Những biến đổi của chức năng gia đình
và vai trò giáo dục gia đình trong việc
hình thành nhân cách của trẻ
Chương I :
1) Lý do
Chưa bao giờ gia đình Việt Nam lại có điều kiện thuận lợi để phát huy sức sáng
tạo, tự chủ mạnh mẽ về kinh tế, đời sống tinh thần, phát triển trí tuệ cá nhân như hiện
nay. Tuy nhiên, cũng chưa bao giờ gia đình Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách
thức, biến động mạnh mẽ do mặt trái của cơ chế thị trường mang lại như những năm
gần đây. Những thay đổi đó xuất phát từ việc các giá trị truyền thống trong văn hóa
gia đình đang bị nhìn nhận lại theo nhiều góc độ khác nhau. Sự lệch chuẩn so với
truyền thống đang tạo nên những đánh giá trái chiều, đòi hỏi cần được nghiên cứu,
phân tích, điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện mới của xã hội Việt Nam. Gia đình
Việt Nam hiện đại không tránh khỏi sự xáo trộn trước xu thế chia tách cấu trúc nhất
thể của gia đình truyền thống thành đa cấu trúc, đa khuôn mẫu. Trong đó, sự đòi hỏi
phải thỏa mãn quyền lợi cá nhân và tư tưởng bình đẳng đang là những thay đổi gây tác
động đa chiều nhất. Một trong những thay đổi khá rõ rệt, đang tác động mạnh đến mỗi
gia đình người Việt chính là những thay đổi trong giáo dục gia đình.
Bên cạnh những thuận lợi trên, gia đình ngày nay cũng chịu ảnh hưởng của
những yếu tố tiêu cực trong môi trường xã hội như: văn hoá phNm đồi truỵ, độc hại,
lối sống sa đoạ, buông thả, phản văn hoá. Có điều này là do mặt trái của nền kinh tế
thị trường, việc tiếp thu không chọn lọc lối sống, văn hóa phương Tây. Học tập cả
những nét văn hóa không phù hợp với thuần phong mỹ tục của người phương Đông
nói chung và người Việt N am nói riêng. Dẫn tới hậu quả là một bộ phận không nhỏ
thanh thiếu niên sa vào vòng tội lỗi, băng hoại đạo đức gây khó khăn cho việc xây
dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa đáp ứng nhu cầu phát triển của đất
nước. Cùng với quá trình ấy là một bộ phận cha mẹ thiếu quan tâm đến con cái ở
nhiều góc độ khác nhau. Có bậc cha mẹ li hôn, bỏ bê luôn trách nhiệm với con cái;
có bậc cha mẹ cung cấp tiền cho con ăn tiêu mà không quan tâm đến đời sống tình
cảm của con; có bậc cha mẹ lại ép con sống theo ý mình mà không quan tâm con
nghĩ gì, thích gì, muốn làm gì, học cái gì, cần gì ở bố mẹ, ở gia đình; có gia đình lại
qúa đông con, nghèo túng, thiếu đói không có điều kiện cho con trẻ phát triển đầy đủ
cả thể chất lẫn trí tuệ,…Tất cả đều tác động xấu đến sự hình thành và phát triển nhân
cách toàn diện ở trẻ. Vì những lí do trên, tôi lựa chọn vấn đề “Những biến đổi của
chức năng gia đình và vai trò giáo dục gia đình trong việc hình thành nhân cách
của trẻ ” .
2) Tổng quan tài liệu
Trong những năm gần đây vấn đề giáo dục của gia đình được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Có nhiều công trình, bài viết, các cuộc hội thảo nghiên cứu về
vai trò của gia đình đối với sự hình thành, phát triển nhân cách thế hệ trẻ và đã đạt
được một số kết quả nhất định. Trong những năm qua đã có nhiều công trình, bài viết
của nhiều nhà giáo dục học, tâm lý học được công bố, đề cập khá sâu sắc đến công tác
giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ với nhiều góc độ, cấp độ khác nhau. Các công
trình đó có thể được phân chia thành các nhóm sau:
Nhóm thứ nhất, về vai trò của các thành viên trong gia đình với giáo dục con cái,
có các công trình tiêu biểu:
- Nghiêm Sĩ Liêm, “Vai trò người phụ nữ trong giáo dục gia đình ở nước ta hiện
nay”, Báo chí và Tuyên truyền, số 2 năm 2000, trang 34 – 36.
- Đỗ Thị Bình (chủ biên), “Gia đình Việt am và người phụ nữ trong gia đình thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2002.
Trong những công trình trên, các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu về vai trò của
từng thành viên, ưu điểm nổi trội của họ đối với việc giáo dục thế hệ trẻ, chứ chưa đi
sâu nghiên cứu vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách thế
hệ trẻ.
Nhóm thứ hai, về gia đình và vai trò của gia đình đối với thế hệ trẻ, có thể kể đến
các công trình tiêu biểu sau:
2
- Đức Minh (chủ biên), "Khoa học giáo dục con em trong gia đình" của Ủy ban
Thiếu niên nhi đồng Trung ương, xuất bản năm 1979. Cuốn sách này đã giới thiệu một
số quan điểm về giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh vai trò, đặc điểm của giáo dục
gia đình, cung cấp những cơ sở lý luận, những nội dung và yêu cầu của giáo dục gia
đình đối với thế hệ trẻ; "Dạy con nên người" của Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hà
N ội, xuất bản năm 1991. Tập thể tác giả đã cung cấp cho các bậc cha mẹ những hiểu
biết cần thiết về gia đình, về trách nhiệm làm cha, làm mẹ trong việc giáo dục con cái
nên người, trên những mặt cơ bản của nội dung giáo dục: Đức, trí, thể, mỹ và lao
động, mà các thế hệ làm cha mẹ luôn luôn hướng tới. Công trình “Gia đình và vấn đề
giáo dục gia đình” của Trung tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ, xuất bản năm
1994. Cuốn sách nghiên cứu về gia đình Việt N am và việc thực hiện các chức năng
của gia đình, một số vấn đề chủ yếu trong nghiên cứu gia đình Việt Nam.
Những vấn đề lý luận, phương pháp luận; quá trình biến đổi của gia đình Việt
Nam từ truyền thống sang hiện đại; việc thực hiện các chức năng của gia đình Việt
Nam hiện nay, những vấn đề kiến nghị về chính sách đối với gia đình và người phụ
nữ, vai trò của giáo dục gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con
người Việt Nam. Tác giả tập trung đi sâu phân tích một chức năng cụ thể của gia đình;
chức năng giáo dục (xã hội hoá) trong đó chủ yếu nêu lên vai trò của gia đình, các
thành viên trong gia đình với việc giáo dục thế hệ trẻ; những nội dung, phương pháp
giáo dục trong gia đình hiện nay; sự ảnh hưởng của các tôn giáo thời đại và các môi
trường giáo dục khác đến giáo dục gia đình.
Ngoài các công trình trên cũng có một số luận văn, luận án nghiên cứu các vấn đề
Gia đình, Phụ nữ; Gia đình - Giáo dục gia đình như: Luận văn Th.s của Phan Thanh
Hùng, “Sự biến đổi chức năng gia đình trong kinh tế thị trường hiện nay” Hà Nội,
1996; Luận văn Th.s Phạm Thị Xuân, “Gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở
nước ta hiện nay” Hà N ội, 2004; Luận văn Th.s Nguyễn Thành Công, “Vai trò của
giáo dục gia đình đối với sự hình thành nhân cách thế hệ trẻ ở Việt am hiện nay” Hà
Nội, 2007; Luận án T.s của Đặng Thị Linh, “Vấn đề phụ nữ trong gia đình Việt Nam
hiện nay - Thực trạng và giải pháp” Hà N ội, 1997; Luận án T.s của Nghiêm Sỹ Liêm
“Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay” Hà Nội, 2001.
3
Các công trình trên đây đều đề cập ở những mức độ khác nhau đến vai trò của
giáo dục gia đình đối với sự hình thành nhân cách thế hệ trẻ ở Việt Nam nói chung.
