Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TRẢ lời bài THI EM yêu LỊCH sử xứ THANH lớp 8c bài đạt GIẢI TỈNH trường trung học cơ sở vua xứ thanh thần xứ nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THCS QUẢNG CÁT
----------

BÀI DỰ THI

“EM YÊU LỊCH SỬ XỨ THANH”

Họ và tên:
Lớp:
Trường:
Địa chỉ:

Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh
8C
THCS Quảng Cát
Quảng Tâm, Tp Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa

Năm học: 2016 – 2017


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Câu 1: Người xưa có câu “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu
(tức Thanh Hóa ngày nay) được xem là cái nôi sản sinh ra vua chúa Việt. Bằng
những kiến thức lịch sử đã học, em hãy trình bày hiểu biết của mình về một
trong các vị vua, chúa xứ Thanh mà em yêu thích nhất.
Trả lời
Đã từ rất xa xưa trong dân gian ta đã có câu “Vua xứ Thanh, Thần xứ
Nghệ” Xuất phát từ câu nói của sứ giả Nguyễn Thư Hiên chép ở sách Dư địa chí
do Nguyễn Trãi biên soạn có lời của Nguyễn Thiên Túng liên quan đến 4 xứ:
“Nguyễn Như Hiên nói” Thế xứ Thanh, thần xứ Nghệ, nước Hưng Thái, ma Cao


Lạng đều rất đáng sợ”. Câu nói có liên quan đến hai xứ Thanh và Nghệ, là mảnh
đất sản sinh ra những con người, vua chúa, quan thần của đất nước. Xứ Thanh
xưa mà nay là Thanh Hóa là nơi kinh đô của đất nước, nơi có nhiều vua, chúa
nhất nước.
Đất Thanh Hóa trải qua nhiều tên gọi khác nhau đến đời Lý được đổi tên
thành Thanh Hóa. Theo sách Dư địa chí, Thanh Hóa là vùng địa lý thuận lợi,
hình thể tốt có thể xem như yết hầu của đất nước. Chính vì vậy nơi đây trở thành
chỗ quân Tây Sơn lui về để ngăn bước tiến quân Thanh.

Năm 1428 ` Lê Lợi lập ra nhà Hậu Lê. Ông là người Thanh Hóa.
Thiên thời, địa lợi, nhân hòa khiến Thanh Hóa thuận lợi trở thành nơi xưng
vương, dựng nước. Nhà Trần đã phải cho người đục núi, lấp sống để trấn yểm
các huyệt mạch đế vương.
Liên tiếp các triều vua, chúa xuất phát từ đất Thanh. Theo thống kê thì từ
thời Văn Lang cho đến khi kết thúc chế độ phong kiến cuối cùng là triều

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Nguyễn với vua Bảo đại thì Thanh Hóa chính là khởi nguồn của nhiều dòng vua,
chúa nhất nước vì vậy nên mới có câu “Vua xứ Thanh”.
Thanh Hóa chính là nơi vua xuất hiện nhiều nhất khi năm Mậu thìn (248)
Triệu Thị Trinh đánh tan quân Ngô tại núi Nưa, Triệu Sơn, Thanh Hóa. Tuy
chưa xưng vua nhưng quân Ngô đã gọi bà là Vua. Nhà Tiền Lê do thập đạo
tướng quân Lê Hoàn lãnh đạo cũng xuất phát từ quê nhà Thọ Xuân, Thanh Hóa.
Sau khi Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần, lập nên nhà Hồ đổi tên nước là Đại
Ngu cũng đặt kinh đô ở thành Tây Giai, tức Tây Đô, Thanh Hóa. Nơi đây cũng
trở thành mảnh đất sản sinh ra những vị vua thời Hậu Lê như Lê Thái Tổ, Lê
Thánh Tông, Lê Trang Tông....

Không chỉ có vậy, Thanh Hóa còn là nơi xuất phát của hai dòng chúa
Trịnh, Nguyễn. Chúa Trịnh Kiểm thời vua Lê vốn xuất thân từ Vĩnh Lộc, Thanh
Hóa sau đó mang tiếng giúp phò Lê nhưng thực ra lấn át cả quyền lực của vua.
Lê Lợi sinh ngày 10-9-1385 (6-8 năm ất Sửu) tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay
thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, trong một gia đình "đời đời làm quân
trưởng một phương".
Ông Lê Khoáng chính là thân phụ của Lê Lợi. Sử cũ cho hay, Lê Khoáng là
người thường “lấy lễ nghĩa mà tiếp đãi tân khách, thương yêu dân, hay chu cấp
và giúp đỡ cho người nghèo khó hoặc bệnh tật, vì vậy khắp vùng đều cảm phục
nghĩa khí" (Đại Việt thông sử, Đế kỷ, đệ nhất). Ông kết hôn với bà Trịnh Thị
Ngọc Thương, sinh hạ được ba người con trai là Lê Học, Lê Trừ và Lê Lợi. Khi
Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế, Lê Khoáng được truy tôn là Tuyên Tổ Phúc Hoàng
Đế, Lê Học được truy tặng là Chiêu Hiếu Đại Vương, còn Lê Trừ thì được truy
tặng là Hoàng Dụ Vương.
Năm Lê Lợi 21 tuổi cũng là năm nhà Minh đem 80 vạn quân sang xâm
lược nước Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương triều Hồ thất bại,
nước Đại Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước cảnh đất nước
bị kẻ thù giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một quyết tâm đánh đuổi chúng
ra khỏi bờ cõi.

