Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Quy trình dạy dỗ chó con và chó trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.23 MB, 64 trang )

Quy Trình Dạy Dỗ Chó Con Và Chó Trẻ

Quá trình giáo dục chó con và chó trẻ có tính đến các đặc điểm về độ
tuổi, có thể chia ra làm 3 thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất: Thời kỳ bú mẹ, trước khi cai sữa
Thời kỳ thứ hai: Từ 1 đến 5 tháng tuổi cho đến 5 hoặc 6 tháng tuổi
Thời kỳ thứ ba: Từ 5 đến 6 tháng tuổi cho đến 12 hoặc 18 tháng tuổi. Đây là
thời kỳ giáo dục cá thể đối với chó con và chó trẻ.
Thời kỳ thứ nhất:
Theo số liệu của rất nhiều nhà nghiên cứu, thì qua nhiều lần phân tích, họ đều
kết luận rằng: các phản xạ và điều kiện của chó con bắt đầu được thể hiện từ
ngày thứ 20 đến 25 sau khi chúng ra đời.
Các phản xạ nguyên thủy về khứu giác, về thức ăn đã xuất hiện ngay từ
những ngày đầu tiên của cuộc đời chó con và các phản xạ này có bản chất
điều kiện – không điều kiện. Khi hình thành các phản xạ này có mặt tất cả các
cơ quan phân tích như vị giác, vận động, xúc giác, nhiệt độ và khứu giác. Nếu
loại trừ khỏi tổ hợp này, chẳng hạn như kích thích về vị giác thì các phản xạ
thuộc về khứu giác sẽ được tạo thành chỉ ở ngày thứ 20 hoặc 22 sau khi chó
con ra đời.
Nhiệm vụ chính của việc giáo dục chó con ở thời kỳ còn bú mẹ là cho chúng
làm quen với các kích thích khác nhau của môi trường xung quanh. Điều này
được giảm nhẹ đi bằng việc nuôi dưỡng chó con cùng với chó mẹ, bởi vì chó
con sẽ bắt chước chó mẹ phản ứng lại kích thích này hay kích thích khác. Cần
tính đến một điều là các phản xạ bắt chước ở chó con lại được thể hiện ở dạng
tích cực nhất.


Dạo chơi – đây là một hình thức chủ yếu mà thông qua nó có thể làm cho chó
con quen với môi trường xung quanh và tập cho chúng quen phản ứng lại một
cách bình tĩnh đối với các kích thích khác nhau mà chúng gặp. Có thể tác
động vào chó con rất nhiều loại kích thích khác nhau như:


kích thích thuộc về động vật, kích thích những mùi khác nhau, các âm thanh
khác nhau (ví dụ âm thanh do các phương tiện vận chuyển, âm thanh do tiếng
súng đưa lại …) hoặc là người lạ, rừng, gió, mưa, sấm, các chướng ngại vật…
phải cho chó con làm quen với tất cả các kích thích và phải dạy cho chúng
không sợ bất kỳ kích thích nào nhưng lại thận trọng đối với các kích thích.
Đối với điều này cần phải chấp hành một trình tự xác định.
Khi cho chó bắt đầu làm quen với các kích thích, thì nên đặt chúng ở hoàn
cảnh bình thường rồi dần dần mới đặt chúng ở hoàn cảnh phức tạp hơn.
Không nên dẫn chó từ trại chăn nuôi đến ngay những nơi náo nhiệt, nơi đông
người, ồn ào, còi inh ỏi, đầy các âm thanh, các tiếng ầm ầm do xe cộ đi lại, sẽ
làm cho chó con hoảng sợ. Nỗi sợ hãi đó sẽ còn đọng lại ở chó con rất lâu và
do vậy lần dạo chơi tiếp theo giống như thế sẽ làm cho chó con trở lên hèn
nhát. Làm cho chó con sợ thì dễ, nhưng làm tiêu tan đi những nỗi sợ ở chúng
thì rất khó.
Các cuộc dạo chơi có thể bắt đầu ngay từ khi chó con vừa mới biết tự mình
chuyển động. Lần đầu dẫn chó con đi dạo từ 2 – 3 lần 1 ngày, mỗi lần 15 phút
(đi cả đàn) và để cho chúng đi dạo cùng với chó mẹ ở nơi yên tĩnh trong trại
chăn nuôi hoặc một địa điểm nào đó gần trại. Khi đó cần phải tập cho chó con


quen với các khẩu lệnh như “lại đây”, “đi dạo chơi”. Thói quen chạy lại huấn
luyện viên theo khẩu lệnh “lại đây” cần được rèn luyện, ngay cả khi cho ăn.
Trước khi giao cho chúng thức ăn cần vẫy gọi chó mẹ, và dĩ nhiên cùng đi với
chó mẹ là đàn chó con, lúc đầu ở khoảng cách gần (5-7m), sau đó tăng độ xa
của khoảng cách lên.

