bút mà không biết vẽ cái gì, vẽ
như thế nào, bắt đầu từ đâu,... vì các em chưa hình dung được SĐTD của bài học
trong đầu mình cũng như chưa biết cách thức, phương pháp vẽ SĐTD.
Để học sinh vận dụng thành thạo SĐTD trước tiên cần phải dành thời gian hợp lý
cho các em “làm quen” với SĐTD, theo cách sau đây:
- Tham mưu cho Ban Giám hiệu nhà trường, chọn thời gian thuận lợi ngay từ
đầu năm học để tổ chức một buổi ngoại khóa để giới thiệu cho các em làm quen
với SĐTD, sau đó giáo viên hướng dẫn cách vẽ SĐTD cho các em(đây là một
bước tạo không khí sôi nổi, lôi cuốn các em tiếp cận với một phương pháp, kĩ thuật

dạy học mới).
- Để buổi ngoại khóa thành công, giáo viên cần chuẩn bị tốt các nội dung sau:
+ Về phía học sinh: Yêu cầu các em mang theo đầy đủ các dụng cụ giấy A4, bìa
rôki, bìa cứng, bút chì, hộp màu, tẩy...
+ Về phía giáo viên: Chuẩn bị máy chiếu, bảng phụ, phấn màu, ... và một số
SĐTD đã vẽ sẵn trên trên máy bằng phần mềm Imindmap, trên giấy A4, trên bìa
lịch, trên bảng phụ...
1.1. Hướng dẫn học sinh các bước thiết lập sơ đồ tư duy.
a. Làm quen.
- Giáo viên giới thiệu khái niệm, cấu tạo, những tiện ích của SĐTD và các bước
thiết lập một SĐTD.
Cho học sinh xem video các bài dạy mẫu sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học;
giới thiệu một số SĐTD vẽ sẵn cho học sinh làm quen (Nên chọn vẽ SĐTD ở những
bài đã học trong chương trình cho các em vừa tiện theo dõi, tiếp thu tri thức về
SĐTD, đồng thời vừa thuận lợi trong việc hệ thống hóa kiến thức, học sinh sẽ nhanh
tiếp thu hơn vì các em đã học).
Giáo viên giới thiệu cấu trúc SĐTD theo mạch kiến thức của bài học cho học sinh
nắm, rồi hướng dẫn cách vẽ một SĐTD (Cung cấp cho các em phương pháp vẽ
SĐTD).
b. Đọc hiểu.
Giáo viên chọn những SĐTD có kết cấu đơn giản cho học sinh quan sát. Sau đó,
cho các em dựa vào SĐTD để thuyết trình nội dung bài học (kiến thức) được vẽ trong
sơ đồ. (Luyện cho các em tư duy lô-gic, tư duy hệ thống và kĩ năng thuyết trình )
c. Tập vẽ.
- Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề, hay có thể với một từ khoá
được viết in hoa, viết đậm. Một hình ảnh có thể diễn đạt được cả ngàn từ và giúp ta sử


dụng trí tưởng tượng của mình. Một hình ảnh ở trung tâm sẽ giúp ta tập trung được
vào chủ đề và làm cho ta hưng phấn hơn.

- Bước 2: Luôn sử dụng màu sắc. Màu sắc có tác dụng kích thích não bộ như hình
ảnh.
- Bước 3: Nối các nhánh chình(nhánh cấp1) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh
cấp hai đến các nhánh cấp một, ….bằng các đường kẻ, đường cong với màu sắc khác
nhau.
- Bước 4: Mỗi từ/ảnh/ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ hay
đường cong.
- Bước 5: Tạo ra một bản đồ riêng cho mình (kiểu đường kẻ, màu sắc…).
- Bước 6: Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm.
\
* Lưu ý:
+ Giáo viên lưu ý học sinh khi vẽ SĐTD, các em nên kết hợp dùng màu sắc,
đường nét, ... ngay trong quá trình vẽ để tiết kiệm thời gian.
+ Không nên dùng quá nhiều màu, không dùng những màu sắc quá sặc sỡ,
không quá chú trọng vào đường nét, hình ảnh làm lãng phí thời gian.
1.2. Vận dụng vẽ sơ dồ tư duy.
Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa (hoặc hình ảnh) ở trung tâm màn hình
(hoặc trên bảng đen Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy nghĩ và vẽ các
nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3... (Luyện kĩ năng vẽ SĐTD)
- Sau khi các em vẽ xong sườn của SĐTD, giáo viên gợi ý cho các em vẽ chèn thêm
những hình ảnh cần thiết để minh họa cho nội dung của sơ đồ, gợi ý cho các em chỉnh
sửa đường nét, sử dụng màu sắc để phân biệt, làm nổi bật mạng lưới các ý trong sơ
đồ.(Kĩ năng hội họa - dấu ấn sáng tạo riêng)
* Lưu ý:
+ Giáo viên nên chọn những bài các em đã học, có kiến thức đơn giản, dễ nhớ,
dễ vẽ.
+ Giáo viên có thể linh hoạt cho học sinh vẽ theo nhóm vào bìa rôki, vẽ cá nhân
vào giấy A4 hoặc gọi 2-3 em lên bảng vẽ.
+ Lưu ý các em không dùng câu, đoạn quá dài, nên thể hiện các ý bằng những
cụm từ ngắn gọn.

