Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Đổi Mới Phương Pháp Soạn Giảng Môn Ngữ Văn Trung Học Cơ Sở Theo Hướng Tích Hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.44 KB, 15 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP SOẠN GIẢNG MÔN NGỮ VĂN
TRUNG HỌC CƠ SỞ THEO HƯỚNG TÍCH HỢP
1. Phần mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài:
Văn học là nhân học, học văn chính là học cách làm người. Văn học hướng
con người tới cái đẹp, cái đẹp về nhân cách . Từ ngàn đời nay văn học luôn là chìa
khóa tâm hồn,văn học là nơi cho ta những khát vọng đích thực của con người .
Không những thế văn còn có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát
triển tư duy của con người . Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội ,có tầm
quan trọng trong việc giáo dục quan điểm ,tư tưởng ,tình cảm cho học sinh. Đồng
thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ ,môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ
với các môn học khác.Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác
và ngược lại ,các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn .Điều đó đặt ra yêu
cầu tăng cường tính thực hành ,giảm lí thuyết ,gắn học với hành ,gắn kiến thức với
thực tiễn hết sức phong phú ,sinh động của cuộc sống .
Dạy học văn để làm gì ? Câu hỏi tưởng như đơn giản ấy đã dày vò bao thế
hệ thầy cô giáo. Phải thừa nhận rằng nhiều người rất yêu văn học nhưng không
phải ai trong số đó cũng làm nghề dạy văn bởi người thầy dạy văn thiên chức lớn
hơn nghề nghiệp.
Vậy mà hiện nay,nhiều học sinh lại rất ngại học văn, điều đó có nghĩa rằng
nhân học đang bị mai một dần. Tâm hồn các em không được nuôi dưỡng, khô khan
dần theo năm tháng thời gian và điều gì sẽ xảy ra? Các em sống vô cảm, thờ ơ,
lạnh lùng với thế giới xung quanh, mất đi những cảm xúc, những rung động và
những khát khao tốt đẹp ở đời…Phải chăng có một phần do thầy cô giáo dạy văn
học chưa phát huy hết các chức năng, sức mạnh tiềm tàng của nó.
Công việc dạy văn phải định hướng được những rung động thẩm mĩ của học
sinh vì không phải đối tượng học sinh nào cũng yêu thích môn học này.Nhưng về
phương diện nào đó lại cần kích thích những “ điểm ỳ”, “ điểm trơ” và thậm chí cả
những “điểm chết” trong tâm linh những công dân trẻ để hình thành một cái vốn
có nào đó, để bùng cháy một cái gì đó mà chỉ có đặc trưng bộ môn này mới làm


được đó là : Hình ảnh dân tộc, đất nước, tiếng mẹ đẻ, lòng nhân ái bao dung, trí
tuệ, cái đẹp…
Mỗi giáo viên dạy Ngữ văn cần có phương pháp dạy học phù hợp với từng bài,
từng tuần, từng phân môn. Để có những giờ dạy theo quan điểm tích hợp đạt kết
quả cao, GV phải biết lựa chọn các khía cạnh để tích hợp . Nội dung tích hợp cho
cả 3 phân môn là rất phong phú. Có thể tích hợp trong từng thời điểm ( 1 tiết học, 1
bài học ). Để soạn giảng được một giáo án Ngữ văn đảm bảo được những chức
năng thông tin như vậy thật không đơn giản chút nào! Nhưng nói như vậy không
1


có nghĩa là không làm được mà phải làm được theo yêu cầu hiện nay. Với lí do
đó,với kinh nghiệm một giáo viên dạy Văn, tôi xin mạnh dạn giới thiệu với đồng
nghiệp một số kinh nghiệm “Đổi mới phương pháp soạn giảng Ngữ văn THCS
theo hướng tích hợp” mà tôi từng trải nghiệm và đã tạo được sự lôi cuốn, say mê
của học sinh đối với môn học mang tính nghệ thuật hình tượng này.
1.2. Phạm vi áp dụng đề tài:
Mong muốn của bản thân đạt được thì rất nhiều nhưng vì thời gian và trong
khuôn khổ có hạn của một sáng kiến kinh nghiệm, trong đề tài này tôi chỉ xin trình
bày một số nội dung chính để cùng anh chị em đồng nghiệp trao đổi nhằm tạo nên
thành công một giờ dạy học môn Ngữ văn THCS :
Các bước cần thiết thực hiện lập kế hoạch bài học(soạn giáo án) môn Ngữ Văn
Cấu trúc một kế hoạch bài học theo phương pháp đổi mới, tích hợp các bộ môn
học khác vào phần soạn.
Trình bày một kế hoạch bài học thực hiện soạn theo cấu trúc đã nêu
2. Phần nội dung
2.1. Thực trạng:
Mục tiêu của bậc học THCS là đào tạo con người toàn diện. Hiện nay việc
soạn giáo án nhiều giáo viên có quan niệm, hiểu và thực hiện rất khác nhau: Có
giáo viên cho rằng soạn giáo án phải nhất thiết theo một mẫu cố định, có giáo viên

cho rằng đó là sự tóm tắt lại nội dung sách giáo khoa, thẩm chí chép lại sách giáo
khoa cũng được, một số giáo viên khác lại photo hoặc chép lại bài soạn đã có sẳn
để lên lớp. Nhưng chúng ta đều biết rằng giáo án chính là một trong những “ sản
phẩm tri thức” của người thầy được chắt lọc qua nhiều công đoạn mà “ sản phẩm
tri thức” ấy nó đánh giá tay nghề trình độ cũng như năng lực sư phạm của người
thầy.
Vì vậy, chúng ta phải tích cực đổi mới phương pháp soạn giảng bám sát chuẩn
kiến thức kỷ năng và sát đối tượng, tích hợp thực tế vào quá trình giảng dạy để
khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho các em phương pháp
học văn có hiệu quả nhất.
Căn cứ vào thực tế khi chưa vận dụng đề tài qua những lớp tôi trực tiếp giảng
dạy kết quả khảo sát việc tiếp thu kiến thức sau một tiết dạy tại lớp như sau:
Lớp
Số
Giỏi
Khá
Tb
Yếu
TB Trở lên
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
91
35
2
5,7
12 34,3 16 45,7
5