3) Khái niệm
a) Gia đình:
Với tư cách là một hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội. Gia đình được
hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Xuất phát từ nhu
cầu bảo tồn và duy trì nòi giống, từ sự cần thiết phải dựa vào nhau để sinh tồn, các
hình thức quần tụ giữa nam và nữ giới, những hình thức cộng đồng tổ chức đời sống
gia đình đã xuất hiện. Lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều hình thức gia đình như: Gia
đình đối ngẫu, gia đình hôn nhân từng cặp, gia đình một vợ một chồng...
Trên cơ sở của sự phát triển kinh tế - xã hội các kiểu dạng tổ chức cộng đồng
mang tính tự nhiên, ngay từ đầu đã chịu sự quy định của sự biến đổi trong sản xuất
trong đời sống kinh tế - xã hội.
Để quan hệ với thiên nhiên, tác động vào thiên nhiên, con người cần phải quần tụ
thành các nhóm cộng đồng. Ban đầu, các quan hệ chi phối trong những nhóm cộng
đồng ấy còn mang sắc thái tự nhiên sinh học sống quần tụ với nhau theo bày đàn, sinh
sống bằng săn bắn hái lượm...
Trước những yêu cầu của sản xuất và sinh hoạt những đòi hỏi của đời sống kinh tế
các quan hệ ấy dần trở nên chặt chẽ, giữa các thành viên trong cộng đồng ấy xuất hiện
những cơ chế ràng buộc lẫn nhau phù hợp và thích ứng với những điều kiện sản xuất,
sinh hoạt của mỗi một nền sản xuất. Gia đình dần dần trở thành một thiết chế xã hội,
một hình ảnh "xã hội thu nhỏ". Nhưng không phải là sự thu nhỏ một cách giản đơn các
quan hệ xã hội. Những gia đình được coi như một thiết chế xã hội đặc thù, nhỏ nhất,
cơ bản nhất.
Nếu như văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra, nhằm thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu của chính mình thì 2 gia đình không chỉ là
một hình thức tổ chức cộng đồng, một thiết chế xã hội mà điều quan trọng gia đình
còn là một giá trị văn hoá xã hội. Tính chất, bản sắc của gia đình lại được duy trì, bảo
4
tồn, được sáng tạo và phát triển nhằm thoả mãn những nhu cầu của mỗi thành viên
trong gia đình trong sự tương tác gắn bó với văn hoá cộng đồng dân tộc, cộng đồng
giai cấp, tầng lớp trong mỗi giai đoạn lịch sử của quốc gia, dân tộc.
Như vậy: Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống
cộng đồng của con người một thiết chế văn hoá xã hội đặc thù được hình thành,
tồn tại và phát triển trên cơ sở của những quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,
quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục... giữa các thành viên.
b) Đặc trưng các mối quan hệ cơ bản của gia đình :
* Hôn nhân và quan hệ hôn nhân là một quan hệ cơ bản của sự hình thành,
tồn tại và phát triển gia đình
- Hôn nhân là một hình thức quan hệ tính giao giữa nam và nữ nhằm thoả mãn các
nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm và bảo đảm tái sản xuất ra con người nhằm duy trì, phát
triển nòi giống.
Cùng với sự phát triển của lịch sử Hôn nhân cũng có sự biến đổi sâu sắc về hình
thức tính chất và sắc thái của nó: Nếu như trong chế độ CSNT hình thái hôn nhân chủ
yếu là quần hôn. Trong các chế độ tư hữu hôn nhân được hình thành xây dựng và thực
hiện trên cơ sở bảo đảm lợi ích của những người chủ sở hữu (gia đình gia trưởng - bảo
đảm quyền lực của người chồng, người cha, người chủ sở hữu tài sản và kế thừa tài
sản...).
- Hôn nhân là hình thức quan hệ tính giao của con người và chỉ có ở con người.
Cho nên ngay từ đầu hôn nhân đã mang bản chất người nhân văn và nhân đạo. Sự phù
hợp về tâm lí, sức khoẻ và nhất là trạng thái tình cảm ngay từ ban đầu nó đã là cơ sở
trực tiếp của hôn nhân, mang lại bản sắc đặc thù của quan hệ hôn nhân.
- Tuy nhiên, cũng như mọi quan hệ xã hội khác Hôn nhân luôn chịu sự chi phối
của các quan hệ kinh tế và bản chất của chế độ xã hội mà trên đó nó được hình thành
và phát triển.
5
Vì vậy, hôn nhân trong bất cứ thời đại nào cũng có thể và cần phải được xã hội
thừa nhận ở những mức độ, trình độ khác nhau. Trong chế độ tư hữu và các xã hội có
sự phân chia giai cấp sự thừa nhận đó của các chuẩn mực văn hoá và lối sống truyền
thống của cộng đồng (tổ chức cưới, hỏi...).
- Sự phù hợp về trạng thái tâm lý, tình cảm, lối sống giữa đôi nam nữ trước khi đi
đến hôn nhân là cơ sở trực tiếp cho hôn nhân: Tình yêu. Cũng như hôn nhân, tình yêu
của mỗi thời đại, mỗi giai tầng, mỗi dân tộc và cộng đồng tâm lý văn hoá cũng có
những giá trị và chuẩn mực riêng với những biểu hiện riêng, cụ thể và sinh động.
* Huyết thống, quan hệ huyết thống là quan hệ cơ bản, đặc trưng của gia đình.
Do nhu cầu hết sức tự nhiên cần duy trì và phát triển nòi giống, con người đã sáng
tạo ra gia đình với tính cách là một thiết chế xã hội. Trong gia đình cùng với quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống được coi là một quan hệ cơ bản nhất. Tuy nhiên, ngay
cả quan hệ cơ bản này cũng có những thay đổi theo tiến trình lịch sử, những sự thay
đổi ấy được quy định, chịu sự chi phối của các điều kiện: Kinh tế, văn hoá, chính trị
của xã hội. Mặt khác quan hệ huyết thống ấy cũng gia nhập đan xen vào các quan hệ
kinh tế và chính trị xã hội của mỗi thời đại.
Thí dụ: Trong chế độ công xã nguyên thuỷ huyết thống về đằng mẹ được coi là
chuẩn mực để tính quan hệ thân tộc gần xa khi ấy gia đình được xây dựng trên cơ sở
huyết thống mẫu hệ. Khi chế độ tư hữu ra đời vai trò của người đàn ông ngày càng
được khẳng định trong quan hệ gia đình gia trưởng. Gia đình theo huyết thống về đằng
cha (gia đình phụ hệ ra đời).
Khi quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ 4 ngày càng gay gắt thì gia đình phu
hệ phát triển: Gia đình chủ nô, gia đình phong kiến gia trưởng và gia đình tư sản. Chỉ
có thể khắc phục được những mâu thuẫn này khi xoá bỏ được chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất được xác lập.
* Quan hệ quần tụ trong một không gian sinh tồn
Ngay từ đầu xuất phát từ yêu cầu đặt ra trong quan hệ với tự nhiên và giữa con
người với nhau cộng đồng gia đình đã luôn cư trú quần tụ trong một không gian sinh
6
tồn từ lúc trong một hang đá hốc cây → sau đó là trong một mái nhà. Dù không gian
sinh tồn ấy ngày càng mở rộng và chịu sự chi phối của các quan hệ kinh tế - xã hội
nhưng nhu cầu quần tụ vẫn luôn luôn được đặt ra, cho dù ngày nay khái niệm không
gian sinh tồn không còn giữ nguyên nghĩa như một giới hạn địa lý thuần tuý nữa. Cho
dù sự can thiệp, mức độ quan tâm giữa các thành viên gia đình đã được thay thế, đảm
nhận ở mức độ đáng kể sự quan tâm, chăm sóc giữa các thành viên, các thế hệ trong
mỗi gia đình không vì thế mà mất đi mà trái lại nó được củng cố, được thực hiện nhờ
thiết bị, phương tiện và tiện nghi ngày càng hiện đại đầy đủ hơn (An cư lập nghiệp).
* Quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên và các thế hệ thành viên trong gia
đình.
