Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

tài liệu thi văn lớp 11 học kỳ 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.47 KB, 52 trang )

Vì sao chị em Liên (trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam) đêm
đêm cố thức để nhìn chuyến tàu đi qua. Thể hiện tâm trạng đợi tàu
của hai dứa trẻ, tác phẩm muốn nói gì với người đọc?
Hướng dẫn làm bài
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn vào loại tiêu biểu nhất của nhà văn
Thạch Lam. Ở đoạn kết thúc của tác phẩm này có một tình tiết
quan trọng: Chị em Liên (ở đầu đề truyện, tác giả gọi là Hai đứa
trẻ), mẹ giao cho trông cửa hàng tạp hóa nhỏ nơi phố huyện
nghèo. Hai chị em, đêm nào cũng vậy, cố thức để được nhìn
chuyến tàu đi qua, dù không chờ đợi ai ở chuyến tàu ấy cả.
Vì sao vậy? Liên có tâm trạng gì, khi đợi chuyên tàu đêm như thế?
Muốn hiểu ý nghĩa của tình tiết nghệ, thuật đó phải đặt trong toàn
bộ tác phẩm.
- Truyện Hai đứa trẻ chia làm ba đoạn. Hai đoạn đầu diễn tả tâm
trạng buồn chán của Liên trước quang cảnh của phố huyện nghèo
lúc chiều muộn và tối.
+ Đoạn một, nói “cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm
hồn” cô bé. Hàng loạt chi tiết gợi lên cảm giác về sự tàn lụi. Mở
đầu là tiếng trống thu không báo “giờ khắc của ngày tàn”. Ở phía
trời Tây tuy còn đỏ rực nhưng chỉ là một thứ ánh sáng của một
“hòn than sắp tàn trong lò”, ở dưới mặt đất thì là một cảnh chợ
tàn, người ta về hết chi để lại rác rưởi. Có vài đứa trẻ tội nghiệp
lom khom nhặt nhạnh những gì còn vương sót lại của một buổi
chợ phiên. Con người cũng vậy, cái hàng nước chị Tí thì vắng
khách “chả kiếm được bao nhiêu”. Cửa hàng tạp hóa “nhỏ xíu”
của Liên “hôm nay ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì”.
Cuối cùng là hình ảnh bà cụ Thi điên nghiện rượu, tiếng cười
khanh khách ghê sợ - một kiếp người tàn tạ.
Tóm lại, tất cả những gì diễn ra nơi phố huyện trước mắt Liên đều
như lụi tắt, không tương lai, chìm dần vào bóng tối của ngày tàn.
+ Đoạn hai nói tâm trạng buồn và chán của Liên khi trời tối hẳn


trên phố huyện, ở đoạn văn này, đáng chú ý là những chi tiết sau:
Một là hình ảnh cuộc sống quẩn quanh đơn điệu, nghèo mà sa sút
của những cư dân nơi phố huyện. Đêm nào cũng thế, vẫn những
con người ấy: chị Tí dọn hàng nước, bác phở Siêu gánh hàng ra,

1


ánh lửa chập chờn, gia đình một bác Xẩm với manh chiếu, chiếc
chậu thau sắt và đứa trẻ bò lê la trên rác bẩn. Tất cả đều ế khách.
Hai là hình ảnh ngọn đèn con leo lét của hàng nước chị Tí. Không
phải ngẫu nhiên mà tác giả cứ trở đi trở lại nhiều lần với hình ảnh
ngọn đèn này trong mấy trang truyện ngắn (7 lần) - một ngọn đèn
con “chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ” trở thành một biểu tượng
về những kiếp sống nhỏ nhoi leo lét, vô nghĩa giữa đêm tối mênh
mông của cuộc đời.
Hai đoạn văn trên chuẩn bị cho đoạn cuối và làm sáng tỏ ý nghĩa
của đoạn văn này. Nỗi buồn chán của chị em Liên trước cảnh phố
huyện xơ xác vắng vẻ chìm đắm vào bóng tối với những kiếp
người sống không hi vọng, không ánh sáng, không tương lai, leo
lét như ngọn đèn con trước cái tối tăm mênh mông của trời đất đã
dẫn đến khát vọng muốn thoát ra khỏi cái không khí tối tăm bế tắc
ấy, dù chỉ để hi vọng vu vơ về một cái gì ở bên ngoài khác với cái
thế giới buồn chán, không lối thoát này.
+ Hai chị em Liên cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua (An
buồn ngủ lắm dặn chị đánh thức khi con tàu đi qua), vì chúng tha
thiết muốn được sống dù trong khoảnh khắc và bằng tưởng tượng
với một thế giới khác: “Con tàu như đã đem theo một chút thế giới
khác đi qua”, một thế giới tưng bừng náo nhiệt với tiếng còi rít
lên, tiếng máy rầm rộ, với những toa tàu sang trọng, đèn sáng