14,3 30 85,7
92
33
1
3,0
12 36,4 14 42,4
6
18,2 27 81,8
Tổng 68
3
4,4
24 35,3 30 44,1 11 16,2 57 83,8
Như vậy qua kết quả trên cho thấy chất lượng học sinh còn rất thấp, tỉ lệ học sinh
yếu còn cao.
2. 2. Nguyên nhân:
2


a. Đối với người dạy:
Phương pháp soạn giảng chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ
học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao. Phương pháp trực quan vào tiết
học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh . Một số giáo viên
chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc ẩn sau
mỗi trái tim người học, chưa liên hệ bài học với thực tế và thực tế vào bài học.
b. Đối với học sinh:
Phong trào học tập nhìn chung còn thấp ý thức học tập chưa cao. Một số em
vì lười học, chán học mải chơi, hổng kiến thức nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho
giờ học Ngữ văn. Bản thân chưa thực sự tự giác chủ động trong việc học tập, chưa
vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống vẫn còn tình trạng học mang
tính thụ động, đối phó nên chất lượng chưa cao so với chỉ tiêu đề ra.

Địa phương thuộc vùng kinh tế còn khó khăn, hầu hết phụ huynh đều đi làm
ăn xa, ít có thời gian quan tâm kèm cặp con em mình. Bản thân các em còn phải
phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp, không có thời gian học.
Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như
xem ti vi, chơi game . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị
lôi cuốn, sao nhãng việc học tập.
2.3. Các giải pháp:
Làm thế nào để nâng cao được chất lượng thiết kế bài giảng theo yêu cầu
đổi mới là câu hỏi luôn trăn trở đối với nghề làm thầy. Soạn một bài giảng có chất
lượng không phải là dễ, đặc biệt là đối với môn Ngữ Văn, một môn học được coi là
“ khó soạn, khó dạy”. Bởi chúng ta hiểu rằng thiết kế giờ dạy không chỉ đơn giản
là thay đổi hình thức giờ dạy mà về bản chất nó là sự thay đổi làm nên hiệu quả
của giờ dạy.
Để có thực hiện tốt chương trình THCS, ngoài việc nghiên cứu kỷ chương
trình và sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, trong quá trình soạn giảng giáo viên
cần lên kế hoạch soạn giảng cụ thể cho từng phần, từng mục. Cần có các dự thảo
về phương pháp, biện pháp dạy học, liên hệ kiến thức vào phần nào cho phù hợp.
Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, xác định và phân loại đối tượng học
sinh phù hợp với từng hoạt động học tập. Luôn có ý thức khơi gợi hứng thú học tập
ở học sinh. Phải nắm rõ quan điểm dạy học tích hợp, xác định rõ vai trò của giáo
viên và học sinh trong giờ học.
Giáo viên đóng vài trò chủ đạo tổ chức hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến
thức bằng các phương pháp dạy học cụ thể.

3


Học sinh đóng vai trò tích cực, chủ động lĩnh hội tri thức trên cơ sở hướng
dẫn của giáo viên. Muốn giải quyết tốt các vấn đề này, theo tôi trong quá trình soạn
giảng một tiết Ngữ văn cần đổi mới các khâu sau:

2.3.1. Đổi mới quan niệm mục tiêu bài soạn:
Quan niệm cũ

Quan niệm mới

- Viết mục tiêu cho thầy: tập trung - Viết mục tiêu cho trò: Sau khi học xong
vào những điều giáo viên phải đạt bài đó học sinh phải có những kiến thức,
được sau khi dạy xong bài đó.
kỷ năng thái độ gì,ở mức độ như thế nào.
- Mục tiêu: yêu cầu thông hiểu ghi
nhớ tái hiện các kiến thức do giáo
viên truyền đạt theo sách giáo khoa,
lặp lại đúng và thành thạo các kỹ
năng đã tập dượt trong tiết học.

- Mục tiêu: Đặc biệt chú ý năng lực nhận
thức, rèn luyện các kỷ năng và phẩm chất
tư duy phù hợp với nội dung bài học
( phân tích, tổng hợp, xác lập quan hệ giữa
các sự kiện, nêu giả thuyết về nguyên
- Mục tiêu bài học theo kiểu dạy học nhân các sự kiện , hiện tượng…), chú ý
đồng loạt, giáo viên lấy trình độ các kỹ năng học tập, phát triễn năng lực tự
học, năng lực tự liên hệ
chung của lớp làm căn cứ.
- Mục tiêu chung chung, chiếu lệ, - Mục tiêu bài học theo phương pháp tích
hình thức. Mục tiêu đơn giản là chủ cực giáo viên phải hình dung thêm yêu cầu
đề bài học, tóm tắt nội dung bài học phân hóa đối với những nhóm học sinh có
trình độ kiến thức và tư duy khác nhau để
hoặc giới hạn trọng tâm bài học.
mỗi học sinh đều được làm việc với sự nỗ

- Những động từ như nắm được, hiểu lực trí tuệ vừa sức nghĩa là bên cạnh mục
được vẫn còn quá chung chung, chưa tiêu chung còn phải tính đến mục tiêu
cho thấy rõ mức độ.
riêng cho các nhóm học sinh đặc biệt.
-Mục tiêu phải định rõ mức độ hoàn thành
công việc của học sinh, làm căn cứ để
đánh giá chất lượng, hiệu quả thực hiện
bài học. Vì vậy mỗi “ đầu ra” của bài học
nên được diễn đạt bằng một động từ hành
động có thể quan sát, đánh giá được.
- Về mục tiêu kiến thức có thể dùng các
động từ: định nghĩa, giải thích, mô tả lại,
so sánh, chứng minh…Về mục tiêu kỹ
năng có thể dùng các động từ: thu nhập,
đo đạc, liệt kê, phân loại, nhận dạng…

2.3.2. Đổi mới cách soạn:
4


Soạn bài theo phương pháp thụ động

Soạn bài theo phương pháp tích cực

- Giáo viên dự kiến chủ yếu là những
hoạt động trên lớp của chính mình, có
hình dung chút ít về những hành động
hưởng ứng của học sinh.

