Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.79 KB, 18 trang )

XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA
DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN, NGÀY CÀNG TRONG SẠCH, VỮNG
MẠNH LÀ NHIỆM VỤ QUAN TRỌNG THƯỜNG XUYÊN CỦA
ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ NHÂN DÂN TA
Trần Đức Lương - Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trước hết cần khẳng định rằng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước kiểu mới được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một Nhà nước đại đoàn kết toàn dân,
dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Một Nhà nước khác về
chất so với Nhà nước pháp quyền tư sản chứa đựng thuộc tính bất bình đẳng,
áp bức, bất công đã không được nhân dân ta lựa chọn.
Ý tưởng xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã
được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng ta từ hồi còn hoạt động bí mật ;
sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ý tưởng này đã được khẳng định
ngay trong Hiến pháp năm 1946 và tiếp theo được thể hiện ngày càng rõ nét
hơn phù hợp với từng giai đoạn cách mạng trong các bản Hiến pháp 1959,
1980. Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định : "Nước ta là
một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là
của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử".
Cương lĩnh Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 và Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đều khẳng định : "Tất cả quyền
lực Nhà nước thuộc về nhân dân". Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX nhấn mạnh nhiệm vụ đẩy mạnh cải cách tổ
chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế,
trong đó nhiệm vụ cốt lõi là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.


Nhà nước pháp quyền, nói một cách khái quát là hệ thống các tư tưởng, quan
điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà
nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước quản lý


xã hội theo pháp luật và đề cao quyền của con người, quyền của công dân.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là
cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm
pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp
pháp của công dân, ngăn ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ phía cơ quan
Nhà nước và cán bộ viên chức Nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực
đoan, vô kỷ luật kỷ cương, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà
nước. Đó là Nhà nước mà tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ
chức Đảng đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách
nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có
nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật, phải sống và làm việc theo pháp
luật.
Hiến pháp và pháp luật nước ta xác nhận quyền của công dân tham gia quản
lý Nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả
nước và địa phương, kiến nghị với các cơ quan Nhà nước. Công dân nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đảm bảo mọi quyền tự do cơ bản
trong đó có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền khiếu nại, tố
cáo. Các quyền tự do đó là cơ sở để nhân dân kiểm tra hoạt động của Nhà
nước và là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện dân chủ.
Vì vậy việc chăm lo con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi
người ; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia ; đổi mới thể chế, xác định trách nhiệm


của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời
khiếu nại, tố cáo của công dân ; thực hiện tốt Quy chế dân chủ, mở rộng dân
chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo
luận và quyết định những vấn đề quan trọng, khắc phục mọi biểu hiện dân

chủ hình thức,... là những nội dung hết sức quan trọng của việc thực thi Hiến
pháp và pháp luật.
Quyền lực Nhà nước ở nước ta là quyền lực Nhà nước thống nhất. Đó là sự
thống nhất ở mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của
dân tộc. Xét theo thể chế tổ chức thì quyền lực Nhà nước tập trung vào
những cơ quan đại diện cho nhân dân, do tuyệt đại đa số cử tri bầu ra và do
đó là quyền lực của nhân dân giao phó cho các đại diện của mình. Ở nước ta,
đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội có thẩm quyền lập
hiến và lập pháp ; quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước ; quyền quyết định kế hoạch phát triển đất nước và những vấn đề quốc
kế dân sinh về đối nội, đối ngoại quan trọng nhất ; quyền lập ra các cơ quan
và chức vụ quốc gia cao nhất. Các cơ quan và những người có chức vụ cao
nhất ấy phải chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Hội đồng nhân dân
là cơ quan quyền lực ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên.
Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân là quyền lực Nhà nước thống nhất trên cơ sở
phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền : lập pháp, hành pháp,
tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể hiểu rằng, sự
thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt
được sự thống nhất của quyền lực Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng cũng
nhằm đảm bảo cho sự phân công và phối hợp đó được thông suốt, tuân thủ