Trong thời gian đi dạo chơi, khi chó con và chó mẹ chạy ra xa, ở khoảng cách
không lớn lắm (5-7m), huấn luyện viên lại phát lệnh “lại đây” để vẫy gọi chó
mẹ và cùng với chó mẹ là cả đàn con sẽ chạy lại. Huấn luyện viên lúc đó âu
yếm chúng và đồng thời phát lệnh “tốt” và cho chúng một mẩu bánh, sau đó

cùng chơi đùa với chúng. Ở mỗi lần dạo chơi phát lệnh “đi dạo đi” từ 3 -5 lần,
các lần cách nhau từ 5-10 phút, sau đó phát lệnh “lại đây”. Nếu cho chó con
chạy lại không được tích cực thì ta cần chạy xa chúng ra hơn nữa khi chúng
vừa mới chạy gần đến ta, bởi vì để chạy được đến chủ sớm hơn thì chó con sẽ
cùng với chó mẹ chạy nhanh hơn và sôi nổi hơn. Nếu hàng ngày ôn lại các bài
luyện tập phản xạ như vậy đối với khẩu lệnh “lại đây’ thì phản xạ này sẽ được
tự động hóa và trở thành phản xạ liên tục ở chó con.
Thời kỳ thứ hai của việc giáo dục chó con được bắt đầu ngay sau khi cai
sữa cho chúng:
Từng lứa chó con sẽ được nuôi dưỡng trong các chuồng thú đặc biệt có kích
thước 6 x 6m. Chuồng thú được làm bằng lưới kim loại có độ cao từ 1,5 – 2m.
Trong các chuồng thú cần xây các chướng ngại vật không lớn lắm dưới dạng
mương rãnh và hàng rào với độ cao từ 10 – 15m, treo các miếng giẻ mềm để
luyện khả năng nắm bắt. Dưới dạng đồ chơi, trong chuồng thú phải có những
chiếc xương to, các mẫu dày và hàng cao su…


Cần xem xét các đặc điểm hành vi về độ tuổi của chó con. Đối với chó con từ
2 – 3 tháng tuổi hầu như vắng mặt sự ức chế bên ngoài, các phản xạ có điều
kiện được hình thành cực nhanh, có thể nói là nhanh hơn so với các thời kỳ
khác. Khi chó con được 25 – 40 ngày, 42 – 50 ngày kể từ khi ra đời, cũng như
vậy khi chúng được 4 -5 tháng và 6-7 tháng thì sự ức chế bên ngoài tăng lên
rất nhiều và điều này có liên quan đến sự hình thành lâu dài, nhất là các phản
xạ mới có điều kiện. Các giao động cá thể phát triển cùng với sự hình thành
các mối quan hệ có điều kiện và sự ức chế bên ngoài ở các con chó khác
nhau.
Công việc về chăn nuôi, giáo dục, tập luyện chó ngày càng phức tạp hơn. Nếu
như cùng với chó cái – mẹ chó con tỏ ra dũng cảm giữa các kích thích khác
nhau, thì khi vắng mẹ chúng trở lên thận trọng hơn. Do đó, trong 2 – 3 ngày
đầu sống vắng mẹ, chỉ nên tác động lên chó con các kích thích ít sức mạnh

nhất. Ví dụ cho chó con đi dạo chơi gần trang trại chăn nuôi thì cho chúng
dạo ở những nơi có số lượng các kích thích quen thuộc với chúng ít nhất.

Ở thời kỳ này, việc giáo dục vẫn tiếp tục diễn ra đồng thời phải làm tăng
cường sự quyến luyến của chó con đối với chủ và ý thức cảnh giác của chúng
đối với người lạ mặt. Ở thời kỳ này còn rèn luyện cho chó các thói quen như
dũng cảm vận động tích cực, hung dữ có chừng mực (có tính chất tấn công và


giữ chặt giẻ và áo mềm ở phía trên của người lạ – người phụ việc cho huấn
luyện viên). Hơn nữa phải dạy cho chó quen với tên riêng, với vòng cổ, với
dây cương, với việc truy lùng và khay dụng cụ, rèn luyện cả thói quen khi
nhận lệnh “‘về chỗ”. Cần dạy cho chó quen với nước, với việc hơi lội và thận
trọng rèn luyện cho chúng thói quen kết thúc hành động khi có lệnh (thôi).
Nên tập dượt cơ quan phân tích khứu giác càng nhiều càng tốt.
Độ tuổi tốt nhất để rèn luyện các phản xạ quyến luyến đối với người ở chó
con là trước khi chúng được 7 tuần tuổi. Từ tuần tuổi thứ 5 ở chó con cũng đã
xuất hiện các phản xạ quyến luyến với người rồi, sau đó càng ngày chúng
càng muốn tránh tiếp xúc với con người. Hơn thế nữa, nếu sự gần gũi với con
người không được rèn luyện trước 14 tuần tuổi (trong những điều kiện nuôi
dưỡng đặc biệt) thì ở chó đã xuất hiện ý thức ngại không muốn tiếp xúc với
người và ý thức đó mãnh liệt đến mức nó không để ai đến gần nó. Tuổi này,
các nhà nghiên cứu coi là ranh giới của thời kỳ phát triển tình cảm quyến
luyến ở chó. Đến cuối thời kỳ này, phản ứng sợ hãi lên cao độ. Các số liệu
này cần được nghiên cứu xem xét khi luyện tập giáo dục cho chó con.
Các cuộc dạo chơi tiến hành trong các điều kiện địa hình khác nhau, ví dụ như
trên cánh đồng, trong rừng, gần đường, các địa điểm có dân cư. Sau đó cho
chó đi dạo trên các đường phố vắng người, ít náo nhật rồi tiếp đó mới cho chó
đi dạo ở các phố đông người hơn, nơi có cả sân vận chuyển giao thông của
ngựa, của ô tô, sau nữa nếu có điều kiện thì cho chó dạo cho đến khi chó con