trưng, trong đó có những con người của Hà Nội xa xăm, Hà Nội
sáng rực, vui vẻ và huyên náo...
+ Thể hiện tâm trạng ấy của chị em Liên, tác giả với sự thức tỉnh
sâu sắc ý thức cá nhân, bày tỏ niềm thông cảm và xót thương vô
hạn đối với những kiếp người không bao giờ được biết đến ánh
sáng và hạnh phúc, sống mòn mỏi trong nỗi buồn chán và sự vô
nghĩa, đến trong ước mơ cũng không mơ ước gì hơn một chuyến
tàu đêm vụt đi qua một phố huyện tiêu điều, xơ xác của cuộc đời
mình.

2


Phân tích một cảnh tượng xưa nay chưa từng có trong
truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất
trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc
sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm,
gây ấn tượng.
Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn
duy mĩ. Ông yêu say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái
đẹp. Theo ông, mĩ (cái đẹp) là đỉnh cao của nhân cách con
người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu
tả cái đẹp bằng khi ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những
nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là
hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt
động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi
thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên
trong của nhân vật. Cái đẹp của ông bao gồm cái chân và
thiện; ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn Chữ

người tử tù (1939) trong tập Vang bóng một thời là áng văn
hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và
dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ
yếu trong đoạn văn tả một cảnh tượng xưa nay chưa từng có,
cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.
Ông Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù là một nho sĩ tài
hoa của một đã qua nay chỉ còn vang bóng. Nguyễn Tuân đã
dựa vào nguyên mẫu nhà nho giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi
nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài
hoa và dùng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao
(Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành
3


lãnh tụ nông cùng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai
tính cách của nguyên mẫu xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao
Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy.
Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lí
tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn
của ông đối với xả hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.
Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài
viết chữ đẹp, một nửa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của
ông Huấn, quyết tìm mọi cách để xin chữ treo trong nhà. Lão
coi chữ của Huấn Cao như báu vật.
Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người
có tài viết chữ đẹp lại là một tên đại nghịch cầm đầu khởi
nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt
giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông
Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội
ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện

xã hội họ ở hai vị tri đối lập. Tình huống của truyện có tính
kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy tính cách hai nhân vật
được bộc lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một
cách sâu sắc.
Huấn Cao nói: Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền
thể mà ép mình viết câu đối bao giờ. Huấn Cao coi thường
tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên
quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi
người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ
biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ
nghĩa ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người.
Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có
những sở thích cao quý như vậy. Viên quản ngục cũng không
4


dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị
đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi
Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: Ngươi hỏi
ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt
chân vào đây. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục,
ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: thiếu chút nữa ta đã
phụ một tấm lòng trong thiên hạ.
Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng
những tấm lòng biết quý cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý.
Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được thiên
lương. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của
mình đi bởi ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và
rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi.
Huân Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần

đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí
phách của một anh hùng Cao Bà Quát. Đêm hôm ấy, lúc trại
giam tính Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một
cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng
tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột,
phân gián. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa
tính cách cao quý của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của
nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho
viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng
hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một
người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ
trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết
xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những
đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng. Hình ảnh
5


người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thơ lại
trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.
Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một cảnh tượng xưa nay
chưa tùng có?
Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ
nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư
phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn
thỉu, hôi hám.
Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho
chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và
thơ lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm
núm run rẩy.

Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái
ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị
mà chính cái đẹp, cái dũng, cái thiện, cái cao cả đang làm
chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp,
bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và
thơ lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp
trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất
cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp
của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù
đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng
những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung
hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là
lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di
huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương
đó. Quan niệm của Nguyền Tuân là cái đẹp gắn liền với cái
6


thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên
lương. Cái đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái dũng. Hiện
thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng
lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.

Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộug, ta còn thấy một
tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên
quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen
vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư
thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh
và cử chì run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy
hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con

người đáng thương này.
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất
trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc
sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm,
gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có
hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm
đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.
Chữ người tử tù không còn là chữ nữa, không chỉ là mĩ mà
thôi, mà những nét chữ tươi tắn nó nói lên những bão tung
hoành của một đời người. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng
đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao
thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng
của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa
hợp giữa mĩ và dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao
nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết
lí duy mĩ của Nguyễn Tuân.
7


Hai đứa trẻ
Thanh Lam là một trong những cây viết truyện ngắn xuất sắc
của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông là thành viên của nhóm
tự lực văn đoàn nhưng ông mang một nét rất riêng so với các
nhà văn trong nhóm. Văn của tự lực văn đoàn thường đượm
một nổi buồn lãng mạn còn văn của Thạch Lam lại chất chứa
những nổi buồn hiện thực. Nó như một thứ “Hương hoàng
lan”, được cất từ những nổi đời. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” in
trong tập “Nắng trong vườn” (1938), tác phẩm này tiêu biểu
cho phong cách của Thanh Lam. Đó là kiểu truyện ngắn trữ
tình đượm buồn. Nét phong cách này thể hiện sâu sắc ở

khung cảnh phố huyện và tâm trạng đợi tàu của nhân vật
Liên. Truyện ngắn của Thạch Lam là kiểu truyện ngắn trữ
tình buồn hiện thực, không có cốt truyện, giàu cảm xúc, nhẹ
nhàng và thấm thía như một bài thơ.
Bức tranh phố huyện được miêu tả theo trình tự thời gian,
cảnh phố huyện lúc chiều xuống. Cảnh phố huyện lúc về
đêm. Cảnh đợi tàu và cảnh phố huyện lúc có chuyến tàu
khuya đi qua. Liên là một cô gái nhỏ vì cha mất việc, cả nhà
phải chuyển từ Hà Nội về sống ở một phố huyện nghèo…Tuy
còn nhỏ mà Liên đã tỏ ra đảm đang, thay mẹ trông coi một
quán tạp hóa nhỏ để kiếm sống và Liên cũng rất chu đáo khi
thay mẹ chăm sóc bé An. Đặc biệt Liên là một cô gái nhỏ dịu
hiền, nhân hậu, đa cảm. Tâm trạng của Liên được khắc qua
bốn cảnh ở phố huyện, như bốn nấc thang tâm lí: chiều muộn,
đêm về, cảnh đợi tàu và chuyến tàu khuya. Bức tranh thiên
nhiên trong phố huyện khi ngày tàn được hiện lên qua điểm
nhìn nhạy cảm và tinh tế của Liên. Đó là “ Một buổi chiều êm
ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran, ngoài đồng ruộng
theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng muỗi đã bắt đầu vo
ve”. Trong bức tranh ấy có sự hòa trộn giữa hai hình ảnh:
8


hình ảnh êm đềm lãng mạn và hình ảnh gợi sự nghèo khó, bần
cùng. Phải chăng do cảnh chiều tàn mà gợi cho Liên nổi
buồn: “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi
mắt chị bóng tối ngạp đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê
thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu
sao, nhưng chị thấy long buồn man mác trước cái giờ khắc
của ngày tàn.” Thật khó để phân định rành rọt nỗi buồn ngoại

