Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

RÈN KỸ NĂNG CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HỌC SINH GIỎI BẰNG PHƯƠNG PHÁP SO SÁNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.69 KB, 18 trang )

RÈN KỸ NĂNG CẢM THỤ VĂN HỌC CHO
HỌC SINH GIỎI BẰNG PHƯƠNG PHÁP SO SÁNH

Lê Trâm Anh
Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy
1. Cảm thụ văn học và dạy văn
Văn học vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Điều này đồng nghĩa với việc dạy
văn phải tuân thủ những quy tắc nghề nghiệp, chuyên môn, đảm bảo tính khoa học,
chính xác, khách quan của kiến thức, phương pháp…nhưng đồng thời phải có niềm
say mê, hứng thú rung động thực sự. Ở các loại hình lao động khác, say mê là một
tiền đề để sáng tạo nhưng trong nghệ thuật say mê là một thành phần không thể
thiếu để sáng tạo. Người giáo viên dạy văn sẽ không thể dạy học sinh cảm thụ văn
học nếu bản thân không cảm thụ, không có những xúc cảm nghệ thuật. Dạy văn là
đánh thức ở học sinh khả năng cảm thụ cái đẹp, để qua đó giúp các em hiểu (chứ
không phải nhớ thuộc lòng) tính nhân văn, giá trị thẩm mỹ ẩn chứa sau từng câu
chữ, chi tiết, hình tượng nghệ thuật của tác phẩm.
Từ những điều trên có thể hiểu cảm thụ văn học thuộc về tiếp nhận văn học.
Đối với học sinh thông thường, cảm thụ văn học là giúp các em hiểu được giá trị, ý
nghĩa của những bài học nhân sinh, kinh nghiệm sống, ứng xử…đằng sau những
bài học về tác phẩm văn học. Đối với học sinh giỏi, cảm thụ văn học sẽ yêu cầu ở
một mức cao hơn, không chỉ là việc tích luỹ những bài học nhân sinh, kinh nghiệm
sống…mà còn phải hình thành và bồi đắp tình yêu văn chương, thưởng thức và
sáng tạo cái đẹp… nghĩa là có năng lực văn chương nhất định.
Cảm thụ văn học là kỹ năng hết sức cần thiết đối với học sinh học văn nói
chung, đặc biệt với đối tượng học sinh giỏi, cảm thụ văn học là nền tảng của quá
trình thứ nhất : tiếp nhận văn bản, từ đó người học mới có thể đi đến quá trình thứ
hai: sáng tạo văn bản - viết những bài văn có chất văn thực sự. Bài viết có chất văn
là phải tác động, thuyết phục người đọc không chỉ lí trí mà tình cảm. Học sinh bình
1
thường có thể làm một bài văn đáp ứng yêu cầu của một bài tập khoa học thông
thường; học sinh giỏi thì làm một bài văn hơn thế, phải có những nét độc đáo, mới


mẻ, bộc lộ sự hiểu biết, trải nghiệm, cá tính, tâm hồn…của mình trongg bài văn, có
khả năng làm rung động, thuyết phục người đọc.
2. Thực trạng và nguyên nhân của vấn đề cảm thụ văn học ở trường
THPT chuyên hiện nay
Vấn đề dạy học văn trong trường phổ thông (chuyên và không
chuyên) đang là vấn đề thời sự nóng hổi, thu hút sự quan tâm của nhiều
ngành, nhiều giới trong xã hội Theo khảo sát của các nhà giáo dục Việt
Nam trong những năm gần đây, chất lượng học văn của học sinh THPT
ngày càng giảm sút. Môn văn đang mất dần vị thế vốn có. Tình trạng học
sinh. Không cảm nhận và hứng thú với những tác phẩm văn học nói riêng và các
giá trị văn học nói chung cũng là một trong những nguyên nhân dẫn học sinh yếu
về kĩ năng sống và sống vô cảm, thiếu trách nhiệm. Tình trạng học sinh học văn
theo kiểu ăn xổi, học thực dụng, thi gì học nấy đang rất phổ biến ở các trường
THPT.
Ở các trường THPT chuyên, với những học sinh giỏi, có năng khiếu,
năng lực văn chương thì tình hình có khá hơn. Tuy nhiên với sự đa dạng
của các loại hình thông tin giải trí, các loại sách tham khảo tràn lan, hình thức
dạy văn đọc chép còn tồn tại cố hữu cùng sức ép của nhiều môn học, kỹ năng
cảm thụ văn học của học sinh giỏi (nhất là học sinh ở những khu vực đô
thị) có nguy cơ giảm sút nghiêm trọng. Học sinh không có hoặc yếu về kỹ
năng cảm thụ văn học, cảm nhận hoặc hiểu về văn học một cách sơ sài, nói theo
hoặc vay mượn cảm xúc khi làm bài không có gì là lạ. Đây là điều đáng để cho các
nhà sư phạm chúng ta suy nghĩ.
Nguyên nhân của thực trạng trên còn phải kể đến thực tế cho đến nay, chưa có
công trình nào tập trung xây dựng các biện pháp rèn luyện cảm thụ văn học cho học
sinh ở trường phổ thông. Các nhà nghiên cứu hoặc đồng nhất giữa hai khái niệm
2
tiếp nhận và cảm thụ hoặc không phân định dứt khoát ranh giới giữa hai khái niệm
này. Nói thế, không phải các biện pháp xây dựng cảm thụ văn học cho học sinh
chưa được đề cập tới; phần lớn các biện pháp này được đề xuất trong các công trình