- Những dự kiến của giáo viên phải tập

trung chủ yếu vào các hoạt động của
học sinh, trên cơ sở đó giáo viên hình
dung sẽ phải tổ chức các hoạt động của
học sinh như thế nào.

- Giáo viên phải tính toán kĩ trình tự các
hoạt động trên lớp của chính mình sao
cho hợp lí, tiết kiệm thời gian để chủ
động hoàn thành tiết học đúng giờ.

- Giáo viên phải suy nghĩ công phu về
những khả năng diễn biến các hoạt
động đề ra cho học sinh, dự kiến những
giải pháp điều chỉnh để không bị “ cháy
giáo án” .
- Bài học được xây dựng từ những
đóng góp của học sinh thông qua
những hoạt động do giáo viên tổ chức,
khai thác vốn hiểu biết và kinh nghiệm
của từng học sinh và tập thể lớp, tăng
cường mối liên hệ ngược từ trò đến
thầy và mơi liên hệ ngang giữa trò với
trò. Trong trường hợp này giáo viên
phải có kinh nghiệm sư phạm mới làm
chủ được tiết học.

- Thông tin đi theo một chiều, chủ yếu
là từ thầy đến trò cho nên giáo viên có
thể hoàn toàn kiểm soát được tiến độ bài
học. Giáo viên vận dụng vốn hiểu biết

và kinh nghiệm của mình để cố làm cho
học sinh hiểu và nhớ nội dung quy định
trong sách giáo khoa .

2.3.3. Đổi mới khâu kỷ thuật
Để phát triển các phương pháp tích cực,trong khâu soạn bài cần coi trọng
chuẩn bị các câu hỏi.
Tránh đặt câu hỏi ở chỗ dễ hỏi mà phải đặt câu hỏi ở chỗ cần hỏi, câu hỏi có
yêu cầu cao về nhận thức.
Tránh tùy tiện đặt câu hỏi tức thì tại lớp mà cần phải chuẩn bị trước câu hỏi
đặc biệt câu hỏi có yêu cầu cao về nhận thức.
Cần có một số câu hỏi then chốt nhằm vào những mục đích nhận thức xác
định, đặc biệt ở các phần trọng tâm, trên các cơ sở đó khi lên lớp sẽ phát triển thêm
những câu hỏi phụ tùy thuộc vào diễn biến của tiết học.
Đặc biệt toàn bài phải có hệ thống câu hỏi phù hợp với từng đối tượng học
sinh
Để tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, giáo viên cần sử dung các
phiếu học tập.
Mỗi phiếu học tập giao cho học sinh một vài nhiệm vụ nhận thức cụ thể nhằm
dẫn dắt tới một kiến thức, tập dượt một kĩ năng, rèn luyện một thao tác tư duy hoặc
thăm dò thái độ của học sinh trước một vấn đề.

5


Qua công tác làm việc độc lập với các phiếu học tập học sinh được phát triển
các kỹ năng tư duy ( quan sát, so sánh,phân tích, quy nạp, khái quát hóa, suy
luận,đề xuất giả thuyết…)
Cốt lõi của giáo án đổi mới là phần thiết kế các hoạt động giúp học sinh tự lực
chiếm lĩnh nội dung bài học.Hình thức trình bày giáo án( mấy cột, mấy bước…) có

thể thay đổi tùy theo trình độ, kinh nghiệm, thói quen của giáo viên, tùy theo sự chỉ
đạo thống nhất của chuyên môn từng nhà trường.
2.4. Quy trình chuẩn bị một giờ học
Hoạt động chuẩn bị cho một giờ dạy học đối với giáo viên¸ thường được thể
hiện qua việc chuẩn bị giáo án. Đây là hoạt động xây dựng kế hoạch dạy học cho
một bài học cụ thể, thể hiện mối quan hệ tương tác giữa giáo viên với học sinh,
giữa học sinh với học sinh nhằm đạt được những mục tiêu của bài học.
Căn cứ trên giáo án, có thể vừa đánh giá được trình độ chuyên môn và tay
nghề sư phạm của giáo viên vừa thấy rõ quan niệm, nhận thức của họ về các vấn đề
giáo dục như: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, cách sử dụng phương pháp
dạy học, thiết bị dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách đánh giá kết quả học
tập của häc sinh trong mối quan hệ với các yếu tố có tính chất tương đối ổn định
như: kế hoạch, thời gian, cơ sở vật chất và đối tượng häc sinh. Chính vì thế, hoạt
động chuẩn bị cho một giờ học có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng, quyết định
nhiều tới chất lượng và hiệu quả giờ dạy học.
Từ thực tế dạy học, có thể tổng kết thành quy trình chuẩn bị một giờ học với
các bước thiết kế một giáo án và khung cấu trúc của một giáo án cụ thể như sau:
2.4.1. Các bước thiết kế một giáo án
Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học căn cứ vào chuẩn kiến thức (KT), kĩ
năng (KN) và yêu cầu về thái độ trong chương trình. Bước này được đặt ra bởi việc
xác định mục tiêu của bài học là một khâu rất quan trọng, đóng vai trò thứ nhất,
không thể thiếu của mỗi giáo án. Mục tiêu (yêu cầu) vừa là cái đích hướng tới, vừa
là yêu cầu cần đạt của giờ học; hay nói khác đi đó là thước đo kết quả quá trình dạy
học. Nó giúp giáo viên xác định rõ các nhiệm vụ sẽ phải làm (dẫn dắt HS tìm hiểu,
vận dụng những kiến thức kĩ năng nào; phạm vi, mức độ đến đâu; qua đó giáo dục
cho häc sinh những bài học gì).
Bước 2: Nghiên cứu SGK và các tài liệu liên quan để: hiểu chính xác, đầy đủ
những nội dung của bài học; xác định những kiến thức kĩ năng, thái độ cơ bản cần
hình thành và phát triển ở học sinh; xác định trình tự logic của bài học.
Bước này được đặt ra bởi nội dung bài học ngoài phần được trình bày trong