cảnh thấm vào tâm cảnh hay nổi buồn tâm cảnh lan tỏa ra,
nhuốm vào ngoại cảnh. Ta chỉ thấy ở đây là một nổi buồn sâu
sắc trong tâm trạng. Chỉ có sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm
như Liên mới thấu hiểu nó. Liên tuy không lam lũ vất vả như
những mảnh đời kia. Nhưng lại là số phận đáng thương nhất.
Vì quá khứ tươi đẹp của hai chị em Liên đã thuộc về dĩ vãng.
Hiện tại thì buồn tẻ, tăm tối, bế tắc. Đúng là cuộc sống phố
huyện cứ đang tàn dần, lụi dần trong đói nghèo lam lũ quẩn
quanh. Những tâm hồn mới lớn như chị em Liên, chứng kiến
những cảnh đó không buồn sao được, nhưng nổi buồn cũng
chỉ man mác đọng trong đôi mắt Liên “bóng tối ngập đầy
dần” nó đang thấm dần vào tâm hôn Liên. Phố huyện như một
sân khấu cuộc đời chỉ độc diễn một màn buồn tẻ, không có sự
thay đổi của cả người lẫn cảnh. Đó là cuộc sống cứ “mốc lên,
mòn đi, mục ra, rĩ ra” không lối thoát. Nó gợi liên tưởng bởi
hình ảnh “chiếc ao đời phẳng lặng”.
Nhà văn không trực tiếp tả tâm trạng này của Liên, nhưng
cảnh vật và cuộc sống qua cái nhìn của Liên đã khắc họa
được tâm trạng đó. Sống trong hoàn cảnh như vậy, chị em
Liên sao không khỏi chờ đợi một cái gì đó dù mơ hồ. Nổi
buồn dường như thấm thía hơn. Nhưng không hi vọng thì làm
sao sống nổi. Và chuyến tàu đêm đã thắp lên niềm hi vọng
đó. Cảnh chuyến tàu khuya và tâm trạng buồn vui của Liên,
trong cả chuỗi thời gian dài buồn tẻ, thì ánh sáng, tiếng còi
9


tàu chính là niềm vui lớn của hai chị em. Hai đứa đêm nào
cũng náo nức thức chờ tàu. Chúng không chờ tàu để bán
hàng, đó là niềm vui tinh thần của hai chị em. Khi đoàn tàu

đến Liên và An đứng cả dậy, hướng về phía con tàu, và khi
nó đi rồi, “Liên vẫn lặng theo mơ tưởng”, con tàu đến rồi lại
đi nhanh để lại trong hai đứa trẻ nổi buồn tiếc. Tàu đi rồi, phố
huyện lại trở về với đêm tối và sự tĩnh lặng, càng nặng nề
hơn. Niềm vui của hai đứa trẻ vừa lóe lên lại bị dập tắt như
đám than bổng bùng lên cháy rực rồi lại lùi dần trong đêm.
Nổi chờ đợi bắt đầu khắc khoải từ khi bóng chiều xuống, đêm
về và phố huyện vào khuya. Hai đứa trẻ chờ đợi từng bước đi
của thời gian, từng bước xích lại gần của chuyến tàu: tàu sắp
đến, tàu vuột qua, tàu đi rồi chỉ còn lại ánh đèn ghi đỏ xa mãi
rồi khuất sau rặng tre. Đêm tối lại bao bọc phố huyện.
Miêu tả khung cảnh phố huyện buồn, nghèo nàn, tẻ nhạt , bế
tắc và tâm trạng của hai đứa trẻ đặc biệt là Liên một cách trực
tiếp và gián tiếp. Qua hiện thực và hồi ức đan xen, miêu tả
bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, giàu chất thơ, nhà văn
bộc lộ niềm xót thương những kiếp người đói nghèo, cơ cực,
sống quanh quẩn, bế tắc trong xã hội cũ.
Từ đó tác giả như muốn lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang
lụi tàn. Muốn nhen lên trong họ ngọn lửa khát khao được
sống một cuộc sống tươi đẹp , ý nghĩa hơn. Khát khao thoát
khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ. Truyện ngắn “Hai
đứa trẻ” đã thể hiện sâu sắc cái tài và cái tâm của Thạch Lam.

10


11


Chữ người tử tù

Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới
chân-thiện-mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuânmột nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là
một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học
Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tac của Nguyễn Tuân,
các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một
nghệ sĩ . Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây
dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn
đã khéo léo sáng tạo lên một tình huống truyện vô cùng
độc đáo. Đó là cảnh cho chữ trong nhà giam- là phần đặc
sắc nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng xưa nay
chưa từng có”.
Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm.ở vị trí này tình
huống truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm vì viên quản
ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên
phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ
có ý nghĩa cởi nút,giải tỏa những băn khoăn ,chờ đợi nơi
người đọc, từ đó toát lên những giá trị lớn lao của tác
phẩm.
Sau khi nhận được công văn, viên quản ngục đã rãi bày
tâm sự của mình với thầy thơ lại. Nghe xong truyện, thầy
thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để kể rõ nỗi
lòng viên quản ngục. Và đêm hôm đó, trong một buồng
tối chật hẹp với ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm
dầu, “ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đang diễn
12