nghiên cứu các mặt, các nhân tố riêng của cảm thụ văn học như liên tưởng và tưởng
tượng mà tiêu biểu là công trình Công nghệ dạy văn của Phạm Toàn và Rèn luyện
tư duy sáng tạo của học sinh trong dạy học tác phẩm văn chương của Nguyễn
Trọng Hoàn. Nhưng cũng vì thế các biện pháp được xác định chưa tập trung một
cách bài bản, chuyên sâu.
Trong phạm vi của nội dung chuyên đề thảo luận tại hội thảo hôm nay, người
viết xin đề cập đến một trong những hình thức rèn kỹ năng cảm thụ văn học cho
học sinh giỏi đó là dùng phương pháp so sánh. Đây chỉ là một trong những phương
pháp cần thiết chứ không phải là tất cả, một điều kiện cần chứ chưa đủ.
3. Rèn kỹ năng cảm thụ văn học bằng phương pháp so sánh
3.1.So sánh trong cảm thụ văn học và những yêu cầu cần thiết đối với học
sinh giỏi
3.1.1. So sánh trong cảm thụ văn học
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên thì
so sánh là nhìn vào cái này mà xem xét cái kia để thấy sự giống nhau, khác nhau
hoặc sự hơn kém.
Theo Từ điển Tu từ - phong cách học - thi pháp học của tác giả Nguyễn
Thái Hoà (NXB Giáo dục) thì so sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật
này đối chiếu vớu sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào
đó để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của người
đọc, người nghe.
Từ những khái niệm trên vận dụng vào việc rèn kỹ năng cảm thụ văn học
cho học sinh, có thể thấy so sánh giúp cho học sinh hiểu rõ hơn đối tượng (có thể là
những chi tiết, nhân vật, hình tượng, quan niệm, phát hiện…) cảm nhận được
những mới mẻ, độc đáo của đối tượng cũng như những sáng tạo của nghệ sỹ. Để
3
rèn luyện và hướng dẫn học sinh thực hiện tốt phương pháp này nói riêng, cảm thụ
văn học nói chung, về phía học sinh, giáo viên cần đặt ra những yêu cầu cụ thể.
3.1.2. Những yêu cầu cần thiết đối với học sinh giỏi để cảm thụ tốt văn học
a) Học sinh phải có vốn ngôn ngữ

Vốn ngôn ngữ bao gồm sự hiểu biết giá trị của từ ngữ, hình ảnh, câu, thanh
điệu… Ngôn ngữ chính là phương tiện, dụng cụ để hiểu, cảm thụ viết văn. Học
sinh càng giàu vốn ngôn ngữ càng có khả năng cảm thụ sâu sắc hơn vẻ đẹp của câu
chữ. Muốn phong phú vốn từ học sinh phải biết tích luỹ ngôn ngữ từ việc đọc,
nghe, nói và có thói quên ghi nhớ để bổ sung vốn từ. Nếu không có vốn ngôn ngữ
khả năng cảm thụ đặc sắc ngôn từ sẽ hạn chế rất nhiều.
b) Học sinh phải có kiến thức về văn học
Vốn văn học là một khái niệm rộng, song tối thiểu học sinh phải năm được
hoàn cảnh ra đời, xuất xứ tác phẩm phân biệt các thể loại, đặc trưng cơ bản của thể
loại Những hiểu biết này sẽ giúp học sinh cảm thụ đúng hướng tác phẩm.
Để có được vốn văn học, học sinh phải biết cách tích luỹ từ các giờ học văn
mà thầy cô cung cấp .Ngoài ra học sinh phải tích luỹ từ việc đọc sách vở, các loại
thông tin từ nhiều luồng khác nhau. Từ đó học sinh biết chắt lọc kiến thức quý, ghi
chép làm tư liệu và học tập cách dùng từ, đặt câu của các nhà văn, cách xây dựng
tình huống truyện, chọn cảnh, bố cục triển khai luận điểm như thế nào….Khi cần
thiết bắt chước nhà văn để sáng tạo và tăng vốn hiểu biết vốn văn học của mình.
c) Học sinh phải có vốn sống
Vốn sống là những hiểu biết, trải nghiệm xã hội về các mặt khác nhau của
đời sống, những hiểu biết về các ngành nghệ thuật liên quan đến văn học như hội
hoạ, âm nhạc, lịch sử, địa lý, triết học
Người học văn, để hiểu văn phải là người có những trải nghiệm đời sống. Biết
đặt mình vào nhiều tâm trạng, nhiều cảnh đời khác nhau. Muốn có vốn sống tự bản
thân học sinh phải tích luỹ, học hỏi, đọc, nghe nhìn và thu lượm từ nhiều nguồn
kênh thông tin, từ đời sống với những sự kiện, việc thực, người thực. Vốn sống này
4
càng nhiều, tâm hồn học sinh càng sâu sắc, phong phú, nhạy cảm, dễ dàng trong
cảm thụ văn học
d) Học sinh có hứng thú và niềm say mê học văn
Không yêu thích văn học thì tâm hồn người học sinh không rung động trước
vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp tâm hồn nghệ sỹ. Đó là thái độ yêu thích, say sưa khi

