Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

RÈN kỹ NĂNG cảm THỤ văn học CHO học sinh giỏi vằng phương pháp so sánh YEN BAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.91 KB, 10 trang )

KHÁM PHÁ CẢM XÚC TRONG THƠ TRỮ TÌNH
TỪ ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
Nhóm Ngữ Văn trường THPT
Chuyên Nguyễn Tất Thành, tỉnh Yên Bái
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thơ ca là một thể loại văn học nảy sinh từ rất sớm trong đời sống con người, có thể
nói rằng thơ ra đời ngay từ khi con người có nhu cầu tự biểu hiện. Bởi vậy, vấn đề đặc
trưng, bản chất của thơ ca từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của lí luận văn học.
Bên cạnh đó, thơ ca nói riêng và mỗi tác phẩm văn học nói chung đều thuộc một
thể loại nhất định. Trong lịch sử nghiên cứu văn học, có nhiều cách phân chia các thể
loại, nhưng tiêu chí quan trọng và phổ biến nhất là dựa trên phương thức tái hiện đời sống
và thể thức cấu tạo tác phẩm. Theo tiêu chí này, các tác phẩm văn chương có thể chia
thành ba thể loại chính: tự sự, trữ tình và kịch. Có thể nói, thơ ca là một trong những thể
loại phổ biến nhất của văn học, bởi thơ xuất hiện trong cả ba phương thức tự sự (truyện
thơ), trữ tình (thơ trữ tình, thơ trào phúng, ca dao trữ tình), và kịch (kịch thơ). Nhưng địa
hạt giá trị nhất của thơ nằm ở phương diện trữ tình. Bởi thơ thiên về trữ tình nhiều hơn là
tự sự. Chỉ có ở phương diện trữ tình, giá trị của thơ mới được khẳng định một cách đầy
đủ, toàn diện, sâu sắc và tinh tế nhất. Ngay cả các nhà thơ hay các nhà phê bình văn học
cũng khẳng định điều này một cách rõ ràng: “Thơ khởi phát từ trong lòng người ta” (Lê
Quý Đôn) và “Thơ ra đời cốt để nói những điều tinh vi nhất, sâu kín nhất, mong manh
nhất, mơ hồ nhất của tâm hồn con người’’ (Nguyễn Đăng Mạnh). Đọc thơ mà không biết
đến thơ trữ tình thì cũng như chưa biết đến thơ. Cũng giống như con sóng phải tìm về với
biển lớn để được là chính mình, thơ phải tìm về với phương thức trữ tình để trở thành thơ
đích thực.
Nhưng thơ ca nói chung và thơ trữ tình nói riêng là một thể loại đa dạng và có sức
hàm chứa rộng lớn như vậy nên từ xưa đến nay có rất nhiều cách lí giải khác biệt, thậm
chí đối lập nhau về khái niệm, bản chất và đặc trưng chúng. Việc định nghĩa thơ không
hoàn toàn dễ dàng như ta tưởng, đúng như Nguyễn Đình Thi đã nhận định: “Từ trước
đến nay đã có nhiều định nghĩa về thơ, nhưng lời định nghĩa nào cũng vẫn không đủ”
(Mấy ý nghĩ về thơ). Theo ông, thơ không đơn giản chỉ là những lời đẹp vì dưới ngòi bút
của nhiều nhà thơ, như Hồ Xuân Hương chẳng hạn, những chữ tầm thường của lời nói


hàng ngày, nôm na mách qué, đã trở thành những câu thơ được truyền tụng mãi mãi. Thơ
cũng không đơn giản chỉ là những đề tài đẹp như phong, hoa, tuyết, nguyệt vì ở “Nhật kí
trong tù” – một viên ngọc sáng trong kho tàng văn học Việt Nam - Hồ Chí Minh đã đưa
vào tất cả những chuyện như ghẻ lở, đau bụng, rụng mất một chiếc răng. Ngược lại, có
người xem thơ ca không khơi nguồn từ sự sống, từ cuộc đời cụ thể. Thơ ca thoát ra ngoài
xã hội, lấy thế giới mộng tưởng và chuyện cao xa muôn đời làm nguồn sáng tạo: “Thơ là
cái gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thúy, cao siêu, cái hình ảnh sự khắc khoải bất diệt của
muôn vật: cõi vô cùng” (Xuân thu nhã tập). Những quan điểm khác nhau, thậm chí mâu
1