ra. Thông thường để sáng tạo nghệ thuật người ta thường
tìm đến những nơi có không gian đẹp, thoáng đãng , yên
tĩnh. Nhưng trong một không gian chứa đầy bóng tối, nhơ

bẩn chốn ngục tù thì việc sáng tạo nghệ thuật vẫn xảy ra.
Thời gian ở đây cũng gợi cho ta tình cảnh của người tử
tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ
và cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và
trong hoàn cảnh ấy thì “ một người tù cổ đeo gông, chân
vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ
trên tấm lụa trăng tinh”. Trong khi ấy, viên quản ngục và
thầy thơ lại thì khúm lúm chuyển động.ở đây cho thấy
dường như trật tự xã hội đang bị đảo lộn. Viên quản ngục
đáng nhẽ phải hô hào , răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong
cảnh tượng này thì tù nhân lại trở thành người răn dạy,
ban phát cái đẹp.
Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có
giữa Huấn Cao-người có tài viết chữ nhanh , đẹp và viên
quản ngục, thầy thơ lại-những người thích chơi chữ. Họ
đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ
phản nghịch phải lĩnh án tử hình( Huấn Cao) và một bên
là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội,
họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên bình diện nghệ
thuật họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Vì thế mà thật là
chua xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối
cùng ba con người ấy gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp
nhau với con người thật, ước muốn thật của mình. Trong
đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh
sáng và bóng tối làm câu chuyện cũng vận động theo sự
vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn, xô bồ
của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và
13



những nét chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh
của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng thế của ánh
sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện
so với cái ác. Vào lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ:
ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn ngục tù
tốităm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ
bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác
phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương chiến
thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn
tượng.
Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ
bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục
sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên
lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể
bền vững. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ
bẩn, từ môi trường của cái ác( cho chữ trong tù nhưng
không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến
thú chơi chữ là môn nghệ thuật đòi hỏi sự cảm nhận
không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn.
Người ta thưởng thức chữ không mấy ai thấy, cảm nhận
mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực trong chữ
hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái
thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.
Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản nguc xúc
động “ vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà
dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội
này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao
cả và tài năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản
ngục đến một cuộc sống của cái thiện. Và trên con đường
đến với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho

14


những người lầm đường. Trong khung cảnh đen tối của tù
ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là
thường, vượt lên trên những cái dung tục thấp hèn của thế
giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một niềm tin vững
chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người
vẫn luôn khao khát hướng tới chân- thiện-mĩ.
Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức
là điều khiến ông quan tâm chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật.
Nhưng qua truyện ngắn “ Chữ người tử tù” mà đặc biệt là
cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt,
thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn
Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với
cái thiện, thiên lương con người. Quan điểm này đã bác
bỏ định kiến về nghệ thuật trước cách mạng, Nguyễn
Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm
nghệ thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh đó, truyện còn ca ngời
viên quản ngục và thầy thơ lại là những con người tuy
sống trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là những
“thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó
còn thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị
đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có
“thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.
“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên
lương, tài năng và nhân cách cao cả của con người. Hành
động cho chữ của Huấn Cao, những dong chữ cuối cung
của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng
cho kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau. Nếu không có sự

truyền lại này cái đẹp sẽ mai một. Đó cũng là tấm lòng
muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.
Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên
15


tưởng đến một đoạn phim quay chậm. Từng hình ảnh,
từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện
ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh
con người “ba cái đầu đang chăm chú trên một tấm lụa
trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng
xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư
tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi
hám nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính
cũng tạo không khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ sử dụng
nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ.
Tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại
như bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật.( văn học
cổ nói chung không tả thực và phân tích tâm lí nhân vật)
Cảnh cho chữ trong “ Chữ người tử tù” đã kết tinh tài
năng , sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân.
Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối
tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và
nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín
đao bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích
thực đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy
tính nhân bản: dù cuộc đờicó đen tối vẫn còn có những
tấm lòng tỏa sáng.
chí phèo
Diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở

Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ
nghĩa lớn. Sáng tác của ông đã
vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian,
càng thử thách lại càng ngời

16


sáng. Trong đó nổi bật hơn cả phải nhắc đến tác phẩm
"Chí Phèo". Tác phẩm là sự kết tinh
của tài năng nghệ thuật, là cái nhìn hiện thực sắc sảo và
tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà
văn. Đặc biệt, diễn biến tâm trạng và hành động của Chí
Phèo từ khi gặp Thị Nở đến lúc tự
tay cầm dao kết liễu đời mình là một thành công lớn
trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
của Nam Cao.
Ngay từ thuở ấu thơ, Chí Phèo đã có hoàn cảnh vô cùng
đáng thương. Sinh ra trong một lò
gạch, nơi không được coi là ngôi nhà, Chí thậm chí còn
không biết cha mẹ mình là ai, chỉ cô
độc lớn lên như thế dưới bàn tay chăm sóc mà thiếu tình
thương của mọi người trong làng.
Tuy vậy, ông trời vẫn cho Chí bản chất lương thiện, giàu
lòng tự trọng cùng ước mơ mái ấm
gia đình thật bình dị. Nhưng rồi, nhà tù thực dân đã biến
một người tốt thành một tên lưu
manh, rồi lại bị Bá Kiến, tên địa chủ cường hào già đời
đục khoét biến tiếp thành con quỷ dữ.
Bị tước mất quyền làm người, đời Chí tàn rồi trượt dài

qua những cơn say rượu triền miên.
Duy chỉ khi gặp được Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thật
sự tỉnh rượu, tỉnh cả tâm tính của
một con người với bản chât lương thiện dù chỉ trong một
khoảnh khắc ngắn ngủi.
Lúc đầu, cuộc gặp gỡ của Chí Phèo với thị Nở chỉ là sự
chung chạ do cái bản năng của

17


người đàn ông bị rượu đánh thức. Đến sáng hôm sau,
cũng như bao người say tỉnh rượu
khác, hắn cảm nhận chính xác được cảm giác miệng
đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ
buồn. Nhưng với Chí, đây là cảm giác, cảm xúc khi vừa
được đánh thức không chỉ mỗi cơn
say. Có lẽ lâu lắm rồi hắn mới cảm nhận được cuộc sống
đời thường với những cảnh sắc,
âm thanh quen thuộc: tiếng người đi chợ, tiếng anh
thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót, ánh
nắng rọi vào cái lều nát...Tất cả những hình ảnh, âm
thanh ấy khi nào mà chả có, nhưng đây
là lần đầu tiên Chí có thể cảm nhận được, bởi rước giờ
hắn chưa từng hết say. Nhịp sống
trở lại đưa Chí Phèo nhớ lại quá khứ xa xôi với những
ước mơc bình dị như biết bao người
dân quê khác. Chí mơ ước có một gia đình nhỏ, một cuộc
sống gia đình hạnh phúc được tạo
dựng từ bàn tay lao động cần cù của chính mình. Rồi Chí

nghĩ đến hiện tại, nghĩ về tương
lai cô độc với tuổi già đau ốm...hắn càng và càng lo hơn,
bởi nửa cuộc đời từng trải đủ để
hắn hiểu được cô độc còn đáng sợ hơn là đói rét và ốm
đau. Đó lần đầu tiên hắn trở lại làm
người, suy nghĩ , lo lắng như một người nông dân nghèo
bản chất lương thiện. Một cách tự
nhiên, mọi suy nghĩ của Chí Phèo lại hướng về thị Nở,
khi Thị bước vào lều với bát cháo
hành.