được từ 6 – 8 tháng tuổi là đã quen với các kích thích khác nhau và phản ứng
lại bình tĩnh hơn đối với bất kỳ hoàn cảnh nào. Nếu trong cuộc dạo chơi có
cái gì đó làm cho chó con hoảng sợ thì huấn luyện viên phải đích thân đến vật
đã làm chó con hoảng sợ, gọi chó con lại, cho nó quan sát kỹ lưỡng và cho nó
ngửi đồ vật đó, trong khi đó phải khuyến khích nó bằng những cái vuốt ve và
cho nó kẹo. Khi vui chơi thì phải chạy cùng với chó con đến vật “cũ” đối với
chó hoặc thỉnh thoảng đi qua chúng, vuốt ve chúng và lúc đó lại cho chúng
kẹo. Tiếp xúc sự duy trì sự tiếp xúc giữa các con chó con với nhau và giữa
chó con với những con chó đã lớn và được đánh giá tốt về mặt nghiệp vụ là
điều rất quan trọng nhằm đạt được mục đích rèn luyện có hiệu quả nhất, các
đặc điểm hành vi cần thiết trong trình tự bắt chước. Trong các cuộc dạo chơi
cần mang theo một con chó dũng cảm đã được tập luyện.


Ở chó con các phản xạ tương tự thể hiện rất mạnh mẽ. Sự tiếp xúc, một bầy
trên đồng cỏ khác biệt là đặc tính của tất cả các vật. Những con chó con sau
này dùng để chăn nuôi gia súc thường được nuôi dưỡng trong các đàn cừu
hoặc được nuôi dưỡng cùng với những con chó đã lớn và đã được trưởng
thành, nhằm làm cho chó con có thể bằng cách bắt chước để học tập được các
hành vi cần thiết (các thói quen).
Việc cho chó con mang vác nặng nên tăng dần dần để chó con khỏi bị mệt,
đồng thời phải luôn luôn theo dõi hành vi của chúng. Sự tập dượt thể lực tốt
nhất đối với chó con là cho chúng dạo chơi và vui đùa với các bạn cùng tuổi.
Cần phải tính đến điều là chó con khi ở trong tổ chức thì hành động rất dũng
cảm và tích cực, nhưng khi có một mình chúng thì chúng trở lên quá cẩn thận
và thỉnh thoảng còn tỏ ra hèn nhát. Do vậy, bước chuyển tiếp từ việc giáo dục
theo nhóm sang việc giáo dục cá biệt cần phải liên tục, nghĩa là giảm dần
nhóm chó con và đưa những cái phức tạp cũng phải từ từ để đến khi chó được
5 đến 6 tháng tuổi thì có thể chuyển sang việc giáo dục cá biệt.
Từ tháng tuổi thứ 3, người ta chia chó con ra thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm

từ 2 đến 3 con. Người ta tăng dần mức độ phức tạp trong việc rèn luyện các
phản xạ theo ý muốn (các thói quen). Ngoài việc cho chó con đi dạo chơi
hàng ngày và mỗi ngày từ 3 – 4 tiếng, cần bắt đầu tập cho chúng quen với tên
riêng, với khay đựng đồ vật với việc vượt qua chướng ngại vật và việc tìm
chủ. Đối với tên riêng cần chọn từ ngắn và dễ phát âm.
Khi gọi chó con và cho chúng bánh kẹo thì phải gọi tên riêng. Tên riêng – đó
là kích thích có điều kiện, còn kích thích không điều kiện đó là thức ăn; còn
phải rất cần sử dụng những cái vuốt ve. Khi gọi chó bằng tên riêng cần phát


âm hết sức dịu dàng, sau đó cho chúng miếng thịt và lại vuốt ve chúng. Khi
phản xạ có điều kiện đối với tên riêng đã được rèn luyện, kìm chế không cho
chó kẹo bánh nữa mà thay vào đó là khẩu lệnh “tốt” phát ra bằng một ngữ
điệu khích lệ và lại vuốt ve chúng. Không được lạm dụng tên riêng mà lại
không động viên chúng bằng các cử chỉ âu yếm hoặc vuốt ve, bởi vì nếu
không được âu yếm và vuốt ve thì chúng sẽ ngừng phản ứng lại đối với tên
riêng của chúng. Không cần thiết phải gọi tên riêng của chúng trước khi phát
các lệnh khác, bởi vì tên riêng nằm trong một tập hợp các kích thích khác và
chó con sẽ thể hiện thói quen ngay cả đối với lệnh khác sau khi gọi chúng
bằng tên riêng.