1.3. Đánh giá, rút kinh nghiệm.
Sau khi học sinh hoàn thành, giáo viên thu một số SĐTD do các em vừa vẽ theo
từng loại (Sơ đồ không triển khai đủ các ý chính, sơ đồ vẽ quá chi tiết đến vụn vặt, sơ


đồ vẽ không đúng trọng tâm kiến thức, sơ đồ dùng quá nhiều hình ảnh, màu sắc lòe
loẹt,... ).
Cho học sinh quan sát, nhận xét, góp ý chỉnh sửa, bổ sung.
Giáo viên lắng nghe, định hướng cho các em chỉnh sửa, bổ sung:
Do SĐTD là một sơ đồ mở. Vì vậy, giáo viên cần tôn trọng và phát huy sự sáng tạo
của các em, vì đây là “sản phẩm” của chính các em. Nên giáo viên chỉ chỉnh sửa cho
các em chủ yếu về mặt kiến thức. Mặt khác, giáo viên cũng cần khuyến khích, biểu
dương những SĐTD vẽ đảm bảo đầy đủ kiến thức trọng tâm, đẹp, có cách trình bày
khoa học, cân đối, hài hòa về đường nét, màu sắc.
Nếu thấy mất quá nhiều thời gian để tô đậm màu trong một nhánh, GV có thể
hướng dẫn thêm cho các em cách gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi trong đó.
Đây là điều rất mới mẻ, sáng tạo và tiết kiệm rất nhiều thời gian.
Giáo viên nhắc nhở thêm các em cần hình thành thói quen tốt: nên lập SĐTD
trong quá trình chuẩn bị bài mới ở nhà và lập lại sau khi học xong bài trên lớp để có
điều kiện đối chiếu xem mình đã làm được những gì? Những gì mình còn sai sót cần
bổ sung, sửa chữa. Nếu làm được như vậy, chẳng những giúp các em nắm vững kiến
thức mà còn rèn luyện cho các em phát triển năng lực tư duy (Tư duy lô-gic, tư duy
hệ thống...).
Nhắc các em sau mỗi bài học nên lưu các SĐTD lại để sau này tiện việc ôn tập, hệ
thống kiến thức.
2. Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học.
- Để thiết kế một sơ đồ tư duy đối với một bài học, giáo viên có thể thiết kế bằng
cách vẽ trên giấy, vẽ trên phần mềm IMindmap, hoặc hệ thống hoá kiến thức bằng sơ
đồ trên bảng. Đối với phần mềm IMindmap giáo viên có thể thực hiện thành một
giáo án hay một bài giảng điện tử với kiến thức được xây dựng thành một sơ đồ, qua

đó có thể kết hợp để trình chiếu những nội dung cần lưu ý hay những đoạn phim có
liên quan đến bài học được liên kết với sơ đồ. Từ đó có thể giúp học sinh hệ thống
được kiến thức vừa học, khắc sâu được kiến thức trọng tâm và làm phong phú, sinh
động bài học.
- Đối với một bài học, để xây dựng được sơ đồ tư duy đảm bảo nội dung kiến thức,
có thể hệ thống kiến thức một cách đầy đủ và logic, thì giáo viên cần phải xác định rõ
mục tiêu của bài, nêu được nội dung chính của bài đảm bảo theo chuẩn kiến thức kỹ
năng và hướng dẫn giảm tải của BGD, qua đó hướng học sinh lưu ý trọng tâm, định
hướng được nội dung bài học cần nắm để có thể tự hệ thống lại bằng sơ đồ.