Hiến pháp và pháp luật, đưa Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng
vào cuộc sống.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đang đứng trước yêu cầu to
lớn về hoàn thiện hệ thống luật pháp cũng như những yêu cầu mới mẻ và
phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu của công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, hợp
tác và hội nhập quốc tế. Lập pháp một mặt phải giải quyết cho được nhiệm
vụ thiết kế và từng bước hoàn chỉnh hệ thống các bộ luật điều chỉnh được tất
cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội, mặt khác phải xác định cho được
những thứ tự ưu tiên cần thiết, nâng cao tính khả thi của các quy định pháp
luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống.
Hoạt động lập pháp phải vừa bảo đảm chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu của
sự phát triển. Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy
trình đó vừa phải bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời
sống xã hội trong các lĩnh vực, lại vừa đảm bảo tính khoa học, tính chuyên
môn pháp lý của các quy định, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa khâu làm
luật với việc ban hành các văn bản dưới luật và tổ chức thực thi pháp luật.
Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và
hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước của nước ta còn bộc lộ không ít
nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới. Tổ chức hành pháp chưa thông suốt, còn nhiều hạn chế
trong việc xử lý những mối liên kết dọc và ngang, thậm chí còn có hiện
tượng cục bộ, bản vị. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch làm
trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu và dựa dẫm. Thẩm quyền và
trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ. Phong cách làm việc và
trách nhiệm trước dân của đội ngũ công chức, viên chức còn là vấn đề bức
xúc. Vì vậy, Đảng ta chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và


đặt thành một nhiệm vụ chiến lược cần được xem xét trên cơ sở khoa học và
thực tiễn nhằm xây dựng cho được một nền hành chính Nhà nước dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa.
Một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phối hợp
quyền lực Nhà nước và cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp giữa
trung ương và địa phương, sự phối hợp giữa chính quyền với các bộ phận

hợp thành của hệ thống chính trị. Sự phân công, phân cấp ấy phải dựa trên
cơ sở khuyến khích, nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của các bộ phận
hợp thành và các cấp chính quyền, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản
lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Về lĩnh vực hoạt động tư pháp, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật
của Nhà nước ta trước sau như một đều khẳng định các yêu cầu về bình
đẳng, công bằng, tính công khai, minh bạch trong hoạt động bảo vệ pháp
luật, về nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật, bảo đảm mọi vi phạm đều bị xử lý đúng và nghiêm
minh, tăng cường bảo vệ các quyền chính đáng và lợi ích hợp pháp của công
dân và các tổ chức trong xã hội, đề cao các nguyên tắc về tôn trọng và bảo
vệ quyền con người, ngăn chặn oan, sai trong các khâu điều tra, truy tố và
xét xử. Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực và thành tựu đã đạt được trong
việc củng cố kiện toàn các cơ quan tư pháp, nhìn chung sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước đối với khâu trọng yếu này chưa ngang tầm cả về mặt tổ
chức, cán bộ cũng như điều kiện hoạt động của hệ thống tư pháp. Hoạt động
của các cơ quan tư pháp nước nhà còn nhiều bất cập, sai sót. Việc kiện toàn
và nâng cao chất lượng các hoạt động tư pháp đã trở thành đòi hỏi bức xúc
của nhân dân ta. Trên cơ sở những thành tựu và kinh nghiệm đã có, cần đẩy
mạnh cải cách tư pháp đảm bảo tính công minh, khách quan và tính độc lập,
giám sát lẫn nhau ở từng khâu của tiến trình tố tụng và từng cấp xét xử : điều


tra, truy tố, xét xử, thi hành án, đảm bảo công minh, chống oan sai ; nâng
cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp trách nhiệm chính trị - pháp
lý của cán bộ tư pháp.
Trong thời kỳ đất nước ta còn chưa giành được độc lập, trong "Yêu sách của
nhân dân An Nam" đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã từng đưa ra yêu cầu "phải
thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật". Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã luôn đề cao vai trò của chế độ pháp quyền. Người từng nói : "Trăm

điều phải có thần linh pháp quyền". Vì thế, chỉ một ngày sau khi nước nhà
giành được độc lập, Người đã khẳng định : "Trước chúng ta đã bị chế độ
quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần
chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được
hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ". Pháp
luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích của
nhân dân. Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp
luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một
trật tự pháp luật và kỷ cương. Pháp luật thể chế hóa yêu cầu quản lý xã hội,
là hình thức tồn tại của các cơ cấu, tổ chức xã hội và các thiết chế Nhà nước.
Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành
mạnh của xã hội. Nhà nước làm ra và ban hành pháp luật, nhưng lại phải tự
đặt mình trong sự ràng buộc thẩm quyền và trách nhiệm trước pháp luật,
trong khuôn khổ các quy định của pháp luật. Phục tùng pháp luật là phục
tùng ý chí và lợi ích của nhân dân, đường lối, chính sách của Đảng. Vì vậy,
nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là
quyết tâm đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật
nghiêm minh.
Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với mối quan tâm làm
sao để đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng


pháp luật trong cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân. Vì vậy, xây
dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của
một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và
hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng
pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích, tạo điều kiện cho các hoạt động
của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ quyền và thực hiện tốt
nghĩa vụ của họ, sự khuyến khích tính tích cực pháp lý của họ phải đi liền
với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, cải cách hành chính và hệ thống tư

pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật, pháp chế còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng
mọi cách nâng cao hiểu biết pháp luật, tổ chức tốt các công tác tư vấn pháp
luật cho mọi tổ chức và công dân, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và
tội phạm, kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy và trong đội
ngũ cán bộ viên chức Nhà nước.
Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn luôn cần
đến sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu. Trong một Nhà nước pháp
quyền các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng
và hoàn thiện ở mức cao nhất, bảo đảm cho quyền lực Nhà nước luôn nằm
trong quỹ đạo thực thi tốt nhất quyền dân chủ của công dân, phục vụ lợi ích
chung của xã hội, của đất nước, pháp luật luôn được tôn trọng, pháp chế và
kỷ cương phải được giữ vững. Đối với các cơ quan Nhà nước, kiểm tra,
giám sát là cách tốt nhất để các cơ quan đó thực hiện đúng chức trách và
thẩm quyền của mình, đồng thời là điều kiện để phối hợp các hoạt động một
cách có hiệu quả. Đến lượt mình, các hoạt động, các hình thức và cơ chế
kiểm tra, giám sát phải có sự phân công, phối hợp đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Đặc biệt, cần nhấn mạnh quyền giám sát tối cao của Quốc hội và quyền
giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp. Các quyền đó phải có chế tài để
đảm bảo thực quyền.


Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng quan điểm tích
cực, tiến bộ, phản ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự
do, bình đẳng trong xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh
chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã
hội, các tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng
lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước
ngoài ; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí,
nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các

thành viên. Mặt trận có vai trò to lớn trong việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Khối
đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc phải được củng cố và phát
triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công
dân của hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công
cuộc đổi mới, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước,
góp phần rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhân
dân vừa thực hiện quyền dân chủ trực tiếp vừa thực hiện quyền dân chủ
thông qua đại diện là các cơ quan Nhà nước, các đại biểu nhân dân, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Đảng và Nhà nước xây dựng
và hoàn thiện các quy chế để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên
phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội,
thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", thực hiện tốt Quy chế
dân chủ ở cơ sở, qua đó tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố sự nhất trí về
chính trị và tinh thần trong xã hội.


Với tinh thần đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cần
phát huy đầy đủ vai trò đại diện nhân dân trong tổ chức bầu cử Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp ; tham gia xây dựng chủ trương, chính sách,
pháp luật, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước ; tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
thực hiện giám sát của nhân dân đối với việc thực thi trách nhiệm và đạo
đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và các cơ
quan Nhà nước ; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến
nghị với Đảng và Nhà nước ; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của nhân dân ; giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân
dân ; tham gia công tác hòa giải ; hướng dẫn và giúp đỡ Thanh tra nhân dân

ở cơ sở.
Cần tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
theo hướng : khắc phục tình trạng hành chính hóa, hình thức, quan liêu, xa
dân ; thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ; tổ chức các phong trào
thi đua yêu nước, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, xây dựng
đời sống văn hóa, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, gắn liền với các chương
trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng địa phương và
địa bàn dân cư ; hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, cộng đồng dân cư và
từng gia đình.
Trong thiết chế chính trị - xã hội của nước ta, không thể xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh nếu không xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Theo ý nghĩa đó, nhân dân ta đòi hỏi và đặt niềm tin vào cuộc vận động xây
dựng và chỉnh đốn Đảng được Đảng phát động tổ chức thực hiện với quyết
tâm cao, coi đó là nhiệm vụ then chốt của toàn Đảng, toàn dân trong giai
đoạn cách mạng hiện nay.


Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, đảm bảo
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân là một cuộc đấu tranh lâu dài phức
tạp, vừa phải chống tư tưởng bảo thủ, vừa phải chống tư tưởng cực đoan và
phải đi từng bước vững chắc, giữ vững ổn định chính trị. Cần kiên định các
nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã
đúc kết được, kiên quyết vạch trần và nghiêm khắc phê phán những luận
điệu xuyên tạc của những phần tử thù địch. Với quyết tâm cháy bỏng thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm đầu của thế
kỷ XXI vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh ; với sự lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chúng ta tin tưởng nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân sẽ tiếp tục giành được những thành tựu mới, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ lý luận đến thực
tiễn
Trong bài nghiên cứu lý luận nhan đề: "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản
và quản lý của nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam," đăng trên trang web của Đảng Cộng
Sản Việt Nam ngày 11/11/2003, GS Lê Hữu Nghĩa, phó chủ tịch hội đồng lý
luận trung ương của đảng Cộng Sản Việt Nam đã nêu ra những lỳ luận căn
bản của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, và nhu cầu
phải có đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý trong nền kinh tế đó. Ta hãy phân
tích để xem những lý luận đó áp dụng vào thực tiễn có phù hợp hay không?
Về bản chất của kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, giáo sư Lê Hữu
Nghĩa

nhận

định

như

sau:

"Tư duy lý luận trước đây coi sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường là đối
lập tuyệt đối với chủ nghĩa xã hội ’như nước và lửa’, chúng không thể nào


dung hợp với nhau được. Theo tư duy đó, kinh tế thị trường đồng nhất với
chủ nghĩa tư bản; còn kinh tế kế hoạch hóa tập trung được đồng nhất với chủ
nghĩa xã hội và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội cũng được coi là bắt nguồn
từ đó." Trong toàn bài nghiên cứu lý luận trên, giáo sự Lê Hữu Nghĩa còn
nhấn mạnh khá nhiều về bản chất đối lập đó qua những thí dụ như "đất với

trời," "nước với lửa," "người cộng sản với người buôn sỉ," v.v... Có lẽ không
mấy ai bất đồng về điểm này. Điều người ta có thể bất đồng là, từ những bản
chất trái ngược nhau đó, chúng có thể hoà hợp được với nhau không? Người
đứng hàng thứ hai trong hội đồng lý luận trung ương của đảng lý luận rằng,
sự thay đổi tư duy của đảng sẽ khiến kinh tế thị trường hoà hợp được với xã
hội chủ nghĩa... Không hiểu là cứ thay đổi tư duy thì người ta có thể dễ trộn
lẫn được nước và lửa mà cả hai thứ vẫn tồn tại như cây cổ thụ lý luận của
đảng kết luận hay không; hãy chờ xem! Tuy nhiên, từ căn bản tư duy để
hướng dẫn hành động, giáo sư Nghĩa đã nhìn thấy rằng:
"Sai lầm của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây là, trong một thời gian
tương đối dài, đã phủ nhận kinh tế thị trường, thực hiên cơ chế kế hoạch hoá
tập trung bao cấp. Ở Việt Nam cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp đã tồn
tại tương đối lâu dài, từ khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc (1954) cho đến
những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Tình trạng đó do 3
nguyên nhân chủ yếu sau:
1/

Do

theo

nhận

thức

cũ.

2/ Do ảnh hưởng mô hình cũ về về chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ
nghĩa.
3/ Do yêu cầu của thực tiễn kháng chiến chống ngoại xâm."

Trước khi đi thêm vào các vấn đề, ở đây hẳn người ta đều phải đồng ý với
giáo sư Lê Hữu Nghĩa là, dù có nại ra lý do gì để bào chữa đi nữa, thì đảng
cũng đã u mê trong thời gian quá dài (từ năm 1954 đến đầu thập niên 90, tức


