Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Đề cương ôn tập văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (986.33 KB, 37 trang )

Trường THPT Phú Thònh Đề cương ôn tập Văn học 12
NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH
I. QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC CỦA HỒ CHÍ MINH:
Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một hoạt động
tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho cách
mạng. Nhà văn phải có sự gắn bó sâu sắc với đời để từ
đó khám phá và sáng tạo góp phần vào nhiệm vụ đấu
tranh và phát triển xã hội. Người khẳng đònh “văn học
nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chò em là chiến só
trên mặt trận ấy”.
Hồ Chí Minh chú ý đến đối tượng thưởng thức.
Văn chương trong thời đại cách mạng phải coi quảng
đại quần chúng là đối tượng phục vụ. Tác phẩm văn
chương phải thể hiện tinh thần dân tộc của nhân dân
và được nhân dân yêu thích. Người nêu kinh nghiệm
chung cho hoạt động báo chí, văn chương. Viết cho ai?
Viết cái gì? Viết như thế nào? Bên cạnh đó người chú
ý đến mối quan hệ giữa phổ cập và nâng cao trong văn
nghệ.
Hồ Chí Minh quan niệm tác phẩm văn chương
phải có tính chân thực. Người yêu cầu các nhà văn
phải miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn sự
phong phú của đời sống cách mạng, phải ca ngỡi,
khẳng đònh cái cao đẹp, phê phán và phủ nhận cái xấu
trong cuộc đời.
Mặt khác nhà văn phải chú ý đến hình thức
biểu hiện sau cho hấp dẫn , tránh lối viết cầu kì, xa lạ,
nẵng nề. Tác phẩm văn chương phải thể hiện được tinh
thần dân tộc của nhân dân.
II. NHỮNG NÉT CHÍNH VỀ SỰ NGHIỆP
VĂN HỌC :


Hồ Chí Minh là một vò lãnh tụ cách mạng đồng
thời là một nhà văn, nhà thơ lớn. Người đã để lại cho
nhân dân ta một sự nghiệp văn chương lớn lao về tầm
vóc, phong phú và đa dạng về thể loại và đặc sắc trong
phong cách sáng tạo.
Sự nghiệp văn học của HCM thể hiện ở những
lónh vực sau:
a. Văn chính luận: đây là những tác phẩm được
viết với mục đích đấu tranh chính trò nhằm tiến công
trực diện kẻ thù hoặc thể hiện nhiệm vụ cách mạng
của dân tộc. Có những tác phẩm của Bác được coi là
áng văn chính luận mẫu mực.
Những tác phẩm tiêu biểu:
+ Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) là bản
án tố cáo trực diện chế độ thực dân Pháp, và nói lên
nỗi khổ đau của người dân xứ thuộc đòa.
+ Tuyên ngôn độc lập (1945) là áng văn hùng
hồn, là văn kiện chính trò có giá trò lòch sử lớn lao tuyên
bố quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
+ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946) là tiếng
gọi non sông trong giờ phút thử thách đặc biệt.
+ Di chúc (1969) là lời căn dnặ thiết tha, chân
tình với đồng bào cả nước.
b. Truyện và kí: cô đọng , sáng tạo giàu chất trí
tuệ và tính hiện đại. Các truyện ngắn thường dựa vào
sự kiện có thật, người viết hư cấu để thực hiện ý đồ
của mình.
Tác phẩm tiêu biểu: Lời than vãn của bà Trưng
Trắc(1922), Vi hành (1923), Những trò lố hay là Varen
và Phan Bội Châu (1925),…

c. Thơ trữ tình:
- Nhật kí trong tù: gồm 133 bài thơ chữ Hán viết
trong nhà tù Tưởng Giới Thạch. Tập thơ phản ánh sâu
sắc, sinh động và tài hoa, tâm hồn, nhân cách cao đẹp
của Hồ Chí Minh.
- Những bài thơ sáng tác trong thời kì Người ở
Việt Bắc trước năm 1945 và trong chín năm kháng
chiến chống thực dân Pháp có sự kết hợp chất trữ tình
đằm thắm với cảm hứng anh hùng ca.
Các bài thơ tiêu biểu: Pac Pó hùng vó, Tức cảnh
Pác Pó, Rằm tháng giêng, Tin thắng trận,…
- Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh (1990) tập hợp 36
bài thơ chữ Hán viết ở nhiều thời điểm, thể hiện nhiều
đề tài khác nhau.
Hồ Chí Minh để lại một di sản văn chương
phong phú , độc đáo, có giá trò về nhiều mặt. Văn htơ
Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc tâmhồn và khí phách cao
đẹp của người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân
văn hóa thế giới.
Hồ Chí Minh là người đặt nền móng mở đường
cho nền văn học cách mạng Việt Nam hiện đại.
III. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT:
Hồ Chí Minh là người bước đầu đặt nền móng
và mở đường cho nền văn học Cách mạng. Văn chương
của Hồ Chí Minh có phong cách đa dạng mà thống
nhất, đã kết hợp được sâu sắc tự bên trong mối quan hệ
giữa chính trò và văn học, giữa tư tưởng và nghệ thuật,
giữa truyền thống và hiện đại. mỗi thể
Giáo viên Nguyễn Thò Thúy Liễu
1

Trường THPT Phú Thònh Đề cương ôn tập Văn học 12
loại của văn học người đều có phong cách riêng, độc
đáo, hấp dẫn và có giá trò bền vững.
Văn chính luận của HCM bộc lộ tư duy sâu sắc,
giàu tri thức văn học, gắn lí luận với thực tiễn, giàu
tính luận chiến, vận dụng có hiệu quả nhiều phương
thức biểu hiện. Viết thành công những mẫu chuyện
nhỏ là một nét độc đáo của tài năng tác giả trong văn
xuôi.
Truyện và kí của NAQ là những tác phẩm mở
đầu và góp phần đặt nền móng đầu tên cho nền văn
xuôi Cách mạng. Ngòi bút của Người trong truyện
ngắn rất chủ động và sáng tạo: có khi là giọng điệu sâu
sắc, châm biếm thâm thúy và tinh tế. Chất trí tuệ và
tính hiện đại là những nét đặc sắc trong truyện ngắn
của NAQ.
Về thơ ca, phong cách sáng tạo của Người rất đa
dạng. Nhiều bài viết theo hình thức cổ thi hàm súc,
uyên thâm, đạt chuẩn mực cao về nghệ thuật. Thơ của
HCM mang đặc điểm của thơ cổ phương Đông. Những
bài thơ hiện đại được người vận dụng qua nhiều thể
loại, phục vụ có hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng.
Thơ ca của Người gợi cảm, chứa chan nhiệt tình Cách
mạng.
1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI:
Năm 1922, thực dân Pháp đưa Khải Đònh sang
“mẫu quốc” nhân cuộc “đấu xảo thuộc đòa” tổ chức tại
MacXây. Mục đích của bọn thực dân là vừa vuốt ve
Khải Đònh vø lừa gạt dân Pháp khiến họ tin rằng sự
“bảo hộ” của nước Pháp được dân VN hoan nghênh.