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”

Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với
18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên quê
hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách.
Tin Lê Lợi dựng cờ nghĩa, chiêu mộ hiền tài bay xa, thu hút các anh hùng
hào kiệt từ bốn phương kéo về. Đất Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa. Ở đó có đủ

các tầng lớp xã hội và thành phần dân tộc khác nhau, với những đại biểu ưu tú
như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Lê Lai, Cầm
Quý, Xa Khả Tham... Sau một thời gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê
Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng
lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi
nghĩa ấy.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ mở đầu tới kết thúc thắng lợi (tháng 121427), qua các giai đoạn phát triển và chiến lược, chiến thuật của nó đã chứng
minh Lê Lợi là người có tầm vóc của một thiên tài, một nhân cách vĩ đại, chỉ
thấy ở những lãnh tụ mở đường, khai sáng. Nếu Ngô Quyền với chiến thắng trên
sông Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt thời kỳ 1.000 năm mất nước, mở đầu
thời kỳ độc lập mới của dân tộc thì Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn
thắng, kết thúc 20 năm thống trị của giặc Minh, khôi phục nền độc lập lâu dài
cho Tổ quốc, bắt đầu một kỷ nguyên xây dựng mới.
Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Không có Lê Lợi, không có phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Nhưng Lê Lợi
không chỉ là người nhen nhóm, tạo lập ra tổ chức khởi nghĩa Lam Sơn mà ông
còn là nhà chỉ đạo chiến lược kiệt xuất. Một nét đặc sắc, mới mẻ trong đường lối
chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Minh mà Lê Lợi thực hiện là dựa vào nhân dân
để tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhìn vào lực lượng nghĩa binh và
bộ chỉ huy, tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa, có thể thấy rõ tính chất nhân dân
rộng rãi của nó, một đặc điểm nổi bật không có ở các cuộc khởi nghĩa khác
chống Minh trước đó. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết, tập hợp mọi
lực lượng xã hội trong một tổ chức chiến đấu, rồi từ cuộc khởi nghĩa ở một địa
phương, lấy núi rừng làm căn cứ địa, phát triển sâu rộng thành cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc trên quy mô toàn quốc. Đây là một cống hiến sáng tạo to lớn
về đường lối chiến tranh của Lê Lợi và bộ tham mưu của ông, để lại một kinh
nghiệm lịch sử quý giá.

Vừa là nhà tổ chức và chỉ đạo chiến lược về chính trị, quân sự, vừa là vị
tướng cầm quân mưu trí, quả quyết, Lê Lợi đã vận dụng lối đánh "vây thành diệt
viện" theo lý thuyết quân sự ông nghiền ngẫm: Đánh thành là hạ sách. Ta đánh
thành kiên cố hàng năm, hàng tháng không lấy được, quân ta sức mỏi, khí nhụt,
nếu viện binh giặc lại đến thì ta đằng trước, đằng sau đều bị giặc đánh, đó là
đường nguy. Chi bằng nuôi sức khỏe, chứa khí hăng để đợi quân cứu viện tới.
Khi viện binh bị phá thì thành tất phải hàng". Chiến thuật "Vây thành diệt viện"
của Lê Lợi kết hợp với chủ trương "mưu phạt nhị tâm công", uy hiếp, phân hóa,
chiêu dụ địch của Nguyễn Trãi tạo nên một phương thức độc đáo trong nghệ
thuật quân sự Việt Nam.
Cuộc vây hãm Vương Thông ở Đông Quan và tiêu diệt viện binh giặc tại
Chi Lăng, Xương Giang cuối năm 1427 là kết quả thắng lợi của tư tưởng quân
sự của Lê Lợi - Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi hết giặc Minh về nước, Lê Lợi lên
ngôi hoàng đế năm 1428, sáng lập ra vương triều Lê. Lê Lợi làm vua được 5
năm thì mất (1433), an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, miếu hiệu là Thái Tổ.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước buổi đầu của vương triều Lê, Lê Lợi đã
có những cố gắng không nhỏ về nội trị, ngoại giao, nhằm phục hồi, củng cố,
phát triển đất nước trên mọi mặt, như tổ chức lại bộ máy chính quyền từ trung
ương xuống địa phương; ban hành một số chính sách kèm theo những biện pháp
có hiệu quả để khôi phục sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống xã hội. Lê Lợi
cũng chú ý tới việc phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo nhân tài. Năm 1428, lên
ngôi vua, năm sau (niên hiệu Thuận Thiên thứ 2, 1429), Lê Lợi đã cho mở khoa
thi Minh Kinh. Năm 1431, thi khoa Hoành từ. Năm 1433, Lê Lợi đích thân ra thi
văn sách. Đấy là chưa kể năm 1426 trong khi đang vây đánh Đông Quan, Lê Lợi