- Khi HS đã biết thiết kế SĐTD một cách khá thành thạo, GV có thể tổ chức các
hoạt động chính trong một tiết dạy học với SĐTD như sau:
* Hoạt động 1: HS lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của GV.
* Hoạt động 2: HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về
BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
* Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến thức
của bài học đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh SĐTD, từ đó
dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
* Hoạt động 4: củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà GV đã chuẩn bị sẵn hoặc
một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho HS lên trình bày, thuyết
minh về kiến thức đó.
- Ngoài việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ có liên
quan đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần nghiên cứu kĩ tài liệu liên quan đến việc
hướng dẫn sử dụng SĐTD và phần mềm vẽ SĐTD IMindmap để có những tri thức cơ
bản về nó (Hiểu biết về SĐTD, cấu tạo, vai trò, tiện ích, phương pháp tạo lập, thiết kế,
việc sử dụng nó trong quá trình dạy học...); đồng thời, giáo viên cần đầu tư thời gian
vào việc tập vẽ, cả vẽ trên giấy và trên phần mềm trong máy vi tính để thực hiện thao
tác sao cho nhanh nhẹn, thuần thục. Sau khi đã hiểu kĩ, nắm chắc về vai trò, công
dụng của SĐTD, sử dụng thành thạo phần mềm, nắm vững phương pháp vẽ một

SĐTD, thì việc ứng dụng nó vào quá trình dạy học là việc dễ dàng.

3. Vận dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy ở một số nội dung cụ thể trong chương trình
GDCD 9.
3.1. Vận dụng sơ đồ tư duy vào kiểm tra bài cũ.
Sử dụng SĐTD vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học
sinh đối với bài học cũ. Các sơ đồ tư duy thường được giáo viên sử dụng dưới dạng
thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về
mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khoá trung tâm.
* Cách tiến hành:
Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ đề của
kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ SĐTD thông qua câu


hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa hoặc hình ảnh trung tâm kết hợp với câu hỏi định
hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và định hình được cách vẽ SĐTD
theo yêu cầu.
* Ví dụ 1: Sau khi các em học xong bài “Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn
nhân” (Bài 12) và trước khi học bài “Quyền tự do kinh doanh” (Bài 13) – GDCD 9.
Giáo viên kiểm tra bài cũ bằng cách cho các em lập SĐTD để củng cố, hệ thống kiến
thức đã học ở tiết học trước như sau:
Bước 1: Giáo viên nêu câu hỏi: Pháp luật nước ta cấm kết hôn trong những trường
hợp nào? Em hãy lập SĐTD để hệ thống kiến thức về chúng?
Bước 2: Giáo viên ghi cụm từ khóa lên giữa bảng phụ “Những trường hợp cấm kết
hôn” và một số ô khác để trống như trên sơ đồ tư duy (hình 1).
Bước 3: Gọi một học sinh xung phong lên bảng vẽ. Học sinh sẽ dễ dàng vẽ được
SĐTD theo nội dung yêu cầu.

Hình 1
* Trong quá trình thực hiện cần lưu ý:

Giáo viên có thể cho cả lớp cùng lập SĐTD trên giấy theo cách hoạt động cá nhân
trong một thời gian nhất định để lôi cuốn tất cả học sinh vào việc ôn kiến thức đồng
thời rèn luyện kĩ năng tạo lập SĐTD và thói quen tư duy logic cho các em. Hết thời
gian quy định, giáo viên chọn sơ đồ của một vài em (có thể vẽ xong trước, có thể cần
lấy điểm,...), chấm, nhận xét và ghi điểm cho các em; biểu dương, khen ngợi những
em vẽ tốt để khích lệ các em nhằm tạo không khí học tập sôi nổi.
Giáo viên chỉ cần dựa vào SĐTD chấm và ghi nhận điểm cho học sinh mà không
cần phải yêu cầu gì thêm ở các em, vì ta đã chọn dạng đề khá đơn giản, nên những gì
cần trả lời, các em đã thể hiện trong SĐTD, hơn nữa thời gian kiểm tra bài cũ có hạn.
3.2. Vận dụng SĐTD trong kiểm tra 15 phút
Chúng ta cũng có thể dùng SĐTD trong các hình thức kiểm tra trên giấy (15
phút) một cách dễ dàng để tăng cường việc rèn luyện kỹ năng tư duy lô-gic, tư duy hệ
thống cho học sinh thông qua các bài kiểm tra viết, nhằm phát triển năng lực tư duy
sáng tạo cho các em. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý việc kiểm tra kiến thức cũ
bằng phương pháp vẽ SĐTD chỉ là một hình thức kiểm tra nhằm việc giúp học sinh
củng cố, hệ thống kiến thức có tính chất lý thuyết. Do đó, giáo viên nên chọn kiểm tra
những kiến thức có tính hệ thống, xâu chuỗi, các em có thể dễ dàng hệ thống hóa
bằng SĐTD. Mặt khác, về yêu cầu của đề kiểm tra, giáo viên cần đưa ra từ hay cụm


từ khóa ngắn gọn, rõ ràng, cụ thể, khái quát được chủ đề của phần kiến thức cần
kiểm tra trong câu hỏi để định hướng, giúp học sinh dễ dàng nắm bắt chính xác yêu
cầu đề và có thể vẽ đúng SĐTD theo yêu cầu. Sau đây là một số ví dụ minh họa các
dạng đề kiểm tra viết yêu cầu học sinh lập SĐTD.
* Ví dụ 3: Hãy lập sơ đồ tư duy Kể tên các truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam?
Học sinh sẽ lập được như sơ đồ tư duy dưới đây (hình 3).