được tiếp cận với văn học. Tiếp nhận một tác phẩm, tự bản thân các em phải trăn
trở, suy tư, luôn hướng tâm hồn và tình cảm của mình đến với tác phẩm.
Những yêu cầu trên không phải là quy định bắt buộc cả về số lượng và mức
độ, tuy nhiên là những điều kiện cần thiết đối với một học sinh giỏi môn Văn để
các em luôn xác định và hướng tới. Có được những điều đó, không chỉ giúp ích cho
việc cảm thụ môn văn mà trong cả quá trình sống, học tập và làm việc của các em.
3.2. Quá trình thực hiện rèn kỹ năng cảm thụ văn học bằng phương pháp
so sánh cho học sinh giỏi
3.2.1 Xác định mục đích và tiêu chí so sánh
Đứng trước một vấn đề văn học, để thực hiện tốt phương pháp so sánh, giáo
viên phải hướng dẫn cho học sinh xác định mục đích và tiêu chí so sánh. Thực hiện
bước đầu tiên này chính là học sinh trả lời câu hỏi: so sánh để làm gì, nhằm mục
đích gì? tại sao lại cần so sánh? Từ đó mới có thể xác định rõ tiêu chí so sánh
nghĩa là dựa trên cơ sở nào để so sánh. Thông thường mục đích so sánh là để làm
rõ, nhấn mạnh cái hay, cái độc đáo mới mẻ cũng như giá trị của đối tượng văn học
và những sáng tạo của nghệ sỹ. Cũng có trường hợp so sánh là để làm rõ những
điểm hạn chế, chưa đạt của đối tượng và nguyên do của những thành công, hạn chế
đó. Trường hợp khác có thể so sánh để thấy sự cộng hưởng, sự gặp gỡ, đồng sáng
tạo của nghệ sỹ ở các loại hình nghệ thuật khác nhau. Từ mục đích so sánh, người
so sánh sẽ xác định tiêu chí so sánh dựa trên các khía cạnh tương đồng hay tương
phản về nội dung, tư tưởng, về hình thức biểu hiện…Việc xác định tiêu chí so sánh
và mục đích so sánh sẽ làm nổi bật vấn đề cần so sánh, giúp cho người đọc hiểu rõ
đối tượng và phát huy trí tưởng tượng, làm phong phú thêm kiến thức ở dạng liên
5
văn bản, biết cách tìm hiểu đổi tượng không tách rời hoàn cảnh lịch sử và thời đại
mà nó ra đời.
3.2.2. Các phạm vi so sánh
a)So sánh trong cùng loại hình nghệ thuật.
Nghệ sỹ từ cổ chí kim, khi sáng tạo bao giờ cũng đồng nghĩa với việc bày tỏ
mình qua sáng tác. Sự kế thừa, tiếp nối hay sự gặp gỡ tương đồng hoặc tương phản