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
đã mở một khoa thi đặc cách lấy đỗ 32 người, trong đó có Đào Công Soạn, một

nhà ngoại giao xuất sắc thời Lê Lợi. Nhưng, nhiệm vụ chính trị lớn nhất phải
quan tâm giải quyết hàng đầu sau khi đất nước được giải phóng là việc tăng
cường củng cố, giữ vững nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Về phương diện
này, Lê Lợi đã làm được hai việc có ý nghĩa lịch sử. Thứ nhất, ông đã thành
công trong cuộc đấu tranh ngoại giao, thiết lập quan hệ bình thường giữa triều
Lê và triều Minh. Thứ hai, Lê Lợi đã kiên quyết đập tan những âm mưu và hành
động bạo loạn muốn cát cứ của một số ngụy quân trước, điển hình là vụ Đèo Cát
Hãn ở Mường Lễ, Lai Châu. Trong bài thơ làm khắc vào vách đá núi Pú Huổi
Chò (bên sông Đà, thuộc Lai Châu) năm 1431 khi đánh Đèo Cát Hãn, Lê Lợi đã
nói rõ ý chí bảo vệ sự thống nhất giang sơn:
“Đất hiểm trở từ nay không còn,
Núi sông đã vào chung một bản đồ.
Đề thơ khắc vào núi đá
Trấn giữ miền Tây của nước Việt ta”.
Sau bài thơ trên, Lê Lợi còn viết bài thơ thứ hai khắc vào vách núi Hào
Tráng bên Chợ Bờ, Hòa Bình.
Lê Lợi trong 5 năm làm vua, bên cạnh những công lao to lớn, có phạm một
số sai lầm mà sử sách đương thời cũng thẳng thắn phê phán. Đại Việt sử ký toàn
thư viết:
"Vua hăng hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh, 20 năm mà thiên hạ đại
định. Đến khi lên ngôi, định luật lệ, chế lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, lập
quan chức, lập phủ huyện, thu góp sách vở, mở trường học, có thể gọi là có mưu
lớn, sáng nghiệp. Song, đa nghi, hay giết, đó là chỗ kém".
--------

Câu 2: Học giả người Pháp L.Bơdatxie nhận xét: “Công trình này là một
trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam” (Phan Đại Doãn:
Những bàn tay tài hoa của cha ông – NXB Giáo dục 1988). Ngày 27 – 06 –
2011, Tổ chức UNESCO đã chính thức công nhận công trình này là Di sản văn
hóa thế giới. Uỷ ban Di sản thế giới tại kỳ họp thứ 35 được tổ chức tại Paris

(Cộng hoà Pháp) đã chính thức công nhận Thành Nhà Hồ trở thành Di sản Văn
hoá Thế giới. Đó là công trình nào? Em hãy đóng vai là một hướng dẫn viên du
lịch để giúp cộng đồng hiểu biết về công trình này.
Trả lời
Học giả người Pháp L.Bơdatxie nhận xét: “Công trình này là một trong
những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam” (Phan Đại Doãn: Những
bàn tay tài hoa của cha ông – NXB Giáo dục 1988). Ngày 27 – 06 – 2011, Tổ
Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
chức UNESCO đã chính thức công nhận công trình này là Di sản văn hóa thế
giới. Đó là công trình Thành Nhà Hồ, vào hồi 13h (giờ địa phương) tức 18h (giờ
Việt Nam) ngày 27/6/2011, Uỷ ban Di sản thế giới tại kỳ họp thứ 35 được tổ
chức tại Paris (Cộng hoà Pháp) đã chính thức công nhận Thành Nhà Hồ trở
thành Di sản Văn hoá Thế giới.

Thành Nhà Hồ thuộc địa phận các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh Quang,
Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang, Vĩnh Thành và thị trấn Vĩnh
Lộc (huyện Vĩnh Lộc), tỉnh Thanh Hóa. Đây là kinh thành của nước Việt Nam
từ năm 1398 đến 1407.
Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly - lúc bấy giờ là tể tướng dưới triều đại nhà
Trần - cho xây dựng vào mùa xuân năm 1397. Thành xây xong, Hồ Quý Ly ép
Vua Trần Thuận Tông rời đô từ kinh thành Thăng Long (Hà Nội) về Thanh Hóa.
Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay nhà Trần và đặt
tên nước là Đại Ngu (1400-1407), thành Nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô.
Thành Nhà Hồ trong lịch sử còn có các tên gọi khác là thành An Tôn, Tây Đô,
Tây Kinh, Tây Giai.
Thành Nhà Hồ được coi là tòa thành đá cổ duy nhất còn lại ở Đông Nam
Á và là một trong rất ít còn lại trên thế giới. Ngày 27/6/2011, tại Paris (Pháp),