Hình 2
* Lưu ý:

Giáo viên có thể linh hoạt sử dụng các câu hỏi yêu cầu học sinh lập SĐTD ở khâu
kiểm tra bài cũ và kiểm tra viết (15 phút) hoán đổi cho nhau đều được.
Đối với kiểm tra miệng ta lấy thang điểm 10; còn đối với kiểm tra 15 phút thì tùy theo
mức độ của từng câu hỏi, ta có thể cho từ 2 – 3 điểm. (xem như câu hỏi yêu cầu lập SĐTD
là một phần trong đề kiểm tra).
3.3. Vận dụng sơ đồ tư duy trong việc dạy kiến thức mới.
Sử dụng SĐTD như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc dạy học bài mới thì ít
nhiều giáo viên chúng ta đã và đang ứng dụng từ trước tới nay. Tuy nhiên, việc sử
dụng SĐTD vừa để tổ chức, dẫn dắt cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá, chiếm lĩnh
kiến thức bài học lại vừa thay thế cho việc ghi bảng cô đọng kiến thức tiết dạy, bài
dạy của giáo viên thì quả là việc làm còn hết sức mới mẻ. Qua trao đổi với anh chị em
giáo viên trong tổ chuyên môn trong trường, trong cụm chuyên môn thì hầu hết anh
chị em đều có chung quan niệm xem SĐTD là công cụ, phương tiện, như một thứ


“bảng phụ” hỗ trợ, minh họa cho tiết dạy mà thôi. Phần lớn cho rằng không thể dùng
SĐTD thay cho phần ghi bảng của giáo viên được. Thực ra thì ta vẫn có thể thực hiện
kết hợp chúng trong quá trình dạy học bài mới. Qua một quá trình giảng dạy tôi
nhận thấy rõ ràng cách làm này ta hoàn toàn làm được. Không những thế, việc kết
hợp sử dụng SĐTD trong việc tổ chức dạy học bài mới với việc sử dụng nó để cô đọng
kiến thức thay cho việc ghi bảng lại tiết kiệm được rất nhiều thời gian trên lớp, lại
vừa có tác dụng hình thành cho học sinh có thói quen ghi chép bằng SĐTD. Đây cũng
là việc làm rất cần thiết góp phần rèn luyện kĩ năng vẽ SĐTD cho các em, nhất là
những bài học nhằm giới thiệu, cung cấp kiến thức.
Khi dạy học vận dụng bản đồ tư duy giáo viên có thể tiến hành như sau:
Hoạt động 1: Lập sơ đồ tư duy : Mở đầu bài học, giáo viên có thể cho học sinh lập sơ
đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với các gợi ý của giáo viên.
Hoạt động 2: Báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy : Cho một vài học sinh hoặc đại
diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy mà nhóm mình
đã thiết lập. Qua hoạt động này vừa biết rõ việc hiểu kiến thức của các em vừa là một

cách rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông người, giúp các em tự tin hơn,
mạnh dạn hơn, đây cũng là một trong những điểm cần rèn luyện của học sinh hiện
nay.
Hoạt động 3: Thảo luận, chỉnh sửa, hoàn thiện sơ đồ tư duy : Tổ chức cho học sinh
thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ tư duy về kiến thức của bài học.
Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh sơ đồ tư duy về
hình thức, từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một sơ đồ tư duy : Giáo viên cho học sinh lên
trình bày, thuyết minh về kiến thức bài học thông qua một sơ đồ tư duy do giáo viên
đã chuẩn bị sẵn (vẽ ở bảng phụ hoặc ở bìa), hoặc sơ đồ tư duy mà các em vừa thiết kế
và cả lớp đã chỉnh sửa, hoàn thiện. Giáo viên có thể giới thiệu sơ đồ tư duy khác của
học sinh chuẩn bị ở nhà trên giấy A4 hoặc bằng phần mềm mindmap (vì sơ đồ tư
duy là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm học sinh có chung 1 kiểu sơ
đồ tư duy, Giáo viên chỉ nên chỉnh sửa cho học sinh về mặt kiến thức và góp ý thêm
về đường nét vẽ và hình thức – nếu cần).
Khi học sinh đã thiết kế sơ đồ tư duy và tự “ghi chép” phần kiến thức như trên là
các em đã hiểu sâu kiến thức và biết chuyển kiến thức từ sách giáo khoa theo cách
trình bày thông thường thành cách hiểu, cách ghi nhớ riêng của mình.