là 40 năm). Vì thế, câu hỏi được đặt ra là, một đảng như vậy có xứng đáng
lãnh đạo đất nước hay không? Nhất là cho đến nay chưa có dấu hiệu nào
chứng tỏ đảng có khả năng và ý chí để thoát ra khỏi sự tăm tối kéo dài đó.
Để có thể dung hợp kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa, GS Lê Hữu
Nghĩa nhấn mạnh: "Điều cần nhấn mạnh là, sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản
và vai trò quản lý của nhà nước đối với kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu." Ông phân tích về các mặt ưu và khuyết
của kinh tế thị trường để cho rằng mọi thứ phải có đảng lãnh đạo như sau:
"Kinh tế thị trường vốn có hai mặt: mặt thuận (tích cực) như thúc đầy kinh tế
tăng trưởng nhanh, chú trọng lợi ích và hiệu quả kinh tế... về mặt nghịch
(tiêu cực) như thúc đẩy phân hoá giàu - nghèo, khuyến khích lối sống vị kỷ,
chạy theo đồng tiền, hạ thấp giá trị đạo đức... Mặt nghịch của kinh tế thị
trường mâu thuẫn với bản chất của xã hội chủ nghĩa. Vì vậy sự lãnh đạo của
đảng và quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy được mặt tich
cực và hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường."
Thực tế cho đến nay cho thấy, tất cả những điều mà phó chủ tịch hội đồng lý
luận trung ương của đảng gọi là mặt nghịch (tức mặt tiêu cực) của kinh tế thị
trường đã không mâu thuẫn với bản chất của xã hội chủ nghĩa được đảng
lãnh đạo và nhà nước quản lý. Hơn thế nữa, những tiêu cực đó đã lan tràn
mạnh mẽ và nhanh chóng khi gặp được môi trường quá thuận lợi của hàng
triệu cán bộ đảng đang thèm khát, có toàn quyền sinh sát, và sẵn sàng đổi
bán tất cả. Trong khi đó, ở các quốc gia theo kinh tế thị trường không cần sự
định hướng của xã hội chủ nghĩa, thì những tiêu cực đó lại không có môi
trường để nảy nở. Riêng các mặt thuận của kinh tế thị trường cũng bị kìm
hãm dưới sự lãnh đạo của đảng và nhà nước. Điều này đã được đúc kết trong

bản tin tháng 12/2004 của hội đồng lý luận trung ương đảng, với 6 điểm
thành tựu và 9 điểm yếu kém của kinh tế, xã hội Việt Nam trong 5 năm qua.


Trong đó, từng điểm được gọi là thành tựu đã bị ngay những điểm yếu kém
lật ngược hoặc vô hiệu hóa.. Bảng đánh giá này còn vạch rõ sự tụt hậu của
Việt Nam ngay cả khi so sánh với những quốc gia không có những điều kiện
thuận lợi như Việt Nam.
Tóm lại, mấy chục năm sai lầm, trong vai trò lãnh đạo đất nước, đảng cộng
sản đã đẩy Việt Nam xuống hàng nghèo nàn lạc hậu nhất thế giới. Từ điểm
xuất phát thấp của sự nghèo nàn lạc hậu, thực tế đã cho thấy, nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay sẽ chỉ khiến khoảng cách
tụt hậu của Việt Nam ngày càng lớn hơn. Trong khung cảnh toàn cầu hoá
với sự cạnh tranh gay gắt ngày nay, Việt Nam sẽ vĩnh viễn bị bỏ lại phía sau
nếu không có những thay đổi cần thiết và mạnh mẽ để đưa đất nước đi lên.
Vai trò của Nhà nước trong xây dựng văn hóa quản lý mới
Quản lý là một lĩnh vực của hoạt động tổng hợp, không chỉ được nhìn
nhận từ những góc độ của khoa học, mà cần phải được nhìn nhận cả
từ góc độ văn hóa. Cuộc đấu tranh văn hóa bao giờ cũng gắn liền với
các cuộc đấu tranh khác, trước hết là cuộc đấu tranh kinh tế và chính
trị, nhưng tất cả đều thống nhất vào một mục tiêu: Vì con người, tất cả
cho con người. Quan hệ kinh tế và văn hóa là quan hệ biện chứng,
không thể nói cái nào quyết định cái nào. Kinh tế là một nền tảng của
xã hội: Nền tảng kinh tế. Văn hóa là một nền tảng của xã hội: Nền tảng
văn hóa. Nói một cách khác, kinh tế và văn hóa là hai nội dung cốt lõi
của sự sinh tồn và phát triển của một dân tộc, một quốc gia. Chế độ
chính trị tồn tại trên hai nền tảng đó, với hai nội dung đó…
Chính trị không thay được văn hóa, nó được thể hiện thông qua kinh
tế và văn hóa. Sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường là quy luật của kinh