giữa các cây bút, trong các tác phẩm cả về nội dung tư tưởng hay hình thức nghệ
thuật là điều hoàn toàn có thể xảy ra. So sánh trong cùng loại hình nghệ thuật là so
sánh thường gặp và phổ biến nhất trong quá trình đọc hiểu, tiếp cận một văn bản
văn học. Một văn bản văn học khi được tiếp nhận đúng nghĩa, nó trở thành một
chỉnh thể nghệ thuật sống động. Quá trình giảng dạy, hướng dẫn học sinh tiếp cận,
khai thác văn bản, giáo viên có thể tập cho học sinh cách so sánh các vấn đề từ đơn
giản đến phức tạp. So sánh sẽ gợi mở cho học sinh những cảm nhận, thẩm bình
khác nhau. Học sinh sẽ được đặt mình vào những tình huống, những hoàn cảnh
khác nhau để nhìn nhận, đánh giá vấn đề. Khi khám phá ra những nét mới mẻ,
người học sẽ ấn tượng và hứng khởi, tạo những xúc cảm thẩm mỹ lâu bền. So sánh
cùng loại hình nghệ thuật thường có hai dạng:
- Dạng thứ nhất: so sánh tương đồng (những nét chung, những sự gặp gỡ
tương đồng về đề tài, bút pháp, nội dung tư tưởng, hiệu quả nghệ thuật…) của hai
đối tượng. Trong đó một đối tượng là vấn đề chính cần làm nổi bật (cái được so
sánh) và một đối tượng là phụ (cái để so sánh) được dùng để đối chiếu nhằm làm
nổi bật cái chính.
VD: Khi đọc hiểu bài Thương vợ của Tú Xương, giáo viên có thể gợi mở
cho học sinh so sánh hình ảnh thân cò trong câu thơ
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
(Thương vợ-Tú Xương)
với hình ảnh con cò quen thuộc trong ca dao. Con cò trong ca dao là biểu
tượng gợi nhắc hình ảnh người phụ nữ Việt Nam vất vả, lam lũ, cần cù, chịu
6
thương, chịu khó. Tú Xương đã sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ (so sánh ngầm) : bà
Tú thân cò lặn lôi, vất vả, đảm đang tần tảo, một nắng hai sương để chăm lo cuộc
sống cho chồng con.
Trường hợp khác khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu trích đoạn Việt Bắc trong
bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu, có rất nhiều câu thơ, hình ảnh, cách nói… có
thể so sánh với các tác phẩm văn học dân gian hoặc các tác phẩm văn học khác
VD: Tố Hữu viết:

Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
(Việt Bắc –Tố Hữu)
Trong một doạn thơ nói riêng, một tác phẩm văn học nói chung, sẽ có nhiều
cái, nhiều vấn đề để khai thác. Nhưng giờ học trên lớp hạn chế về thời gian vì vậy
giáo viên nên hướng dẫn học sinh chọn lựa và cảm thụ những hình tượng, hình ảnh
chi tiết nghệ thuật nào gần gũi, có giá trị biểu cảm cao, vừa sức tiếp nhận cuả các
em. Trong câu thơ trên, hình ảnh gợi cảm chính là bếp lửa và người thương. Tố
Hữu đã khéo léo sử dụng sóng đôi cặp hình ảnh này đặt trong quỹ thời gian tuần
hoàn (sớm khuya và đi về). Hình ảnh bếp lửa luôn gợi không khí về cuộc sống gia
đình sum họp, ấm áp. Đó là niềm mong ước, là biểu tượng về hạnh phúc mà tất cả
những người đi xa luôn nhớ và mong ngày trở về. Bếp lửa đã xuất hiện nhiều trong
các sáng tác. Nhà thơ Bằng Việt với bài thơ Bếp lửa gợi nỗi nhớ về người bà. Thủa
ấu thơ, cháu đã được bà chở che, được sống trong vòng tay yêu thương của bà.
Những tháng năm chiến tranh gian khổ, bà vẫn kiên cường, bền vững ý chí của
người kháng chiến. Sau này cháu lớn lên, đi xa, cuộc sống vật chất với nhiều tiện
nghi hiện đại, nhưng vẫn luôn nhớ về bếp lửa của bà, bếp lửa của tình yêu thương,
của niềm tin mà bà đã nhóm lên và sưởi ấm suốt cuộc đời cháu.
Hình ảnh bếp lửa - lò than rực hồng còn được coi là nhãn tự của bài thơ Mộ
-Chiều tối. Trên hành trình giải lao, giữa chốn sơn lâm âm u trong buổi chiều
7
muộn, người tù tha hương, người chiến sỹ cách mạng sao khỏi chạnh lòng khi bắt
gặp hình ảnh:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
(Thiếu nữ xóm núi xay ngô
Ngô xay xong thì lò than đã đỏ)
(Mộ - Chiều tối - Hồ Chí Minh)
Người em gái xóm núi xay ngô bên lò than đỏ, một bức tranh về cuộc sống
lao động đời thường thật khoẻ khoắn, ấm áp. Nói như một nhà phê bình là bếp lửa

hồng tỏa sáng bức tranh thơ.
Cũng với hình ảnh bếp lửa, nhà thơ Nguyễn Bính trong mối sầu là kẻ tha
hương, cô độc, tưởng tượng trên bước đường lưu lạc trong một buổi chiều nào lạnh
gió mưa/ gõ cửa nhà ai xin ngủ trọ lại may mắn gặp được cố nhân tri kỷ. Niềm
hạnh phúc ấy ấm áp hơn nhiều lần khi:
Ngồi bên bếp lửa đêm hôm đó
Nhi rót đưa tôi nước rượu đầu
Nhắc lại ngày xưa mà thẹn lại
Ngậm ngùi hai đứa uống chung nhau.
(Hoa với rượu-Nguyễn Bính)
Nhà thơ Êxênin trên con đường mùa đông, con đường đời tẻ ngắt gian truân
và mệt mỏi vẫn mơ ước
Trở về với em ngày mai
Nhina bên lò lửa đỏ
Ngắm em ngắm mãi không thôi…
(Con đường mùa đông –Êxênin)
Nhà thơ Chế Lan Viên trong nỗi nhớ của mình về bà mẹ Tây Bắc những năm
kháng chiến cũng viết :
Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc
8
Năm con đau mế thức một mùa dài….
(Tiếng hát con tàu -Chế Lan Viên)
Nhà thơ Minh Huệ viết :
Đêm nay Bác không ngủ
Lặng yên như bếp lửa…
(Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ)
Quay trở lại với câu thơ của nhà thơ Tố Hữu khi viết về con người Việt Bắc
trong những ngày kháng chiến gian khổ, bếp lửa gắn với người thương như một
biểu tượng của sum họp, biểu tượng của tình yêu và niềm tin. Tố Hữu đã rất thành
công khi khắc hoạ cặp hình ảnh này trong nỗi nhớ của người kháng chiến khi chia