thuẫn nhau về đặc trưng của thơ trữ tình chắc chắn gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc
cảm thụ, phê bình, đánh giá các tác phẩm thuộc thể loại này.
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi viết chuyên đề này để đi sâu vào những đặc
trưng cơ bản trong nội dung cảm xúc của thơ trữ tình để đưa ra một cách hiểu hợp lí,
thống nhất. Từ đó, chúng tôi hi vọng các đồng nghiệp và học sinh có thể xem đây như
một công cụ tham khảo để khám phá các tác phẩm thơ trữ tình hoặc để giải quyết những
vấn đề lí luận văn học liên quan đến đặc trưng nội dung cảm xúc của thể loại đặc sắc này.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Như trên đã nói, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về thơ trữ tình. Nhưng theo
chúng tôi, dù hiểu theo cách nào thì thơ vẫn không nằm ngoài phạm vi của thể loại văn
học. Vậy nên, muốn nắm được một cách chính xác và đầy đủ về đặc trưng của thơ trữ
tình thì ta phải đặt nó trong hệ thống các thể loại văn học, cụ thể là thể loại trữ tình.
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, trữ tình là loại tác phẩm bộc lộ trực tiếp những
nỗi niềm, tâm trạng, cảm xúc và thái độ chủ quan của con người với hiện thực cuộc sống.
Còn thơ trữ tình là thuật ngữ chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình trong đó những cảm
xúc và suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình trước các hiện tượng đời sống được
thể hiện một cách trực tiếp. Như vậy, đặc điểm nội dung quan trọng và bao trùm nhất của
thơ trữ tình là sự bộc lộ trực tiếp ý thức của con người, nghĩa là con người tự cảm thấy
mình qua những ấn tượng, suy nghĩ, cảm xúc chủ quan đối với thế giới và nhân sinh. Thơ

trữ tình như tấm gương giúp ta soi thấy chân dung tâm hồn mình, giúp ta hiểu mình hơn ở
những cảm xúc khác nhau. Nhưng cảm xúc trong thơ trữ tình lại không đơn giản, dễ dàng
nắm bắt hay đánh giá mà nhiều khi rất phong phú, phức tạp với nhiều biểu hiện và thuộc
tính khác nhau. Theo chúng tôi, nội dung cảm xúc trong thơ trữ tình có những đặc điểm
nổi bật như sau: vừa dồi dào, mãnh liệt vừa chân thực, tinh tế; vừa tươi mới, hiện thời
vừa đầy tính chiêm nghiệm; vừa thiên về nỗi buồn vừa mang tính cao cả, tích cực; vừa có
tính cá thể vừa mang tính phổ quát.
1. Trước hết, cảm xúc trong thơ trữ tình vừa dồi dào, mãnh liệt vừa chân thực, tinh
tế. Không giàu có về cảm xúc không thể có thơ hay bởi “Thơ là tiếng lòng” (Diệp Tiếp),
thi sĩ phải biết “xúc động hồn thơ” để “cho ngọn bút có thần” (Ngô Thì Nhậm) và
“Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng’’ (Sóng
Hồng). Cảm xúc trong thơ phải là những “trạng thái tâm lí đang rung chuyển khác
thường” (Nguyễn Đình Thi) chứ không phải là những trạng thái tâm lí thông thường, tĩnh
tại và bất biến. Sự trơ lì, nguội lạnh, dửng dưng của cảm xúc chắc chắn không bao giờ
cho phép thi sĩ làm được những bài thơ đích thực.
Trong “Thuyết tính linh”, mặc dù rất đề cao yếu tố tài năng: "Nhà thơ không có tài
thì không vận chuyển được tâm linh" nhưng Viên Mai vẫn cho rằng trong quan hệ giữa
tình và tài thì tình là điều kiện tiên quyết: "Không có tình thì không phải là tài" (Vô tình
bất thị tài). Chính vì thế, có người cho rằng thơ là tiếng lòng, là những âm vang của tình
cảm con người. Thơ là người thư ký trung thành của trái tim. Nhưng đương nhiên, nghệ
sĩ không chỉ ghi chép và sao chép một cách máy móc những ý tứ trong lòng người mà
còn phải biết cách chắt lọc, sáng tạo để chuyển tải đến người đọc.
2