Trong thời gian chơi đùa với chó con, người ta tập cho chúng quen với khay
đựng đồ vật và điều này có ý nghĩa to lớn khi cho chúng tập luyện sau này.
Những vật mang cho chó con chơi lúc đầu có thể là những chiếc xương ống,
sau đó người ta đốt cháy miếng giẻ, rồi một khúc gỗ dày và những chiếc gậy
dài khoảng 15 – 18cm…
Đồ vật cần phải rất đa dạng về hình dáng, màu sắc, tính chất, cân nặng để làm
sao cho chó con có được khái niệm đối với vật và chó con sẽ tìm và mang về
bất cứ việc gì mà huấn luyện viên ném vào chuồng thú. Trong việc này, cần
phải biết phân định các bãi tập luyện để làm sao chó không hình thành những

thói quen xấu ở chúng, ví dụ như: chó luôn ám ảnh ý thức chơi với vật và giữ
vật trong mồm …
Việc rèn luyện thói quen chơi với đồ vật dựa trên cơ sở của phản ứng bản
năng của chó con giữ lấy các vật khi chúng chạy. Dạy cho chó con có thói
quen thu vật được tiến hành như sau: cầm đồ vật vẫy vẫy cạnh mõm chó con


rồi ném vật xuống đất và nhặt lên, nhưng không cho chó con đụng vào vật,
chó con sẽ nhảy lên và tiến lại vật, chúng sẽ chạy và muốn bắt lấy cái đang
chuyển động. Đôi khi ta cho chó con nắm bắt lấy vật và phát lệnh “tìm bắt”,
sau đó vài giây ta tước lấy vật và phát lệnh “đưa đây’ và cho chó con bánh
kẹo. Tiếp theo lại ném vật đến cho chó, phát lệnh “tìm bắt” đồng thời dùng
tay chỉ về phía vật mình vừa ném ra. Chó con tìm vật, giữ lấy vật. Huấn luyện
viên khen ngợi chó bằng lệnh “tốt”, gọi chúng lại, cầm lấy vật do chúng mang
lại và cho chúng kẹo.

Có thể khi dạy chó con quen với việc truy tìm vật thì đồng thời dạy chúng
quen biết cách nhảy qua những chướng ngại vật không lớn lắm (ví dụ nhảy
qua hàng rào chắn thấp, qua các rãnh không rộng lắm, qua các hố hoặc qua
các cây gỗ …). Những bãi tập tương tự như thế nào sẽ tạo cho chó con thói
quen không sợ chướng ngại vật mà chúng gặp trên đường và sau này sẽ làm
giảm nhẹ rất nhiều trong việc rèn luyện cho chó biết vượt qua chướng ngại
vật phức tạp hơn.
Trong địa phận của trại chăn nuôi cần xây một cái sàn tập luyện đặc biệt có
nhiều các chướng ngại vật khác nhau để dạy chó con quen với việc vượt qua
các chướng ngại vật đó. Điều này sẽ làm phát triển ở chó tính khéo léo, tính
vận động, làm cho các bắp thịt và bộ xương của chó vững chắc hơn. Trên sân
cần xây thêm các cầu thang không lớn lắm (tốt nhất là 2 loại cầu thang cho
chó ở các lứa tuổi), các hàng rào và các cầu thăng bằng vơis các độ cao khác
nhau, các rãnh có các kích thước khác nhau (từ các rãnh đó, qua 1 rãnh to



nhất ta đặt một tấm ván và 1 cầu thang). Để phát triển khả năng bắt giữ của
chó, cần xây dựng những cột quay có đặt các miếng giẻ ở đó.

Bắt đầu từ tháng tuổi thứ 2, người ta đã dạy cho chó biết vượt qua các chướng
ngại vật thấp nhất trên sân tập luyện. Để đạt được kỹ năng về mặt này cần cho
chó tập từ 1 – 2 lần 1 ngày, mỗi lần vài phút, phải chấp hành nghiêm chỉnh
các trình tự, thận trọng khi thúc giục chó vượt qua các chướng ngại vật trong
thời gian vui chơi với chúng và lúc đó hãy hết sức giúp đỡ chúng.
Từ tháng tuổi thứ 3 cần tập cho chó con quen với việc tìm người. Huấn luyện
viên kín đáo trốn chó con và nấp sau các vật gần đó. Khi chó con tìm thấy
huấn luyện viên thì phải phát lệnh “tốt” và cho nó kẹo. Những bài tập luyện
như thế dùng để rèn luyện chó con khi tìm chủ theo mùi của chủ, rồi sau đó là
tìm người lạ, tức là rèn luyện, tập dượt tốt đối với các cơ quan phân tích khứu
giác. Để đạt được mục đích định ra, khi chó con tìm được chủ, tức là khi chó
tập luyện tốt thì phải thường xuyên ném cho chúng những miếng thịt để tỏ ý
kiến khen ngợi chúng. Các miếng thịt đó bọc trong một miếng vải, huấn luyện
viên phải dẫn chó đến đó.
Sau khi tìm được miếng thịt, chó sẽ tiếp tục việc tìm kiếm tiếp theo, khi đó sẽ
hoàn thiện và phát triển phản ứng tìm kiếm. Khi kết thúc trò chơi, kết thúc tập
luyện hoặc kết thúc việc ăn uống phải dẫn chó vào chuồng thú vững chắc và
huấn luyện viên phải phát lệnh “về chỗ”.