tay đồng bào Việt Bắc về xuôi.
Cũng là so sánh tương đồng các đối tượng trong cùng loại hình nghệ thuật
nhưng không đơn giản là những hình ảnh, chi tiết nghệ thuật mà cao hơn, phức tạp
hơn có thể là những mô típ nghệ thuật mang tính đặc trưng của thi pháp thời đại.
VD: Quang Dũng viết về sự hy sinh của người lính:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Tây Tiến - Quang Dũng)
Cái chết không phải là sự mất đi mà là sự hoá thân, cách nói vừa giảm nhẹ
đau thương vừa linh thiêng hoá sự ra đi của những người lính. Đây là mô típ mang
cảm hứng lãng mạn thường gặp trong văn học 1945-1975. Trong bài thơ Núi Đôi,
nhà thơ Vũ Cao viết về cái chết của người con gái trong suy cảm của người lính-
nhân vật trữ tình:
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm
(Núi Đôi-Vũ Cao)
9
Tương tự, nhà thơ Giang Nam trong phần kết thúc bài thơ Quê hương:
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi…
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi
(Quê hương - Giang Nam)
Trong văn xuôi, so sánh thường gặp nhất là giữa hai nhân vật, hai chi tiết, hai
sự kiện,…Xu hướng ra đề thi Đại học những năm gần đây cũng đòi hỏi học sinh có
cái nhìn liên văn bản, biết phân tích, tổng hợp và đối chiếu những vấn đề có liên
quan, gặp gỡ nhau. Ví dụ: so sánh chi tiết bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo
và chi tiết ấm nước đầy trong tác phẩm Đời thừa của Nam Cao; so sánh nhân vật

người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của Kim Lân và người đàn bà hàng chài
trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu…Đề thi HSG quốc
gia năm 2008-2009 cũng đặt ra vấn đềso sánh thuộc về hai tác phẩm Bánh trôi
nước Hồ Xuân Hương và Sóng của Xuân Quỳnh…Đối với học sinh giỏi, giáo viên
nên mở rộng so sánh để kiến thức phong phú, tư duy sắc sảo, nếu vận dụng trong
bài viết sẽ là những sáng tạo độc đáo, mới mẻ. Cùng viết về đề tài miếng ăn, Nam
Cao gắn nó với nhân cách con người, miếng ăn là miếng nhục; miếng ăn trong văn
Nguyên Hồng- miếng ăn của những người cùng khổ hết sức thơm thảo, ngon lành
đúng nghĩa; miếng ăn trong văn Nguyễn Tuân thì hết sức cao sang, nâng lên đến
hàng nghệ thuật; với Ngô Tất Tố, miếng ăn là sự làm no, con người ăn cả đất để
sống….Từ việc so sánh hai đề tài, hai vấn đề…, học sinh sẽ tìm hiểu nguyên nhân
của sự khác biệt , sự gặp gỡ trong quan niệm, cách nhìn, cách lý giải… của các nhà
văn, thậm chí của những thời đại khác nhau.
Về cơ bản, so sánh khá đa dạng và phong phú, điều quan trọng là người viết
xác định được mục địch để chọn lựa đối tượng, có xúc cảm nghệ thuật chân thành,
thực sự sẽ làm cho vấn đề so sánh đạt hiệu quả. Trường hợp đặc biệt có thể tác giả
10
sử dụng các mô típ quen thuộc, không mới song quá trình thể hiện lại là những cảm
xúc mới mẻ thì cũng có thể so sánh để làm nổi bật nét mới đó.
- Dạng thứ hai: So sánh tương phản
Dạng so sánh này ít gặp hơn và thường là yêu cầu phức tạp hơn đối với khả
năng của học sinh. Giáo viên phải công phu hơn, khéo léo hơn khi gợi mở vấn đề,
dẫn dắt sao cho học sinh huy động được kiến thức để liên tưởng, so sánh.
VD: cùng quan niệm về đất nước, ở mỗi thời đại, các tác giả có những quan
niệm và cách lý giải khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Nguyễn Trãi khi viết Bình Ngô đại cáo trong cảm hứng yêu nước của văn
học trung đại, đã đưa ra quan niệm về sự tồn tại của một quốc gia độc lâp:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
(Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)
Những điều Nguyễn Trãi đặt ra đem đến cho người đọc cảm xúc về sự tồn tại
của đất nước thật lớn lao, vĩ đại tràn đầy tinh thần ý thức tự hào, tự tôn dân tộc và
thấm đẫm cảm hứng sử thi, quan niệm ấy đến nay còn nguyên giá trị
Nhưng ở thời hiện đại, chúng ta lại bắt gặp quan niệm về đất nước hình thành từ
những gì thật bình dị, gần gũi nhỏ bé, đời thường:
Đất nước có trong câu chuyện ngày xửa ngày xưa mẹ thường
hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
11
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó
(Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm)
Sở dĩ có sự đối lập nhưng không hề mâu thuẫn đó là xuất phát từ đặc trưng
thi pháp của thời đại, do hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, do mục đích sáng tác của
các tác giả khác nhau. Khi Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo, đất nước đang
trong không khí huy hoàng của ngày hội chiến thắng, một triều đại mới, một trang
sử mới của Đại Việt được mở ra. Khẳng định sự tồn tại và vị thế của Đại Việt
ngang hàng với quốc gia phương Bắc là mục đích chính trị của người cầm bút.
Chính vì thế quan niệm về quốc gia, chủ quyền của Đại Việt phải hết sức uyên bác,
đầy đủ, chặt chẽ, đủ sức làm chân lý của muôn đời.