trong kỳ họp lần thứ 35 của Ủy ban Di sản thế giới, UNESCO đã công nhận
thành Nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới.
Thành Nhà Hồ đã đáp ứng hai tiêu chí được quy định trong Công ước Di
sản Thế giới năm 2008. Đó là tiêu chí 2 “bày tỏ sự trao đổi quan trọng của các
giá trị nhân văn, qua một thời kỳ hay bên trong một khu vực văn hóa của thế
giới, về những phát triển trong kiến trúc, công nghệ, nghệ thuật điêu khắc, quy
hoạch thành phố hay thiết kế phong cảnh” và tiêu chí 4 “là ví dụ nổi bật về một
loại hình công trình xây dựng, một quần thể kiến trúc hoặc kỹ thuật hoặc cảnh
quan minh họa một (hoặc nhiều) giai đoạn trong lịch sử nhân loại”.
Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Trong hồ sơ di sản thế giới, thành Nhà Hồ được mô tả là một công trình
kỳ vĩ bởi kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng đá lớn và sự kết hợp các truyền thống
xây dựng độc đáo có một không hai ở Việt Nam, khu vực Đông Á và Đông Nam
Á trong thời kỳ cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15. Nhờ kỹ thuật xây dựng độc đáo,
sử dụng các vật liệu bền vững, đặc biệt là các khối đá lớn, thành Nhà Hồ được
bảo tồn rất tốt trong cảnh quan thiên nhiên hầu như còn nguyên vẹn. Đây là một
trong số ít các di tích kinh thành chưa chịu nhiều tác động của quá trình đô thị
hóa, cảnh quan và quy mô kiến trúc còn được bảo tồn gần như nguyên vẹn cả
trên mặt đất và trong lòng đất ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Theo các tài liệu và thư tịch cổ, cùng với việc khảo cổ, nghiên cứu hiện
trạng thì phức hợp di sản thành Nhà Hồ ngoài Thành nội, Hào thành, La thành
còn có Đàn tế Nam Giao.
Em đóng vai trò hướng dẫn viên du lịch để giúp cộng đồng hiểu biết về
Thành Nhà Hồ như sau:
- Di sản Văn hoá Thành Nhà Hồ bao gồm vùng đề cử 155,5ha nằm trong
một vùng đệm (5078,5ha) với giá trị cảnh quan tuyệt đẹp của một vùng kinh đô
cổ, được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới với những giá trị nổi bật

và tiêu chí sau

Đây là hình ảnh về cổng Nam Thành Nhà Hồ - Cổng chính, cổng lớn nhất
dẫn vào Hoàng thành còn gọi là cửa tiền. 4 Cổng thành theo chính hướng: Nam
– Bắc; Tây – Đông. Cửa hậu là cửa Bắc, cửa Đông Môn và cửa Tây Giai. Các
cửa đều xây kiểu vòm cuốn, đã xếp muối bưởi, cửa lớn nhất là cửa Chính Nam
gồm 3 cửa uốn dài 33,8m, cao 9,5m, rộng 15,17m. Các phiến đá xây đặc biệt lớn
nặng chừng 15 tấn.
- Thành nội được xây dựng gần như hình vuông; có chu vi 3.508m; diện
tích 142,2ha; tường thành chiều Nam – Bắc dài 870,5m; chiều Đông – Tây dài
883,5m. Thành nội có 4 cổng, được mở ở chính giữa của 4 bức tường thành.

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Toàn bộ tường thành và 4 cổng chính được xây dựng bằng những phiến đá xanh,
đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau. Các phiến đá có chiều dài
trung bình 1,5m, dày 1m, nặng khoảng từ 15 đến 20 tấn. Trục chính của thành
không theo đúng hướng Bắc Nam, nhưng các cổng vẫn được gọi tên theo 4
hướng chính: cổng Nam, cổng Bắc, cổng Đông, cổng Tây (hay còn gọi là: Tiền,
Hậu, Tả, Hữu). Các cổng này được xây dựng theo kiến trúc hình vòm. Những
phiến đá trên vòm cửa đục đẽo hình múi bưởi, xếp khít lên nhau. Cổng Nam là
cổng chính, có 3 cửa: cửa giữa rộng 5,82m, cao 5,75m; 2 cửa bên rộng 5,45m,
cao 5,35m. Ba cổng còn lại chỉ có 1 cửa, trong đó cổng Bắc rộng 5,8m; cổng
Đông rộng 5,9m, cao 5,4m; cổng Tây rộng 5,8m, cao 5,4m. Tường thành cao
trung bình từ 5 - 6m, chỗ cao nhất là cổng Nam cao 10m. Các nhà khoa học đã
ước tính toàn bộ phần tường đá chiếm khoảng 25.000m3.
Theo các tài liệu, Thành nội có các công trình kiến trúc như: điện Hoàng
Nguyên, cung Nhân Thọ, cung Phù Cực, Đông cung, Đông Thái miếu, Tây Thái

miếu… Tuy nhiên, hiện nay Thành nội chỉ còn lại một số di tích và di vật như:
phần tường thành, bốn cổng thành, dấu tích các hồ nước, đôi rồng bậc thềm làm
bằng đá với những nét điêu khắc rất tinh xảo, nền móng kiến trúc Thành nội,
đường lát đá Hoa Nhai, bi đá, đạn đá, đồ gốm sứ, khuôn viên cổng Nam và các
hiện vật có giá trị đặc trưng cho văn hóa Trần - Hồ.