tế, tác động trực tiếp và gián tiếp đến toàn bộ hoạt động của xã hội. Văn
hóa không đứng ngoài tác động đó. Nhưng văn hóa có đặc điểm và quy luật
riêng của nó. Không thể loại trừ hoạt động kinh tế trong văn hóa, cũng
không thể loại trừ hoạt động văn hóa trong kinh tế. Sự tác động qua lại và
đồng thời là đúng quy luật khách quan.
Văn hóa chính trị là “một bộ phận của văn hóa tinh thần trong xã hội
giai cấp thể hiện những lợi ích giai cấp nhất định và kết tinh trong ý thức
chính trị, hệ thống các nguyên tắc và phương pháp lãnh đạo chính trị,
phong cách quan hệ chính trị, những hoạt động chính trị thực tiễn trong
công tác quần chúng, các giai cấp, các đảng chính trị và các cá nhân”.
Riêng văn hóa chính trị quản lý là “những biểu tượng ý tưởng bao trùm
quan trọng nhất, có giá trị nhất của con người về các hiện tượng chính trị –
xã hội, các hiện tượng quản lý, điều phối và trong thực tiễn nó được thể
hiện thành nguyên tắc sống, những quy tắc ứng xử chỉ đạo những hành vi,
phong cách của con người với tư cách là chủ thể của chính quyền chính trị,
của tổ chức, đơn vị quản lý nào đó”. Văn hóa chính trị luôn luôn gắn liền
với văn hóa quản lý và ở đây có thể gọi hiện tượng này một cách ngắn gọn
là văn hóa quản lý.
Như vậy, nếu “văn hóa tổ chức” chủ yếu bao gồm “những giá trị” nội
bộ tổ chức, thì “văn hóa quản lý” có tính chất bao trùm hơn, phổ quát hơn
với những nội dung liên quan đến các giá trị, chuẩn mực vượt ra ngoài
phạm vi tổ chức, song lại có những tác động lớn lao đến tổ chức. Văn hóa
quản lý là một bộ phận của văn hóa chính trị – quản lý, một dạng của văn
hóa tổ chức, là nền tảng khoa học và nghệ thuật của phép trị nước.
Về phương diện nào đó, việc ứng dụng những thành tựu của văn hóa
quản lý trong môi trường hành chính ở Việt Nam gặp phải không ít khó
khăn khi mà trình độ phát triển kinh tế – xã hội còn thấp, khi mà những ảnh



hưởng của tư tưởng phong kiến đối với con người Việt Nam giờ đây vẫn
còn hết sức nặng nề, mặc dù không thể phủ nhận một sự thật hiển nhiên là
sức sống văn hóa Việt Nam được biểu hiện trong quá trình phát triển, của
nó qua việc giao lưu – tiếp xúc và cả đụng độ với văn hóa ngoại sinh, song
nó vẫn giữ được bản sắc dân tộc của mình.
Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải sử dụng
một hệ thống chính sách, công cụ để điều hành nền kinh tế nhằm phát huy
những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường và hạn chế những mặt tiêu
cực của nó để cho nền kinh tế phát triển với tốc độ ngày càng cao, kết hợp
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội và không ngừng nâng
cao đời sống nhân dân. Kinh tế thị trường không tự nó quyết định bản chất
của chế độ xã hội, mà chỉ có chế độ xã hội quyết định bản chất của thị
trường. Các chế độ xã hội khác nhau có thể sử dụng kinh tế thị trường để
thực hiện các lý tưởng và mục tiêu xã hội đặt ra cho mình. Về phương diện
này, vai trò của văn hóa quản lý có ý nghĩa quyết định đối với định hướng
xã hội chủ nghĩa phát triển của thị trường.
Trên cơ sở của một tư duy như vậy, Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra
đường lối và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2020 là phải
hình thành về cơ bản thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong đó vào thời kỳ kế hoạch 5 năm 2001-2005 là xây dựng một
bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
tiếp tục tạo lập đồng bộ các loại thị trường.
Cuộc đấu tranh giai cấp trong văn hóa là cuộc đấu tranh của nhân
dân, các khuynh hướng dân chủ và tiến bộ nhằm bảo vệ sự phát triển của
nền văn hóa dân tộc chân chính chống lại những hành động phản văn hóa,
được tiến hành – có khi rất quyết liệt, đổ máu. Tác động của giai cấp và đấu
tranh giai cấp trong văn hóa của một dân tộc tuỳ thuộc vào những biến