Khi sang Pháp, Khải Đònh đã phô bày tất cả sự ngu
dốt, lố lăng của một tên vua bù nhìn vô dụng khiến cho
những người Việt Nam yêu nước hết sức bất bình.
Thời gian này, NAQ đang hoạt động Cách
mạng ở Pháp. Người viết nhiều tác phẩm công kích
chuyến đi nhục nhã của Khải Đònh như “Con rồng tre”,
“Sở thích đặc biệt”, “Lời than vãn của bà Trưng Trắc”,
…Vi hành là tác phẩm cuối cùng nằm trong loạt tác
phẩm đó, được đăng trên báo nhân đạo của Đảng cộng
sản VN năm 1923.
2. MỤC ĐÍCH SÁNG TÁC :
Vi hành chủ yếu là vạch trần bộ mặt xấu xa của
Khải Đònh - một tên vua bù nhìn vô dụng
Vi hành cũng đả kích mạnh mẽ bọn thực dân
Pháp với các chính sách “khai hóa” thâm độc và hành
động vi phạm nhân quyền trắng trợn của chúng .
3. NHAN ĐỀ:
+ Tiếng Pháp:Incognito nghóa là đội một cái tên
giả không để ai biết. Người Pháp dùng từ này ngụ ý
chê bai, khinh miệt những kẻ có hành vi mờ ám,lén lút
+Tiếng Hán: “Vi Hành”có nghóa là cuộc đi kín
của những bậc tôn q trong xã hội xưa vì những mục
đích cao thượng.
thực dân Pháp ở các phương diện:
Nhan đề có ý nghóa sâu sắc: Châm biếm hành
vi “vi hành”của Khải Đònh
4. CHỦ ĐỀ :
Bằng bút pháp trào phúng bật thầy và hình thức
viết thư,tác giả đã phê phán một cách đích đáng sự
lố lăng kệch cõm của tên vua bù nhìn KĐ ,vạch

trần bản chất xấu xa của thực dân pháp và tội ác
của chúng đối với dân thuộc đòa .
4. NỘI DUNG TÁC PHẨM
A. Nội dung đả kích
* Chân dung Khải Đònh:
Qua mẫu đối thoại của đôi thanh niên
Pháp,chân dung Khải Đònh hiện lên sinh động bằng bút
pháp châm biếm
- Ngoại hình:
+ Mũi tẹt, mắt xếch, mặt bủng như vỏ chanh
+ Trang phục: hắn khoác lên người cả bộ lụa là,bộ
hạt cườm,có cả cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn
khăn,ngón tay đeo đầy nhẫn
+ Điệu bộ: nhút nhát,lúng ta lúng túng
Ngoại hình xấu xí,trang phục lố lăng kệch cỡm.Đây
là bức chân dung biếm họa gây cười
-Hành động:
+ Lén lút vi hành theo lệnh quan thầy Pháp
+ Vi hành đến trường đua,tiệm cầm đồ nếm thử
cuộc đời của các cậu công tử bé
Dưới con mắt người Pháp, Khải Đònh chỉ là một thứ
đồ cổ, một con rối, một trò hề không hơn không kém.


Khải Đònh là một vò vua bù nhìn, bất tài, vô
dụng, làm việc theo sự giật dây của thực dân Pháp.
* Thực dân Pháp
-Tác giả bóc trần các thủ đoạn bòp bợm xảo trá của
* Hình thức viết thư.
Giáo viên Nguyễn Thò Thúy Liễu

2
Trường THPT Phú Thònh Đề cương ôn tập Văn học 12
+ Bắt dân thuộc đòa uống rượu cồn,hút thuốc
phiện,thi hành chính sách ngu dân
+ Bọn mật thám bủa vây,theo dõi,bắt bớ những
người Việt Nam yêu nước đang hoạt động tại Pháp
-Tác giả vạch ra cho thấy các hoạt động văn hóa xã
hội Pháp
+Báo chí Pháp chỉ chạy theo thò hiếu tầm
thường :giết người,cướp của…
+Thanh niên pháp sống hời hợt ,nông nổi ,háo danh
.
+Thái độ kỳ thò chủng tộc :mặt bủng như vỏ canh .

Bằng tình tiết khôi hài,tác giả vach ra những thủ
đoạn xảo trá của chính phủ pháp cuộc sống của thanh
niên pháp thời bấy giờ.
B. Đặc sắc nghệ thuật:
* Tạo tình huống nhầm lẫn:
-Đôi thanh niên pháp tửơng nhầm NAQ là KĐ tái
hiện chân dung kòch cởm lố lăng của KĐ là do
cách nhìn ,sự đánh gía của người p chứ k phải của
tác giả tăng sức thuyết phục c01 tính khách quan
-Người pháp nhầm những ai có màu da vàng đều
là đế An Nam đón tiếp bằng thái độ kỳ thò chủng
tộc (hắn đấy xem hắn kìa)
-Chính phủ Pháp nhầm k biết ai là KĐ nên phái
người theo hộ giá “thầm kín ,rụt rè ,vô tư và hết
sức tận t “cho mật thám theo dõi những người
VN yêu nước, một sự vi phạm về nhân quyền ngay

trên đất nước vần có tiếng là tự do, tôn trọng nhân
quyền .
-Văn viết thư là thể văn tự do phóng túng. No ùcó
thể chuyển cảnh chuyển giọng,chuyển đối tượng
tượng rất linh hoạt,cuốn hút người đọc.
+ Cảnh trên xe điện ngầm :giọng mỉa mai châm
biếm khách quan .
+ Cảnh tàu đỗ,tác giả nhớ về thời thơ ấu: giọng trữ
tình thắm thiết bộc lộ nhơ ùquê nhớ nhà
+ Cảnh mật thám theo dõi:giọng văn,cợt nhã, đùa
vui .
+ So sánh chuyến vi hành của KĐ với vua
Thuấn ,vua Pie vạch ra bản chất ăn chơi của KĐ
* Nghệ thuật trào phúng bậc thầy:
-Xây dựng mâu thuẫn trào phúng làm nền :
+ Vò trí của vua >< tên hề rẽ tiền
+Nghi thức đón tiếp >< mật thám rình rập .
- Sử dụng biện pháp cường điệu phóng đại (ngay
đến chính phủ pháp cũng chẳng nhận ra khách thật
của mình )
- Sử dụng lối chơi chữ vừa hài hước vừa châm biếm
mà ý vò sâu cay.dùng nhiều từ đẹp đẽ để diễn tả sự
thật xấu xa.
- Tiếng cười có nhiều sắc thái và đậm chất trí tuệ
Tóm lại, hóm hỉnh và giễu cợt, nhầm lẫn và giả định,
cùng với lối viết ngắn mang màu sắc văn xi hiện đại
phương Tây, đã tạo nên tính chiến đấu của truyện “Vi
hành”. “Vi hành” thể hiện sâu sắc tư tưởng chống chế độ
thực dân Pháp và bọn bù nhìn tay sai. Nó tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật giản dị mà sắc bén, tính hiện đại

và chất trí tuệ trong truyện ký của Nguyễn Ái Quốc viết
bằng tiếng Pháp.