Từ tháng tuổi thứ 4, cần dạy cho chó biết bơi, chịu xích, chịu buộc dây cương,
cần luyện cho chúng có phản xạ đối với lệnh “đi dạo chơi”, hoàn thiện phản
xạ đối với lệnh “lại đây”, đồng thời tăng tính phức tạp trong các điều kiện tập
luyện việc tìm đồ vật. Ngoài ra phải dạy cho chó con biết bắt giữ chắc chắn,
rèn luyện cho chúng các phản xạ đối với lệnh dạy cho chúng biết vượt qua các

chướng ngại vật phức tạp hơn trên bãi tập. Các chướng ngại vật như; rãnh, hố,
cầu thăng bằng, hàng rào, cầu thang …Cần lưu ý đến tuổi của chó khi cho
chúng tập dượt qua các chướng ngại vật này. Chiều cao của rào chắn cho
những con chó đang ở tháng tuổi thứ 4 chỉ trong khoảng từ 25 – 35 cm.
Cần dạy cho chó con thói quen chịu xích và chịu buộc dây cương, để sau này
trong những trường hợp cần thiết phải buộc chúng thì chúng sẽ quen và phải
dạy chúng quen quanh quẩn bên cạnh huấn luyện viên. Phải thường xuyên
dạy cho chó quen chịu xích và chịu buộc dây cương ngay cả trong những lúc
dạo chơi, trong các trò chơi cùng với chó con và ngay cả trong khi cho chúng
ăn. Trong khi vui chơi cần thu hút chó bằng các trò chơi và bằng cách cho
bánh kẹo để xích cổ chúng lại. Lúc đầu buộc cổ chúng vài lần bằng dây vải,
sau đó khi đang chơi vui thì vuốt ve chúng và thận trọng đeo vào cổ chúng
vòng cổ chắc chắn, nếu sau khi đeo xích vào mà chó không yên tâm thì phải
thu hút chó bằng trò chơi và bằng cách cho chúng ăn. Sau một thời gian, ta bỏ
vòng xích cổ ra, sau đó lại đeo vào. Việc này cần được lặp đi lặp lại trong thời
gian dài để củng cố thói quen xích cổ ở chó. Khi nuôi chó thành nhóm thì
phải tháo xích ra để chúng khỏi cắn đứt xích cổ.


Khi chó con đã quen chịu xích cổ thì dạy cho chúng quen với buộc dây
cương. Phải dùng dây cương nhẹ, móc vào vòng xích cổ khi cho chó đùa vui.
Nếu chó không yên tâm lo lắng, thì cũng lại phải thu hút chúng vào các chò
chơi và cho chúng bánh kẹo … Bài tập luyện này chỉ tiến hành trong thời gian
ngắn, nhưng cần được ôn luyện theo chu kỳ. Phải buộc dây cương cho chó
con trước khi cho chúng đi dạo chơi, điều này sẽ tạo thành thói quen cho chó
là phải buộc dây cương và theo sau huấn luyện viên. Chó con không còn cảm
thấy vòng xích cổ, bởi vì đối với nó không cần thiết phải cho tự do quá mức
hay kẹp chặt quá mức, không nên giật mạnh dây cương và không nên dùng
dây cương để đánh chó, bởi vì điều đó sẽ làm chó sợ dây cương và không tin
tưởng vào huấn luyện viên.


Cần chú trọng đặc biệt đến việc rèn luyện khả năng theo đuổi mục tiêu đến
cùng 1 cách mãnh liệt, lòng dũng cảm và lòng trung thành ở chó. Chó con


thường rất thích bắt giữ, kéo căng giẻ ra và mang đến huấn luyện viên. Ngoài
giẻ ra, có thể sử dụng cành cây dày nhưng mềm hoặc miếng gỗ mềm… Nhử
cành cây trước mõm chó, huấn luyện viên để cho nó bắt lấy đầu cành bên kia.
Hạ cành cây xuống vài phút, bỏ ra và để cho chó kết thúc phản ứng ở lúc
chúng đã túm được cành cây, tức là đã đạt được mục đích. Sau khi rèn luyện
tinh thần quan tâm đến việc bắt giữ giẻ, cành cây… cần cho chúng tập luyện
phức tạp hơn để phát triển. Sự giận giữ đối với người lạ để đạt được mục đích
này, người giúp việc cho huấn luyện viên mặc áo choàng, giữ trong tay một
miếng giẻ và đặt vào mộ chỗ xác định. Khi huấn luyện viên cùng với chó tiến
gần đến chỗ cất giấu thì người giúp việc cho huấn luyện viên bước ra và nhử
miếng giẻ. Huấn luyện viên phát lệnh “xuất phát” và chạy về phía người giúp
việc để hòng quật ngã người giúp việc. Khi chó con vừa mới bắt được giẻ và
tà áo choàng thì huấn luyện viên phải phát lệnh khen “tốt”. Sau khi cho chó
con giật nhẹ áo choàng của người giúp việc, huấn luyện viên phát lệnh “nằm
xuống” rồi đi về phía đối diện của người giúp việc lúc này đã nằm bất động
và gọi chó con đi theo mình, cho chúng bánh kẹo và lại tiếp tục đi dạo chơi
với chúng. Tiếp đó là phải dạy cho chó con biết ngăn chặn người lạ chạy trốn
và tìm người lạ ẩn náu.


Teaching a dog to sit using food
Trong quá trình rèn luyện các thói quen, cần dạy cho chó con có thói quen
phòng thủ thích hợp. Đối với kỹ năng này, nên để cho những con chó đã có
thói quen phòng thủ tốt biểu diễn trước mặt chó con, bằng cách này chó con
sẽ có được thói quen rất vững chắc.

Các bài tập luyện để phát triển tính hung dữ của chó con cần được tiến hành
với sự tham gia của những con chó đã được tập luyện tốt. Phản ứng có tính
chất tấn công sẽ thể hiện trong những điều kiện tích cực nhất. Tính chất của
các bài tập luyện và hoàn cảnh tập luyện cần đa dạng và tùy thuộc ở mức độ
củng cố các thói quen. Để dạy cho chó con biết vượt qua các chướng ngại vật
thì cũng cần phải sử dụng những con chó con đã có kỹ năng về mặt này.