Có thể tóm tắt một số hoạt động dạy học trên lớp bằng sơ đồ tư duy:
Hoạt động 1: Yêu cầu học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với
gợi ý của giáo viên.
Hoạt động 2: Yêu cầu cá nhân học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh
lên báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy mà cá nhân hay nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: Cho học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ
tư duy về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học
sinh hoàn chỉnh sơ đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Giáo viên củng cố kiến thức bằng một sơ đồ tư duy mà giáo viên
đã chuẩn bị sẵn hoặc một sơ đồ tư duy mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh,

cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
* Lưu ý: Sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm học sinh có
chung một kiểu sơ đồ tư duy, Giáo viên chỉ nên chỉnh sửa cho học sinh về mặt kiến
thức, góp ý thêm về đường nét vẽ, màu sắc và hình thức (nếu cần).
3.3.1. Dạy một nội dung kiến thức của bài.
* Ví dụ 5: Khi dạy bài “Vi phạm phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí của công dân”
Tiết 27 – GDCD 9
* Bước 1: Hướng dẫn học sinh nghiên cứu các tình huống trong SGK để học sinh
trả lời được 2 câu hỏi
. Sau đó cho học sinh hoạt động nhóm lập sơ đồ tư duy tìm hiểu nhận xét các hành vi
theo hướng dẫn của giáo viên.
* Bước 2: Gọi đại diện học sinh của nhóm lên báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy
do nhóm mình lập.
* Bước 3: Yêu cầu các nhóm thảo luận, nhận xét, bổ sung để hoàn thiệt sơ đồ tư duy
về kiến thức dưới sự dẫn dắt của giáo viên.
* Bước 4: Cho đại diện một HS lên trình bày, thuyết minh kiến thức bằng SĐTD mà
cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh.


Hình 4
3.3.2. Vận dụng BĐTD dạy nội dung kiến thức mới cả bài.
Một số tiết dạy trong chương trình GDCD 9 có thể vận dụng SĐTD vào giảng dạy
như:
• Các giá trị đạo đức gồm những bài: Tự chủ, Chí công vô tư, Năng động sáng tạo,
Hợ tác cùng phát triển
• Phần pháp luật: Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân, Vi phạm pháp
luật và trách nhiệm pháp lí, Quyền tham gia quản lí nhà nứoc, quản lí xã hội của
công dân
* Ví dụ 7: Bài 16 Quyền tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội của công dân
Để dạy nội dung kiến thức cả bài bằng sơ đồ tư duy ta tiến hành như sau:

* Bước 1: Hướng dẫn học sinh nghiên cứu thông tin
Yêu cầu học sinh hoạt động nhóm lập sơ đồ tư duy trên giấy A4 về khái niệm,
hình thức tham gia, trách nhiệm của Nhà nước, của công dân, ý nghĩa
* Bước 2: Gọi đại diện học sinh của nhóm lên báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy
do nhóm mình lập.
* Bước 3: Yêu cầu các nhóm thảo luận, nhận xét, bổ sung để hoàn thiện sơ đồ tư
duy về kiến thức dưới sự dẫn dắt của giáo viên.
* Bước 4: Cho một HS lên trình bày, thuyết minh kiến thức bằng SĐTD mà cả lớp
đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh hoặc sơ đồ tư duy do giáo viên chuẩn bị trước.


Hình 5
Như vậy, chúng ta có thể dễ dàng sử dụng SĐTD kết hợp trong việc dạy học bài mới
với dùng chính nó để cô đọng kiến thức của bài học cho học sinh ghi. Việc sử dụng SĐTD
trong quá trình dạy học bài mới sẽ giúp học sinh từng bước phát hiện, tiếp cận và chiếm
lĩnh toàn bộ kiến thức bài học một cách khoa học, có hệ thống, lô-gic. Bắt đầu bài học
bằng từ, cụm từ trung tâm thể hiện trọng tâm kiến thức, thông qua sự định hướng dẫn dắt
của giáo viên, các em tự khám phá, tìm hiểu các đơn vị kiến thức của bài học (các ý lớn,
nhỏ) một cách liền mạch, có hệ thống, đến khi tiết học kết thúc cũng là lúc toàn bộ kiến
thức của bài học được cô đọng và trình bày một cách sinh động, khoa học và sáng tạo trên
bảng đen (hoặc trên màn hình). SĐTD không chỉ cung cấp cho các em “bức tranh tổng
thể” về kiến thức của bài học mà nó còn giúp cho các em dễ dàng nhận ra mạch lô-gic kiến
thức của bài học. Do đó, chúng ta có thể dùng nó như phần nội dung ghi bảng của giáo
viên để học sinh ghi chép.
Tuy nhiên, cần linh hoạt sử dụng ở những tiết dạy, bài dạy cho phép chứ không nên
lạm dụng SĐTD để khỏi phải ghi bảng ở tất cả các tiết dạy. Mặt khác, việc sử dụng kết
hợp này càng thuận lợi hơn khi sử dụng phần mềm Mind Map và soạn giảng bằng bài
giảng điện tử. Giáo viên nên đánh số thứ tự vào các khâu lên lớp, các ý chính trong mỗi
đơn vị kiến thức của bài học để học sinh thuận tiện trong việc theo dõi, ghi chép vào vở.
Giáo viên cũng cần dành ít phút cuối tiết học cho học sinh quan sát SĐTD và thuyết trình “đọc hiểu” lại toàn bộ nội dung kiến thức của bài học.