Nuôi dưỡng là một nghĩa vụ, một trách nhiệm đồng thời còn là một quyền lợi
thiêng liêng của gia đình của các thành viên gia đình đối với nhau. Nuôi dưỡng không
đơn thuần chỉ là các bậc cha mẹ, ông bà nuôi dưỡng con cháu mà còn là hoạt động
chăm sóc, nuôi dưỡng của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, giữa các thành viên khoẻ
mạnh có thuận lợi trong làm ăn sinh sống đối với những thành viên gặp khó khăn, rủi
ro về sức khoẻ về làm ăn sinh sống. Mặc dù xã hội phát triển sự quan tâm của xã hội
đối với gia đình và các thành viên gia đình qua các chính sách bảo hiểm, chăm sóc y
tế, dưỡng lão.. nhưng nuôi dưỡng của gia đình có những đặc thù mà xã hội dù có hiện
đại 5 đến đâu cũng không thể thay thế được và càng không nên đặt vấn đề thay thế
hoàn toàn.
c) Giáo dục gia đình
Như chúng ta đã biết giáo dục là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch
của nhà giáo dục nhằm giúp cho thế hệ trẻ tự tổ chức, tự điều khiển quá trình hình
thành và phát triển nhân cách của mình theo yêu cầu, mục đích và nhiệm vụ giáo dục
đã đề ra do đó ta có định nghĩa: "Giáo dục gia đình là một quá trình tác động có mục
đích có kế hoạch của cha mẹ và những người thân trong gia đình tới thế hệ trẻ nhằm
giúp các em biết tự tổ chức, tự điều khiển quá trình hình thành và phát triển nhân
cách của mình để hình thành và phát triển các năng lực người và những phẩm chất tốt
đẹp của con người theo yêu cầu của xã hội".
7
4) Câu hỏi nghiên cứu:
• Tại sao trong quá trình giáo dục con trẻ phải kết hợp các lực lượng giáo dục?
• Những đặc trưng cơ bản của việc giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường xã hội có
ảnh hưởng như thế nào đến việc hình thành nhân cách trẻ?
• Giáo dục gia đình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cần phải phát huy những vấn đề
gì trong công tác chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ?
• Những giải pháp nào là phù hợp cho việc giáo dục trong gia đình?
Chương II : Nội dung
A) Một số chức năng trong gia đình có tác động đến việc hình
thành nhân cách trẻ .
Gia đình là một thiết chế xã hội xuất hiện sớm nhất và có lẽ là bền vững nhất
của nhân loại. Trước những thăng trầm của lịch sử và biến thiên của dòng thời gian,
các chức năng cơ bản nhất của gia đình vẫn không biến mất, hỏi lẽ tự nhiên và đơn
giản là nếu một tổ chức nào mất chức năng thì không có lý do gì để tồn tại nữa. Tuy
nhiên, khi điều kiện và hoàn cảnh của xã hội có sự thay đổi lớn thì nhất định sẽ đưa
đến thay đổi ít nhiều một vài chức năng nào đó. Điều nhận thấy đầu tiên là từ gia đình
đa chức năng sang gia đình đơn chức năng(chuyên môn hóa). Gia đình lúc đầu là một
“đơn vị xã hội duy nhất” (Mác- Ăngghen), gia đình là cộng đồng sinh hoạt, cộng đồng
là khuôn khổ tồn tại và là thế giới của mỗi người. Dần dần, cùng với sự phát triển của
phân công lao động và các quan hệ xã hội, các chức năng của gia đình được chuyên
môn hóa và trở thành tương đối độc lập với xã hội và bị xã hội chi phối.
1. Chức năng kinh tế:
Chức năng kinh tế là một trong những chức năng cơ bản của gia đình. Thực hiện
tốt chức năng này là cơ sở để gia đình thực hiện tốt các chức năng khác. Chức năng
kinh tế của gia đình còn tạo sự ràng buộc và gắn bó giữa các thành viên trên cơ sở lợi
ích kinh tế, lợi ích vật chất chung, sự chia sẻ lợi ích và qúa trình tạo dựng, tích lũy, kế
thừa tài sản. Phương thức của các thành viên tạo ra của cải vật chất cho gia đình (lao
động tạo ra sản phNm tiêu dùng cho gia đình, lao động kiếm tiền để mua các tư liệu
sinh hoạt cho gia đình hay thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của các thành viên) và
8
cách thức quản lý (tập trung thu nhập của các thành viên lại cho một người nắm giữ
rồi cùng thảo luận về việc sử dụng,...), sử dụng (chi phí ăn, ở, đi lại, thuốc thang lúc
ốm đau, ngày kỉ niệm của mỗi thành viên trong gia đình,...), phân phối nguồn của cải
vật chất (sử dụng, tiết kiệm,...) do thành viên đóng góp là những phương diện phản
ánh đặc điểm chức năng kinh tế của gia đình.
2. Chức năng xã hội hóa :
Xã hội hóa là một chức năng cơ bản nhất của gia đình và nó cũng là một trong
các chức năng bị biến đổi mạnh nhất dưới tác động của ngoại cảnh. Sự chuyển giao từ
giáo dục truyền thống gia đình sang cho giáo dục công nghệ của hệ thống trường học.
Gia đình truyền thống rất chú ý đến việc giáo dục những giá trị đạo đức cho các thành
viên trong gia đình thông qua những câu ca dao, tục ngữ, truyện ngụ ngôn, giáo dục
những kỹ năng hoạt động nghề nghiệp thông qua lối truyền nghề trực liếp bằng kinh
nghiệm từ thực tiễn lao động. Bên cạnh đó, lối giáo dục này thường thiên về tình cảm.
Do đó nó thường không có kế hoạch, quy mô nhỏ, không đồng bộ . . . khi chuyển sang
xã hội công nghiệp - đô thị thì những thế mạnh như trên đã nêu bị triệt tiêu đi và dần
dần được chuyển giao từng phần cho xã hội Phó thủ tướng Nguyễn Khánh đề cập đến
trong hội nghị “gia đình và xã hội” năm 1995, ông nhận định rằng: “gia đình Việt
Nam hiện nay có những mặt tiến bộ hơn so với trước đây, nhưng cũng có những một
sút kém hơn. Đặc biệt là sự sút kém về vai trò và hiệu quả giáo dục của gia đình. Đó là
một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội mà gia
đình không ngăn ngay từ đầu”.
3.Chức năng đảm bảo sự cân bằng tâm lí thỏa mãn nhu cầu tình cảm
Suốt một ngày “đầu tắt mặt tối” với công việc người thành phố trở về với mái ấm
gia đình với mong muốn được giải tỏa những căng thẳng, được nghỉ ngơi, giải trí, tổ
chức những sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao, tiếp khách, tham quan. Nhịp độ của xã
hội công nghiệp khiến cho “qũy thời gian” chúng ta rất ít ỏi. Trước đây trong gia đình
thường quây quần bên nhau trong bữa cơm. Đó là dịp để họ trao đổi với nhau về công
ăn việc làm, việc học hành của con cái, nhưng tâm tư tình cảm ... Nếu chúng ta quá
lạm dụng việc sinh hoạt tinh thần ở phạm vi ngoài gia đình sẽ làm cho gia đình không
9
còn là “tổ ấm” mà trở thành “quán trọ”(nói như PTS.Nguyễn Minh Hòa). Một vấn đề
khác nữa là các thành viên trong gia đình có khi không cùng ngày nghỉ dẫn đến tình
trạng mạnh ai nấy làm điều này dẫn đến hành vi cá nhân hoặc cha mẹ không quản lí
được những nơi vui chơi của con cái lúc tuổi dậy thì.
B)Nhân cách và những yếu tố tác động đến sự hình thành
nhân cách thế hệ trẻ.
Một số nhà nghiên cứu trên thế giới cho rằng, khái niệm thế hệ trẻ chỉ mang tính
"ước lệ", tức là tính từ lúc con người sinh ra cho đến tuổi 35. Ở Việt Nam, trong
cuốn sách "Vấn đề Thanh niên nhìn nhận và dự báo" của Viện nghiên cứu thanh
niên, xuất bản năm 1992, cho rằng: "Khi nói tới tuổi trẻ, lớp trẻ, thế hệ trẻ, tức muốn
nói tới lớp người từ tuổi lọt lòng đến 28 tuổi" [61, tr 12]. Còn ở đây chúng tôi quan
niệm thế hệ trẻ là lứa tuổi dưới 18. Đây là lứa tuổi đang chủ yếu chịu sự nuôi dưỡng,
chăm sóc và giáo dục của gia đình, lứa tuổi chưa được pháp luật quy định trách
nhiệm nghĩa vụ công dân. Thế hệ trẻ có những đặc trưng nổi bật là:
- Tâm, sinh lý, thể chất và nhân cách phát triển chưa hoàn chỉnh, do đó trong
những hành vi, cách ứng xử thường có những biểu hiện hạn chế và lệch lạc.