Khi viết về cái chết oan khuất của người nghệ sĩ Lor-ca, Thanh Thảo đã diễn tả tất
cả nỗi đau đớn bằng một hình tượng ám ảnh:
“tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy”
(Đàn ghi ta của Lor-ca)

Dòng máu kia sẽ chẳng thể chảy tràn cùng âm thanh của tiếng đàn ghi ta nức nở
nếu không được thôi thúc từ chính những nhịp đập trong trái tim của Thanh Thảo. Ta
chợt nhớ đến những tiếng đàn như khóc như than dưới năm đầu ngón tay rỉ máu của
Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du; tiếng đàn “ôm sầu mang giận ngẩn
ngơ”, “não nuột” khiến cho “Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi”, nhất là “dòng lệ chan chứa
hơn người” của vị Giang Châu Tư Mã trong “Tỳ bà hành” của Bạch Cư Dị. Những tiếng
đàn đã hòa quyện cả thanh âm của dây đàn lẫn tiếng lòng người gảy đàn và nhịp đập trái
tim của người nghe đàn.
Độ dài, chiều sâu của bài thơ trữ tình gắn liền với độ dài, chiều sâu của cảm xúc.
Cảm xúc ngân vang đến đâu thì câu thơ được gọi ra đến đó. Cảm xúc ngừng thì bài thơ
cũng kết thúc. Cảm xúc trong tim có mãnh liệt, dâng trào hoặc thâm trầm, sâu sắc thì câu
chữ trên trang thơ mới có hồn. Khi cảm xúc trong tim đã được tích lũy đầy đủ, thì dù nhà
thơ không muốn hoặc không có chủ ý những câu thơ đích thực vẫn cứ ra đời. Nói cách
khác, tác phẩm thơ trữ tình thường ra đời từ những cơn sóng cảm xúc dâng lên trong lòng
thi nhân khi có một tác động nào đó của ngoại cảnh. Trong cả tập thơ “Việt Bắc” có rất
nhiều bài hay như “Phá đường”, “Lên Tây Bắc”, “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, “Ta đi
tới”, nhưng “Việt Bắc” vẫn là bài thơ ở đỉnh cao nhất. Bởi “Việt Bắc” ra đời vào một thời
điểm đặc biệt hơn cả. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơnevơ được kí kết,
miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt
Bắc về tiếp quản Hà Nội. Tố Hữu cùng các cán bộ cách mạng đã từng gắn bó với Việt
Bắc suốt thời kháng chiến chống Pháp, nay phải chia tay. Trong không khí lịch sử và tâm
trạng xúc động ấy, ông đã viết bài thơ này. Đây là thời điểm nhà thơ vừa có dịp tổng kết
chặng đường gian khổ, vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Pháp vừa mang trong lòng
nỗi nhớ da diết và tình cảm sâu nặng với đồng bào miền núi vừa có niềm tin, niềm vui
vào viễn cảnh hòa bình tươi sáng của dân tộc. Nói khác đi, trong suốt mười lăm năm
kháng chiến trường kì thì đây chính là lúc trong trái tim nhà thơ cuộc sống đã tràn đầy
nhất, cảm xúc đã tích tụ và dồn nén căng tràn nhất. Điều đó khiến cho những câu thơ
trong “Việt Bắc” trở thành kết tinh cao độ nhất trong cả tập thơ: Từ những tình cảm thiết
tha, trìu mến:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.”
Đến những cảm xúc gắn bó sâu nặng, son sắt, thủy chung:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”
Hoặc những âm vang hết sức hào hùng của cuộc kháng chiến vẻ vang:
3