3.3.3 Vận dụng sơ đồ tư duy vào các trò chơi trong tiết học
Tổ chức trò chơi ‘ Ai nhanh hơn’
- Mục đích của hoạt động này là để tạo không khí học tập vui tươi ,kích thích tính
tích cực của các em khi học tập căng thẳng . Đây chính là một yếu tố quan trọng đặc
biệt đối với bộ môn GDCD- bộ môn được gọi là khô khan cứng nhắc thì việc đó lại
càng trở nên có ý nghĩa
Ví dụ minh họa: vận dụng vào bài 7: Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc.


-Câu hỏi như sau: Em hãy tìm những bông hoa thể hiện những truyền thống tốt đẹp
đáng tự hào của con người Việt Nam?
- Phương tiện
+ Giấy A0
+ Các bông hoa đã chuẩn bị sẵn nội dung: truyền thống tốt đẹp và những phong tục
lạc hậu
+ Keo dán
- Giáo viên hướng dẫn: Chia lớp thành 4 nhóm
- Luật chơi: Thời gian thực hiện trong vòng 5 phút, yêu cầu đúng nội dung, đảm bảo
tính thẩm mĩ
- Kết thúc trò chơi:
+ Yêu cầu học sinh đại diện nhóm lên bảng giới thiệu chậu hoa của nhóm mình.
+ Cả lớp nhận xét , bình luận
+ Giáo viên tổng kết.
- Kết quả sau khi chơi
Qua thực tiễn sử dụng tôi nhận thấy đây là một kĩ thuật rất tích cực đem lại hiệu
quả sau:
+ Tạo hứng thú cho học sinh học bài
+ Củng cố được nội dung bài học trước
+ Giảm nhẹ trạng trái tâm lí mệt mỏi của học sinh đặc biệt đối với những tiết cuối

+ Giúp các em có thái độ tôn trọng, tự hào về những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc.
. Qua hoạt động này vừa biết rõ việc hiểu kiến thức của các em vừa là một
cách rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông người, giúp các em tự tin hơn,
mạnh dạn hơn, đây cũng là một trong những điểm cần rèn luyện của học sinh hiện
nay.
Kết quả cuộc chơi của nhóm 1 học sinh lớp 9b như sau:
Hình ảnh


3.3.4. Sử dụng SĐTD trong việc hệ thống, củng cố kiến thức sau mỗi bài học, mỗi
phần của bài học:
Sau khi dạy xong mỗi phần (một đơn vị kiến thức) của bài học, hay mỗi bài học, giáo
viên sử dụng sơ đồ tư duy của giáo viên thiết kế hoặc cho học sinh hình dung, nhớ lại và
vẽ SĐTD để củng cố, hệ thống phần kiến thức đó, hoặc toàn bộ kiến thức của bài học.
* Ví dụ 8: Sau khi dạy xong Tiết 1 “ Chí công vô tư ” . Giáo viên sử dụng sơ đồ tư
duy thiết kế sẵn để củng cố kiến thức cả bài cho học sinh.

Hình 8: Sơ đồ tư duy do học sinh thiết lập
3.3.5. Sử dụng SĐTD trong việc ôn tập kiến thức.
Cũng như cách làm trên, chúng ta có thể sử dụng SĐTD để ôn tập và hệ thống
kiến thức đã học cho học sinh. Ví dụ: Sử dụng SĐTD vào dạy bài ôn tập - tổng kết.
Ví dụ 9: Giáo viên có thể sử dụng SĐTD để ôn tập kiến thức và củng cố kiến thức
cho học sinh. Tiết ôn tập học kì 1 như sau:
* Bước 1: Yêu cầu học sinh hoạt động nhóm lập sơ đồ tư duy về các giá trị đạo đức
có quan hệ với bản thân, với công việc, với cộng đồng ,đất nước
* Bước 2: Gọi đại diện học sinh của nhóm lên báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy
do nhóm mình lập.
* Bước 3: Yêu cầu các nhóm thảo luận, nhận xét, bổ sung để hoàn thiện sơ đồ tư
duy về kiến thức dưới sự dẫn dắt của giáo viên.