- Tính hiếu động và phản xạ nhanh, ưa chuộng những điều mới lạ. - Còn chịu sự
chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục của gia đình.
- Được giáo dục bởi sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Với những đặc trưng đó thì đây chính là giai đoạn quan trọng nhất cho sự hình
thành nhân cách. Một đứa trẻ khi vừa sinh ra chưa có nhân cách, mà nhân cách con
người được hình thành dần dần với cả một quá trình khá dài dưới tác động của nhiều
yếu tố.
1) Gia đình - yếu tố quan trọng nhất trong giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ
Với xu hướng xã hội hóa hiện nay, giáo dục con người không còn là chức
năng, vai trò, nhiệm vụ của riêng ai mà là trách nhiệm của cả gia đình, nhà trường và
xã hội. Song, với những đặc trưng riêng có của mình, gia đình là cộng đồng có vai
10
trò đặt biệt quan trọng trong giáo dục nhân cách con người. Giáo dục của nhà trường
nằm trong khuôn khổ nhất định về không gian (học tại một địa điểm duy nhất là
trong trường), về thời gian (12 năm phổ thông trung học, 2 năm trung cấp, 3 năm cao
đẳng, 4-7 năm đại học,...), chủ thể giáo dục là giáo viên, người được giáo dục là học
sinh, giáo dục chủ yếu có tính chất một chiều là giáo viên đối với học sinh; giáo dục
của các cộng đồng xã hội là sự giáo dục lẫn nhau của cá nhân với cá nhân trong một
tổ chức với những mục đích và chức năng nhất định như: Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn
thanh niên, cộng đồng dân cư... Ở đó, mỗi người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của
quá trình giáo dục.
Không giống với các môi trường giáo dục trên, có thể nói gia đình là thiết chế
giáo dục quan trọng nhất, không thể thay thế. Trước hết được thể hiện ở thời gian,
môi trường, chủ thể tham gia. Giáo dục của gia đình lại là sự tác động có hệ thống
của những người lớn trong gia đình và toàn bộ nếp sống của gia đình tới đứa trẻ. N ói
cách khác giáo dục của gia đình là: Toàn bộ những tác động của gia đình đến sự hình
thành và phát triển nhân cách con người, trước hết là trẻ em. Giáo dục của gia đình là
một bộ phận của hệ thống giáo dục xã hội. N ội dung giáo dục của gia đình chính là
những yếu tố của vấn đề văn hóa gia đình và văn hóa cộng đồng nhằm tạo lập và
phát triển nhân cách con người như đạo đức, lối sống, ứng xử,... Giáo dục của gia
đình được thực hiện ở mọi chu trình của đời người: từ khi còn thơ ấu đến tuổi thanh
niên, trung niên và tuổi già. Mục đích giáo dục của gia đình và của xã hội có sự
thống nhất căn bản với nhau. Tuy nhiên, mục đích của giáo dục gia đình có tính linh
hoạt hơn, thay đổi theo sự biến đổi và phát triển của đứa trẻ, theo sự vận động và
phát triển của xã hội, phụ thuộc vào chính cuộc sống của gia đình và những định
hướng của nó. Gia đình không phải là lực lượng duy nhất giáo dục nhân cách trẻ
nhưng là thiết chế giáo dục trẻ quan trọng nhất, không thể thay thế. Điều này còn
được thể hiện trong cả nội dung cũng như phương pháp giáo dục.
Về nội dung: giáo dục của GIA ĐÌNH là giáo dục toàn diện. Bao gồm cả giáo dục đạo
đức, lao động, học tập văn hoá và rèn luyện tính tự lập cho trẻ, giáo dục thể chất,
thẩm mỹ, giới tính, tình yêu và hôn nhân cho thế hệ trẻ.
a) Trước hết là giáo dục đạo đức
11
Trong giáo dục gia đình, giáo dục đạo đức là nội dung quan trọng nhằm xây
dựng ý thức đạo đức, bồi dưỡng tình cảm đạo đức, rèn luyện thói quen hành vi đạo
đức và để mỗi thành viên trong gia đình được sống trong môi trường chan chứa tình
thương, đậm tính nhân văn. Cha mẹ còn phải giáo dục cho trẻ ý thức trách nhiệm
đùm bọc, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa anh chị em ruột thịt. Chính những hành vi,
cư xử lễ phép, kính trên, nhường dưới, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ là cơ sở giúp trẻ
hình thành những phẩm chất đạo đức tốt như: lòng nhân ái, tính khiêm tốn, tính chân
thực trong quan hệ đối nhân xử thế với mọi người ngoài xã hội.
b) Thứ hai là giáo dục học tập văn hóa, giáo dục lao động và rèn luyện tính tự lập
cho trẻ
Đối với thế hệ trẻ, học tập văn hóa là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. N ếu không
khao khát nắm lấy tri thức khoa học, thanh thiếu niên không thể trở thành những
người tiên tiến có khả năng làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. Học tập văn hóa sẽ
góp phần phát triển toàn diện nhân cách con người. Giáo dục học tập có nội dung
toàn diện, nhằm trang bị những tri thức văn hóa, khoa học - kỹ thuật, nhằm mở rộng
sự hiểu biết, rèn luyện năng lực tư duy khoa học, óc phân tích và kỹ năng vận dụng
những tri thức vào cuộc sống. Do đó, cùng với giáo dục ở nhà trường, giáo dục đức
tính siêng năng học tập trong gia đình là hết sức quan trọng. Các bậc cha mẹ cần giúp
con trẻ xác định đúng mục đích, động cơ, thái độ học tập đúng đắn, rèn luyện cho các
em ý thức tự giác, lòng say mê học tập. Trong chừng mực có thể được, cha mẹ dạy
con cái về kiến thức văn hóa và văn hóa ứng xử. Gia đình cần dành cho con trẻ
những điều kiện thuận lợi nhất cho học tập, đồng thời, phải thường xuyên kiểm tra,
đôn đốc nhắc nhở việc học tập của con cái, luôn tạo ra "không khí học tập", phải tôn
trọng việc học, giờ học của con. Bên cạnh giáo dục học tập văn hóa thì giáo dục lao
động cũng là một nội dung quan trọng không thể thiếu. Giáo dục lao động không chỉ
là rèn thói quen lao động, quý trọng thành quả lao động mà còn để phát triển cho trẻ
em năng lực và kỹ năng ở những lĩnh vực khác nhau, góp phần hình thành nhân cách,
phát triển những tình cảm đạo đức và niềm tin của trẻ. Đồng thời, cha mẹ cũng phải
quan tâm đến việc đánh giá đúng mức kết quả lao động của con cái thì giáo dục lao
động mới có hiệu quả cao, khích lệ trẻ tích cực trong lao động.
c) Thứ ba là giáo dục thể chất và thẩm mỹ:
12
Xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ thì việc thưởng thức cái đẹp của con người
ngày càng cao, trở thành một nhu cầu quan trọng trong đời sống hàng ngày. Con
người tiếp thu cái đẹp đầu tiên chính là ở trong gia đình. Có thể nói những mầm
mống của cái đẹp được tiếp nhận ở trong gia đình là nền tảng để xây dựng cái đẹp
của cả cuộc đời. Giáo dục thẩm mỹ ở trong gia đình, trước hết phải quan tâm giáo
dục những hành vi trong nếp sống lịch sự, văn minh. Ngoài ra, tùy hoàn cảnh gia
đình mà các bậc cha mẹ lựa chọn phương tiện phù hợp giúp các em phát triển những
năng khiếu thẩm mỹ chuyên biệt về ca nhạc, hội họa, điêu khắc... làm cho thẩm mỹ
nhân sinh ngày càng thêm phong phú hơn.