Cổng phía Nam Thành Nhà Hồ

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”

Cổng phía Bắc Thành Nhà Hồ

Cổng phía Đông Thành Nhà Hồ

- Đàn tế Nam Giao, hay còn gọi là Đàn Nam Giao là một công trình kiến
trúc cung đình quan trọng, được xây dựng năm 1402 ở phía tây nam núi Đốn
Sơn, nằm thẳng trên đường thần đạo từ cổng Nam nhìn ra, cách thành Nhà Hồ
khoảng 2,5km về phía Đông Nam. Đàn Nam Giao có diện tích 43.000m². Mặt
bằng hiện tại còn lộ rõ 5 nền đất với 5 bậc cấp. Từ nền đàn cao nhất xuống nền
đàn thấp nhất chênh lệch nhau là 7,80m. Đàn Nam Giao là nơi tế trời, cầu mưa
thuận gió hoà, quốc thái dân an, vương triều trường tồn, thịnh trị. Ngoài ra, đàn
còn là nơi tế linh vị của các hoàng đế, các vì sao và nhiều vị thần khác. Tế Nam
Giao còn là lễ tạ ơn trời đất về sự hiện diện của vương triều, được coi là nghi lễ
mang tính cung đình. Lễ tế Nam Giao đầu tiên của triều Hồ được tổ chức cùng
năm xây dựng.

Đàn tế Nam Giao

Tại thành Nhà Hồ, ngoài việc đắp đàn Nam Giao và cử hành lễ tế năm
Nhâm Ngọ (1402), vương triều Nhà Hồ đã để lại nhiều dấu ấn lịch sử như: lập
đàn Xã Tắc năm Đinh Sửu (1397), tổ chức hai kỳ thi thái học sinh vào năm
Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Canh Thìn (1400) và Ất Dậu (1405). Ngoài ra, thời kỳ này còn gắn liền với
những cách tân đáng ghi nhận như cải cách thi cử, mở mang trường học, đề cao
chữ Nôm, phát hành tiền giấy.
Khu di sản Thành Nhà Hồ là trung tâm kinh thành của Việt Nam vào cuối
thể kỷ 14 - đầu thế kỷ 15, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của khu vực Bắc
Trung Bộ Việt Nam từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18. Các thuộc tính chứng minh cho
nét đặc sắc mang tầm vóc giá trị nổi bật toàn cầu của nó bao gồm tòa thành đá
được xây dựng bằng kỹ thuật đá lớn, La thành, Nam Giao, các tầng văn hóa nối
tiếp nhau trong lòng đất lưu giữ các dấu tích Cung điện, đền đài, đường xá và
nghệ thuật trang trí, các làng cổ cùng toàn bộ cảnh quan đồi núi, sông hồ mang
đậm chất phong thủy điển hình còn lưu giữ được tương đối nguyên vẹn phản
ánh rõ nét về một thời kỳ lịch sử văn hóa, văn minh Việt Nam với các đặc trưng
mang tầm vóc khu vực và quốc tế.
Khu di sản Thành Nhà Hồ là biểu hiện rõ rệt những sự giao thoa trao đổi
quan trọng các giá trị nhân văn giữa Việt Nam và các nước trong khu vực Đông
Á, Đông Nam Á liên quan đến sự phát triển của kiến trúc, quy hoạch…và cảnh
quan khu vực vào cuối thế kỷ 14 - đầu thế kỷ 15. Đó là việc tiếp thu các tư
tưởng hướng tích cực của Nho Giáo thực hành (Trung Quốc) kết hợp với các
đặc điểm của văn hóa Việt Nam và khu vực được vận dụng một cách sáng tạo
vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam nhằm đưa đất nước đạt tới các thành tựu
mới văn minh hơn, tích cực hơn, đem lại nhiều lợi ích hơn cho người dân, đáp
ứng các yêu cầu đổi mới cấp bách của Việt Nam và góp phần thúc đẩy các trào
lưu tư tưởng nhân văn tích cực ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Tất cả được

thể hiện nổi trội và duy nhất thấy ở Thành Nhà Hồ trên các phương tiện thiết kế
cảnh quan đô thị, kiến trúc Thành đá, kỹ thuật xây dựng đá lớn và các ảnh
hưởng tác động lẫn nhau nhiều chiều của khu di sản tới kỹ thuật xây dựng thành
quách sau đó ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Khu di sản cũng là ví dụ nổi bật về một loại công trình kiến trúc được xây
dựng bằng đá lớn vừa là một kiểu kiến trúc Hoàng thành biểu tượng cho quyền
lực Hoàng gia tiêu biểu dưới tác động của giao thoa các giá trị nhân văn ở
phương Đông, vừa là một pháo đài quân sự bề thế, chắc chắn, uy nghiêm. Kỹ
thuật xây dựng đá lớn độc đáo, duy nhất của Việt Nam được thấy ở đây đã được
kết hợp một cách sáng tạo, tài tình với truyền thống kỹ thuật và nghệ thuật xây
dựng ở Việt Nam, Đông Á và Đông Nam Á với một hệ thống thao tác kỹ thuật
thủ công liên hoàn như khai thác đá, gia công đá, vận chuyển các khối đá nặng
từ 10 tấn đến 26 tấn, xử lý móng nền đá, nâng các khối đá lớn lên độ cao trên
10m vừa đảm bảo được công năng kiến trúc vừa đáp ứng yêu cầu mỹ thuật cần