I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI
Giáo viên Nguyễn Thò Thúy Liễu
3
Trường THPT Phú Thònh Đề cương ôn tập Văn học 12
Tháng 8.1942, Nguyễn ái Quốc lấy tên là HCM lên đường sang TQ để tranh thủ sự viện trợ của thế giới.
Sau nửa tháng đi bộ đnế Túc Vinh, Quảng Tây (29 – 8-1942), Người bò chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam.
Mười ba tháng ở tù, tuy bò đày ải vô cùng cực khổ, HCM avn64 làm thơ. Người đã sáng tác 133 bài thơ bằng chữ
Hán ghi trong một cuốn sổ tay mà Người đặt tên là Ngục trung nhật kí
II .NỘI DUNG CƠ BẢN .
1 .Ghi lại chân thực bộ mặt đen tối của chế độ nhà tù XHTQ .
-Chế độ nhà tù:cực kỳ dã man ,đày đoạ tù nhân ,hối lộ :(Bốn tháng rồi,chia nước… )
-XHTQ:Quyền sống của con người k được bảo đảm
+Đại biểu nước láng giềng đi công tác cũng bi bắt (đường đời hiểm trở)
+Nhân đạo TQ bò bắt phi lí (cháu bé trong nhà lao Tân Dương )
2.Bức chân dung tinh thần tự hoạ của HCM .
-Tinh thần kiên cường bất khuất (bài tựa NKTT)
-Tâm hồn mềm mại ,tinh tế ,nhạy cảm với mọi biến thái của thiên nhiên và lòng người (ngắm
trăng,chiều tối …)
-Phong thái ung dung tự tại ,hết sức thoải mái như bay lượn ở ngoài nhà tù (pha trò ,quá trưa ..)
-Nóng lòng sốt ruột như lửa đốt ,khắc khoải ngóng về tự do ,nhìn về tổ quốc (ốm nặng )
-Lạc quan tin tưởng :luôn hướng về bình minh và mặt trời hồng :(giải đi sớm )
-Trằn trọc lo âu không bao giờ nguôi nỗi đau lớn của dân tộc và nhân loại nhiều đêm một mình đối diện
với vầng trăng?(đêm thu ,đêm lạnh …)
III. NGHỆ THUẬT
1.Phong cách đa dạng:
Hồn nhiên, bình dò ,cổ điển mà hiện đại ,chiến só mà thi só ,luôn ẩn hiện nụ cười thoải mái trẻ trung pha

chút hóm hỉnh ,hài hước
2.Màu sắc cổ điển:
-Giàu cảm hứng về vẻ đẹp thiên nhiên
-Thiên nhiên được miêu tả bằng một vài nét chám phá ,ghi linh hồn tạo vật
-Nhân vật trữ tình ung dung ,nhân nhã tâm hồn hoà hợp thiên nhiên như một ẩn só.
3.Kết hợp giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại :
-Hình tượng thiên thiên luôn vận động hướng về ánh sáng tương lai
-Nhân vật trữ tình là một chiến só ,vượt lên trên mọi cảnh khó khăn .
- Tinh thần dân chủ thể hiện sâu sắc ở đề tài , tư tưởng, nhân vật trữ tình.
4. Thể loại :thơ chữ hán ,tứ tuyệt ,cổ điển
5. Hình ảnh: ước lệ tượng trưng.
Hồ Chí Minh
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cơ vân mạn mạn độ thiên khơng;
Sơn thơn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hồn lơ dĩ hồng”.
I. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
“Mộ” (Chiều tối) bài thơ thất ngơn tứ tuyệt số 31.
Hồ Chí Minh viết bài thơ này đang trên đường bị giải tới nhà lao Thiên Bảo. Sau một ngày dài bị giải đi, trời
tối dần.
Giáo viên Nguyễn Thò Thúy Liễu
4
Trường THPT Phú Thònh Đề cương ôn tập Văn học 12
II. PHÂN TÍCH
1. Thiên nhiên lúc chiều muộn:
Hai câu đầu tả cảnh bầu trời lúc chiều tối. Cánh chim mỏi (quyện điểu) về rừng tìm cây trú ẩn.
Áng mây lẻ loi, cơ đơn (cơ vân) trơi lững lờ trên tầng khơng. Cảnh vật thống buồn.
Hai nét vẽ chấm phá (chim và mây), lấy cái nhỏ bé, cái động để làm nổi bật bầu trời bao la, cảnh chiều tối
lặng lẽ và buồn.
Cánh chim mỏi và áng mây cơ đơn là hai hình ảnh vừa mang tính ước lệ trong thơ cổ tả cảnh chiều tối, vừa là

hình ảnh ẩn dụ về người tù bị lưu đày trên con đường khổ ải mờ mịt vạn dặm:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng”
2. Sinh hoạt của con người nơi xóm núi:
Trời tối rồi, tù nhân bị giải đi qua một xóm núi. Có bóng người (thiếu nữ). Có cảnh làm ăn bình dị: xay ngơ.
Có lò than đã rực hồng (lơ dĩ hồng).
Các chi tiết nghệ thuật ấy làm hiện lên một mái ấm gia đình, một cảnh đời dân dã, bình dị, “ấm áp”. Nếu
chim trời, áng mây chiều đồng điệu với tâm hồn nhà thơ thì cảnh xay ngơ của thiếu nữ và lò than rực hồng kia như
đang làm vợi đi ít nhiều nỗi đau khổ của người đi đày khi qua nơi miền sơn cước xa lạ. Tương phản với màn đêm
bao trùm khơng gian, cảnh vật là “lò than đã rực hồng”. Tứ thơ vận động từ bóng tối hướng về ánh sáng. Nó cho ta
thấy, trong cảnh ngộ cơ đơn, nặng nề, bị tước mất tự do, bị ngược đãi, người chiến sĩ cách mạng, nhà thơ Hồ Chí
Minh vẫn gắn bó, chan hòa, gần gũi với nhịp đời thường cần lao. Câu thơ thứ 3 dịch chưa được hay. Chữ “cơ em”
hơi lạc điệu. Thêm vào một chữ “tối” đã mất đi ý vị “ý tại ngơn ngoại” vẻ đẹp hàm súc của thơ chữ Hán cổ điển:
“Cơ em xóm núi xay ngơ tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Bài thơ có cảnh bầu trời và xóm núi, có áng mây, cánh chim chiều. Chim về rừng, mây lơ lửng. Có thiếu nữ
xay ngơ và lò than hồng. Đằng sau bức tranh cảnh chiều tối là một nỗi niềm buồn, cơ đơn, là một tấm lòng hướng về
nhân dân lao động, tìm thấy trong khoảnh khắc chiều tối. Nghệ thuật mượn cảnh để tả tình. Điệu thơ nhè nhẹ, man
mác bâng khng, đậm đà màu sắc cổ điển. Tinh tế trong biểu hiện, đậm đà trong biểu cảm là vẻ đẹp trữ tình của bài
thơ “Chiều tối” này… Rất nhân hậu, rất người.