d) Thứ tư là giáo dục giới tính (GDGT), tình yêu và hôn nhân cho thế hệ trẻ:
Theo A.Ma-ca-ren-cô, "giáo dục giới tính được xem là một trong những vấn đề
khó nhất của khoa học giáo dục" [30, tr 110]. Ông còn cho rằng, chưa một vấn đề
nào lại bị người ta làm cho trở thành rắc rối và chưa có vấn đề nào có nhiều ý kiến
sai lệch như vấn đề này. Giáo dục giới tính là một bộ phận khăng khít của giáo dục
nhân cách, có ý nghĩa quan trọng trong sự hình thành đạo đức đối với người chưa
trưởng thành. Có thể hiểu giáo dục giới tính là hệ thống các biện pháp tâm sinh lý
nhằm giáo dục thế hệ trẻ có thái độ đúng đắn đối với các vấn đề giới tính. Sự phát
triển giới tính của trẻ chưa thành niên là sự phát triển tất yếu theo quy luật bình
thường của tạo hóa. Tuổi chưa thành niên có những biến đổi đặc thù về sinh lý và đi
theo nó là những biến đổi đặc thù về tâm lý. Những biến đổi đó có thể coi là bước
ngoặt, bước bứt phá về giới tính, đưa các em ra khỏi thế giới tuổi thơ để bước vào thế
giới người lớn. Nhiệm vụ của giáo dục giới tính là tạo điều kiện cho sự phát triển hài
hòa của thế hệ trẻ và sự hình thành đầy đủ giá trị chức năng sinh sản, việc nâng cao
kiến thức về tình dục học. Nhưng giáo dục giới tính như thế nào cho đúng, đó là vấn
đề không đơn giản.Mục đích của giáo dục giới tính là giúp trẻ chủ động được mối
quan hệ qua lại giữa hai giới, có nhu cầu, nguyện vọng hành động phù hợp với
những tiêu chuẩn đạo đức của xã hội. Điều đó có nghĩa là giáo dục giới tính phải đạt
tới những điều sau: Một là, để trẻ hiểu được ý nghĩa xã hội của quan hệ qua lại giữa
hai giới. Hai là, trẻ được giáo dục có nhu cầu và hành động phù hợp với chuẩn mực
đạo đức xã hội. Trong xã hội hiện đại việc giáo dục giới tính cần thiết phải được tiến
hành sớm, thường xuyên hơn và đồng bộ. Điều đó cũng có nghĩa là cha mẹ phải là
13
những người có trách nhiệm đầu tiên trong việc giáo dục giới tính cho trẻ. Vấn đề
giáo dục giới tính chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi các bậc cha mẹ có kiến thức
đầy đủ, đúng đắn về giới tính, hiểu đầy đủ ý nghĩa của hôn nhân và hạnh phúc gia
đình với tính phức tạp của cuộc sống xã hội.
Về phương pháp, giáo dục của gia đình được thực hiện kết hợp nhiều phương pháp
khác nhau. Bao gồm: Phương pháp nêu gương; phương pháp khuyên bảo thuyết
phục; phương pháp rèn luyện thói quen, phương pháp khen thưởng, kỷ luật, trừng
phạt.
a) Thứ nhất là phương pháp nêu gương
Vấn đề gương mẫu của bố mẹ có ý nghĩa vô cùng to lớn trong giáo dục gia đình
được coi như một chân lý giản dị, sáng rõ như ban ngày. Không có gì có thể tác động
lên tâm hồn non nớt của trẻ mạnh bằng quyền lực của sự làm gương và giữa muôn
vàn tấm gương thì không gì gây ấn tượng sâu sắc và bền chặt bằng sự mẫu mực của
bố mẹ. Song, thực hiện được điều đó quả thực là khó khăn đối với nhiều bậc bố mẹ.
Bên cạnh đó, có những bậc cha mẹ rất gương mẫu xứng đáng là một người công dân
chân chính, nhưng giáo dục gia đình lại thất bại, thậm chí con cái rất hư đốn. Điều đó
cần xem xét lại các phương pháp giáo dục của gia đình và các quan hệ xấu của bạn
bè, tác động tiêu cực trong môi trường tự phát của xã hội. Ngược lại, cũng có những
bậc cha mẹ thiếu đạo đức nhân cách vậy mà con cái của họ vẫn trở thành người tốt.
b) Thứ hai là phương pháp khuyên bảo, thuyết phục:
Diễn giải, thuyết phục của cha mẹ trong gia đình chính là để cung cấp cho trẻ
những kinh nghiệm quý báu được nhân loại đúc kết thành những quy tắc, nguyên tắc,
chuẩn mực trong đời sống. Diễn giải, thuyết phục bằng lời để khai sáng, thúc đẩy
hành vi tốt đẹp cho trẻ ở trong gia đình là cơ sở, nền tảng thúc đẩy hành vi tốt đẹp
cho trẻ ở bên ngoài xã hội. Do đó, sự khuyên bảo, thuyết phục, trên tinh thần gần gũi,
quan tâm chia sẻ, trao đổi với con là phương pháp hữu hiệu giúp cha mẹ thực hiện tốt
vai trò giáo dục nhân cách cho con của mình.
c) Thứ ba là phương pháp rèn luyện thói quen:
Trong cuộc sống của con người có những động tác được lặp đi, lặp lại nhiều lần
sẽ trở thành thói quen của người đó. Việc sử dụng những thói quen tốt và những thói
quen xấu ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách của mỗi con người. Cha mẹ
14
cũng chính là những người đầu tiên giúp trẻ hình thành những thói quen này.Bởi vì
việc hình thành một thói quen tốt là một quá trình khắc phục rất nhiều khó khăn cha
mẹ phải kèm cặp, kiểm tra, giúp các em thực hiện không chỉ về mặt ‘kỹ thuật” bên
ngoài mà cũng làm phát triển những phẩm chất bên trong của trẻ, đó là rèn luyện ý
chí, động cơ, nghị lực, các yếu tố đạo đức để thống nhất cái “cần làm” khách quan và
cái “thích làm hoặc không thích làm” chủ quan của cá nhân. Hầu như mọi hành vi,
thói quen, đạo đức của con người nói chung, đặc biệt là đối với trẻ chủ yếu là được
hình thành từ trong cuộc sống gia đình. Vì vậy, các bậc cha mẹ cần phải quan tâm
rèn luyện thói quen tốt - được coi như những yếu tố nhân cách gốc để có thể tiếp tục
phát triển một cách thuận lợi.
d) Thứ tư là phương pháp khen thưởng
Cha mẹ là những người đầu tiên giúp trẻ hình thành những phẩm chất đạo đức,
thói quen tốt và cũng là những người đầu tiên khen thưởng chúng khi chúng làm tốt
một điều gì đó. Khen thưởng là hình thức biểu thị sự đồng tình, sự đánh giá tốt đẹp
về những cố gắng, những thành tích mà trẻ thực hiện được. Điều này giúp trẻ vui
mừng, sung sướng và tiếp tục thực hiện những hành vi tốt. Song, các bậc cha mẹ
cũng nên lưu ý rằng, không phải bất cứ việc biểu dương khen thưởng nào cũng có tác
động tích cực. Ý nghĩa giáo dục của việc khen thưởng càng lớn, khi khen thưởng
không chỉ đơn giản đánh giá kết quả mà cũng nêu bật được sự nỗ lực cá nhân và cả
động cơ, phương thức hoạt động. Mục đích của khen thưởng luôn luôn đòi hỏi trẻ
phải cố gắng hơn, nỗ lực bản thân hơn nữa trong việc thực hiện nghĩa vụ, trách
nhiệm của mình.
e) Thứ năm là phương pháp kỷ luật, trừng phạt:
Giống như phương pháp pháp khen thưởng, chính cha mẹ là những người
trừng phạt, kỉ luật trẻ đầu tiên. Ngược lại đối với khen thưởng là biểu thị sự đồng
tình, sự đánh giá tốt đẹp về những cố gắng, những thành tích mà trẻ thực hiện được
thì chê trách, kỉ luật, trừng phạt,..nhằm điều chỉnh, uốn nắn những hành vi sai lạc đối
với trẻ, làm tổn hại đến lợi ích chung của gia đình, tập thể hay cộng đồng xã hội.