động của lịch sử, tác động tới bước đi của nền văn hóa, chứ không quyết

định được bản chất của nền văn hóa. Cũng chính vì vậy, việc áp dụng
những “cái mới” phải được chuẩn bị cả về mặt “văn hóa”, hoặc ít ra là về
“văn hóa chính trị – quản lý”. Việc chuẩn bị sẽ được thực hiện ra sao cần
phải có thời gian và sẽ phải được tiếp tục nghiên cứu, song có thể nói rằng,
việc áp đặt một cách máy móc những giá trị văn hóa chính trị – quản lý quá
xa lạ và không phù hợp với bản chất văn hóa của người Việt Nam là điều
không nên. Mọi hình thức cưỡng chế về văn hóa là sai lầm, cần phải lên
án… Văn hóa chính trị – quản lý của chúng ta cần phải được xây dựng hiện
đại và thể hiện bản sắc dân tộc. Văn hóa đó phải hướng tới những lý tưởng
xã hội và phục vụ những lý tưởng xã hội đó.
Chính vì vậy, muốn phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc trong xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, muốn đưa các
nhân tố văn hóa thấm sâu vào lĩnh vực kinh tế, kinh doanh, để kinh tế và
kinh doanh ở nước ta có những bước phát triển bền vững, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa thì cần phải có những chính sách và giải pháp đúng
đắn từ phía quản lý nhà nước cùng với sự nỗ lực chung của toàn xã hội, đặc
biệt là của giới doanh nhân, giới hoạt động văn hóa và khoa học – công
nghệ nước ta. Một trong những quan tâm hàng đầu khi hoạch định các
chính sách và giải pháp, đó là có được quan điểm đúng đắn về xây dựng
một nền văn hóa tương ứng, hướng tới những giá trị nhân văn hiện đại
chung toàn nhân loại, song vẫn đảm bảo giữ gìn, phát huy những nhân tố
tích cực trong văn hóa truyền thống của Việt Nam.
Văn hóa là một phạm trù lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế
các hình thái kinh tế – xã hội. Chủ nghĩa Mác – Lê Nin coi quá trình sản
xuất của cải vật chất là cơ sở và nguồn gốc để phát triển văn hóa tinh thần.
Văn hóa xã hội chủ nghĩa trong khi kế thừa các thành tựu tiến bộ của quá


khứ, của tinh hoa văn hóa nhân loại, vẫn khác về căn bản với văn hóa tư
sản hiện đại về cả bản chất tư tưởng lẫn chức năng xã hội. Những đặc điểm

nổi bật, ưu tú của văn hóa xã hội chủ nghĩa vẫn ngày càng có vai trò chủ
đạo trong xã hội Việt Nam hiện đại, ngay cả khi chúng ta đang xây dựng
nền kinh tế thị trường. Đó là tính nhân dân, tính tư tưởng và tính đảng cộng
sản chủ nghĩa, thế giới quan khoa học, chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ
nghĩa, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa
quốc tế. Hơn thế nữa, nền văn hóa đó phải được đặt dưới sự lãnh đạo chặt
chẽ của Đảng cộng sản; Toàn bộ hoạt động văn hóa – giáo dục của nhà
nước xã hội chủ nghĩa phải được diễn ra dưới tác động của Đảng cộng sản.
Văn hóa quản lý mới là sự kết tinh của tinh hoa truyền thống bản sắc
văn hóa dân tộc, những nhân tố tiến bộ của thời đại và nền văn minh nhân
loại. Dù thế nào đi nữa, cũng như văn hóa dân tộc nói chung, phải được
phát triển đảm bảo tính dân tộc về hình thức, xã hội chủ nghĩa về nội dung,
thể hiện sự trao đổi các giá trị vật chất và tinh thần giữa các dân tộc trên thế
giới.
Văn hóa quản lý có vai trò to lớn trong việc tác động tích cực tới xây dựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một khi nó được
xây dựng và hoàn thiện sẽ đảm bảo những yêu cầu nhất định về xây dựng
và thực hiện đạo đức cách mạng và văn hóa công sở, kiến tạo và phát huy
vai trò của triết lý kinh doanh mới. Văn hóa quản lý là một hiện tượng vật
chất – tinh thần phức tạp, nhiều tầng nấc, bao gồm những mặt vật chất và
tinh thần trong đời sống, hoạt động, hành vi của tổ chức đối với các chủ thể
của môi trường xung quanh và với chính những thành viên của mình, nó
cần phải hài hòa và tổng hợp, với các nhân tố có “tính văn hóa” cao, góp
phần đắc lực vào phát triển xã hội, phát triển con người




×