Khi rèn luyện phản xạ đối với lệnh “thôi” thì không nên phát lệnh với một
giọng sắc sảo, mà đây là một sự tiếp thêm, cho nên lệnh phải phát ra với
giọng yếu ớt. Đối với chó con cần rèn luyện cả thói quen ngồi xuống khi nghe
lệnh “ngồi” và nằm xuống khi nghe thấy lệnh “nằm”.
Khi dạy cho chó con biết phản ứng lại tiếng súng một cách bình tĩnh, cần bắt
đầu từ khi chúng bước sang tháng tuổi thứ 2 và tập luyện phản ứng này ít nhất
là 2 lần trong 1 tuần. Lúc đầu tiếng súng nên phát ra từ xa, cách con chó
khoảng 250 – 300m, sau đó dần dần thu hẹp khoảng cách lại; cuối cùng là đến
tháng tuổi thứ 8 và thứ 9, chó con đã không biết sợ tiếng súng, dù tiếng súng
có cách 10 hay 12m, và chúng cũng không sợ ngay cả khi vắng mặt huấn
luyện viên. Ở các bài tập luyện đầu tiên cần theo dõi hành vi của chó con và
thu hút chúng bằng các kích thích khác, ví dụ cho chúng ăn hay cho người lạ
vào… khi có tiếng súng nổ.


Thời kỳ thứ ba:
Từ tháng tuổi thứ 5 đến tháng tuổi thứ 6 đã có thể chuyển sang việc giáo dục
cá thể đối với chó con. Lúc này phải buộc dây cương cho chó con và rèn
luyện cho chúng thói quen đi bên cạnh. Tiếp tục hoàn thiện thói quen bắt giữ
kiểu chộp lấy vật và phát triển tính hung dữ. Tuy nhiên, nếu phát triển tính
hung dữ một cách đặc biệt mà quá sớm thì cũng không tốt lắm, bởi vì điều đó
sẽ dẫn đến sự phát triển nhanh tính cáu kỉnh ở chó con.

Cần giáo dục hệ thống thần kinh vững chắc ở chó con, nghĩa là nhằm làm cho
chúng phản ứng lại môi trường đa dạng xung quanh chúng một cách bình
tĩnh. Cần dạy cho chó quen với những điều kiện đó một cách thích hợp để khi
rơi vào những điều kiện đó, chúng cũng thích ứng được khi chúng làm nghiệp
vụ, ví dụ các công trình thuộc về công nghiệp và sự ồn ào của thành phố, của
bến tàu hay sự ồn ào ở các bến xe… Không được quên các đặc điểm lứa tuổi
của chó khi hình thành các phản xạ có điều kiện. Các phản xạ có điều kiện
thuộc về vận động, thức ăn, phòng thủ được hình thành nhanh nhất là khi chó
con ở tháng tuổi thứ nhất đến tháng tuổi thứ 4. Bắt đầu từ tháng 4 đến tháng
thứ 6 kể từ khi chó con ra đời, việc rèn luyện các phản xạ có điều kiện từ cơ
quan phân tích thính giác thuộc về vận động, thức ăn và phòng thủ cứ chậm
dần đi.
Cần phải cho chó con dạo chơi hàng ngày trên khoảng cách không lớn (từ 4 –
5km), còn về số lần thì rút lại khoảng 2 lần 1 ngày. Cũng chính trong thời kỳ
này, phải dần dần dạy cho chó con quen với việc chuyên chở trên ô tô. Cần
hoàn thiện và phức tạp hóa sớm hơn những phản xạ có điều kiẹn đã được hình
thành. Trong khi tắm cho chó, phải rèn luyện cho chúng phản xạ có điều kiện
đối với lệnh “dừng”.


Từ tháng tuổi thứ 7, việc tập luyện có giáo dục cho chó con cần phức tạp lên
và phải tiếp tục rèn luyện các thói quen chấp hành kỷ luật chung, đồng thời
bắt đầu việc rèn luyện đầu tiên một số phản xạ đặc biệt, ví dụ như: chặn người
chạy trốn, bảo vệ đồ đạc, cảnh giới … chó con phải được quen với rọ bịt
mõm.
Đối với những con chó phát triển tốt, cơ thể phát triển bình thường, các phẩm
chất tích cực khác cũng phát triển bình thường thì khi chúng được 17 – 18
tháng tuổi có thể chuyển chúng sang việc tập luyện nghiệp vụ như: tìm kiếm,
cảnh giới và canh gác …
Bằng cách ấy, việc giáo dục và sự phát triển thể lực của chó con sẽ dẫn đến sự

phát triển các phản ứng tích cực của chúng (những thói quen): lòng dũng cảm,
không tin vào người lạ, tính hung dữ, sức chịu đựng bền bỉ của cơ thể; đồng
thời dẫn đến việc hạn chế sự xuất hiện của các phản ứng không mong muốn
(các phản xạ có điều kiện) là: tính hèn nhát, sợ ô tô và các kích thích khác, sự
xao nhãng thói quen đối với các vật lạ khác, muốn lao vút đi nhưng không có
mục đích, quấn quýt người lạ, cắn chủ hoặc nhảy chồm lên chủ, chống 2 chân
trước … thả chó ra thì đơn giản, nhưng bắt chúng lại thì rất khó và đôi khi
không bắt được chúng.