Những hình thức này là các mức độ tác động đến nhân cách của trẻ, biểu hiện thái độ
không đồng tình, lên án, phản đối, phủ nhận,...của cha mẹ đối với những hành vi,
15
hành động của trẻ trái mục đích, yêu cầu theo định hướng phát triển nhân cách chính
đáng. Thậm chí có khi dùng đến roi vọt chỉ vì một mục đích là giúp cho trẻ nhận
thức đầy đủ, sâu sắc các mức lỗi lầm, sai phạm nghiêm trọng của mình đó gây tác hại
không những cho chính bản thân mà cả người khác. Vì vậy, trừng phạt không nhất
thiết phải loại trừ ra khỏi lĩnh vực giáo dục trong gia đình. Thậm chí, có khi lại cần
thiết, nếu trẻ ương bướng, cố tình hành động sai với những quy tắc chuẩn mực đạo
đức, xâm hại đến truyền thống tốt đẹp của gia đình.
C) Những biến đổi trong giáo dục gia đình người Việt
1. Biến đổi trong nội dung giáo dục
Chức năng giáo dục của gia đình đã biến đổi theo hướng đồng nhất giáo dục với
dạy học, chia sẻ dần nhiệm vụ đó sang các lực lượng khác ngoài gia đình. Chính vì
vậy, nhiều nội dung của giáo dục gia đình đã có những thay đổi. Nếu như trong truyền
thống, giáo dục gia đình chủ yếu tập trung vào việc định hướng nghề nghiệp, giáo dục
đạo đức, thế ứng xử, truyền thống gia đình, gia tộc... thì hiện nay, các nội dung này đã
có điều chỉnh theo những mức độ khác nhau. Về cơ bản, giáo dục gia đình vẫn thể
hiện kỳ vọng của cha mẹ vào con cái. Sự kỳ vọng đó đã có những thay đổi theo hướng
mong muốn con cái đạt được những giá trị thực tế hơn, để có được cuộc sống thuận
lợi, chất lượng cao hơn. Từ sự mong muốn đó, các nội dung giáo dục của gia đình
người Việt hiện nay chủ yếu hướng vào các vấn đề: ý thức học tập, lập nghiệp, tránh
xa tệ nạn xã hội. Riêng với việc quan hệ tình dục trước hôn nhân, các bậc cha mẹ có
con gái cảm thấy lo lắng nhiều hơn những người có con trai. Điều này điều chỉnh nội
dung giáo dục của các gia đình đối với từng đối tượng cụ thể.
Sự thay đổi lớn nhất trong nội dung giáo dục gia đình so với truyền thống là về
việc định hướng nghề nghiệp. Niềm tự hào của nhiều gia đình người Việt xuất phát từ
việc có người kế nghiệp. Nó mang lại sự yên tâm cho đại gia đình khi nghề nghiệp đó
đã được chuẩn bị tốt từ các thế hệ trước. Sự tiếp nối của thế hệ sau là điều kiện thuận
16
lợi để làm tăng thêm uy tín gia đình. Việc định hướng nghề nghiệp còn được thể hiện
theo hướng chủ trương lập danh. Những nghề có thể được mọi người kính trọng luôn
là đích hướng để các gia đình mong con đi theo. Thầy thuốc, thầy giáo, người giữ
chức sắc trong chính quyền là những nghề được ưu tiên số một trong giáo dục nghề
nghiệp của đại đa số các gia đình người Việt truyền thống.
Giáo dục lao động lại biến đổi theo một xu hướng khác. Nếu như trẻ em ở thành
phố đang được các bậc cha mẹ giảm dần yêu cầu lao động để chủ yếu dành thời gian
cho học tập, thì khá nhiều trẻ em nông thôn, miền núi lại đang bị đặt trong những đòi
hỏi ngày một cao hơn về việc đóng góp vào thu nhập gia đình. Trẻ em trong gia đình
người Việt truyền thống được giáo dục lao động trong mối quan hệ với cộng đồng sản
xuất gia đình. Chúng là một mắt xích trong hệ thống sản xuất đó, nên cho dù phải lao
động khá nhiều nhưng hầu như không bị tách khỏi môi trường gia đình, làng xã. Ngày
nay, không ít trẻ em nông thôn, miền núi bị tách khỏi môi trường gia đình khá sớm.
Việc lao động độc lập, tách khỏi gia đình khiến trẻ em dễ rơi vào nguy hiểm, ít được
định hướng, không tránh khỏi bị lạm dụng, bóc lột. Việc lao động của nhóm trẻ này
chủ yếu là vì mục đích kinh tế, chứ không phải là đưa vào môi trường làm việc để dạy
chúng các kỹ năng, biết nhận thức về thế giới xung quanh, biết trân trọng giá trị của
lao động. Với động cơ kinh tế như vậy, trẻ dễ cực đoan và có thể sớm quen với việc
quy đổi mọi giá trị đạo đức theo giá trị của đồng tiền. Trong khi đó, ngược lại, rất
nhiều gia đình ở thành phố có người giúp việc hay có ông bà giúp đỡ đã tách trẻ hoàn
toàn khỏi các công việc lao động chân tay, kể cả việc phục vụ sinh hoạt cá nhân. Việc
không được giáo dục lao động thông qua các công việc hàng ngày khiến chúng trở nên
ích kỷ, lười biếng, thiếu năng động, khả năng thích ứng khi thay đổi điều kiện sống là
rất kém.
2. Biến đổi trong hình thức giáo dục
Giáo dục trong gia đình truyền thống đề cao nguyên tắc yêu cho roi cho vọt, ghét
cho ngọt cho bùi, nên thường áp dụng các hình thức giáo dục khắt khe. Khoảng cách
giữa cha mẹ và con cái, đặc biệt là người cha, luôn phải nới rộng để tạo nên cảm giác
về quyền lực tuyệt đối. Đó được xem là điều kiện để đảm bảo hiệu quả của giáo dục
gia đình. Trong quan niệm truyền thống, nếu cha mẹ không nghiêm khắc, không áp
17
dụng những hình thức giáo dục cứng rắn thì con cái sẽ khó có thể nghe lời và đi vào
khuôn khổ.
Quan niệm trên đang có nhiều thay đổi, sự áp dụng các hình thức giáo dục gia
đình không hoàn toàn mang tính chất khắt khe, cứng rắn như trước. Biện pháp giáo
dục bằng đòn roi không còn được nhiều gia đình áp dụng, thay vào đó, chủ yếu là
nhắc nhở, phân tích đúng sai hoặc quát mắng. Một hình thức giáo dục khác khi trẻ
mắc lỗi được áp dụng là liên hệ với nhà trường. Hình thức này tuy không phổ biến
nhưng sự xuất hiện của nó cho thấy, các bậc cha mẹ không muốn giấu giếm việc con
mình có lỗi và nhờ nhà trường can thiệp như một phương thức hỗ trợ giáo dục gia
đình.
Điều này xuất phát từ nhận thức ngày một rõ hơn về khả năng tác động của các
hình thức giáo dục. Trẻ bị đánh mắng nhiều thường có phản ứng tiêu cực: hoặc tự ti,
tủi thân, buồn bã khi thấy mình không được đối xử công bằng, không được giãi bày,
giải thích; hoặc bất cần, thù hận, thậm chí bỏ nhà ra đi vì nghĩ rằng làm như thế sẽ
khiến cha mẹ phải đau khổ, ân hận. Ngay cả các bậc cha mẹ cũng nhận thấy tác hại
của việc đánh đòn khi trẻ mắc lỗi, nên rất ít người thừa nhận đã áp dụng hình thức đó.
Nhưng trên thực tế, sự mất bình tĩnh, nóng nảy đã khiến hình thức này được họ áp
dụng với trẻ khá nhiều. Điều này được truyền thống cho là hình thức giáo dục ngăn
ngừa tái phạm, nhưng cũng lại chính là nguyên nhân dẫn tới sự xa cách của con cái.
Chúng sẽ không dám gần gũi, chia sẻ với cha mẹ, nên dễ phạm sai lầm tiếp theo khi
thiếu đi sự tư vấn kịp thời của người lớn. Do vậy, trong bối cảnh hiện tại, việc áp dụng
hình thức đánh đòn khi không thực sự cần thiết sẽ dễ gây tác dụng tiêu cực.