SGK còn có thể đã được trình bày trong các tài liệu khác. Kinh nghiệm của các GV
lâu năm cho thấy: trước hết nên đọc kĩ nội dung bài học và hướng dẫn tìm hiểu bài
trong SGK để hiểu, đánh giá đúng nội dung bài học rồi mới chọn đọc thêm tư liệu
để hiểu sâu, hiểu rộng nội dung bài học. Mỗi GV không chỉ có kĩ năng tìm đúng,
tìm trúng tư liệu cần đọc mà cần có kĩ năng định hướng cách chọn, đọc tư liệu cho
HS. GV nên chọn những tư liệu đã qua thẩm định, được đông đảo các nhà chuyên
môn và GV tin cậy. Việc đọc SGK, tài liệu phục vụ cho việc soạn giáo án có thể
6


chia thành 3 cấp độ sau: đọc lướt để tìm nội dung chính xác định những kiến thức,
kĩ năng cơ bản, trọng tâm mức độ yêu cầu và phạm vi cần đạt; đọc để tìm những
thông tin quan tâm: các mạch, sự bố cục, trình bày các mạch kiến thức kĩ năng và
dụng ý của tác giả; đọc để phát hiện và phân tích, đánh giá các chi tiết trong từng
mạch kiến thức, kĩ năng.
Thực ra khâu khó nhất trong đọc SGK và các tư liệu là đúc kết được phạm vi,
mức độ kiến thức kĩ năng của từng bài học sao cho phù hợp với năng lực của HS
và điều kiện dạy học. Trong thực tế dạy học, nhiều khi chúng ta thường đi chưa tới
hoặc đi quá những yêu cầu cần đạt về kiến thức kĩ năng. Nếu nắm vững nội dung
bài học, GV sẽ phác họa những nội dung và trình tự nội dung của bài giảng phù
hợp, thậm chí có thể cải tiến cách trình bày các mạch kiến thức kĩ năngcủa SGK,
xây dựng một hệ thống câu hỏi, bài tập giúp HS nhận thức, khám phá, vận dụng
các kiến thức kĩ năng trong bài một cách thích hợp.
Bước 3: Xác định khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức của HS, gồm: xác
định những kiến thức kĩ năng mà HS đã có và cần có; dự kiến những khó khăn,
những tình huống có thể nảy sinh và các phương án giải quyết.
Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định hướng đổi mới PPDH, GV
không những phải nắm vững nội dung bài học mà còn phải hiểu HS để lựa chọn
PPDH, phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học và đánh giá cho phù
hợp. Như vậy, trước khi soạn giáo án cho giờ học mới, GV phải lường trước các

tình huống, các cách giải quyết nhiệm vụ học tập của HS. Nói cách khác, tính khả
thi của giáo án phụ thuộc vào trình độ, năng lực học tập của HS, được xuất phát
từ : những kiến thức kĩ năng mà HS đã có một cách chắc chắn, vững bền; những
kiến thức kĩ năng mà HS chưa có hoặc có thể quên; những khó khăn có thể nảy
sinh trong quá trình học tập của HS. Bước này chỉ là sự dự kiến; nhưng trong thực
tiễn, có nhiều giờ học do không dự kiến trước, GV đã lúng túng trước những ý kiến
không đồng nhất của HS với những biểu hiện rất đa dạng. Do vậy, dù mất công
nhưng mỗi GV nên dành thời gian để xem qua bài soạn của HS trước giờ học kết
hợp với kiểm tra đánh giá thường xuyên để có thể dự kiến trước khả năng đáp ứng
các nhiệm vụ nhận thức cũng như phát huy tích cực vốn kiến thức kĩ năng đã có
của HS.
Bước 4: Lựa chọn phương pháp dạy học(PPDH), phương tiện dạy học(PTDH),
hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập
tích cực, chủ động, sáng tạo.
Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định hướng đổi mới PPDH, GV
phải quan tâm tới việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện
thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kiến thức kĩ năng vận dụng kiến
thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tác động
đến tư tưởng và tình cảm để đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập cho HS.
Trong thực tiễn dạy học hiện nay, các GV vẫn quen với lối dạy học đồng loạt với
những nhiệm vụ học tập không có tính phân hoá, ít chú ý tới năng lực học tập của
từng đối tượng HS. Đổi mới PPDH sẽ chú trọng cải tiến thực tiễn này, phát huy thế
7


mạnh tổng hợp của các PPDH, PTDH, hình thức tổ chức dạy học và cách thức
đánh giá nhằm tăng cường sự tích cực học tập của các đối tượng HS trong giờ học.
Bước 5: Thiết kế giáo án.
Đây là bước người GV bắt tay vào soạn giáo án - thiết kế nội dung, nhiệm vụ,
cách thức hoạt động, thời gian và yêu cầu cần đạt cho từng hoạt động dạy của GV

và hoạt động học tập của HS.
Trong thực tế, có nhiều GV khi soạn bài thường chỉ đọc SGK, sách GV và bắt
tay ngay vào hoạt động thiết kế giáo án; thậm chí, có GV chỉ căn cứ vào những gợi
ý của sách GV để thiết kế giáo án bỏ qua các khâu xác định mục tiêu bài học, xác
định khả năng đáp ứng nhiệm vụ học tập của HS, nghên cứu nội dung dạy học, lựa
chọn các PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh
giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Cách làm như
vậy không thể giúp GV có được một giáo án tốt và có những điều kiện để thực
hiện một giờ dạy học tốt. Về nguyên tắc, cần phải thực hiện qua các bước 1, 2, 3, 4
trên đây rồi hãy bắt tay vào soạn giáo án cụ thể.
2.4.2. Tiến hành soạn
Qua tham khảo kinh nghiệm của nhiều giáo viên và các tài liệu liên quan đến
đổi mới PHDH theo kinh nghiệm tích lũy bản thân thì kế hoach bài học
(KHBH) nên soạn theo cấu trúc:
Ngày soạn:
Ngày dạy:
Tiết chương trình TÊN BÀI DẠY
A. Mục tiêu:
1. Kiến thức
2. Kỹ năng:
3. Thái độ:
B. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
1. Chuẩn bị của giáo viên
2. Chuẩn bị của học sinh
C. Tiến trình bài dạy:
Trong mục này giáo viên phải tạo dựng, thiết kế, viết ra được các hoạt động nhằm
thể hiện được các nội dung chủ yếu sau đây.
1. Kiểm tra bài cũ và đặt vấn đề chuyển tiếp vào bài mới.
2. Dạy học bài mới.
3. Cũng cố và luyện tập bài học