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
thiết của một đô thành. Kỹ thuật xây dựng thành công các bức tường thành bằng
đá lớn đã phát huy ảnh hưởng của nó tới kỹ thuật xây dựng nhiều tòa thành sau
đó ở khu vực, nhưng kỳ vĩ nhất, đặc sắc nhất chỉ có Thành Nhà Hồ vốn được
xem như một hiện tượng đột khởi “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử xây dựng
kiến trúc thành quách Việt Nam và khu vực.
Khu di sản đáp ứng các yêu cầu về tính toàn vẹn, tính xác thực được nêu
trong hướng dẫn hoạt động thực hiện Công ước Di sản Thế giới.
Khu di sản với vùng lõi và vùng đệm tổng cộng 5.234 hécta bao gồm La
Thành, Hoàng thành, và Hào thành. Trong đó công trình đồ sộ nhất còn khá
nguyên vẹn đến ngày nay là Hoàng thành, cùng các di tích khảo cổ dưới lòng
đất, các làng cổ, các di tích chùa đền, hang động liên quan đến Thành Nhà Hồ,

toàn bộ cảnh quan núi non, sông nước liên quan đến địa hình phong thủy thể
hiện sự giao lưu văn hóa về nét đặc sắc của tòa thành được bảo tồn toàn vẹn một
cách tốt nhất theo Luật pháp của Nhà nước Việt Nam và các quy định của
UBND tỉnh Thanh Hóa. Đó cũng là những bằng chứng xác thực nhất minh
chứng về sự tồn tại của một thời kỳ văn minh Việt Nam dưới ảnh hưởng tác
động của các tư tưởng nhân văn tích cực phương Đông nhằm đổi mới đất nước
Việt Nam cuối thế kỷ 14 - đầu thế kỷ 15.
Câu 3: Triệu Thị Trinh có một câu nói nổi tiếng : “Tôi muốn cưỡi cơn gió
mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân xâm lược
Ngô, cưỡi ách nô lệ, há chịu cúi đầu làm tì thiếp cho người ta”. Bằng kiến thức
lịch sử đã học, em hãy làm rõ truyền thống anh hùng bất khuất chống giặc ngoại
xâm của con người xứ Thanh?
Trả lời
Câu nói nổi tiếng của Bà Triệu : “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng
sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân xâm lược Ngô, cưỡi ách nô
lệ, há chịu cúi đầu làm tì thiếp cho người ta” có ý nghĩa gì trong xã hội Việt
Nam lúc bấy giờ?
Bà Triệu là người giỏi võ nghệ, có chí lớn. năm 19 tuổi, đáp lời hỏi bà về
việc chồng con, bà nói: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém
cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân xâm lược Ngô, cưỡi ách nô lệ, há chịu cúi
đầu làm tì thiếp cho người ta”. Bà cùng anh trai chiêu tập nghĩa binh, quyết lòng
đánh đuổi quân Ngô cứu nước, cứu dân.
Có thể nói, Bà Triệu là tấm gương sáng chói về cuộc cách mạng nhân
quyền sớm trên thế giới, vì vào thời điểm mà Bà khởi nghĩa, chế độ nô lệ còn
đang bành trướng mạnh mẽ khắp nơi và thân phận của người phụ nữ vẫn bị coi
là rẻ mạt. trong hoàn cảnh đất nước đang bị ngoại bang thống trị, với những lễ

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh



Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
nghi tôn giáo khắt khe, người đàn ông thường được suy tôn là “đại trưởng phu”,
là “anh hùng nam tử” và được quyền “năm thê, bảy thiếp”; còn người phụ nữ chỉ
là “thân phận nữ nhi”, “liễu yếu đào tơ”, cùng với những chính sách tàn bạo của
nhà Hán nhằm khống chế một bộ phận phản kháng ách áp bức bóc lột, gieo rắc
trong lòng xã hội tính “trọng nam, khinh nữ”.

Hình ảnh bà Triệu cưỡi voi ra trận

Tuy nhiên, bà Triệu đã dám khẳng khái tuyên bố rằng “tôi muốn cỡi cơn
gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình biển Đông”, để phản kháng lại chế
độ và để khẳng định vai trò vị trí của người phụ nữ trong xã hội, thử hỏi đáng
nam nhi lức bấy giờ, trong cùng một hoàn cảnh đã mấy ai sánh bằng.
để phản đối và chống lại chế độ “trai năm thê, bảy thiếp”, phận làm tì thiếp, một
hình thức nô lệ” Bà Triệu đã dứt khoát “há chịu cúi đầu làm tỳ thiếp người ta”.
từ đó bà đã dấn thân vào cuộc nổi dậy thực sự. bà đã chiêu binh, phất cờ làm
cách mạng đòi sự bình đảng, bình quyền nam nữ. trong đó người phụ nữ không
còn phải “cúi đầu làm tỳ thiếp người ta”, và mục tiêu của Bà là “đánh đuổi quân
xâm lược Ngô” để nhân dân được hưởng độc lập, thoát khỏi kiếp sống nô lệ.
Lịch sử đã xác nhận Thanh Hóa là một địa phương có nhiều vua chúa lập
nên các triều đại phong kiến Việt Nam. Một số vua, chúa đã có công đánh thắng
các thế lực xâm lược, bảo vệ được nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ cho đất
nước. Vì thế tên hiệu họ qua mọi triều đại, kể cả thời đô hộ Pháp đều được đặt
cho các đường, phố, công viên, trường học. Hầu như ở bất cứ thành phố nào trên
Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
đất nước ta đều có đường, phố mang tên Bà Triệu (Ấu Triệu, Triệu Thị Trinh),
Lê Lợi (Lê Thái Tổ), Lê Hoàn (Lê Đại Hành), Dương Đình Nghệ...