“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.”
Trong thơ trữ tình, việc miêu tả ngoại cảnh hoặc kể sự việc nếu có cũng chỉ là cái
phụ, không mang tính mục đích tự thân mà là cách tạo điều kiện để chủ thể bộc lộ những
cảm xúc, chiêm nghiệm, suy tưởng của mình. Chính vì thế, trong thơ trữ tình, ngoại cảnh
hoặc xuất hiện rất ít qua thủ pháp chấm phá, gợi tả (Chiều tối – Hồ Chí Minh) hoặc được
dùng làm nền cho tâm trạng qua thủ pháp “tả cảnh ngụ tình” (Truyện Kiều – Nguyễn Du,
Chinh phụ ngâm – Đoàn Thị Điểm). Bởi vậy, ngoại cảnh trong thơ trữ tình nhiều khi
không hoàn toàn giống với thế giới khách quan trong đời thực, mà chứa đựng những điều
phi thực tế. Để diễn tả sự chia lìa, ly tán, Hàn Mặc Tử đã viết “Gió theo lối gió mây
đường mây” dù trong thực tế gió và mây vốn không bao giờ tách rời. Để mở rộng không
gian đến vô hạn về mọi chiều, mọi hướng, Huy Cận đã viết “Nắng xuống trời lên, sâu
chót vót”, mặc dù chót vót là một tính từ chỉ độ cao chứ không phải chiều sâu. Nhưng táo
bạo nhất chính là Xuân Diệu khi ông dám mơ ước làm những điều không tưởng với quy
luật của tạo hóa:
“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
(Vội vàng)
Bằng cái nhìn đầy tính lo âu, tiếc nuối, Xuân Diệu đã miêu tả cuộc sống trong
chiều hướng mất mát, tàn lụi chứ không phải như nó vốn có:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?”
Nhưng cảm xúc dẫu dồi dào, ngập tràn đến đâu mà thiếu tính chân thực và tinh tế
thì cũng trở thành vô nghĩa. Sự giả tạo, dối lừa luôn luôn là thứ thuốc độc mà văn chương
nói chung và thơ ca nói riêng phải lánh xa: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa
dối, không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao). Điều này cũng đã được Viên Mai, nhà
thơ, nhà lí luận phê bình văn học nổi tiếng của Trung Quốc thời Thanh, làm sáng tỏ từ rất
lâu trong công trình "Tùy viên thi thoại". Ông quan niệm thơ là do tình sinh ra và đó phải
là tình cảm chân thật : "Văn chương xưa nay chỉ truyền cái chân thật chứ không truyền
điều giả dối". Nhưng chân thực mà không thô mộc, giản dị mà không đơn sơ, thơ chiếm
một vị trí đặc biệt trong các thể loại văn chương chính vì sự tinh tế, chắt lọc của hình ảnh
và cảm xúc: “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp .... Thơ là một
hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi’’ (Sóng Hồng). Tóm lại, trong đặc trưng đầu tiên về
4


nội dung, thơ trữ tình phải chứa đựng cảm xúc vừa mãnh liệt, trào dâng vừa chân thành,
sâu sắc, tinh tế.
2. Thứ hai, cảm xúc trong thơ trữ tình vừa phải tươi mới, hiện thời vừa đầy tính
chiêm nghiệm. Nhà thơ không phải là người đầu tiên xuất hiện trên cuộc đời, nhưng nhà
thơ luôn phải nhìn cuộc đời bằng con mắt của người đầu tiên. Nhà thơ đã nhìn cuộc đời
rất nhiều lần nhưng điều quan trọng là phải luôn giữ được đôi mắt non tươi, bỡ ngỡ của

lần đầu tiên bắt gặp. Những hình ảnh, cảm xúc mới lạ mà thơ trữ tình tạo ra không ở đâu
xa mà đều ở trong đời thực, mọi người đều thấy nhưng cái tài và cũng là yêu cầu sống
còn với nhà thơ là phải biến những hình ảnh, cảm xúc vốn rất quen thuộc trong cuộc sống
lại trở nên mới lạ. Câu thơ hay phải làm ta ngỡ ngàng nhận ra những điều mới mẻ, giá trị
ở ngay trong những cái gần gũi nhất với chúng ta. Nhờ đó, dù viết về điều gì thì những
hình ảnh, cảm xúc trong thơ bao giờ cũng hiện lên trong sự tươi nguyên, mới mẻ, đột
ngột, lạ lùng. Đó là những hình ảnh, cảm xúc tinh khôi, chưa có vết nhòa của thói quen,
không bị rập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước. Bởi thế, theo Nguyễn Đình
Thi trong tác phẩm “Mấy ý nghĩ về thơ” thì:“Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất
của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống”. Tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất ấy
chính là những rung động tươi mới, trinh nguyên, tinh khiết nhất của tâm hồn khi tiếp xúc
với cuộc sống. Những ấn tượng, những cảm xúc ban đầu bao giờ cũng mới mẻ, chưa bị
quen thuộc đến mức nhàm chán, sáo mòn như những lần tiếp theo. Cùng chung quan
điểm ấy, Viên Mai nhấn mạnh bằng một cách khác: "Kẻ làm thơ không được đánh mất đi
tấm lòng trẻ thơ". Tấm lòng trẻ thơ ấy cũng tức là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất
của tâm hồn, của đôi mắt non tươi, bỡ ngỡ trong thi sĩ khi chạm tới cuộc sống.
Trong thơ ca Việt Nam, đặc biệt ở phong trào Thơ mới, có thể coi Xuân Diệu là
người tiên phong trong việc thực hiện yêu cầu này của thơ trữ tình. Ông là nhà thơ “mới
nhất trong các nhà thơ mới”, vì đã “thoát xác” một cách trọn vẹn khỏi hệ thống ước lệ
của thơ trung đại để lần đầu tiên nhìn cuộc đời bằng cặp mắt “xanh non”, “biếc rờn”.
Nhờ đó, ông phát hiện biết bao vẻ đẹp của cuộc sống trần thế, một "thiên đường trên mặt
đất" trong đó đẹp nhất là mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
(Vội vàng)