4. Hướng dẫn học sinh học ở nhà
D. Rút kinh nghiệm sau tiết dạy.
2.4.3. Những cụng việc cần thực hiện trong tiến trình soạn bài theo cấu trúc
đó là:
A. Mục tiêu bài học:
1. Kiến thức:
8


Người soạn phải xác định được kiến thức trọng tâm của tiết dạy, kiến thức
trọng tâm của từng phần mà mình sẽ cung cấp cho học sinh. Nghĩa là giáo viên
phải hình dung rõ sau khi học xong bài đó, học sinh phải có được những kiến thức
gì?
2. Kĩ năng:
Qua nội dung kiến thức ấy hình thành cho học sinh kĩ năng gì? ứng dụng
vào thực tế ra sao?
3. Thái độ:
Hướng cho học sinh có thái độ như thế nào qua tiết học: Tán thành, phản
đối, hưởng ứng, chấp nhận...
(Việc xác định mục tiêu bài học càng cụ thể, càng sát hợp với yêu cầu của
chương trình, với hoàn cảnh điều kiện dạy và học thì càng tốt. Mục tiêu được xác
định như vậy sẽ là căn cứ đánh giá kết quả và điều chỉnh hoạt động dạy, để trò tự
đánh giá kết quả và điều chỉnh hoạt động học, từng bước thực hiện các nhiệm vụ
để đạt được mục đích dạy-học một cách vững chắc. Phần mục tiêu bài học vô cùng
quan trọng vì nếu người soạn không xác định được mục tiêu bài học thì tiết dạy
không thành công.)
B. Chuẩn bị
1. Chuẩn bị của thầy:
Thầy phải chuẩn bị những gì về PTDH và đồ dùng dạy học để đảm bảo yêu cầu
của tiết dạy.

2. Chuẩn bị của trò:
Trò phải chuẩn bị đồ dùng học tập theo yêu cầu bài học (đồ dùng này đã được
giáo viên dặn từ tiết trước)
(Lưu ý: Đồ dùng dạy học, đồ dùng học tập phải được chuẩn bị và thực hiện
thử nghiệm đầy đủ trước khi thực hiện tiết dạy, chu đáo về mọi mặt, tránh sai sót,
sự cố không đáng có - Một tiết dạy sinh động, theo phương pháp mới là tiết dạy có
sử dụng đồ dùng dạy học thích hợp và biểu diễn đồ dùng dạy học thành thạo).
C. Lên lớp
1. ổn định lớp – Kiểm tra bài cũ: ( 3 - 5 phút)
Giáo viên ổn định lớp, kiểm tra sỉ số học sinh.
Kiểm tra bài cũ: Có thể kiểm tra bài cũ hoặc việc chuẩn bị bài của học sinh
hay việc chuẩn bị đồ dùng học tập của các em.
(Kiểm tra bài cũ , giáo viên phải chuẩn bị câu hỏi - bao gồm cả câu hỏi chính
và câu hỏi phụ, đồng thời phải có các phương án trả lời - Sau khi học sinh trả lời,
giáo viên phải nhận xét, tổng kết, cho điểm)
2. Đặt vấn đề vào bài:
Một bài soạn chu đáo là một bài soạn có nội dung đặt vấn đề và lời giới
thiệu vào bài. Lời giới thiệu cần ngắn gọn và phải tạo được tâm thế cho tiết học
nhằm gây hứng thú học tập, thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức
mới. Giáo viên có thể tiến hành hoạt động này bằng nhiều cách khác nhau như kể
9


một câu chuyện, trình bày sinh động một trích đoạn của bài học mới, đưa ra một
thông tin hấp dẫn, một số tranh ảnh, giáo cụ trực quan, đặt một số câu hỏi có tình
huống cần giải quyết dựa trên vốn kinh nghiệm của học sinh có liên quan đến một
phần nội dung nào đó của bài học mới nhằm thu hút sự quan tâm của học sinh với
bài học.
3. Bài mới: ( khoảng 25 phút)
Có nhiều cách, nhưng theo tôi người soạn có thể chia giáo án thành 2 cột