* Bước 4: Cho một HS lên trình bày, thuyết minh kiến thức bằng SĐTD mà cả lớp
đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh hoặc bản đồ tư duy do giáo viên chuẩn bị trước.
Như vậy, với những ưu điểm của mình, sơ đồ tư duy đã trở thành một công cụ gợi
mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh.Việc sử dụng SĐTD trong quá
trình dạy học giúp các em học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả
học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này còn phát triển được


năng lực riêng của từng em không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên SĐTD), hệ thống hóa kiến
thức (huy động những điều đã học trước đó vào việc chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội
họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được
học qua sách vở vào cuộc sống.
Sơ đồ tư duy còn là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả trong hoạt động nhóm bởi
nó tối đa hoá được nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành viên đều rèn luyện được
khả năng tư duy, kỹ năng thuyết trình và làm việc khoa học. Sử dụng SĐTD giúp cho các
thành viên hiểu được nội dung bài học một cách rõ ràng và hệ thống. Việc ghi nhớ cũng
như vận dụng cũng sẽ tốt hơn. Chỉ cần nhìn vào sơ đồ tư duy, bất kỳ thành viên nào của
nhóm cũng có thể thuyết trình được nội dung bài học.
Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch
lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học.
Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở,
đặt vấn đề… có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp
THCS.
4. Kiểm nghiệm
Sau 2 năm vận dụng kĩ thuật dạy học bằng sơ đồ tư duy kết quả đạt được như sau:
Như vậy qua số liệu trên cho thấy hứng thú của học sinh đối với môn học đã thực
sự thay đổi và mang lại hiệu quả giáo dục tốt . Đây chính là điểm đáng mừng đối với
bộ môn,
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận: Qua 2 năm vận dụng cho thấy kĩ thuật dạy học băng sơ đồ tư duy thực

sự là một kĩ thuật dạy học tích cực, mang lại hiệu quả trong quá trình giảng dạy. Cụ
thể là:
• Học sinh hứng thú, say mê, tích cực, chủ động suy nghĩ trong việc tìm tòi kiến
thức . Đặc biệt việc nắm vững kiến thức và ghi nhớ lâu nên khi kiểm tra các em
lôi được kiến thức trong đầu nên không quay cóp
• Học sinh mạnh dạn cởi mở sôi nổi, tự tin đưa ra kết quả của mình, lắng nghe ý
kiến đóng góp, phê bình của các bạn giúp các em hòa đồng , đoàn kết tạo cho
học sinh tự tin hơn.
• Học sinh tiếp thu kiến thức bài học nhanh , chắc chắn và nhớ lâu từ đó biết vận
kiến thức bài học vào thực tiễn cuộc sống.
• Thấy rõ sự chuyển biến trọng tâm từ hoạt động của thầy sang hoạt động của
trò, từ thụ động sang chủ động, tích cực , sáng tạo
• Giúp học sinh thoát khỏi sự áp chếvề mặt ngữ nghĩa , sơ đồ tư duy mang lại
cho các em khả năng tự diễn đạt trọn vẹn , nhanh chóng , tự tinvà chắc chắn sẽ
dần hạn chế được sự xuống cấp về đạo đức của một số học sinh như hiện nay.


2. Kiến nghị.
a. Đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy:
- Cần nắm vững những hiểu biết về sơ đồ tư duy
- Có sự cân nhắc khi sủ dụng sơ đồ tư duy vào việc soạn giảng, kiểm tra đánh giá
tránh lạm dụng ví bất kì một kĩ thuật nào tự nó cũng có ưu thế nhất định điều quan
trọng là người giáo viên ấy có sử dụng hết hiệu quả của nó hay không mà thôi.
-Cần xác định đúng kiến thức cơ bản , trọng tâm để thiết kế
Và điều đặc biệt quan trọng là giáo viên phải yêu nghề , tâm huyết với nghề mà mình
đã chọn. Không ngừng học hỏi nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
ngành giao phó để mỗi thầy cô thực sự trở thành tấm gương tự học và sáng tạo cho
học sinh noi theo.
b.Đối với phụ huynh và học sinh
Học sinh và phụ huynh cần nhận thức được vai trò , vị trí , tầm quan trọng của