I
“Nhất thứ kê đề dạ vị lan,
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san;
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Giáo viên Nguyễn Thò Thúy Liễu
5
Trường THPT Phú Thònh Đề cương ôn tập Văn học 12
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.
II

Đơng phương bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư tảo nhất khơng;
Nỗn khí bao la tồn vũ trụ,
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng”
Hồ Chí Minh
I. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
Tảo giải (Giải đi sớm) là chùm thơ 2 bài 42, 43 trong “Ngục trung nhật ký” của Hồ Chí Minh.
Trên đường chuyển lao từ Long An đến Đồng Chính, Hồ Chí Minh viết chùm thơ này. Như một trang ký sự
của người đi đày thế nhưng đằng sau cảnh sắc thiên nhiên hé lộ một hồn thơ khống đạt, mạnh mẽ và tự tin, u đời.
Bài I, ngay câu đầu ghi lại thời điểm chuyển lao:
“Gà gáy một lần, đêm chửa tan”. Đó là lúc nửa đêm về sáng. Chỉ có chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi
thu. Trăng sao được nhân hóa như cùng đồng hành với người đi đày. Cái nhìn lên bầu trời trong cảnh khổ ải thể hiện
một tâm thế đẹp. Hai câu 3, 4 nói về con đường mà tù nhân đang đi là con đường xa (chinh đồ). Gió thu táp vào mặt
từng cơn từng cơn lạnh lẽo.
Trong câu thơ chữ Hán, chữ “chinh” chữ “trận” được điệp lại hai lần (chinh nhân, chinh đồ; trận trận hàn),
làm cho ý thơ rắn rỏi, nhịp thơ mạnh mẽ. Nó thể hiện một tâm thế rất đẹp. Mặc dù áo quần tả tơi, thân thể tiều tụy
nhưng người chiến sĩ vĩ đại vẫn đứng vững trước mọi thử thách nặng nề: đêm tối, đường xa, gió rét…
Bài II, nói về cảnh rạng đơng . Cái lạnh lẽo, cái u ám của đêm thu còn rơi rớt lại chốc đã bị qt hết sạch.
Phương đơng từ màu trắng đã thành hồng. Hơi ấm tràn ngập đất trời, vũ trụ.
Trước một khơng gian bao la có màu hồng, có hơi ấm của rạng đơng, “chinh nhân” (người đi xa) đã hóa
thành “hành nhân” (người đi). Hình như mọi đau khổ bị tiêu tan trong khoảnh khắc.
Người đi đày đã trở thành con người “tự do”, thi hứng dâng lên dào dạt nồng nàn. Niềm vui đón cảnh rạng
đơng đẹp và ấm áp. Một đêm lạnh lẽo đã trơi qua.
Tứ thơ vận động từ tối qua rạng đơng tráng lệ, từ lạnh lẽo đến hơi ấm. Người đọc có cảm giác nhà thơ đi đón
bình minh, đón ánh sáng và niềm vui cuộc đời.
Chùm thơ “Tảo giải” cho thấy tinh thần chịu đựng gian khổ làm chủ hồn cảnh và phong thái ung dung, lạc
quan u đời của nhà thơ Hồ Chí Minh trong cảnh đọa đầy. “Tảo giải” là bài ca của người đi đày, hàm chứa chất
“thép” thâm trầm, sâu sắc mà “khơng hề nói đến thép, lên giọng thép”.



“Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Giang tâm như kính, tịnh vơ trần,
Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân”
Hồ Chí Minh
I. XUẤT XỨ, HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
“Nhật ký trong tù” gồm có 133 bài thơ, phần lớn là thơ tứ tuyệt. Bài thơ “Mới ra tù, tập leo núi” khơng nằm trong
số 133 bài thơ ấy. Một số tài liệu cho biết, ngày 10/9/1943, tại nhà giam Liễu Châu, Hồ Chí Minh đã giành được tự
do. Ra tù, chân yếu, mắt mờ, tóc bạc. Người đã kiên trì tập luyện để phục hồi sức khỏe. Tập leo núi, và khi leo đến
đỉnh núi, Bác cao hứng viết bài thơ này. Bài tứ tuyệt “Mới ra tù, tập leo núi” được Bác Hồ viết vào rìa một tờ báo
Trung Quốc, kèm theo dòng chữ: “Chúc chư huynh ở nhà mạnh khỏe và cố gắng cơng tác. Ở bên này bình n”.
Ngồi mục đích bí mật nhắn tin về nước, bài thơ thể hiện một tình u nước và thương nhớ đồng chí, bạn bè của Hồ
Chủ tịch.
II. PHÂN TÍCH
Giáo viên Nguyễn Thò Thúy Liễu
6
Trường THPT Phú Thònh Đề cương ôn tập Văn học 12
1. H ai câu đầu: Bức tranh sơn thủy hữu tình .
Hai câu đầu là hai câu thơ tuyệt bút tả cảnh sơn thủy hữu tình. Có mây, núi ơm ấp quấn qt. Có lòng sơng
như tấm gương trong, khơng gợn một chút bụi nào! Câu thơ dịch khá hay:
“Núi ấp ơm mây, mây ấp núi,
Lòng sơng gương sáng bụi khơng mờ”
Ba nét vẽ chấm phá đã lột tả được cái hồn cảnh vật. Nghệ thuật sử dụng điệp ngữ, nhân hóa và so sánh đã làm hiện
lên phong cảnh sơn thủy hùng vĩ và hữu tình. Bức tranh sơn thủy được miêu tả ở tầm cao và xa, đậm đà màu sắc cổ
điển. Trong bối cảnh lịch sử bài thơ ra đời, hình ảnh mây, núi, lòng sơng mang hàm nghĩa sâu sắc, tượng trưng cho
tâm hồn trong sáng, cao cả và thủy chung của con người.
2. H ai câu cuối : Tâm trạng của tác giả
Hai câu 3, 4 thể hiện một tâm trạng rất điển hình của người chiến sĩ cách mạng đang ở nơi đất khách q
người. Từ Tây Phong Lĩnh (Liễu Châu) đến Nam thiên là mn dặm xa cách. Vừa leo núi, dạo bước mà lòng bồi hồi,
bồn chồn, khơng n dạ. Leo núi đến tầm cao rồi ngóng nhìn xa (dao vọng) trời Nam, q hương đất nước mà lòng

xúc động “nhớ bạn xưa” (Ức cố nhân):
“Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh
Trơng lại trời Nam nhớ bạn xưa”
Ngơn ngữ thơ trang trọng, giàu biểu cảm, mỗi chữ là một nét, một mảnh tâm hồn của người chiến sĩ vĩ đại. “Bồi
hồi”, “dao vọng”, “Nam thiên”, “ức cố nhân”… đó là tấm lòng của một con người nặng tình non nước “Đêm mơ
nước, ngày thấy hình của nước – Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc q nhà”… (Chế Lan Viên).
Ức hữu, ức cố nhân,… là cảm xúc đằm thắm được diễn tả trong nhiều bài thơ “Nhật ký trong tù”. Lúc thì “Nội
thương đất Việt cảnh lầm than” (ốm nặng). Khi thì “Nghìn dặm, bâng khng hồn nước cũ – Mn tơ vương vấn
một sầu nay” (Đêm thu).
Tóm lại, “Mới ra tù, tập leo núi” là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Tình u thiên nhiên gắn liền với tình
u đất nước sâu nặng. Hàm súc và mầu sắc cổ điển là vẻ đẹp của bài thơ. Sắc điệu trữ tình trong thơ Hồ Chí Minh
như dẫn hồn ta ngược thời gian nhớ một vần thơ Kiều tuyệt bút, lóng ta mãi rung động bồi hồi:
“Bốn phương mây trắng một màu,
Trơng vời Tổ quốc biết đâu là nhà”