Để đạt được mục đích nghiên cứu hành vi của chó thì hàng ngày phải quan sát
tỉ mỉ các biểu hiện của các phản xạ phòng thủ, các phản xạ ăn và các phản xạ
định hướng, các phản ứng vận động, phải xem xét sự gắn bó của chó đối với
huấn luyện viên và cách xử xự của chúng đối với các kích thích không bình
thường hay các kích thích mạnh mẽ… Các kết quả quan sát hành vi của chó
phải được ghi chép đầy đủ vào vở 1 tuần 1 lần với hình thức viết tùy ý. Đến
tháng tuổi thứ 3 cần ghi chép đầy đủ đặc điểm hành vi của từng lứa chó, sau
đó ghi chép về hành vi của từng con chó riêng biệt. Tùy thuộc vào hành vi của
từng con chó mà người ta chọn những kích thích đặc biệt để hình thành các
phản xạ có điều kiện và kìm hãm chúng.
Những người yêu thích nuôi chó cần phải biết rằng nếu giáo dục chó con mà
thiếu một hệ thống các bài tập luyện xác định không có một hệ thống về chế
độ tập luyện thường xuyên lặp lại và không tính đến các đặc điểm về tuổi của
chó thì sẽ dẫn đến việc đào tạo ra những con chó không có giá trị và chúng
thường có những thói quen xấu. Để tạo ra được những con chó tốt thì cần phải
biết chọn chó con. Khi chó con được 1 tháng tuổi đến 1 tháng rưỡi tuổi,
những người yêu thích nuôi chó trước hết phải nghiên cứu giống thuần chủng
dựa vào các phiếu ghi phổ hệ của chó và phải phân biệt các phẩm chất nghiệp
vụ nào của chúng là tích cực hay tiêu cực mà khác với tổ tiên của chúng.



Phổ hệ của chó con có ít nhất là 4 -5 thế hệ tổ tiên về phía chó bố và chó mẹ.
Chó con cần phải khỏe, không có khuyết tật gì về thể lực, sức vóc và phát
triển bình thường, có kiểu cắn khít răng cản các răng cả đúng đắn, tích cực và
linh hoạt. Nếu tổ tiên của chó con có ngoại hình tuyệt vời, nhưng chưa hề
được tập luyện và chưa hề được sử dụng trong bất kỳ nghiệp vụ nào hoặc có
các phẩm chất nghiệp vụ kém, thì các phẩm chất nghiệp vụ bẩm sinh này sẽ
làm chó có trạng thái ủ rũ và kín đáo.


CHƯƠNG II
MỘT SỐ GIỐNG CHÓ

American Indian
Nguồn gốc: Chó thổ dân da đỏ có nguồn gốc từ 30 ngìn năm trước trên lục
địa Bắc và Nam Mỹ. Chúng chủ yếu được hình thành và thuần hoá bới các tộc
người da đỏ và trở nên một thành phần không thể thiếu được trong văn hoá
của các bộ lạc này. Từ 4000 năm trước, những người da đỏ châu Mỹ đã sử
dụng loài chó này trong săn bắn, canh gác và cai quản súc vật. Chúng còn


được dùng trong việc kéo xe trở đồ trong các cuộc di chuyển.

Ngoài ra chúng còn sửởi ấm cho chủ nhân trong những đêm giá rét và cung
cấp lông cho dệt vải và trao đổi hàng hoá.Một điều rất quan trọng trong việc
bảo tồn giống chó cổ xưa này là gìn giữ và phát triển sự cân bằng tự nhiên,
bản năng gốc và khả năng thích nghi linh hoạt với công việc của chúng.
Giống chó tuyệt vời này gần như đã bị tuyệt chủng trong những năm cuối
này. Giờ đây, nhờ có các nghiên cứu và chọn lọc giống một cách khoa học, hy
vọng rằng chúng có thể trở lại vị trí xưa kia trong xã hội của loài người.



Mô tả:
Là giống chó thuộc nhóm chăn đoàn gia súc, có kích thước nhỡ và thân hình
thon thả, mõm có hình thù tự nhiên giống sói, tai dài và dựng đứng, rất linh
hoạt, luôn hướng ra phía trước. Đuôi xù thường buông xõng nhưng hơi cong
lên ở phần cuối, thường dựng đứng khi thể hiện sự vượt trội, hoặc duỗi thẳng
khi đang chạy. Đầu có tỷ lệ cân đối với thân mình. Da đầu hơi lồi lên ở phần
giữa đôi tai. Mắt có hình quả hạnh đào và kích thước nhỡ.

Đặc biệt mắt giống chó này có màu vàng hoặc xanh sáng quắc như hổ phách,
trông rất lạnh lùng. Mí mắt có màu đen và khép kín. Mũi trung bình, màu đen
và có điểm màu nâu sẫm. Môi mỏng và màu đen, khi khép chặt che kín hàm
răng. Răng chỉ có loại răng nanh. Phần lưng thẳng và hơi dài hơn đuôi một


chút. Ức sâu, nhưng không rộng. hai chân trước thanh mảnh và hơi chìa ra
ngoài. Hai chân sau dài, cơ bắp và rất thẳng. Đôi khi có huyền đề, nhưng
thường bị cắt bỏ đi khi còn nhỏ. Bàn chân nhỏ như chân mèo, ngón chân khít
và có cấu trúc rất cân đối. Móng chân ngắn và mập.