Nguyễn Khoa Điềm viết Đất nước trong những ngày khói lửa, cuộc kháng
chiến đấu tranh giải phóng đất nước đang ở hồi khốc liệt, đòi hỏi sự chung tay của
tất cả mọi người, kêu gọi những thanh niên, đánh thức những bạn trẻ đô thị miền
Nam xuống đường, góp sức mình vào công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Tư
tưởng Đất nước của Nhân dân là hệ quy chiếu để Nguyễn Khoa Điềm cắt nghĩa, lý
giải về một đất nước thật bình dị, gần gũi thân thương, gắn bó và tồn tại trong cuộc
sống hàng ngày của mỗi con người chúng ta. Lời thơ Nguyễn Khoa Điềm như lời
tâm tình, nhẹ nhàng, lắng đọng, có sức truyền cảm sâu xa mạnh mẽ.
Có thể lấy nhiều ví dụ khác về so sánh tương phản qua những quan niệm
thẩm mỹ, triết lý nhân sinh…của các nghệ sỹ ở những thời đại khác nhau. Khi dạy
học sinh cảm thụ thơ Xuân Diệu với triết lý sống vội vàng, rất dễ nhận thấy đây lầ
quan niệm mới mẻ, hiện đại và tích cực. Xuân Diệu cảm nhận thời gian vận động
tuyến tính. Thời gian vũ trụ tuần hoàn nhưng thời gian của đời người là một đi
không trở lại. Vậy nên:
12
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi…
(Vội vàng - Xuân Diệu)
Quan niệm này hoàn toàn khác biệt với các nhà trung đại, họ nhìn thời gian
chảy trôi trong sự bình thản. Con người không tách mình ra khỏi vũ trụ mà thấy
mình là một phần của vũ trụ, vũ trụ là một cầu trường đồng tâm và con người sống
an nhiên, tự tại trong quy luật của vũ trụ nên nhất nhật thanh nhàn nhất nhật tiên
(một ngày nhàn là tiên một ngày) mới thành triết lý sống của các nhà nho trung đại.
Con người hiện đại hoàn toàn khác. Ý thức sự chảy trôi của thời gian, khát khao
sống khẳng định mình, không chống lại được quy luật tuần hoàn của vũ trụ, con
người chỉ còn một cách sống bằng cường độ và tốc độ, sống hết mình, tận hưởng và
tận hiến. Triết lý sống vội vàng của Xuân Diệu hết sức tích cực và Xuân Diệu đã
minh chứng bằng chính đời sống và đời viết của mình. Sức sáng tạo, cống hiến và
sự ham mê lao động, lòng yêu cuộc sống đã khiến cho nhà thơ ở mãi vườn trần,