I. XUẤT XỨ, HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
“Từ ấy” - tập thơ 10 năm của Tố Hữu (1937 – 1946) hiện có 72 bài thơ.
Bài “Tâm tư trong tù” là bài thơ số 30, được Tố Hữu viết tại nhà lao Thừa Thiên vào cuối tháng 4 năm 1939,
mở đầu cho phần “Xiềng xích” của tập “Từ ấy”.
Viết theo thể thơ tự do, 4 câu đầu được nhắc lại 2 lần trở thành điệp khúc gợi tả cảnh thân tù với bao nỗi
buồn cơ đơn và lòng khao khát tự do. Câu cảm thán vang lên bồi hồi đầy ám ảnh:
“Cơ đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sơi rạo rực
Tơi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngồi kia vui sướng biết bao nhiêu!”
“Cảnh thân tù” là sàn lim với “mảnh ván ghép sầm u”, là nơi “lạnh lẽo bốn tường vơi khắc khổ”, là chốn “âm u”
của địa ngục trần gian! Đối lập với “cảnh thân tù” là “tiếng đời lăn náo nức” – âm thanh của cuộc sống, là tiếng gọi
của tự do. Một chữ “nghe” được nhắc lại nhiều lần, nhịp điệu thơ tha thiết ngân vang. Lòng u đời, u cuộc sống,
niềm khao khát tự do càng trở nên sơi sục, mạnh mẽ:
“Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều

Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về…
(…) Nghe gió xối trên cành cây ngọn lá
Nghe mênh mang sức khỏe của trăm lồi”
Giáo viên Nguyễn Thò Thúy Liễu
7
Trường THPT Phú Thònh Đề cương ôn tập Văn học 12
Người chiến sĩ trẻ lần đầu bị thực dân Pháp bắt bớ, giam cầm. Hầu như suốt đêm ngày thao thức “lắng
nghe” những âm thanh, “những tiếng đời lăn náo nức” lay gọi. Tâm tư xao xuyến, bồi hồi, mênh mang. Trong hồng
hơn, tiếng dơi đập cánh nghe sao mà “vội vã”. Và giữa đêm khuya, một tiếng “lạc ngựa”, một cái “rùng chân”, một
“tiếng guốc đi về”, tiếng “gió xối” - tất cả là âm thanh cuộc đời, gần gũi, thân quen, nhưng giờ đây trong cảnh thân tù
những âm thanh ấy mang một ý nghĩa vơ cùng mới mẻ, đó là tiếng gọi tự do, là tiếng lòng sơi sục, trẻ trung và căng
đầy nhựa sống.
“Tâm tư trong tù” là sự thể hiện một cách chân thật, cảm động những suy ngẫm về tự do, để tự vượt mình, tự
khẳng định mình của người chiến sĩ cách mạng trong xiềng xích uất hận. Phút mơ hồ về “một trời rộng rãi”, về một
“cuộc đời sây hoa trái”, về “hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày” đã bị nhà thơ tự phủ định. Cả một dân tộc đang
quằn quại trong xích xiềng nơ lệ “đọa đày trong những hố thẳm khơng cùng”. Đất nước đang bị thực dân Pháp thống
trị. Dù ở trong song sắt hay ở ngồi song sắt nhà tù, mỗi con người Việt Nam đều là vong quốc nơ. Nhận thức mới về
tự do được diễn tả qua hai hình ảnh tương phản đầy ý nghĩa:
“Tơi chiều nay, giam cấm hận trong lòng,
Chỉ là một giữa lồi người đau khổ.
Tơi chỉ một con chim non bé nhỏ
Vứt trong lồng con giữa một lồng to”
“Con chim non bé nhỏ” ấy đang bay đi trong bão táp. Cũng như trong bài thơ “Trăng trối” viết tại nhà tù Lao Bảo
cuối năm 1940, Tố Hữu tự nhận mình là “tên lính mới”: “Và bên bạn, chỉ là tên lính mới – Gót chân tơ chưa dày dạn
phong trần”.
Vấn đề sống và chết được đặt ra một cách nghiêm túc, quyết liệt để khẳng định nhân cách và lẽ sống cao đẹp
của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày. Ánh sáng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, mẫn cảm chính trị… đã giúp
nhà thơ trẻ vượt lên trên một tầm vóc mới. Khơng phải đến Tố Hữu mới có bài học về “uy vũ bất năng khuất” mà từ

nghìn xưa ơng cha ta, tổ tiên ta đã nêu gương sáng “ngẩng cao đầu” đi tới cho con cháu trên hành trình lịch sử. Có
điều, trong bài thơ này, Tố Hữu đã nối tiếp người xưa, làm rạng rỡ “mạch giống nòi”, sáng tạo nên những vần thơ
mới sơi trào, hừng hực một quyết tâm chiến đấu kiên cường:
“Tơi chỉ một giữa mn người chiến đấu
Vẫn đứng thẳng trên đường đầy lửa máu
Chân kiêu căng khơng thối bộ bao giờ!”
Con đường phía trước là máu và nước mắt, là “đày ải”, là “thế giới của ưu phiền”, nhưng người chiến sĩ
cách mạng vẫn sáng ngời niềm tin. Câu thơ vang lên trang nghiêm, hùng tráng như một lời thề chiến đấu:
“Nơi đày ải là Đắc Pao, Lao Bảo
Là Cơn Lơn, thế giới của ưu phiền?
Tơi sẽ cười như kẻ sẵn lòng tin
Giữ trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn”.
“Giữ trinh bạch linh hồn” là một cách nói “rất Tố Hữu” về giữ vững khí tiết cách mạng, lòng trung thành với
Tổ quốc và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Phần cuối, âm điệu dồn dập dư ba. Ngơn ngữ thơ trùng điệp. Một quyết tâm
chiến đấu và hy sinh khơng súng đạn, máy chém nào của thực dân Pháp có thể khuất phục được:
“Tơi chưa chết, nghĩa là chưa hết hận
Nghĩa là chưa hết nhục của mn đời
Nghĩa là còn tranh đấu mãi khơng thơi
Còn trừ diệt cả một lồi thú độc!”
Khép lại bài thơ là âm thanh một tiếng còi xa rúc gọi: “Có một tiếng còi xa trong gió rúc”. Đó là tiếng gọi
lên đường đấu tranh. Như một mệnh lệnh trang nghiêm! Sống và chết vì tự do!
Viết theo thể thơ mới, điệu thơ hùng hồn, mạnh mẽ, lý tưởng cách mạng, tinh thần chiến đấu hy sinh được
khẳng định như một lời thề. Tâm tư trong tù phản ánh chân thực niềm khao khát tự do và dũng khí giữ vững niềm tin
của người thanh niên cộng sản trong chốn tù ngục. Đó là phần đóng góp của thơ Tố Hữu trong “Từ ấy”. Đẹp nhất,
đáng khâm phục nhất là Tố Hữu đã sống và chiến đấu như thơ ơng đã viết. Đó là bài học về nhân sinh quan cách
mạng mà hơn nửa thế kỷ sau vẫn làm chấn động hồn ta.
Giáo viên Nguyễn Thò Thúy Liễu
8
Trường THPT Phú Thònh Đề cương ôn tập Văn học 12
I. HỒN CẢNH LỊCH SỬ