Lông dày vừa phải, bóng mượt. Có hai lớp: lớp bảo vệ phía ngoài dài và
cứng, lớp trong dày và mềm. Lông ở các phần ngực, vai, hông, chân và đuôi
thường dài hơn các chỗ khác. Bộ lông thường có các màu: Trắng, xanh, Đen,
Đỏ vàng, xám, đỏ pha nâu, nâu, socola, kem, và màu bạc. Tất cả các màu trên
có thể hoà trộn với nhau một cách tự nhiên, rất ít khi có những điểm màu
riêng biệt hiện rõ. Đuôi thường có màu sẫm khoảng ¾ tính từ chỏm.

Tính cách:
Là giống chó đặc biệt thông minh, chúng luôn thể hiện bản năng tự nhiên và

đặc biệt là rất có ý thức về chủ quyền. Luôn thể hiện một cách mãnh liệt sự
quyến luyến và trung thành với gia chủ. Không bao giờ tỏ ra dữ dằn, nhưng


chúng luôn tỏ ra cảnh giác đối với người lạ. Là giống chó rất thích hợp cho
việc trông nhà, có khả năng thích nghi với mọi điều kiện môi trường. Ngoài ra
tính linh hoạt trong công việc cũng là một tính cách nổi trội của giống chó
này.

French Bulldog
Thân hình nhỏ gọn, ngắn đầy quyền lực và tỉ lệ của bộ lông mịn màng với
khuôn mặt ngắn, mũi tẹt, tai đứng và bản chất đuôi ngắn. Sự xuất hiện phải là
của 1 con vật sống động, thông minh, rất cơ bắp,thân hình gọn với cấu trúc
xương rắn chắc.

Hành vi và cá tính: Hòa nhập xã hội, sống động, nô đùa, thể thao, hăng hái.
Đặc biệt tình cảm với chủ và trẻ em.
Đầu: Phải rất khỏe, rộng và vuông, da đầu có những nếp gấp và nếp nhăn cân
đối. Đầu của bulldog là đặc trưng bởi một sự kết thân của hàm và phần mũi .
(đỉnh tráng và mũi và hàm là 1 đường thẳng). Hộp sọ cao và rộng nhưng
ngắn.
Hộp sọ: Rộng và hầu như phẳng, trán rất phình. Lông mày nổi bật, được chia
cách bởi một rãnh phát triển đặc biệt giữa 2 mắt. Điểm nhấn : rất rõ ràng.
Mũi: Rộng và rất ngắn, hỉnh lên, lỗ mủi rộng và cân đối, xiên về phía sau. Độ
nghiêng của lỗ mủi phải tốt như những mủi tẹt khác. Tuy nhiên cho phép hệ
thống mủi thở bình thường.


Mồm: Rất ngắn, rộng, với tâm đồi xứng của nếp gấp. Chiều dài của mồm
tương đương 1/6 chiều dài của đầu.

Môi: dày, hơi trùng và màu đen. Môi ngặm lại , hoàn toàn không thấy răng.
Môi trên giảm dần và tròn. Lưỡi không được lòi ra.
Hàm: Rộng và vuông, rất có lực. Hàm dưới thấy 1 đường cong rộng và kết
thúc ngay phía trước của hàm trên. Miệng đóng lại, điểm nổi bật của hàm
dưới được điều tiết bởi đường cong. Đường cong này thì cần thiết để tránh sự
quan trọng thay đổi của hàm dưới thái quá.
Răng: răng hàm dưới phải không bao giờ ở đằng sau răng hàm trên trong mọi
trường hợp. Vòm của răng hàm dưới thì tròn. Hàm không phải thấy độ lệch
bên. Cách bố trí các vòm răng không nhất thiết đúng giới hạn lắm, cái điều
kiện thiếu yếu là ngậm miệng lại môi phải hoàn toàn che được răng.
Ngực: Ngực cơ bắp thì phát triển tốt, nhưng không quá nổi bật.
Mắt: Ấn tượng sống động, nằm ở thấp, hoàn toàn xa từ mũi và đặt biệt từ đôi
tai. màu đậm, hoàn toàn to, tròn,hơi nhô ra, không thấy bất cứ dấu vết của
màu trắng khi con chó đang nhìn thẳng về phía trước. Vành của mắt phải màu
đen.


Tai: Kích thuớc nhỏ, rộng tại các bên, và tròn ngay đỉnh tai. Nằm trên cao của
đầu, nhưng không quá gần nhau, tai dựng đứng.
Vành tai thì mở rộng ra phí trước. Da phải tốt và mền khi chạm vào.
Cổ: ngắn, hơi cong, không có nọng.
Thân hình: Đường xương sống: Phát triển tại điểm dưới lưng tới độ dốc
thẳng tới đuôi. Cấu trúc này phải được thấy, đó là kết quả của điểm dưới lưng
ngắn.
Lưng: Rộng và cơ bắp.
Mông đít: có múi.
Ngực: hình trụ và ngực hình thùng, rất tròn. Ngực trước: rộng
Bụng và hai bên sườn: được cấu tạo mà không có gấp lại quá nhiều.



×