bất tử với độc giả ở mọi thời đại.
So sánh dạng tương phản đòi hỏi người so sánh phải có cái nhìn đa diện,
nhiều chiều, thấy được cả căn nguyên sự hình thành những nét đối lập đó. Tuy
nhiên, xét cho đến cùng thì tương đồng hay đối lập về cơ bản là cái nhìn bề ngoài.
Tìm hiểu sâu vào bản chất của vấn đề với thước đo giá trị của thời đại và những
mối quan hệ của văn học với những phạm trù khác có liên quan, gần gũi, người
cảm thụ sẽ hiểu sâu sắc vấn đề và tích lũy cho mình những hiểu biết phong phú hơn
b) So sánh không cùng loại hình nghệ thuật
Một số nhà nghiên cứu khẳng định việc đối chiếu văn bản với các loại hình
nghệ thuật khác có tác dụng làm hiện hình cảm thụ của học sinh, thúc đẩy học sinh
hình thành những ấn tượng về văn bản.
Thông thường, có thể cho học sinh đối chiếu văn bản với hội hoạ, âm nhạc
hoặc sân khấu, điện ảnh. Tuy nhiên, không được lạm dụng, việc bổ trợ các loại
13
hình nghệ thuật này là nhằm mục đích hướng tới khơi gợi cảm thụ, hoặc phát triển
thêm tư duy, cảm xúc cho học sinh chứ không dùng làm tài liệu trực quan. Nếu sử
dụng không đúng mức, không đúng cách, dễ dẫn đến tình trạng thủ tiêu trí tưởng
tượng của học sinh, học sinh dễ có xu hướng đồng nhất văn bản với các tác phẩm
nghệ thuật khác. Đối với những văn bản đã được phổ nhạc, ngâm thơ, hoặc những
văn bản thuộc loại hình văn học diễn xướng như chèo, tuồng, kịch… thì giáo viên
hoàn toàn có thể cho học sinh thưởng thức những tác phẩm này xen kẽ trong giờ
học hoặc buổi ngoại khoá, sau đó gợi mở, nêu vấn đề cho học sinh thảo luận, so
sánh, phân tích những nét chung và riêng, giống và khác nhau…. Điều đó có tác
dụng rất lớn trong việc tạo nên những xúc động mạnh mẽ của học sinh trong cảm
thụ văn học. Ở phạm vi so sánh này, có thể kể đến rất nhiều như trích đoạn chèo
Xuý Vân giả dại, kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, Hổn Trương Ba, da
hàng thịt của Lưu Quang Vũ…. Tăng cường so sánh các văn bản văn học với
những tác phẩm loại hình nghệ thuật khác, học sinh sẽ tăng thêm sự hào hứng khi
cảm thụ giá trị văn bản văn học, hiểu sâu hơn ý đồ sáng tạo của nghệ sỹ.
Kết luận

Dạy văn, học văn là quá trình cộng hưởng về cảm xúc; cảm thụ văn học tốt là
một trong những yếu tố quan trọng giúp cho học sinh bồi đắp năng lực văn chương,
khả năng sáng tạo và độc lập trong tư duy, đặc biệt với những học sinh giỏi. Rèn kỹ
năng cảm thụ văn học bằng phương pháp so sánh là một hoạt động thường xuyên
phổ biến trong các giờ đọc hiểu văn bản văn học, giúp hiểu sâu bài học, đồng thời
người học có hứng thú và biết phân tích, tổng hợp kiến thức từ những văn bản, lĩnh
vực khác nhau. Tuy nhiên, quá trình thực biện cần chú ý đến khâu phân bố thời
gian cho hợp lý. So sánh hiệu quả và có mức độ là điều cần thiết trong quá trình
dạy học của giáo viên cũng như thực hành làm bài của học sinh.
Trên đây là phần trình bày của người viết về việc rèn kỹ năng cảm thụ văn
học cho học sinh giỏi bằng phương pháp so sánh. Theo người viết, đây là một trong
rất nhiều hình thức giúp cho học sinh hình thành và rèn luyện kỹ năng cảm thụ
14
vănhọc nói riêng, năng lực văn chương nói chung. Vì kinh nghiệm bồi dưỡng học
sinh giỏi chưa nhiều, thời gian học hỏi đồng nghiệp còn hạn chế, nội dung chuyên
đề còn nặng về chủ quan, mong nhận được sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến từ các
thầy cô giáo và bạn bè, đồng nghiệp.
Ninh Bình, ngày 15 tháng 8 năm 2012


15
Phụ lục
… Câu 2 (12 điểm)
Hãy phân tích hai thi phẩm Thu vịnh (Nguyễn Khuyến) và Đây mùa thu tới (Xuân Diệu)
trong thế đối sánh để chỉ ra dấu ấn nghệ thuật độc đáo của từng thi nhân.
Văn bản Thu vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tùng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái.
Một tiếng trên không ngỗng nước nào ?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
(Thơ văn Nguyễn Khuyến,
NXB Văn học, Hà Nội,1979)

Đây mùa thu tới
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buông buông xuống lệ ngàn hàng:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Mây vẩn từng không chim bay đi.
Khí trời u uất hận chia li.
Ít nhiều thiếu nữ buông không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
(Tuyển tập Xuân Diệu, tập 1; Thơ, NXB Văn học,
Hà Nội, 1983)