(Một cột là hoạt động của thầy và trò cột còn là nội dung cần đạt.)
Phần này có các đề mục lớn nhỏ tương ứng với từng đơn vị kiến thức sẽ tìm
hiểu.
Trước khi hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức, chiếm lĩnh các đơn vị
kiến thức thì người soạn phải xác đinh được kiến thức trọng tâm của mục ấy là gì?
Bước tiếp theo là lựa chọn phương pháp giảng dạy.
Có nhiều phương pháp dạy học chung cho tất cả các môn học nhưng đối với
môn Ngữ văn thường có bốn phương pháp chính:
Phương pháp đọc sáng tạo
Đây là phương pháp đặc biệt được sinh ra do chính đặc trưng bộ môn:
Có nhiều cách đọc sáng tạo: Đọc hướng dẫn, đọc có phân tích kể chuyện hoặc đọc
thuộc lòng, phát biểu cảm nghĩ, ... hay hoạt động liên môn với hội hoạ, âm nhạc,
biểu diễn nghệ thuật, ... Nhưng tất cả đều phải diễn ra trên văn bản nghệ thuật.
Mức thấp nhất là đọc đúng (đọc chữ) tròn vành rõ chữ đúng chính âm, chính tả.
Mức cao hơn là đọc diễn cảm (đọc văn) đọc diễn tả sự cảm thụ chứ không chỉ dừng
lại ở mức thể hiện cảm xúc mà có cả sự hiểu biết của người đọc, sự tri ân với tác
giả, ...
Trong phương pháp đọc sáng tạo cả thầy và trò cùng tham gia đọc diễn cảm,
có diễn ra sự phân tích bằng diễn xuất đọc. Thông qua việc đọc còn biết trình độ
học sinh .Việc đọc phải tuân theo tám yêu cầu sau:
Giản dị và tự nhiên.
Thâm nhập vào nội dung tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm ở mức dễ hiểu
với học sinh ở các lứa tuổi.
Truyền đạt rõ ràng tư tưởng tác giả.
Thể hiện trình độ của mình với tác phẩm được đọc.
Thái độ tiếp xúc nhiệt tình với người nghe.
Phát âm rõ ràng và chính xác.
Truyền đạt được đặc điểm thể loại và phong cách tác phẩm.
Kỹ năng sử dụng đúng giọng của mình. Kỹ năng lòng ghép kiến thức, tích
hợp từng phần từng đơn vị kiến thức cho học sinh liên hệ.

Thực chất đọc sáng tạo là phương pháp huy động tổng lực các biện pháp,
các nghệ thuật hỗ trợ cho hoạt động trung tâm là “đọc” để làm sao đạt được
ngưỡng “vang nhạc sáng hình”.
Phương pháp gợi tìm
10


Phương pháp này chủ yếu cho người học đi tìm để tự chiếm lĩnh lấy tri thức
của mình. Sự chiếm lĩnh và phân tích tác phẩm gắn chặt với việc giải quyết các vấn
đề nghệ thuật đạo đức xã hội hoặc triết học do nhà văn đặt ra trong tác phẩm. Giáo
viên phải giúp học sinh nhận ra những điều đó, tìm thấy con đường chiếm lĩnh
chúng trong tác phẩm văn học. Học sinh phải suy luận phân tích rồi biểu hiện ra
bằng ngôn ngữ nói hoặc viết. Chủ yếu hoạt động của phương pháp này ở dạng đàm
thoại hoặc bài tập độc lập theo các câu hỏi của thầy:
Xây dựng một hệ thống câu hỏi có lôgic chặt chẽ, dẫn học sinh một cánh
liên tục từ quan sát đến phân tích hiện tượng, từ những kết luận bộ phận đến khái
quát toàn thể, tạo nên cuộc tranh luận gợi tìm.
Xây dựng hệ thống bài tập về văn bản tác phẩm nghệ thuật về bài phê bình,
về tư liệu tham khảo cho công việc của người học ở dạng lớp, nhóm, tổ, cá nhân,
bài tập khác nhau để nói hoặc viết.
Đặt vấn đề do thầy giáo hoặc học sinh làm theo đề xuất của thầy và tiến
hành tổ chức tranh luận.
Phương pháp gợi tìm giúp người học lĩnh hội dung lượng vừa phải và đặc
biệt phát triển đầu óc phê phán của các em, dạy cho học sinh tự mình tìm lấy tri
thức hoàn thiện các kỹ năng từ phân tích đến phê bình.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu là phương pháp giúp học sinh tìm ra đối tượng
khảo sát ít nhiều sự mới mẻ mà trước đó chưa biết. Nó phát triển kỹ năng tự phân
tích tác phẩm, tự đánh giá thành tựu về nội dung và nghệ thuật ở người học sinh.
Câu hỏi của phương pháp này phải mang tính chất nghiên cứu, nghĩa là sau khi học

sinh nắm được các biện pháp làm việc, rồi tự giải quyết các biện pháp phức tạp
hơn, biết vận dụng các tri thức đã có vào xử lý những tư liệu mới mẻ, phát biểu
được ý kiến có lập luận, có căn cứ của mình.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng ở các giờ thông thường, đặc biệt là
các buổi xêmina hoặc những giờ ôn tập, tổng kết. Các biện pháp cụ thể: Thầy nêu
vấn đề cho cả lớp, từng nhóm, từng cá nhân nhận vấn đề mình thích để giải quyết
hoặc giáo viên đưa ra vấn đề rồi học sinh phản biện.
Ưu điểm của phương pháp này là giúp học sinh quen cách tra cứu thư mục,
cách lập dàn ý, tổ chức trình bày một vấn đề có phân tích, có bình luận sâu sắc, biết
tóm tắt trích dẫn, ... phát triển tư duy các em.
Phương pháp tái hiện
Thực chất đây là phương pháp nhớ một cách sáng tạo. Phương pháp này
hoạt động của học sinh hướng vào những tri thức đã có sẵn trong ngôn ngữ hoặc
bài giảng của giáo viên, sách giáo khoa, ... đã được chọn lọc. Học sinh không hoàn
toàn ghi nhớ máy móc mà chiếm lĩnh tri thức một cách có ý thức. Tức là tăng
cường hoạt động của tư duy để thuộc nhớ bài với kết quả tối đa.
Biện pháp: Có thể là giáo viên kể về cuộc đời và tác phẩm của nhà văn, đọc
bài giảng về con đường sáng tạo và tác phẩm của nhà văn, hoặc bài giảng tổng
quan có dàn ý tóm tắt trên bảng và vở học sinh, có thể kết hợp giáo khoa và
11


phương tiện kỹ thuật. Có thể là ra bài tập theo sách và tài liệu giáo khoa, yêu cầu
trả lời câu hỏi dựa trên tư liệu trò tự chọn, yêu cầu tư liệu minh hoạ. Học sinh ghi
lại bài giảng tóm tắt của thầy, xây dựng những cấu trúc tương tự và chuẩn bị báo
cáo theo vấn đề nào đó.
Ưu điểm của phương pháp này là học sinh nắm vững tri thức và tự mình làm
được một cách sáng tạo với những tài liệu vừa sức lại có được kỹ năng kiểm tra lại
nhận thức của mình tránh được công thức giáo điều.
Như đã nói ở trên có nhiều phương pháp dạy học chung cho tất cả các môn.