Con người phải vội vàng, giục giã, sống mãnh liệt, sống hết mình, khao khát tận
hưởng, tận hiến ngay trên thiên đường trần thế này:
“Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn
Sống toàn thân và thức nhọn giác quan”
(Thanh niên)
5


Nhờ đó, ông đã mang đến cho Thơ mới giọng điệu nồng nàn, rạo rực, sôi nổi, bồng
bột, cuống quýt cả khi vui lẫn khi buồn. Đúng như Hoài Thanh nhận định: "Thơ Xuân
Diệu là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy"...
Tính tươi mới trong cảm xúc đòi hỏi việc làm thơ phải là đang sống chứ không
phải chỉ là nhìn lại sự sống. Theo Nguyễn Đình Thi, làm một câu thơ tình nghĩa là tâm
hồn cũng rung động như khi có người yêu đứng trước mặt. Vì thế, bài thơ có thể làm
sống dậy một tình cảm hoặc một nỗi niềm trong lòng người đọc. Đồng thời, do tác phẩm
trữ tình trình bày trực tiếp cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ của con người, nên xúc động trữ
tình bao giờ cũng mang thời hiện tại. Ngay cả khi tác phẩm trữ tình nói về quá khứ, về
những chuyện đã qua, xúc động trữ tình vẫn được thể hiện như một trạng thái sống động,
một quá trình đang diễn ra. Nhờ đặc điểm này mà những rung động thầm kín mang tính
chủ quan, cá nhân, thậm chí cá biệt của tác giả dễ dàng được người đọc tiếp nhận như
rung động của chính bản thân họ. Đây là cơ sở tạo nên sức mạnh truyền cảm lớn lao của
tác phẩm trữ tình. Ta có thể thấy rõ điều này qua những bài thơ như “Tây Tiến” của
Quang Dũng, “Việt Bắc” của Tố Hữu hay “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Ngay nhan đề “Đây thôn Vĩ Dạ” đã thể hiện những cảm xúc hiện thời. “Đây” là từ
chỉ khung cảnh hiện tại, ngay trước mặt. Tưởng như nhà thơ đang được đứng trước thôn
Vĩ Dạ, một địa danh ở kinh đô Huế, bên bờ sông Hương với những nhà vườn xinh đẹp,

nên thơ. Sau câu hỏi gợi mở đầu tiên, tác giả đã vẽ lên khung cảnh đẹp tươi, trong sáng
của thôn Vĩ ở ba câu tiếp theo. Câu hai: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Cau cũng
là loại cây đầu tiên đón ánh nắng ban mai, vì thế, nắng trên hàng cau trong buổi bình
minh luôn là thứ ánh sáng tươi mới, tinh khôi nhất: nắng mới lên. Điệp “nắng” lặp lại hai
lần như diễn tả sự chuyển động, bừng sáng của nắng trên hàng cây, khiến cảnh vật trở
nên sinh động, gợi vẻ đẹp tươi sáng, ấm áp, một sự sống, một kí ức, một tình yêu đang
bừng dậy. Câu ba với thủ pháp so sánh “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” lại miêu tả
trực tiếp màu sắc, tính chất của khu vườn trong buổi bình minh. Cây lá tắm trong sương
sớm và được rọi chiếu dưới ánh nắng bình minh, đó là vẻ đẹp tươi mát, lung linh long
lanh như ngọc sáng. Chữ “quá” khiến câu thơ như một lời trầm trồ vì không kìm nổi lòng
mình khi thấy vẻ đẹp của khung cảnh. Dường như, tất cả vẻ đẹp đang lộ rõ như phơi bày
ngay trước mắt con người những sắc màu rực rỡ nhất chứ không phải là trong kí ức.
Nhưng đòi hỏi sự tươi mới và tính hiện thời của cảm xúc trong thơ trữ tình không
có nghĩa là thơ ca phủ nhận những cảm xúc, những suy nghĩ được chiêm nghiệm, nghiền
ngẫm, nung nấu trong một thời gian dài, thậm chí trong suốt cuộc đời con người. Bởi thế
“tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn” tuyệt nhiên không phải là những cảm
xúc nhất thời, hời hợt, thoáng qua. “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, “Việt Bắc”,
“Bác ơi” của Tố Hữu, “Đất Nước” trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn
Khoa Điềm là những bài thơ như thế. Những câu thơ như:
“Bác để tình thương cho chúng con
6


Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”
(Bác ơi – Tố Hữu)
hay:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
(Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)
chắc chắn phải phải là những lời tổng kết được nhà thơ đúc rút từ quá trình trải nghiệm
dài lâu trước đó để rồi khi bắt gặp một thời điểm thật đặc biệt thì câu chữ tự khắc tuôn
trào ra đầu ngọn bút. Cảm xúc trong “Bên kia sông Đuống” không phải chỉ xuất hiện khi
Hoàng Cầm nghe tin quê hương thân yêu của mình bị giặc tàn phá mà thực chất đó là sự
lắng đọng và bùng nổ, tuôn trào của tình yêu thương, tự hào, nhung nhớ, xót xa, mong
đợi với quê hương của nhà thơ từ trong bao năm tháng của tuổi thơ, từ trong bao nhiêu
ngày tháng xa cách của cuộc kháng chiến chống Pháp.
3. Thứ ba, thơ tạo dựng và dung chứa một thế giới cảm xúc của con người. Trong
đó, cảm xúc trong thơ trữ tình vừa thiên về nỗi buồn vừa mang tính cao cả, tích cực.
Trong thơ có tất cả những cung bậc cảm xúc của con người, cả niềm vui lẫn nỗi buồn,
yêu thương và thù hận, hạnh phúc và khổ đau,... Thế nhưng, dường như có một sự thật là
thơ viết về nỗi buồn thường nhiều và hay hơn thơ viết về niềm vui. Etgapo nói: “Giọng
điệu buồn là giọng thơ thích đáng nhất trong thi ca”. Còn Cao Bá Quát lại viết: “Người
cùng thì thơ mới hay”. Thi phẩm nổi tiếng nhất mà nhà thơ được dân gian tôn vinh cùng
với Nguyễn Văn Siêu là “Thần Siêu, thánh Quát” này để lại cũng chính là tác phẩm ra
đời trong cảnh “cùng đồ” như thế:
“Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.
Anh đứng làm chi trên bãi cát?”
(Bài ca ngắn đi trên bãi cát)
Xem trong sự nghiệp sáng tác của nhiều nhà thơ khác, những bài có cảm xúc vui
không nhiều, trong khi những bài có cảm xúc buồn lại chiếm số lượng lớn và có giá trị
hơn. Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu, Hàn

Mặc Tử, Huy Cận, Nguyễn Bính đều là những trường hợp như vậy. Nếu được yêu cầu
đọc những câu thơ diễn tả tâm trạng nhân vật trữ tình trong “Truyện Kiều” thì rất nhiều
người sẽ nghĩ ngay đến những câu thơ buồn mà ít ai thuộc nổi một câu vui:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
7


Buồn trong ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Vả chăng những câu thơ hay nhất trong kiệt tác này đều viết trong tâm trạng buồn
của ngày tháng lưu lạc, đoạn trường chứ không phải là cảnh vui vẻ, đoàn viên. Thậm chí,
ngay trong lễ hội mùa xuân tưng bừng, náo nức của tiết thanh minh thì những câu thơ ám
ảnh người đọc nhất lại mang cảm xúc luyến tiếc, thẫn thờ của chị em Thuý Kiều khi ra
về:
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
Thậm chí với những nhà thơ trào phúng, loại thơ dùng tiếng cười để châm biếm thì
cảm xúc ẩn sâu bên trong vẫn là nỗi buồn, nỗi đau của con người trước nhân tình thế thái.
Thơ Trần Tế Xương là một ví dụ:
“Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông

Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng”
(Đất Vị Hoàng)
Vậy, ta cần lí giải hiện tượng này như thế nào? Phải chăng vì con người ta thích bi
quan tiêu cực, thích ngặm nhấm nỗi buồn để tự hủy hoại cuộc sống của mình? Không
phải vậy, thực ra, thơ nói nhiều đến nỗi buồn hơn niềm vui vì khi ở tâm trạng buồn, cảm
xúc thường sâu sắc, thấm đẫm, lâu bền hơn niềm vui. Nỗi buồn lại hay đi với trạng thái
cô đơn, khi đó, con người thường không có ai để chia sẻ ngoài việc tự đối diện với bản
thân mình. Chính trong hoàn cảnh như thế, cảm xúc bao giờ cũng là chân thực nhất, sâu
sắc nhất, triệt để nhất mà thơ lại ra đời “cốt để nói những điều tinh vi nhất, sâu kín nhất,
mong manh nhất, mơ hồ nhất của tâm hồn con người’’ (Nguyễn Đăng Mạnh).
Đó cũng là một ý kiến ta phải lưu tâm khi đánh giá thơ hay. Tuy nhiên nếu lí
tưởng hóa, thi vị hóa sự đau khổ và xem đó như chất liệu đặc biệt cao quý của thi ca là
sai lầm. Hơn nữa, thông qua những cảnh ngộ buồn tủi, đáng thương nhà thơ vẫn có thể
tìm đến một hướng đi, một cách giải thoát tích cực, mở ra luồng ánh sáng mới. Aritxtot
nói bi kịch có khả năng thanh lọc tâm hồn con người, hướng ta đến những điều cao cả.
Đó mới là chân lí của nghệ thuật nói chung và nỗi buồn trong thơ trữ tình nói riêng.
8


Những bài thơ trong tập “Từ ấy” của Tố Hữu và “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh và
đều có phẩm chất trên:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực rồng”
(Chiều tối – Hồ Chí Minh)
4. Thứ tư, trong thơ trữ tình, cảm xúc vừa có tính cá thể vừa mang tính phổ quát.

Nguyên tắc chủ quan là nguyên tắc cơ bản trong việc chiếm lĩnh hiện thực. Trước một
hiện thực, mỗi nhà thơ có quyền và có nghĩa vụ phải biết chiếm lĩnh bằng cái nhìn, bằng
cảm nhận, bằng tấm lòng của chính mình, bằng cái tôi của người cầm bút, tuyệt đối
không sao chép, không lặp lại người khác. Tính chất cá thể hóa của cảm nghĩ và tính chất
chủ quan hóa của sự thể hiện là những dấu hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình. Đến đây, ta
hiểu rằng khi Nguyễn Đình Thi coi thơ là“Tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm
hồn” thì nhà phê bình này đã hé lộ cho ta thấy một đặc điểm khác của cảm xúc trong thơ
đó là sự riêng biệt, độc đáo của mỗi người mà không bắt chước hay lặp lại của người
khác và đặc biệt là không lặp lại chính mình. Trong “Thuyết tính linh”, Viên Mai khẳng
định nhà thơ phải có cá tính: "Làm thơ không thể không có cái tôi" (Tác thi bất khả dĩ vô
ngã). Xuất phát từ quan điểm trên ông đã phê phán mạnh mẽ tệ sùng bái mù quáng người
xưa, lối dùng điển cố một cách xơ cứng. Viên Mai quan niệm : "Chỉ cần có cái tôi tồn
tại, không thể làm cái việc đánh cắp văn thơ của người khác".
Thơ trữ tình luôn bộc lộ những cảm xúc riêng của con người trước thực tại, nhưng
cảm xúc riêng đó vẫn phải mang tính phổ quát, động chạm tới những cái chung trong tâm
hồn con người. Bởi việc tập trung thể hiện những nỗi niềm thầm kín, chủ quan, sâu sắc,
tinh vi của con người đã cho phép thơ trữ tình thâm nhập vào những chân lí phổ biến nhất
của tồn tại con người như sự sống, cái chết, lòng chung thủy, ước mơ, tương lai, hi
vọng... Đây lại là nhân tố tạo nên sức khái quát và ý nghĩa xã hội to lớn của tác phẩm trữ
tình. “Vội vàng” của Xuân Diệu, “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, “Đất Nước” của
Nguyễn Khoa Điềm là những ví dụ điển hình:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...”
Nhờ vậy, tiếng nói trữ tình của một người trở thành tiếng lòng của mọi người.
Chính vì thế, bên cạnh cảm xúc, thơ còn phải có tư tưởng, vì bất cứ cảm xúc nào của con
người cũng gắn liền với suy nghĩ. Chính vì thế, Sóng Hồng đã viết: “Nhưng thơ là tình
cảm và lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được
diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu

khác thường”. Từ đó, tình cảm trong thơ không ở trạng thái tĩnh mà luôn có xu hướng
vận động để phát triển và hình thành trọn vẹn một tứ thơ, một ý tưởng trong thơ. Ngay
trong thể loại tứ tuyệt, một thể thơ có dung lượng rất nhỏ thì tình cảm và tư tưởng trong
đó vẫn vận động và phát triển. Những bài thơ tứ tuyệt của Hồ Chí Minh trong “Nhật kí
9


trong tù” thường có hình thức vận động nhất quán từ hiện tại tới tương lai, từ bóng tối ra
ánh sáng, từ giá lạnh đến hơi ấm, từ đau khổ tới niềm vui:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công”
(Nghe tiếng giã gạo)
III. KẾT LUẬN
Tóm lại, đặc điểm quan trọng nhất của tác phẩm trữ tình là bộc lộ trực tiếp ý thức
của con người. Nhưng cảm xúc ấy lại rất phong phú, phức tạp và bí ẩn, đòi hỏi người đọc
thơ phải có một tâm hồn rộng mở, một trái tim nhạy cảm mới có thể khám phá, thưởng
thức được. Thơ tác động đến người đọc vừa bằng sự nhận thức cuộc sống vừa bằng khả
năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp với những suy nghĩ, cảm xúc cụ thể vừa gián tiếp qua
những liên tưởng và tưởng tượng phong phú, vừa theo những mạch cảm nghĩ, vừa bằng
sự rung động của ngôn từ giàu nhạc điệu. Đặc biệt, cảm xúc trong thơ vừa dồi dào, mãnh
liệt vừa chân thực, tinh tế; vừa tươi mới, hiện thời vừa đầy tính chiêm nghiệm; vừa thiên
về nỗi buồn vừa cao cả, tích cực; vừa có tính cá thể, riêng biệt vừa mang tính quy luật,
phổ quát.
Đến với thơ trữ tình, người đọc như được bước vào một thế giới diệu kì với những
chiều sâu khôn cùng của sự khám phá tâm hồn và tình cảm. Vì thế, nếu không có những
công cụ, những phương tiện nhất định, nhiều khi người đọc dễ có cảm giác rơi vào một
mê cung hoặc lạc vào rừng xanh. Chuyên đề của chúng tôi ra đời với hi vọng giúp đồng
nghiệp và các em học sinh có được một vài gợi ý, chỉ dẫn nhỏ để tìm đúng con đường đi

vào thế giới tình cảm của thơ trữ tình. Tất nhiên, chuyên đề này còn nhiều khiếm khuyết,
thiếu sót bởi chúng tôi chưa hề đề cập đến đặc trưng hình thức của thơ trữ tình, ngay cả
trong vấn đề nội dung cảm xúc của thể loại này, chúng tôi cũng nhận thấy những quan
điểm đưa ra còn mang tính chất cá nhân, chủ quan, chưa được sự kiểm chứng, phản biện.
Bởi thế, chúng tôi rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý và bổ sung của đồng nghiệp và
học sinh để vấn đề được giải quyết hoàn thiện và triệt để hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Bá Hãn, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi: Từ điển Thuật ngữ Văn học, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2000.
2. Nguyễn Văn Hạnh: Lí luận văn học vấn đề và suy nghĩ, NXB Giáo dục, 1999.
3. Nguyễn Đình Thi - Mấy ý nghĩ về thơ – Tuyển tập tác phẩm văn học Nguyễn Đình
Thi, Tiểu luận – Bút kí, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
4. Nguyễn Lân: Từ điển từ và ngữ Hán Việt, NXB Từ điển Bách khoa, 2002.
5. Hoàng Phê (Chủ biên): Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, 2003.
6. Trần Đình Sử: Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục, 2000.
10



×