HẾT

SỞ GD&ĐT NINH BÌNH
TRƯỜNG THPT CHUYÊN
LƯƠNG VĂN TỤY
ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI LỚP 12
Năm học: 2010-2011
MÔN: Ngữ văn
Thời gian làm bài: 180 phút
(Đề này gồm … câu, …. trang)
16
SỞ GD&ĐT NINH BÌNH
TRƯỜNG THPT CHUYÊN
LƯƠNG VĂN TỤY
HƯỚNG DẪN CHẤM
ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI LỚP 12
Năm học: 2010-2011
MÔN: NGỮ VĂN
Hướng dẫn chấm gồm: … trang
….Câu 2 (12 điểm)
I.Yêu cầu về kỹ năng:
Biết cách làm một bài nghị luận văn học đúng, trúng theo yêu cầu của đề bài,
có kết cấu bố cục rõ ràng, mạch lạc, không sai các loại lỗi chính tả, ngữ pháp,
diễn đạt, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục, viết có cảm xúc…
II.Yêu cầu về kiến thức:
Có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng phải đảm bảo các ý chính
sau:
+ Đây là hai thi phẩm cùng viết về mùa thu đất Việt ( cùng thể loại thơ) cùng có
cảnh thu và tình thu và mang dấu ấn cảnh vật, tâm hồn Việt Nam.
+ Tuy nhiên giữa chúng có sự khác nhau. Dấu ấn của từng nhà thơ thể hiên trên
rất nhiều phương diện của hai bài thơ từ vi mô đến vĩ mô, từ nội dung đến hình
thức.

- Thu vịnh bài thơ Nôm thơ Đường luật thuộc phạm trù thơ ca cổ điển, có cấu tứ
u uất nghẹn ngào cảnh thi đẹp và đượm buồn thu đẹp, cổ nhân sống đẹp, tác giả
thấy thẹn vì chưa đẹp như thiên nhiên, như cổ nhân. Đây là tâm sự của nhà nho ở
ẩn đỗ đạt cao mà bất lực trước thời thế luôn canh cách bên lòng trách nhiệm của kẻ
sĩ trước vua, trước bách tính trăm họ. Đó là mùa thu đã hoàn tất bước đi của mình.
Thu vịnh nghiêng về không gian tĩnh lặng. thanh vắng, thanh sạch, thanh tĩnh,
thanh cao Bút pháp cổ điển, tài năng bậc thầy của thơ Nôm được thể hiện hết sức
tài hoa thi trung hữu họa, lấy động tả tĩnh, điển cố,Thu vịnh mang giọng điệu, nhịp
điệu, nhạc điệu của thơ điệu ngâm cổ điển
- Đây mùa thu tới thuộc phong trào thơ mới lãng mạn, cảm hứng chính của bài thơ
là sự bâng khuâng buồn với nhiều cung bậc điù hiu, chịu tang vơ vẩn ngẩn ngơ,
17
không nói trước bước chuyển của thời gian mang đậm dấu ấn của thi sĩ mang nỗi
ám ảnh thời gian, cấu tứ của bài thơ là sự hiện hình của thời gian vô hình, hành
trình của mùa thu trong khoảnh khắc giao mùa từ phương xa in dấu ấn lên liễu ,
khu vườn, dòng sông hồn thiếu nữ. Thi phẩm nghiêng về nghệ thuật thời gian,
mang tính hiện đại thấy được cái động ngay trong trạng thái tĩnh, đổi mới cả những
thi liệu cũ (Liễu gắn với mùa thu, Trong vườn rũa màu xanh ), ngôn ngữ, nhịp
điệu, giọng điệu hiên đại của thơ mới điệu nói
+ Đó là sự khác nhau của hai thời đại văn học, thời văn học trung đại thời của chữ
ta, thời văn học hiên đại thời của chữ tôi với quan niệm văn học, quan niệm thẩm
mĩ, nhân sinh, hệ thống thể loại , thi pháp và ngôn ngữ văn học khác nhau, hai kiểu
tác giả khác nhau nhà nho trung đại ở ẩn và tác giả Tây học hiên đại. Nó tuân theo
qui luật của sáng tạo nghệ thuật mỗi thi phẩm tạo là duy nhất độc đáo về nội dung,
khám phá về hình thức.
+ Đó là thơ thu của một nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, và thơ thu của nhà thơ
mới nhất trong những nhà thơ mới. Nó giúp người đọc thêm tinh tế trong việc cảm
nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, tâm hồn Việt Nam
III. Thang điểm
- Điểm 12: Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên, còn một vài lỗi nhỏ.

- Điểm 10: Đáp ứng phần lớn các yêu cầu trên, còn mắc một vài lỗi.
- Điểm 8,0: Đáp ứng khoảng 2/3 yêu cầu trên, còn mắc lỗi.
- Điểm 6,0: Đáp ứng khoảng một nửa yêu câu trên, còn một số mắc lỗi.
- Điểm 3,0: Bài viết sơ sài, mắc nhiều lỗi.
- Điểm 0: Lạc đề.
- Lưu ý: Có thể thưởng điểm cho những bài viết có cách viết, ý tứ độc đáo,
nếu bài làm chưa đạt điểm
HẾT

18

×