Đối với môn Ngữ văn ngoài bốn phương pháp đã nêu giáo viên có thể vận dụng
sáng tạo các phương pháp khác. Nhưng dù sử dụng phương pháp nào thì cũng phải
hướng tới việc lấy học sinh sinh làm trung tâm nghĩa là học sinh được chủ động
tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức còn thầy chỉ đóng vai trò định hướng dẫn dắt .
Ngoài lựa chọn phương pháp, người soạn phải chú ý cách thức tổ chức cho
học sinh học tập
Dạy học Văn thực chất là dạy học sinh hoạt động theo đặc trưng của môn
học, học sinh được cuốn hút vào những hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và
chỉ đạo, thông qua đó, học sinh tự khám phá những điều mình chưa biết chứ không
phải tiếp thu những tri thức đã sắp đặt sẵn. Nét nổi bật của đổi mới phương pháp
dạy học Ngữ văn là hoạt động của học sinh chiếm tỉ trọng cao so với hoạt động của
giáo viên về thời gian cũng như cường độ làm việc. Khi soạn bài những dự kiến
của giáo viên phải tập trung chủ yếu vào các hoạt động của học sinh, trên cơ sở đó,
giáo viên hình dung sẽ phải tổ chức các hoạt động của học sinh như nhế nào, phải
suy nghĩ công phu về các khả năng diễn biến của các hoạt động, lường trước những
khó khăn học sinh sẽ gặp phải, dự kiến thời gian cho từng hoạt động cũng như
chuẩn bị sẵn những giải pháp điều chỉnh để không bị “cháy” giáo án.
(Có nhiều cách thức tổ chức dạy học để lựa chọn: Hoạt động nhóm, tư duy
độc lập, tổ chức trò chơi, … Do vậy người thầy phải cân nhắc để làm sao cho tiết
học vừa sinh động vừa đảm bảo tính khoa học tránh để thời gian chết lãng phí).
ở phần phương pháp và phần tổ chức cho học sinh học tập người soạn phải
chú ý tới hệ thống câu hỏi: Câu hỏi phải rõ ràng, ngắn gọn đúng trọng tâm. Tránh
số câu hỏi quá nhiều, không hỏi những gì vụn vặt, quá đơn giản hoặc đi quá xa
kiến thức trọng tâm bài học. Trong mỗi câu hỏi, nên phân hoá thành nhiều mức độ
yêu cầu để có thể kiểm tra đánh giá được nhiều đối tượng học sinh. Mục đích làm
sao tạo được không khí đặc trưng của bộ môn, phân môn để học sinh chiếm lĩnh
kiến thức một cách nhanh và hiệu quả nhất.
Đồng hành với phương pháp và cách thức tổ chức học tập là việc sử dụng
phương tiện dạy học của thầy và đồ dùng học tập của trò ở từng mục của đơn vị
kiến thức. Như chúng ta đã biết giá trị lớn nhất của phương tiện dạy học nằm ở sự

tác động của chúng tới các giác quan- đặc biệt là thính giác và thị giác. Các nhà
nghiên cứu đã tổng kết mức độ ảnh hưởng của các giác quan tới quá trình tiếp thu
tri thức như: 20% qua những gì nghe được, 30% qua những gì nhìn được, 50% qua
nhìn và nghe, 80% qua nói, 90% qua nói và làm. Điều này khẳng định cần thiết có
12


sự hỗ trợ của các phương tịên nghe nhìn trong các giờ học, tránh dạy chay. Sự hỗ
trợ của các phương tiện nghe, nhìn đem lại hiệu quả cao cho các giờ học trong các
hoạt động như: Nêu vấn đề, tìm kiếm thông tin, mở rộng kiến thức, củng cố, ôn tập
và hệ thống hoá kiến thức, ... nhằm kích thích trí tò mò, lòng ham hiểu biết, kích
thích hứng thú học tập của học sinh. Nhưng giáo viên cần lưu ý nếu dùng không
đúng lúc, đúng chỗ, các phương tiện dạy học lại có tác dụng ngược lại. Riêng với
môn Ngữ văn, một đoạn băng hình, một vài mẩu thông tin, vài phút nghe băng, đĩa,
vài tranh ảnh, những sơ đồ biểu bảng, những bài tập được in to, phóng lớn,... cũng
có thể có những tác động tích cực hoặc tiêu cực phụ thuộc vào cách sử dụng của
giáo viên. Tất nhiên, với đặc trưng môn Ngữ văn, những tác động tới hoạt động
nghe, nói, nhìn rất quan trọng.
Tóm lại, có thể coi việc sử dụng đồ dùng, phương tiện giảng dạy là một trong
những biện pháp hiệu quả trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy giờ học Ngữ
văn. Vấn đề là ở chỗ, cần có kế hoạch làm và sử dụng đồ dùng dạy học một cách
thường xuyên, tăng cường sáng kiến để các phương tiện, đồ dùng giảng dạy được
thực hiện một cách có hiệu quả, ngày càng thực sự hữu ích trong giảng dạy.
Giáo viên lưu ý: Sau khi tìm hiểu xong mỗi đơn vị kiến thức nên có những
bài tập nhanh để kiểm tra độ tiếp thu của học sinh, đồng thời phải có điểm nhấn
sau mỗi phần và cần có lời chuyển tiếp sang phần mới một cách nhẹ nhàng.
4. Luyện tập củng cố: ( khoảng 10 phút)
Giáo viên có thể lựa chọn bài tập trong sách giáo khoa, sách tham khảo hoặc
tự soạn ra những kiểu bài, dạng bài luyện tập đa dạng, sinh động, phù hợp với đối
tượng học sinh, củng cố được kiến thức kĩ năng cơ bản lại có thể mở rộng nâng cao