18


Không ngoa khi nói rằng, thị xấu, xấu lắm, thị xấu đến
ma chê quỷ hờn. Vậy mà sự chăm
sóc của thị dành cho Chí sao mà ân cần, chân thành, mộc
mạc đến thế. Ấy nên khi nhận bát
cháo hành xoàng xĩnh đó, Chí phèo vừa húp vừa khóc:
"thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc
nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt". Đúng thế, trong
Chí giờ đây tồn tại rất nhiều tâm
trạng khác nhau, trước hết là ngạc nhiên, đến vô cùng.
Hắn thật không thể nghĩ đến, không
thể ngờ. Một người như Chí, nỗi sợ hãi và căm ghét của
cả dân làng, là con quỷ làng Vũ Đại
trước giờ muốn ăn thì chỉ có giành lấy cướp lấy của
người khác. Vậy mà giờ đây, có người
đem đến cho hắn, đến gần hắn mà không sợ hãi hay căm
ghét và còn mang lại đời sống

mới cho hắn. Sau đó, sự cảm động đến mức không thể
kìm nén dâng trào: hình như hắn
khóc. Đây là lần đầu tiên Chí được người ta chăm sóc, lại
bởi bàn tay của một người đàn bà.
Có thể sự chăm sóc của Thị là một cử chỉ bình thường
của một con người dành cho một con
người. Thế nhưng đối với Chí phèo, đây là lòng tốt hiếm
hoi, duy nhất mà Chí được hưởng
từ ngày về làng. Chí cũng cảm thấy thật bâng khuâng,
vừa vui vừa buồn, như là ăn năn, hối
hận vì những việc ác mà mình đã làm. Nhưng với hiện tại
như bây giờ, Chí tràn ngập niềm
vui mới mẻ. Hắn thấy lòng như trẻ con, muốn làm nũng
thị như bao đứa trẻ làm nũng mẹ.
19


Rồi như một lẽ tự nhiên bất chợt, Chí thấy "thèm lương
thiện, muốn làm hoà với mọi người
biết bao! Mong muốn thị Nở sống chung..." Vậy là hương
vị bát cháo hành, nụ cười tin cẩn
cùng với tình người mộc mạc đơn sơ đã đánh thức bản
chất trong trắng, lương thiện của
anh canh điền năm xưa. Khi tỉnh rượu cũng chính là lúc
Chí Phèo bắt đầu tỉnh ngộ, lại khao
khát một gia đình hạnh phúc, một cuộc sống thiện lương
sẽ được thực hiện cũng thị Nở. Thì
ra, trong bản chất của con quỷ dữ làng Vũ Đại vẫn là một
con người rất đáng thương luôn
khao khát được làm người lương thiện, chính tình thương

giữa người với người đã làm thức
tỉnh điều đó.
Nhưng niềm vui của Chí Phèo không kéo dài được bao
lâu, sự trở về của lương tri lại nhanh
chóng đẩy Chí Phèo đến đỉnh điểm của bi kịch. Chí phèo
đã bán đi nhân hình lẫn nhân tính,
bộ mặt người lẫn linh hồn người để rồi trở thành hiện
thân của con quỷ dữ - cực điểm của
sự tha hoá. Thủ phạm là Bá Kiến, nhưng tham gia vào đó
còn có định kiến của xã hội - lực
lượng không kém phần tàn bạo, đẩy Chí đến cùng quẫn,
bế tắc. Đại diện cho định kiến xã
hội ấy chính là bà cô của Thị Nở. Bà ta đã kiên quyết
ngăn cản mối tình này khiến con
đường trở lại làm nguời lương thiện của Chí Phèo bị chặn
đứng. Đối diện với sự tàn bạo của

20


xã hội, tình người thoáng thật mong manh và dễ bị tiêu
tan. Và đúng như vậy, Chí Phèo lại bị
cự tuyệt. Hắn bị một người xấu đến tột bậc cự tuyệt, bị
chính hy vọng duy nhất, khát khao
cháy bỏng còn sót lại cự tuyệt. Chí "ngẩn người", "sửng
sốt", "gọi thị lại, nắm lấy tay"nhưng
không được. Đau đớn cùng cực, Chí Phèo mang rượu ra
uống nhưng "càng uống càng tỉnh
ra" và "tỉnh ra, chao ôi, buồn". Rượu không thể làm tê liệt
tâm trí của hắn nữa, rượu chỉ càng