3. Biến đổi vai trò của các thành viên gia đình với việc giáo dục
Gia đình truyền thống luôn nói về ảnh hưởng của người mẹ tới sự phát triển
nhân cách trẻ em. Quan niệm phúc đức tại mẫu đã thể hiện rõ điều này. Đây không
phải chỉ là ảnh hưởng của lối tư duy về nguyên lý mẹ trong các cư dân nông nghiệp,
mà còn xuất phát từ sự tiếp xúc gần gũi hàng ngày của mẹ với con cái. Tuy nhiên, nếu
xét trên phương diện giáo dục gia đình một cách chính thống, do ảnh hưởng của Nho
18
giáo, người đàn ông trong gia đình gia trưởng mới được xem như là người quyết định
nội dung, hình thức giáo dục. Người cha không chỉ là người có nhiệm vụ giáo dục con
cái mà còn giáo dục được cả người mẹ, là người giữ nhiệm vụ điều chỉnh mọi quan hệ
ứng xử trong gia đình và gia tộc.
Vai trò của người đàn ông trong giáo dục gia đình người Việt hiện nay về cơ bản
vẫn được giữ như truyền thống. Điều này có thay đổi ở một số khu vực, các vùng nông
thôn có xu hướng đề cao vai trò của người đàn ông hơn, kéo giãn khoảng cách về vai
trò của người cha với người mẹ trong giáo dục con cái. Trong khi đó, khoảng cách này
ở các gia đình thành thị được thu hẹp hơn. Điều đó phản ánh một thực tế: việc giáo
dục trong gia đình người Việt hiện nay đang chia đều cho cả cha mẹ và ông bà, theo
đó, người mẹ đang giữ vai trò ngày một rõ rệt hơn trong giáo dục.
Điều này thể hiện trước hết ở việc trực tiếp dạy con học bài buổi tối. Việc người
mẹ không chỉ duy trì được ảnh hưởng đến con cái bằng những tiếp xúc gần gũi trong
sinh hoạt hàng ngày, mà còn trực tiếp dạy con học tập là biểu hiện rõ nhất của sự thay
đổi trong vai trò của các thành viên gia đình với việc giáo dục. Nguyên nhân căn bản
là việc người phụ nữ đang ngày càng có trình độ cao hơn, đủ khả năng kèm cặp con
cái học hành. Nhiều phụ nữ hiện lại làm các công việc liên quan đến giáo dục nên
thích hợp dạy học cho con tại nhà. Mặt khác, phụ nữ có nhiều thời gian ở nhà hơn, ít
bị chi phối bởi các công việc xã hội hơn, mềm tính, kiên nhẫn hơn... Đó là những cơ
sở để người mẹ tăng dần ảnh hưởng đến việc giáo dục con cái.
Mâu thuẫn chủ yếu xuất phát từ việc người mẹ thường có xu hướng đưa ra cùng
một lúc quá nhiều nội dung giáo dục, thỏa mãn kỳ vọng ngày một tăng của con cái.
Việc học thêm triền miên, chọn trường điểm lớp tốt, học năng khiếu, ngoại khóa... có
xu hướng chủ yếu xuất phát từ phía người mẹ khiến người cha và ông bà có thể không
đồng tình. Do đó, mâu thuẫn trong giáo dục trẻ em chủ yếu phổ biến ở các gia đình
khu vực thành thị.
Mâu thuẫn trong giáo dục gia đình còn liên quan đến một lực lượng nữa, đó là
gia sư. Trong các gia đình thành thị, lực lượng này đang có xu hướng chiếm vai trò
khá quan trọng trong việc dạy trẻ. Không thể phủ nhận những ưu điểm của gia sư, tuy
19
nhiên, lực lượng này chỉ đáp ứng tối đa cho một mảng nội dung của giáo dục, đó là
dạy học. Đó là chưa kể việc giao hoàn toàn cho gia sư dạy học cũng chưa thể khẳng
định được hiệu quả thực chất ở mức nào. Việc giáo dục vì thế dễ bị phiến diện. Trong
giao tiếp với gia sư, trẻ thường không chú ý nhiều đến thái độ ứng xử. Đây chính là
một trong những nguyên nhân khiến các đối tượng khác trong gia đình có thể không
đồng tình với sự tham gia của lực lượng giáo dục khá mới mẻ này.
Chương III: Khuyến nghị mang tính giải pháp
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cùng với sự chuyển đổi toàn
diện về kinh tế - xã hội cũng đang diễn ra quá trình chuyển đổi mạnh mẽ về hệ thống
giá trị, trong đó, có cả những giá trị gia đình. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây đều
thống nhất khẳng định trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay
mặc dù đang có rất nhiều tác động xấu đến đời sống gia đình, nhưng về cơ bản, gia
đình Việt Nam vẫn bảo tồn và phát huy được những giá trị truyền thống quý báu của
mình như: tình yêu trong sáng, hôn nhân lành mạnh; lòng thủy chung, tình nghĩa vợ
chồng; trách nhiệm và sự hy sinh vô hạn của cha, mẹ cho con cái; con, cháu hiếu thảo
với cha, mẹ, kính yêu ông, bà, biết ơn tiên tổ; anh em, họ hàng đùm bọc, giúp đỡ lẫn
nhau; các thành viên đề cao lợi ích chung của gia đình; lòng tự hào về truyền thống gia
đình, dòng họ và quê hương... Đồng thời, gia đình Việt Nam cũng đã tiếp thu nhiều
tinh hoa của gia đình hiện đại như: tôn trọng tự do cá nhân; tôn trọng sự lựa chọn cá
nhân; dân chủ, bình đẳng trong quan hệ; bình đẳng về nghĩa vụ, trách nhiệm và thụ
hưởng; không phân biệt đối xử nam, nữ, trai, gái, dâu, rể... Với những yếu tố trên, rõ
ràng gia đình Việt Nam vẫn đang và sẽ là một giá trị xã hội bền vững. Đây chính là cơ
sở hiện thực để gia đình Việt Nam tiếp tục tồn tại và phát triển vững chắc và cũng là
cơ sở để gia đình ngày càng thực hiện tốt hơn chức năng giáo dục của mình.
Phải đổi mới phương pháp giáo dục. Sao cho kết hợp được hai yếu tố truyền thống và
hiện đại.
Có một số người cho rằng cách giáo dục truyền thống quá khuôn mẫu, cứng nhắc
một chiều, hạn chế việc phát huy tính năng động sáng tạo của trẻ em. Do đó, họ cắt
20
đứt hẳn với truyền thống. Trong xã hội hiện đại, quyền tự do dân chủ của thế hệ trẻ
được đề cao. Cha mẹ, thầy cô không còn là người áp đặt những công thức cho con cái
thực hiện mà chỉ như là “cố vấn” hướng dẫn cho con trẻ từng bước đi vào đời. Vậy thì
phương pháp giáo dục nào đúng đắn hơn? Theo tôi cách giáo dục nào cũng có ưu va
khuyết điểm của nó. Chúng ta cần phải biết chọn lọc những cái hay của giáo dục
truyền thống và uyển chuyển cho nó phù hợp với hoàn cảnh mới. Không hiểu sao tôi
lại thích cách giáo dục nghiêm khắc của gia đình truyền thống hơn. có lẽ xuất phát từ
thực tế trong gia đình tôi và ngoài xã hội hiện nay. Chính sự nghiêm khắc của cha tôi
mà anh em tôi được nên người. Còn thực tế xã hội thì ngày xưa trẻ em ít hư hỏng hơn
ngày nay (tất nhiên ngoài phương pháp giáo dục còn có nhiều nguyên nhân khác nữa).
Sự nuông chiều quá mức đến với trẻ em đã mang lại những hậu quả đáng tiếc trong xã
hội phương Tây, ví dụ như cha mẹ chỉ cần tác tai người con khi nó có hành vi hỗn láo
thì cha mẹ bị bắt ở tù và nộp tiền phạt. Học sinh đến trường không để học mà quậy
phá, thầy cô giáo không kiểm soát được chúng. Rõ ràng sự xa rời truyền thống sẽ dẫn
đến sự suy đồi về đạo đức. Ở Việt Nam, tuy trẻ em được đề cao nhưng chưa đến nỗi
như thế, con cái vẫn chịu lệ thuộc nhiều vào sự quản lí và giáo dục của gia đình. Đó
cũng là cái hay của lối giáo dục kết hợp giữa truyền thống và hiện đại của dân tộc ta.
vấn đề là chúng ta xác định những yếu tố nào của gia đình truyền thống Việt Nam cần
được khai thác, bảo vệ, tiếp thu, kế thừa và tăng cường trong xã hội hiện nay. Điều đó
chúng ta sẽ bàn trong phần những giải pháp.
Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nhân
cách cho thế hệ trẻ của gia đình
1) Nâng cao nhận thức về vai trò của gia đình đối với sự hình thành nhân cách trẻ
gắn liền với nâng cao trình độ và năng lực giáo dục con cái của các bậc cha mẹ
Gia đình là trường học đầu tiên và suốt đời của mỗi con người, là tổ ấm nuôi
dưỡng chăm sóc, giáo dục và trưởng thành. gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên
của trẻ. Do đó môi trường gia đình là nền tảng, là cơ sở để trẻ hình thành nhân cách..
Nhiều quan điểm trước đây cho rằng: “cha mẹ sinh con, trời sinh tính” hay gia đình
chỉ có trách nhiệm sinh con, còn dạy dỗ, giáo dục là trách nhiệm của nhà trường và
xã hội. Vì thế không ít gia đình phó thác việc dạy dỗ trẻ cho nhà trường, đoàn đội và
xã hội, mối quan hệ giáo dục giữa gia đình - nhà trường - xã hội trở nên lỏng lẻo,
21
không thống nhất được về nội dung, mục đích, phương pháp phối hợp, nhiều khi dẫn
đến mâu thuẫn và gây nhiều khó khăn .
Việc nâng cao nhận thức về vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách của
thế hệ trẻ là nâng cao trình độ và năng lực giáo dục con cái của các bậc cha mẹ.
Trước đây trong giáo dục con cái, cha mẹ chỉ cần có một số kinh nghiệm rút ra từ
bản thân hoặc thêm nữa là kinh nghiệm của anh em, bà con dòng tộc là đủ. Thậm chí
cha mẹ có thể dạy con bằng phương pháp cưỡng bức, áp đặt. Ngày nay, muốn giáo
dục tốt con em mình, đầu tiên là cha mẹ phải thường xuyên học tập nhằm nâng cao
trình độ, không ngừng hoàn thiện bản thân mình và là tấm gương ham học tập để con
cái noi theo. Sự tu dưỡng, gương mẫu của cha mẹ sẽ tạo uy tín cho con cái. Sự hiểu
biết có tác động củng cố cho uy tín của cha mẹ, đồng thời có năng lực giáo dục con
cái.
2) Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ
Đổi mới nội dung giáo dục đạo đức, giáo dục học tập, lao động, rèn luyện tính
tự lập cho trẻ, đồng thời phải quan tâm đến giáo dục thể chất, thẩm mỹ, giới tính cho
thế hệ trẻ. Phải giáo dục cho trẻ ý thức giữ gìn, bảo vệ sức khỏe cho bản thân và mọi
người xung quanh. Có sức khỏe tốt thì mới thực hiện được việc học tập, lao động.
Giáo dục trẻ có chế độ ăn uống, học tập, lao động khoa học, hợp lý; phòng chống các
tệ nạn xã hội như nghiện hút, tiêm chích ma túy,… Có những hiểu biết nhất định về
quá trình phát triển sinh học của cơ thể, sự khác biệt giữa những người khác giới,…
Tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra do trẻ tò mò, thiếu hiểu biết như yêu và quan
hệ tình dục quá sớm dẫn đến mang thai ngoài ý muốn ảnh hưởng tới sức khỏe, tinh
thần và tương lai của trẻ.
3) Tăng cường sự kết hợp giữa gia đình với nhà trường và các tổ chức xã hội trong
giáo dục nhân cách cho thệ hệ trẻ.
Cha mẹ thì dường như phó mặc việc dạy dỗ con cái cho nhà trường, chỉ quan
tâm đến đời sống vật chất cho con cáiTrong thời kỳ đổi mới mở của hội nhập, sự
giao lưu văn hoá đa phương, đa dạng như hiện nay, sự đan xen của các yếu tố tích
cực và tiêu cực đang làm cho công tác giáo dục thế hệ trẻ trở nên phức tạp hơn. Do
đó Đảng ta đã khẳng định nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo
làm cho xã hội lo lắng như sự suy thoái trong quan hệ thầy trò, bè bạn đặc biệt thời
22
gian gần đây còn nổi lên vấn đề bạo lực học đường, môi trường sự phạm xuống cấp;
lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão; tư duy lệch lạc...ở một số bộ phận học sinh, sinh
viên, coi nhẹ giáo dục đạo đức, thNm mỹ và các môn chính trị, khoa học xã hội và
nhân văn. Do vậy không có sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội thì việc
giáo dục thế hệ trẻ sẽ vô cùng khó khăn. Để giữ được mối liên hệ chặt chẽ, thường
xuyên giữa các tổ chức này thì cha mẹ phải thường xuyên trao đổi thông tin với thày
cô giáo qua sổ liên lạc và trực tiếp gặp gỡ. Thống nhất về mục đích, nội dung cũng
như phương pháp giáo dục như: việc nuôi dưỡng, chăm sóc, kết hợp dạy văn hoá với
lí tưởng, niềm tin, đạo đức, lao động, nghề nghiệp, thẩm mỹ, sức khoẻ,... Về phương
pháp thì gắn quá trình giáo dục với tự giáo dục; kết hợp các hình thức, biện pháp
giáo dục đa dạng, phù hợp với lứa tuổi, giới tính. Tăng cường sự hoạt động và có sự
phối hợp giữa Hội cha mẹ học sinh và nhà trường, nhằm nắm bắt kịp thời những
thông tin về học tập, rèn luyện của học sinh, đồng thời duy trì thông báo giữa gia
đình và nhà trường, chú ý phương pháp phản ánh để mang lại hiệu quả giáo dục cao.
Với sự phát triển của xã hội hiện đại, các bậc ông bà, cha mẹ muốn thực hiện
tốt vai trò là nhà giáo dục đặc biệt quan trọng của mình đối với trẻ thì không chỉ quan
tâm xây dựng kinh tế gia đình mà còn phải trau dồi kiến thức mọi mặt, bản thân phải
là tấm gương sáng về đạo đức, tinh thần tự học cho con cái noi theo; tạo bầu không
khí gia đình vui vẻ, hòa thuận, yêu thương lẫn nhau giữa các thành viên; tăng cường
sự phối hợp giữa gia đình với nhà trường và các tổ chức xã hội trong giáo dục nhân
cách cho thệ hệ trẻ. Đồng thời, Đảng và Nhà nước ta cũng phải quan tâm đổi mới,
hoàn thiện hệ thống chính sách gia đình nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu: xây
dựng giađình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững – đây là cơ sở cho
việc nâng cao vai trò của giáo dục gia đình. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng ta đã chỉ rõ: ”Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời
người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Các
chính sách của Đảng và Nhà nước phải chú ý xây dựng gia đình no ấm, hòa thuận, tiến
bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người”.
Chương IV: Tài liệu tham khảo
23
1) Nguyễn Thành Công (2007), Vai trò của giáo dục gia đình đối với sự hình
thành nhân cách thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ khoa học triết
học, Đại học Khoa học Xã hội và N hân văn, ĐHQGHN .
2) Lê Sơn (2004), Nhân cách và sự hình thành nhân cách, Chuyên đề khoa học,
TPHCM.
3) Đặng Cảnh Khanh (2003), Vai trò của gia đình trong việc giáo dục giá trị
truyền thống cho trẻ em, N XB Lao động xã hội, Hà N ội.
4) Lê Ngọc Văn. Những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam, tạp chí khoa học
và phụ nữ, số 1 (31)/1998
5) Nguyễn Đình Xuân, Giáo dục đời sống gia đình, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà
Nội 1997
6) Nguyễn Văn Lê - Nguyễn Thị Đoan, Giáo dục giới tính, Nxb Đại học quốc gia,
H.1997.
7) Lê Ngọc Văn, Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hoá, Nxb Giáo dục,
H.1996.
8) Lê Tiến Hùng (1995), Nuôi dạy con nên người, NXB Hà Nội.
9) />10) />
24