Một số vua chúa khác người xứ Thanh anh minh, tài giỏi, đã có công xây
dựng nước nhà hưng thịnh, mở rộng thêm bờ cõi như vua Lê Thánh Tông, chúa
Nguyễn Hoàng... cũng có nhiều tỉnh thành lấy tên các vị đặt cho đường, phố,
trường học. Hồng Đức là niên hiệu vua Lê Thánh Tông đã được đặt cho một số
trường phổ thông, đại học, cơ sở văn hóa, kinh doanh sản xuất nổi tiếng của các
tỉnh, thành.
Ngoài ra, Thanh Hóa còn có không ít nhân vật lịch sử đã có công chống
xâm lược, xây dựng đất nước
Những gương anh hùng người Thanh Hóa trong thời kì chống Pháp:
TôVĩnh Diện (1924 - 1953) Làmột Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
của ViệtNam.Tô Vĩnh Diện quê ở xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn, tỉnh
Thanh Hoá; nhập ngũ năm 1949, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi hy
sinh anh là khẩuđội trưởng pháo phòng không, đại đội 827, tiểu đoàn 394, trung
đoàn 367. Để phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ, tháng 3năm 1953, Tô Vĩnh
Diện và đồng đội kéo pháo ra đến đoạn Dốc Chuối. Lúcđó, anh và pháo thủ Ty
xung phong cầm càng lái pháo. Khi dây tời chính bị đứt, pháo lao nhanh và khó
điều khiển, pháo thủ Ty bị càng pháo đánh bật ra, TôVĩnh Diện vẫn bám lấy
càng, điều khiểnhướng lao của pháo, bất chấp nguy hiểm lấy thân mình đẩycàng
pháo vào vách núi cho pháo dừng lại, Tô Vĩnh Diện hy sinh. Anhđược trao tặng
Huân chương quân công hạng nhì, Huân chương chiến công hạngnhất và được
truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1956.
Những gương anh hùng người Thanh Hóa trong thời kì chống Mĩ:
Trừ Văn Thố sinh năm 1936, dân tộc Kinh, quê ở xâ Thanh Hòa, quận Cai
Lậy, tỉnh Tiền Giang, vào du kích tháng 10 năm 1961, nhập ngũ tháng 4 năm
1962. Khi hy sinh đồng chí là chiến sĩ trinh sát đặc công, đơn vị Q.272.(sau này
là trung đoàn 2 - sư đoàn 9).
Nguyễn Bá Ngọc sinh năm 1952 tại xã Quảng Trung huyện Quảng
Xương, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1965, khi đang học lớp 4B trường PTCS Quảng
Trung, Ngọc là một học sinh chăm ngoan học giỏi và rất hay giúp đỡ bạn bè.
Cũng năm đó giặc Mĩ mở rộng chiến tranh và cho máy bay đánh phá các tỉnh

miền Bắc nước ta, chúng ném bom cả trường học, bệnh viện...
Sáng ngày 4 tháng 4 năm 1965 đế quốc Mĩ cho máy bay bắn phá vào xã
Quảng Trung, quê hương của Nguyễn Bá Ngọc. Bố mẹ đi làm đồng, Ngọc một
mình đưa các em nhỏ xuống hầm tránh bom. Trong lúc bom đạn đang gầm rú,
Ngọc bỗng nghe tiếng khóc bên nhà bạn Khương. Không quản nguy hiểm Ngọc

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
ra khỏi hầm và băng mình sang nhà Khương. Bạn Khương đã bị thương nặng,
hai em của Khương đang sợ hãi gào khóc. Ngọc vội lấy thân mình che chở cho
hai em và dìu các em xuống hầm. Cứu được hai em nhỏ an toàn, nhưng Ngọc bị
trúng bom bi của giặc. Mặc dù đã được các bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng do
vết thương quá nặng Nguyễn Bá Ngọc đã anh dũng hy sinh vào lúc 2 giờ sáng
ngày 5-4-1965, khi ấy Ngọc mới bước sang tuổi 14.
* Tuổi trẻ Thanh Hóa phát huy truyền thống anh hùng trong việc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay:
Để giải phóng khỏi ách nô lệ của quân thù,biết bao người con ưu tú của
Thanh Hóa đã dũng cảm vượt qua mọi hy sinh gian khổ, chiến đấu quên mình vì
quê hương, Tổ quốc; tiêu biểu như: Phạm Văn Hinh, Nguyễn Đức Tẻo, Hoàng
Văn Môn, Hoàng Văn Tước (ở chiến khu Ngọc Trạo), Ngô Ngọc Vũ (Thiệu
Hoá),…và nhiều chiến sĩ trên các mặt trận chiến đấu với giặc trên chiến tuyến
thầm lặng như nữ anh hùng liệt sĩ Nguyễn Thị Lợi…
Cả một chặng đường dài đã đi qua nhưng những thành tích, đóng góp
cống hiến xuất sắc của tuổi trẻ Thanh Hoá vẫn mãi mãi được ghi trên những
trang vàng lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Truyền thống
đấu tranh anh dũng đó đã và đang thôi thúc thế hệ trẻ hôm nay tiếp tục góp phần
to lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu
mạnh. Những thành tích, đóng góp cống hiến xuất sắc của tuổi trẻ Thanh Hoá