bộ môn GDCD để từ đó định hướng con em mình quan tâm môn học theo chiều
hướng tích cực, tự học- học để biết , học để làm, học để chung sống và học để làm
người. Có như thế thì môn GDCD mới có thể phát huy tối đa hiệu quả nhiệm vụ dạy
người” mà môn học này gánh vác trong nhà trường.
c. Đối với các cấp quản lí
- Tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giáo viên giảng dạy môn GDCD phấn đấu cống
hiến cho trường cho ngành.
- Xây dựng hệ thống tài liệu tham khảo , những câu chuyên pháp luật mang tính
thời sự , hiệu quả.
- Cần tăng thời lượng dành cho môn học GDCD và đưa môn học vào thi tốt nghiệp.
Việc tăng cường thời lượng dành cho môn học vừa giúp giảm tải nội dung chương
trình, vừa tạo điều kiện để học sinh có thời gian thực hành, rèn luyện các kỹ năng
mềm liên quan đến môn học. Mặt khác, việc tăng thêm thời lượng cho môn học giúp
giáo viên có thể theo dõi, hướng dẫn, uốn nắn và phối hợp hiệu quả với giáo viên chủ
nhiệm để có những nhận xét đánh giá về quá trình rèn luyện của học sinh. Như Th.S
Vũ Đình Bảy – Trường ĐHSP Huế từng nói
* Như vậy để nâng cao hiệu quả môn học GDCD nói chung GDCd 9 nói riêng,là niềm trăn
trở suy nghĩ là mục đích hướng tới của tưng giáo viên có lương tâm và trách nhiệm nghề
nghiệp nhưng đây không phải là điều dễ dàng đạt được bởi vì sản phẩm của giáo dục là
con người như đã trình bày ở trên . Vì vậy vấn đề cốt lõi của việc nâng cao hiệu quả dạy
học là hướng tới học sinh học tập tích cực chủ động chống lại thói quen học tập thụ động.
Từ đó giúp các em tránh xa được cám dỗ của xã hội làm chủ bản thân trong học tập , công
việc và trong đời sống


* Khi thực hiện SKKN này bản thân tôi đã cố gắng nỗ lực với niềm mong mỏi góp
phần nho nhỏ của mình vào việc thực hiện tháng lợi mục tiêu môn học. Song có lẽ vẫn còn
những thiếu sót , hạn chế và bất cập do yếu tố chủ quan . Vì vậy bản thân tôi rất mong
nhận được sự đóng góp quý báu của đồng nghiệp nói chung của Hội đồng khoa học nhà
trường , ngành ... để SKKN này hoàn thiện và hiệu quả hơn.

Xin trân trọng cảm ơn.
Nga Sơn, tháng 3 năm 2014
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Tôi xin cam đoan bản sáng kiến kinh
nghiệm này là của tôi, không sao chép của
người khác.

Mai Thị Hường
II. Thảo luận chung và góp ý sáng kiến :
Các thành viên trong tổ, nhóm chuyên môn thực hiện thảo luận về đổi mới PP dạy học
và góp ý SK cho đ/c Thúy được tổng hợp chung như sau :
Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu giáo dục hướng đến là phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả
năng hợp tác; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.
Để nâng cao chất lượng học tập bộ môn GDCD của học sinh, hơn ai hết người thầy
đóng vai trò rất quan trọng, phải thực sự đổi mới phương pháp giảng dạy, phải tích cực
hóa hoạt động của học sinh nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, tính độc lập
sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề. Từ đó học sinh vừa lĩnh hội
đầy đủ những yêu cầu của chương trình hiện hành, vừa nâng cao năng lực trí tuệ, rèn luyện
tư duy lôgíc và khả năng sáng tạo toán học.
SKKN của đ/c Hường đã góp phần “tích cực hóa hoạt động của học sinh nhằm hình
thành tư duy tích cực, tư duy độc lập, tư duy sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức”;
nghĩa là: “ Để cho học sinh nghĩ nhiều hơn, làm việc nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn”.
SKKN đã thể hiện tính sáng tạo hứng thú học tập cũng như khắc sâu kiến thức cho
học sinh trong việc dạy học môn toán 7 mà đ/c đang đảm nhiệm.
Khi vận dụng SK vào giảng dạy môn GDCD tại trường THCS Nga Thạch kết quả

nhận được rất khả quan: đa số các em đã có hứng thú hơn với môn toán, không còn ngại
học GDCD. Đa số các em hiểu được bản chất và nắm vững được kiến thức cơ bản. Hầu
hết các em tích cực học bài và làm bài tập. Chất lượng môn học được nâng lên rõ rệt.
SKKN được đầu tư công phu về thời gian, kiến thức, được viết ra từ những trăn trở,
trách nhiệm của một giáo viên yêu nghề trước thực trạng học bộ môn GDCD của học sinh
khối 9 đ/c phụ trách, vì vậy đồng chí Hường đã nỗ lực, cố gắng trong việc đổi mới phương


pháp dạy học, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và kĩ thuật dạy học trong
sáng kiến.
SKKN đảm bảo đúng cấu trúc, yêu cầu, góp ý sửa lại một số lỗi chính tả, lỗi đánh
máy chưa chuẩn.
Thư kí
Nguyễn Thị Tâm

Chủ tọa
Mai Thị Hường



×