Ngày 19/8/1945 chính quyền ở thủ đơ Hà Nội đã về tay nhân dân ta. 23/8/1945, tại Huế trước hàng vạn đồng
bào ta, vua Bảo Đại thối vị. 25/8/1945, gần 1 triệu đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính
quyền. Chỉ khơng đầy 10 ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành cơng rực rỡ.
Cuối tháng 8/1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tun
ngơn Độc lập. Và ngày 2/9/1945; tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hồ, đọc bản Tun ngơn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào ta, khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ ngun mới Độc lập, Tự do.
II. BỐ CỤC
1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tun ngơn Độc lập (Từ đầu đến “khơng ai chối cãi được”)
2. Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp và q trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta (“Thế mà hơn
80 năm nay… Dân tộc đó phải được độc lập!”)
3. Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tun bố với thế giới (Phần còn lại).
III. PHÂN TÍCH
1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tun ngơn Độc lập là khẳng định quyền bình đẳng, quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là những quyền khơng ai có thể xâm phạm
được; người ta sinh ra phải ln ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Hồ Chủ Tịch đã trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong 2 bản Tun ngơn của Mĩ và Pháp, trước hết là để khẳng định
Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, cao đẹp của thời đại, sau nữa là “suy rộng ra…” nhằm nêu cao một lý
tưởng về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của các dân tộc trên thế giới.
Cách mở bài rất đặc sắc, từ cơng nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc
lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn “Đó là những lẽ phải khơng ai chối cãi được” là sự
khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân
tộc cần được tơn trọng và bảo vệ.
Cách mở bài rất hay, hùng hồn trang nghiêm. Người khơng chỉ nói với nhân dân Việt Nam ta, mà còn tun
bố với thế giới. Trong hồn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến 2 vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh
thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, nhất là các nước trong phe Đồng minh, đồng thời ngăn chặn âm
mưu tái chiếm Đơng Dương làm thuộc địa của Đờ Gơn và bọn thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng.
2. a. Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp.
- Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước
ta, áp bức đồng bào ta”.

- Năm tội ác về chính trị: 1- tước đoạt tự do dân chủ, 2- luật pháp dã man, chia để trị, 3- chém giết những
chiến sĩ u nước của ta, 4- ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân, 5- đầu độc bằng rượu cồn, thuốc
phiện.
- Năm tội ác lớn về kinh tế: 1- bóc lột tước đoạt, 2- độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng, 3- sưu
thuế nặng nề, vơ lý đã bần cùng nhân dân ta, 4- đè nén khống chế các nhà tư sản ta, bóc lột tàn nhẫn cơng nhân ta, 5-
gây ra thảm họa làm cho hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói năm 1945.
- Trong vòng 5 năm (1940 – 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã “bán nước ta 2 lần cho Nhật”.
- Thẳng tay khủng bố Việt Minh; “thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đơng tù chính
trị ở n Bái và Cao Bằng”.
b. Q trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta
- Từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ khơng phải thuộc địa của Pháp nữa. Nhân
dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật hàng Đồng minh.
- Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ qn chủ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hồ.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thối vị.
- Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn chấm dứt và xố bỏ.
- Trên ngun tắc dân tộc bình đẳng mà tin rằng các nước Đồng minh “quyết khơng thể khơng cơng nhận
quyền độc lập của dân Việt Nam”:
Giáo viên Nguyễn Thò Thúy Liễu
9
Trường THPT Phú Thònh Đề cương ôn tập Văn học 12
“Một dân tộc đã gan góc chống ách nơ lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc về phe Đồng
minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập.
Phần thứ hai là những bằng chứng lịch sử khơng ai chối cãi được, đó là cơ sở thực tế và lịch sử của bản
Tun ngơn độc lập được Hồ Chí Minh lập luận một cách chặt chẽ với những lí lẽ đanh thép, hùng hồn.
3. Lời tun bố với thế giới
- Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập (từ
khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên)
- Nhân dân đã quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy (được làm nên bằng xương máu và lòng u
nước).
* Tun ngơn độc lập là một văn kiện lịch sử vơ giá của dân tộc ta, thể hiện phong

cách chính luận của Hồ Chí Minh
1. Cùng với bài thơ “Sơng núi nước Nam” của Lý Thường Kiệt, “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi, bản
“Tun ngơn độc lập”, phản ánh đúng diện mạo tinh thần và truyền thống chống xâm lăng của dân tộc Việt Nam
trong trường kỳ lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước.
2. Một lối viết ngắn gọn (950 từ). Có câu văn 9 từ mà nêu đủ nêu đúng một cục diện chính trị: “Pháp chạy,
Nhật hàng, vua Bảo Đại thối vị”. Những bằng chứng lịch sử về 10 tội ác của thực dân Pháp và q trình đấu tranh
giành độc lập của nhân dân ta là khơng ai chối cãi được. Sử dụng điệp ngữ tạo nên những câu văn trùng điệp đầy ấn
tượng: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người u nước thương nòi của
ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Cách dùng từ sắc bén: “cướp khơng ruộng đất”, “giữ
độc quyền in giấy bạc”, “quỳ gối đầu hàng… rước Nhật”, thốt ly hẳn… xố bỏ hết… xố bỏ tất cả…”. Hoặc
“chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, v.v…
Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nơ lệ của Pháp hơn 80
năm nay/ một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay → dân tộc đó phải được tự
do! Dân tộc đó phải được độc lập!” Một luận điểm, một lý lẽ được trình bày bằng 2 luận cứ, dẫn đến 2 kết luận
khẳng định được diễn đạt trùng điệp, tăng cấp.
Tóm lại, “Tun ngơn độc lập” của Hồ Chí Minh góp phần làm giàu đẹp lịch sử và nền văn học dân tộc, tơ
thắm tinh thần u nước, khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta./.
I. TÁC GIẢ VÀ XUẤT XỨ
1. Quang Dũng (1921 – 1988) tham gia kháng chiến, vừa làm lính đánh giặc vừa làm thơ. Một hồn thơ tài
hoa, bút pháp lãng mạn. Tập thơ tiêu biểu nhất của ơng: “Mấy đầu ơ”, trong đó có bài “Tây Tiến” viết năm 1948.
2. Tây Tiến là phiên hiệu của một đơn vị qn đội ta được thành lập vào đầu năm 1947, gồm nhiều thanh
niên học sinh Hà Nội, chiến đấu trên núi rừng miền Tây Thanh Hóa, tỉnh Hòa Bình tiếp giáp với Sầm Nứa, Lào.
3. Sau hơn một năm chiến đấu trong đồn binh Tây Tiến, Quang Dũng đi nhận nhiệm vụ mới, mùa xn
1948, viết “Nhớ Tây Tiến” sau đổi thành “Tây Tiến”.
II. CHỦ ĐỀ
Bài thơ nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào về đồng đội thân u, những chiến sĩ hào hoa, dũng cảm, giàu lòng
u nước trong đồn binh Tây Tiến đã chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc.
III. NỘI DUNG
1. Dòng sơng Mã và đồn binh Tây Tiến gắn bó với tâm hồn nhà thơ bao nỗi nhớ chơi vơi, nhớ mãi, nhớ
khơng bao giờ ngi:

“Sơng Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
2. Nẻo đường hành qn chiến đấu vơ cùng gian khổ:
Phải vượt qua bao cồn mây, dốc thẳm, phải vượt qua những đỉnh núi “ngàn thước lên cao…” phải lần bước
trong đêm, trong màn mưa rừng. Lấy cái gian khổ vơ cùng để ca ngợi bản lĩnh chiến đấu và chí can trường của đồn
binh Tây Tiến. Đó là một nét vẽ lãng mạn:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Giáo viên Nguyễn Thò Thúy Liễu
10
Trường THPT Phú Thònh Đề cương ôn tập Văn học 12
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Lng mưa xa khơi”
3. Những kỷ niệm đẹp một thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính Tây Tiến :
Nhớ hội đuộc hoa, nhớ “nàng e ấp”, nhớ “khèn man điệu”:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Nhớ hương vị núi rừng đậm đà tình qn dân. Nhớ “Mai Châu mùa em thơm nếp xơi”. Nhớ cơ gái miền Tây
– bơng hoa rừng một chiều sương cao ngun Châu Mộc trên con thuyền độc mộc:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Những kỷ niệm đẹp ấy cho thấy tâm hồn trẻ trung, u đời, hồn nhiên, hào hoa của người chiến sĩ Tây Tiến.
Đó cũng là những nét vẻ lãng mạn đáng u.
4. Hình ảnh đồn binh Tây Tiến được khắc họa bằng những chi tiết vừa hiện thực vừa lãng mạn :
Nếm trải nhiều gian khổ, thiếu thốn giữa chiến trường núi rừng ác liệt nên “qn xanh màu lá”, “khơng mọc
tóc”. Oai phong lẫm liệt trong lửa đạn: “mắt trừng” (hốn dụ), “dữ oai hùm” (ẩn dụ).

Lạc quan và u đời với những giấc mộng và mơ tuyệt vời. Bao chiến sĩ đã ngã xuống trên chiến trường, “đã
về đất” với manh chiếu – áo bào đơn sơ. Coi cái chết nhẹ tựa lơng hồng, sẵn sàng hiến dâng cả tuổi xanh, đời xanh
cho Độc lập, tự do của Tổ quốc.
Đoạn thơ như một tượng đài bi tráng về anh bộ đội Cụ Hồ, những người con thân u của Hà Nội đã “Quyết
tử cho Tổ quốc quyết sinh”:
“Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc,
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sơng Mã gầm lên khúc độc hành!”
5. Ý thơ cổ “Nhất khứ bất phục hồn” được Quang Dũng diễn tả rất hay, rất xúc động ở khổ cuối. Thương
tiếc, tự hào, man mác:
“Tây Tiến người đi khơng hẹn ước.
Đường lên thăm thẳm một chia phơi
Ai lên Tây Tiến mùa xn ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xi”

Hoàng Cầm
I. TÁC GIẢ, XUẤT XỨ
1. Hồng Cầm - nhà thơ Kinh Bắc, nổi tiếng tài hoa. Có nhiều kịch thơ trước năm 1945: “Kiều Loan”; “Hận
Nam Quan”, “Lên đường”. Một số tập thơ, tiêu biểu nhất là “Mưa Thuận Thành”, “Về Kinh Bắc”…
Kháng chiến bùng nổ, Hồng Cầm đi bộ đội, làm cơng tác văn nghệ trong Qn đội.
2. Một đêm tháng 4/1948, tại Việt Bắc, được trực tiếp nghe tin giặc đánh phá q hương mình, Hồng Cầm
xúc động và ngay đêm ấy viết bài thơ “Bên kia sơng Đuống”, một trong những bài thơ hay nhất của ơng.
II. CHỦ ĐỀ
Bài thơ thể hiện tình u mến, thương nhớ và tự hào đối với q hương kinh Bắc; căm giận qn xâm lược
đang giày xéo q hương; niềm tin vào một ngày mai giải phóng, q hương trở lại thanh bình.

Giáo viên Nguyễn Thò Thúy Liễu
11
Trường THPT Phú Thònh Đề cương ôn tập Văn học 12
III. NỘI DUNG
1. Hai câu thơ mở đầu với tiếng “em” thần tình . Khơng xác định. Có thể là người thương trong nỗi nhớ
đồng vọng. Có thể là một nhân vật trữ tình xuất hiện mơ hồ trong tâm tưởng thi nhân? Cũng có thể là sự phân thân
của tác giả?
“Em” xuất hiện, gợi nhớ gợi thương, để vỗ về an ủi và chia xẻ nỗi đau buồn, thương nhớ. Cũng là để thi sĩ
khơi nguồn cảm xúc đang dào dạt trong lòng. Ý vị đậm đà chất thơ của bài “Bên kia sơng Đuống” là ở tiếng “em” và
2 câu thơ này:
“Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sơng Đuống”
2. Dòng sơng tuổi thơ
Với Hồng Cầm thì sơng Đuống là dòng sơng thơ ấu với bao thương nhớ. Con sơng đã gắn bó với tâm hồn
nhà thơ. Nhớ khơng ngi “cát trắng phẳng lì”, nhớ nao nao lòng “Sơng Đuống trơi đi - Một dòng lấp lánh”; lấp lánh
ánh bình minh, lấp lánh trăng sao soi vào gương sơng trong xanh. Nhớ về dáng hình, về thế đứng của nó trong lịch
sử: “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”. Câu thơ mang hàm nghĩa thế đứng hiên ngang của q
hương trong kháng chiến.
Đơi bờ dòng sơng q hương là một màu “xanh xanh” bát ngát, là sắc “biêng biếc” của bãi mía, bờ dâu, của
ngơ khoai. Bức tranh q trù phú, giàu đẹp thật “nhớ tiếc” và “xót xa” vơ cùng:
“Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngơ khoai biêng biếc
Đứng bên này sơng sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”

3 . Q hương có nền văn hóa lâu đời đang bị qn thù giày xéo tàn phá .
Nhà thơ sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập để làm nổi bật nỗi nhớ tiếc, nỗi xót xa, nỗi đau đớn căm
hờn… Tương phản xưa và nay, thuở bình n với từ ngày khủng khiếp, đối lập giữa cảnh tưng bừng rộn rã với bây
giờ tan tác về đâu…
- Giặc Pháp cướp nước là kẻ đã gây ra cảnh chém giết đau thương và điêu tàn khủng khiếp:

“Q hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khơ
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu…”
Xưa kia, vùng Thuận Thành, bên kia sơng Đuống, q hương thân u của nhà thơ là một vùng giàu đẹp, có
hương lúa nếp “thơm nồng”, có làng tranh Đơng Hồ nổi tiếng, sự kết tinh những tinh hoa văn hóa cổ truyền giàu bản
sắc dân tộc:
“Bên kia sơng Đuống
Q hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đơng Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
Nay giặc kéo đến thì “Ruộng ta khơ – Nhà ta cháy”, điêu tàn, tan tác, đau thương. Nỗi tang tóc trùm lên, đè
nặng mọi kiếp người. Hạnh phúc và ước mơ bị giày xéo, bị chà đạp. Sự sống bị hủy diệt đến kiệt cùng:
“Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang.
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đơi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu”
Giáo viên Nguyễn Thò Thúy Liễu
12
Trường THPT Phú Thònh Đề cương ôn tập Văn học 12
Tranh Đơng Hồ trong thơ Hồng Cầm khơng chỉ là nét đẹp riêng rất tự hào của q hương mình mà còn là
một biểu tượng của hạnh phúc, đồn tụ, n vui trong thanh bình, là nỗi đau trước sự tàn phá, điêu tàn, tan tác của
một miền văn hóa lâu đời thời máu lửa.
Thuận Thành, Kinh Bắc có núi sơng mĩ lệ, chùa chiền thắng cảnh với bao lễ hội tưng bừng mang theo bao
huyền thoại, sự tích thần kỳ, với những gác chng, những tháp, những tượng Phật cổ kính bao đời nay. Chùa Phật
Tích, núi Thiên Thai, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, tượng Phật Quan Âm nghìn mắt nghìn tay. Ca dao: “Dù ai đi đẩu đi
đâu - Cứ nhìn thấy tháp Chùa Dâu mà về”. Tục ngữ: “Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu

cũng về hội Gióng”. Phan Huy Chú đã viết trong “Lịch triều hiến chương loại chí”: “Kinh Bắc có mạch núi cao chót
vót, nhiều sơng quanh vòng, là mạn trên của nước ta… Mạch đất tốt tụ vào đấy nên càng nhiều chỗ có dấu tích đẹp,
tinh hoa hợp vào đấy nên sinh ra nhiều danh thần”.
Trong chiến tranh, đưa con ly hương nhớ tiếc, xót xa q hương:
“Ai về bên kia sơng Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thống mộng bình n
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chua Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chng chùa văng vẳng nay người ở đâu”…
4. Nhớ con người q hương
Nhớ sơng Đuống, nhớ bãi mía bờ dâu, nhớ hương lúa nếp thơm nồng… Nhớ mãi, nhớ nhiều những hội hè
đình đám, nhớ tranh gà lợn, nhớ giấy điệp. Nhớ núi Thiên Thai, nhớ chng chùa ngân nga… Nhớ “nàng mơi cắn chỉ
quết trầu”, nhớ cụ già “phơ phơ tóc trắng”, nhớ “những em sột soạt quần nâu”. Nhớ bồi hồi “từng khn mặt búp sen
- Những cơ hàng xén răng đen - Cười như mùa thu tỏa nắng”. Nhớ “những nàng dệt sợi – Đi bán lụa mầu”… nhớ
“Những người thợ nhuộm - Đồng Tỉnh, H Cầu…”.
Câu thơ “Bây giờ tan tác về đâu” và “Bây giờ đi đâu về đâu” được nhấn đi nhấn lại nhiều lần, vừa gợi tả nỗi
đau thương tan tác, vừa thể hiện nỗi nhớ ứa máu tơi bời, nỗi xót xa và căm giận lũ hung tàn cướp nước.
Những câu thơ nói về nỗi thương nhớ đàn con thơ và mẹ già rất xúc động:
- Thương mẹ già:
“Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ”
- Thương đàn con thơ:
“Ngày tranh nhau một bát cháo ngơ
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn…”
IV. KẾT LUẬN
Cách chúng ta gần ba nghìn năm, nhà thơ Home (Hy Lạp) đã viết: “Khơng có mảnh đất nào êm đềm bằng

q cha đất mẹ”. Bài thơ “Bên kia sơng Đuống” giúp ta cảm nhận sâu hơn ý tưởng của Hơme. Con sơng Đuống và
Thuận Thành, Kinh Bắc là q hương nhà thơ. Nhưng người đọc thấy vơ cùng thân thiết gắn bó với mình. Cái ý vị,
cái hay của bài thơ là ở chỗ ấy. Câu thơ dào dạt theo cảm xúc rất hồn nhiên mà giàu nhạc điệu. Nhạc điệu ngọt ngào
của dân ca Quan họ. Sâu lắng, thiết tha, bồi hồi là âm hưởng, là sắc điệu trữ tình đã thấm sâu vào hồn ta tình u q
hương đất nước. “Bên kia sơng Đuống” xứng đáng là kiệt tác của thi ca Việt Nam hiện đại.
Giáo viên Nguyễn Thò Thúy Liễu
13
Trường THPT Phú Thònh Đề cương ôn tập Văn học 12
Nguyễn Đình Thi
I.TÁC GIẢ:
Tên tuổi Nguyễn Đình Thi gắn liền với những ca khúc như “Diệt phát xít”, “Người Hà Nội”, với tiểu thuyết
“Xung kích”, “Vỡ bờ”,… với một số vở kịch, với các tập thơ: “Người chiến sĩ”, “Dòng sơng trong xanh”, “Tia
nắng”,… Thành tựu nổi bật nhất của ơng là thơ: cảm xúc dồn nén, hàm súc, ngơn ngữ và hình ảnh đầy sáng tạo, tính
nhạc phong phú, hấp dẫn…
II. XUẤT XỨ
Bài thơ “Đất nước” in trong tập thơ “Người chiến sĩ”. Nguyễn Đình Thi đã sáng tác bài thơ này trong một
thời gian dài từ 1948 – 1955. Phần đầu khơi nguồn cảm hứng từ 2 bài thơ “Sáng mát trong” (1948) và “Đêm mít
tinh” (1949).
III. CHỦ ĐỀ
Bài thơ nói lên lòng u nước và niềm tự hào dân tộc; nghĩ về đất nước theo chiều dài lịch sử; tầm cao của
giống nòi; quyết chiến đấu và hy sinh để bảo vệ và xây dựng đất nước u q.
IV. NỘI DUNG
1. u những mùa thu q hương :
- Mùa thu Hà Nội q vãng đẹp mà buồn:
“Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu khơng ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
- Mùa thu chiến khu, đất nước và con người dào dạt một sức sống và niềm vui thiết tha:
“Gió thổi rừng tre phấp phới.
Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha”
Cả đất trời “mát trong” ngào ngạt “hương cốm mới” mang theo trong làn gió thu nhẹ:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”
Cái hay của đoạn thơ là giàu cảm xúc hồi niệm hiện về trong hiện tại, “những ngày thu đã xa” sống lại
trong “mùa thu này”, tạo nên chất thơ ngọt ngào.
2. Đất nước hùng vĩ tráng lệ :
Vui sướng tự hào trong tâm thế của người chiến sĩ đang làm chủ đất nước. Diễn đạt trùng điệp khẳng định
tạo nên âm điệu hào hùng, đĩnh đạc:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sơng đỏ nặng phù sa”
Các tính từ - vị ngữ: “Xanh, thơm, mát, bát ngát, đỏ nặng - gợi tả vẻ đẹp vĩnh hằng ngàn đời của núi sơng
thân u.
3. Một đất nước anh hùng, một dân tộc kiên cường bất khuất . Tổ tiên như truyền thêm sức mạnh Việt
Nam cho con cháu ngày nay để ngẩng cao đầu “đi tới và làm nên thắng trận”:
“Nước chúng ta
Nước những người khơng bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”.
Phủ định để khẳng định một chân lý lịch sử “Chưa bao giờ khuất”. Chữ dùng rất hay, đem đến nhiều liên
tưởng: “rì rầm”, “vọng nói về”.
4. Xót xa căm giận qn xâm lược đang giày xéo q hương đất nước :
Giáo viên Nguyễn Thò Thúy Liễu
14

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×