chuẩn bị cho bài học tiếp theo nhưng phải phù hợp với thời lượng tiết học.
5. Hướng dẫn học ở nhà (5 phút )
Giáo viên dặn dò học sinh làm bài tập, học bài cũ ở nhà; gợi ý cách học, cách
giải một số bài tập, ...
Dặn học sinh chuẩn bị bài mới, chuẩn bị đồ dùng học tập cho tiết sau.
D. Rút kinh nghiệm sau tiết dạy
Đây là mục thực sự có ý nghĩa sau mỗi tiết dạy. Mục này giáo viên sẽ ghi
những điều cần phải rút kinh nghiệm sau khi đã hoàn thành tiết dạy như: Về việc
phân bố thời gian, cách thức tổ chức cho học sinh học tập, phương pháp truyền
đạt, ... cần phải có điều chỉnh gì không? từ đó mà điều chỉnh cho tiết dạy sau, lần
soạn sau.
2.5. Kết quả đạt được.
- Soạn một giáo án Ngữ văn theo yêu cầu đổi mới hiện nay với mục đích để
làm sao phát huy được tính tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh dưới sự tổ
chức hướng dẫn của giáo viên: Học sinh tự giác chủ động tìm tòi, phát hiện, giải
quyết nhiệm vụ nhận thức và có ý thức vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến thức
kỹ năng đã thu nhận được đó là mục tiêu chung cho môn Ngữ văn cũng như các
13


môn học khác. Để đạt được mục tiêu đó thì ai cũng biết phải bắt đầu từ khâu thiết
kế bài học. Với kinh nghiệm của bản thân, tôi đã thực sự hài lòng khi giảng những
giờ Ngữ văn áp dụng soạn theo phương pháp mới, học sinh đã thực sự hứng thú mê
say với môn học mang tính hình tượng này. Tôi cảm nhận được điều đó nhờ những
dấu hiệu tích cực học tập của học sinh:
Học sinh khao khát, tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ
sung các câu trả lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình về vấn đề nêu
ra.
Học sinh hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề giáo viên
trình bày chưa đủ, rõ.

Học sinh chủ động, vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã học để
nhận thức các vấn đề mới.
Học sinh mong muốn được đóng góp với thầy, với bạn những thông tin mới
lấy từ nguồn khác nhau, có khi vượt ra ngoài phạm vi bài học, môn học.
Ngoài những biểu hiện trên tôi còn nhận thấy những biểu hiện về mặt cảm
xúc như thờ ơ hay hào hứng, phớt lờ hay ngạc nhiên, hoan hỉ hay buồn chán trước
nội dung nào đó của bài học hoặc khi tìm ra câu trả lời đúng, hay cho một câu hỏi
hay một bài tập khó.
Từ việc áp dụng thành công trong cách thiết kế bài học, với trách nhiệm chỉ
đạo công tác chuyên môn trong tổ tôi đã tổ chức hội thảo chuyên đề “Làm thế nào
để nâng cao chất lượng bài soạn” theo cách thiết kế mà tôi đã trình bày ở trên. Qua
buổi hội thảo bản thân tôi đã nhận được sự hưởng ứng từ phía đồng nghiệp về cách
thiết kế một giáo án đổi mới như trên
Kết quả khảo sát sau khi áp dụng đề tài
Lớp
Số
Giỏi
Khá
Tb
Yếu
TB trở lên
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
5
14,3
13
37,1

15
42,9
2
5,7
33
94,3
91
35
6
18,2
14
42,4
13
39,4
0
0
33
100
92
33
11
16,2
27
39,7
28
41,2
2
2,9
66
97,1

Tổng 68

3. Phần kết luận
Việc soạn giáo án cũng như xây một ngôi nhà nó phải đẹp về hình thức mẫu
mã và phải đảm bảo về chất lượng kỹ thuật nhưng để có một giáo án như vậy thì
giáo viên phải đầu tư công sức và thời gian rất nhiều trong khâu soạn bài. Phải đổi
mới quan niệm về bài soạn:
Những dự kiến mà giáo viên đưa ra phải tập trung chủ yếu vào các hoạt
động của học sinh. Trên cơ sở đó giáo viên hình dung mình sẽ phải tổ chức các
hoạt động cho học sinh như thế nào.
Giáo viên phải lường hết những khả năng, diễn biến của các hoạt động đề ra
cho học sinh, dự kiến những giải pháp điều chỉnh để không bị “cháy giáo án”.
Bài học được xây dựng từ những đóng góp của học sinh thông qua những
hoạt động do giáo viên tổ chức, khai thác vốn hiểu biết và kinh nghiệm của từng
14


học sinh và tập thể lớp, tăng cường mối liên hệ ngược từ trò đến thầy và mối liên
hệ ngang giữa trò với trò. Trong trường hợp này, giáo viên phải có kinh nghiệm sư
phạm mới làm chủ được tiết học.
Giáo án không phải là một khuôn mẫu bất biến, mà cốt lõi của một giáo án
đổi mới là phần thiết kế các hoạt động giúp học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung
bài học. Hình thức trình bày giáo án (mấy cột, mấy bước...) có thể thay đổi tuỳ
theo trình độ, kinh nghiệm, thói quen của giáo viên. Tuy nhiên nó cũng đòi hỏi
phải có những định hướng, quy ước chung. Song yếu tố quyết định thành công lại
ở sự sáng tạo và khả năng thể hiện của người Thầy.
Trên đây là một số kinh nghiệm rút ra trong thực tế quá trình soạn giảng.
Tuy nhiên những kinh nghiệm này mới chỉ dừng lại ở quan điểm cá nhân. Tôi rất
mong có sự gúp đỡ, đóng góp ý kiến của các thầy, các cô chỉ đạo chuyên môn để
việc dạy học văn mỗi ngày một lôi cuốn, hấp dẫn và đạt hiệu quả hơn. Hy vọng

rằng trong những năm học tới phòng giáo dục sẽ có nhiều hoạt động thiết thực
để chúng tôi tiếp tục được học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của
mình.
Xin chân thành cảm ơn!

15



×