làm cho hắn thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận.
Hắn "ôm mặt khóc rưng rức và
quyết định trả thù kẻ đã gây cho hắn ra nông nỗi này".
Lúc đầu Chí tính giết cả nhà Thị, hay
không cũng ăn vạ kêu làng cho bẽ mặt cái con đĩ thị đó.
Thế nhưng trong tiềm thức từ cơn
say, Chí nhận ra Bá Kiến mới chính là kẻ cướp đi quyền
làm người, bộ mặt người và linh
hồn của hắn. Đây có thể coi là giây phút tỉnh táo nhất của
Chí từ khi ra tù về, tỉnh táo để xác
định kẻ thù: "Ai cho tao lương thiện ?",tỉnh táo để thể
hiện mong muốn cháy bỏng của bản
thân: "Tao muốn làm người lương thiện !" và tỉnh táo với
sự thật phũ phàng trước mắt: "Tao
không thể làm người lương thiện được nữa". Những câu
nói ấy như vừa thể hiện quyết tâm
trả thù, vừa bộc lộ niềm phẫn uất, bế tắc của Chí Phèo.
Chí dõng dạc kết án Bá Kiến, và
đâm chết hắn. Nhưng trả thù rồi thì sự thật vẫn không thể
thay đổi. Cuối cùng, Chí Phèo chỉ
21


còn con đường duy nhất là cái chết để được giải thoát, để
chấm dứt cái bi kịch khốn cùng vì
bị cự tuyệt quyền làm người này. Vì thế hắn tự đâm
mình, chết mà vẫn uất ức, vẫn muốn nói
ra điều gì đó trong khát vọng bao thuở của hắn nhưng
không thể phát thành lời.
Cái chết bi thảm của Chí Phèo chứng tỏ ý thức nhân

phẩm của hắn đã trở về. Nếu trước đây
để bám lấy sự sống, Chí phải bán rẻ linh hồn thì hiện tại,
để được sống như một con người
đúng nghĩa, Chí phải từ bỏ mạng sống của mình. Cái chết
của Chí cũng chứa đựng những ý
nghĩa sâu sắc. Nó thể hiện niềm khát khao cháy bỏng
được sống lương thiện của Chí Phèo
và cũng là lời tố cáo mãnh liệt xã hội thực dân phong
kiến không những đẩy người nông dân
vào con đường cùng bần hoá, mà còn đẩy họ vào chỗ
chết. Nam Cao thật tài tình khi phát
hiện và miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của người
nông dân ngay khi họ đã bị biến
thành thú dữ, và trả một cái giá đắt để quay lại làm
người.Qua đó, nhà văn gởi gắm lời kêu
cứu khẩn thiết: hãy cứu lấy con người, bảo vệ quyền
được làm người của mỗi cá nhân
trước mọi thế lực xấu xa của cuộc sống. Đây chính là
chiều sâu tư tưởng và là giá trị nhân
đạo của tác phẩm.
Cả đoạn văn không chỉ thành công về mặt nội dung mà
còn cả về nghệ thuật: kết cấu truyện

22


vô cũng chặt chẽ, logic; tình tiết hấp dẫn, biến hoá giàu
kịch tính, ngôn ngữ sống động, linh
hoạt. Có thể đáng giá, đoạn văn viết về sự thức tỉnh của
linh hồn Chí Phèo sau đêm gặp gỡ

Thị Nở là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung tư
tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ
của Nam Cao. Và một câu hỏi lớn được đặt ra : làm thế
nào để con người được sống một
cuộc sống con người? Điều đó chẳng những Bá Kiến
không hiểu nổi mà cả xã hội bấy giờ
cũng không thể trả lời được. Sự day dứt, bức thiết của câu
hỏi ấy cũng chính là nét đặc sắc
nhất đánh dấu "Chí Phèo" trở thành một trong những văn
xuôi bậc nhất của văn học hiện đại
Việt Nam

23


Phan tich hinh tuong nhan vat Chi Pheo – Đề bài: Cảm
nhận của anh (chị) về hình tượng nhân vật Chí Phèo
trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.
Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi
truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một
cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật ngưỡng
bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu
ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng
người đọc.
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong
những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn
trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân
nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn
Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua

một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào
phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới
thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc
thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc
phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và
khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí
Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam
Cao về người nông dân trước Cách mạng.

24


Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng
đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường
cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí
được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối
chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà
khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí
lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương.
Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là
hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí
vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự
dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp
chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao
nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia
đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ
dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả
thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện
trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao
gượng dậy được.

Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa
bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của
làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy
Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con
người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước
ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng
nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế
lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp
cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa,
lưu manh hóa là tất yếu.

25


×