vẫn mãi mãi được ghi trên những trang vàng lịch sử đấu tranh giải phóng dân
tộc của nhân dân ta. Truyền thống đấu tranh anh hùng và bài học kinh nghiệm
quý giá, tư tưởng mang tầm thời đại của cách mạng Tháng Tám đã và đang thôi
thúc thế hệ trẻ hôm nay tiếp tục vận dụng và phát triển vào công cuộc đổi mới
và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Hiện nay, tình hình Biển Đông có những diễn biến phức tạp, nhiệm vụ
bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc đang đặt ra yêu cầu cấp thiết
đối với cả hệ thống chính trị, các ngành, các lực lượng, trong đó có thanh niên
Thanh Hóa. Tuy nhiên không phải ở bất cứ đâu lực lượng thanh niên đã phát
huy tốt được vai trò đó của mình, nhận thức về vai trò, trách nhiệm, thái độ,
động cơ, ý chí, quyết tâm và hành động thiết thực đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc ở một số thanh niên chưa cao. Thực tiễn đó đòi hỏi
thanh niên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trách nhiệm, có
quyết tâm mạnh mẽ để giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc. Đồng thời, cần phát huy vai trò của thanh niên trong bảo vệ
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đó là quá trình khơi dậy, huy động, khai thác

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
những tiềm năng, sức mạnh to lớn trong tuổi trẻ và tạo ra những điều kiện hoạt
động thuận lợi giúp thanh niên nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của
mình, hình thành niềm tin, thái độ, động cơ, ý chí, quyết tâm và hành động thiết
thực trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo bằng các phương thức khác nhau, góp
phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều
này chúng ta cần thực hiện tốt các việc sau đây:
Thứ nhất là thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức cho thanh niên về
vai trò, trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Đây là công

việc đầu tiên nhằm giúp thanh niên nâng cao nhận thức và xác định rõ vai trò,
trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là
bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Thứ hai là củng cố niềm tin, thái độ, động cơ và ý chí bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của Tổ quốc trong thanh niên. Đây cũng là một công việc quan trọng
nó góp phần vào thực hiện thắng lợi vai trò của thanh niên với các nhiệm vụ
được giao. Để củng cố niềm tin, thái độ, động cơ và ý chí cho thanh niên, phải
tăng cường công tác tuyên truyền để thanh niên thấy rõ thực lực, sức mạnh bảo
vệ Tổ quốc của ta; nắm vững tư tưởng, phương châm chỉ đạo giải quyết các vấn
đề về biển, đảo của Đảng. Qua đó, giúp cho thanh niên có được những nhận
thức đúng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng trong giải quyết các
vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia, nhất là vấn đề biển, đảo, củng cố niềm
tin, ý chí, tình cảm, thái độ và động cơ đúng ở tuổi trẻ trong thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Thứ ba là xây dựng định hướng, hành động thiết thực trong thanh niên đối
với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đây cũng là mục đích
hướng tới của việc phát huy vai trò của thanh niên trong việc bảo vệ chủ quyền
biển, đảo quê hương. Từ chỗ hiểu được vai trò và trách nhiệm của mình thanh
niên sẽ biến nó thành quyết tâm và hành động thiết thực cụ thể đối với biển đảo
Tổ quốc.
-------Câu 4: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập như thế nào? Hãy nêu
những hiểu biết của em về một người Cộng sản Thanh Hóa mà em ấn tượng
nhất?
Trả lời
Ngày 29/7/1930, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập tại Làng Yên
Trường, xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân. Sự ra đời của Đảng bộ tỉnh là một bước
ngoặt lịch sử quan trọng, là nhân tố quyết định thắng lợi của phong trào đấu
tranh cách mạng đánh đổ chế độ thực dân và phong kiến, giành chính quyền ở
Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh



Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Thanh Hóa năm 1945, đồng thời giành nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc cũng như trong công cuộc đổi mới, phát triển và
hội nhập hiện nay.
Năm 1858, Thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, chính thức xâm
lược Việt Nam. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thanh Hóa, liên tục vùng
lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc Pháp xâm lược. Các cuộc đấu tranh yêu nước do
các sỹ phu phong kiến lãnh đạo, tiêu biểu là phong trào Cần Vương, phong trào
Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục diễn ra rộng khắp, thế nhưng đều lần lượt bị
địch khủng bố đẫm máu và thất bại, do thiếu một đường lối lãnh đạo đúng đắn
của một chính Đảng. Trong bối cảnh đó, ngày 03 tháng 2 năm 1930, tại Cửu
Long (Hương Cảng), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ
chức cộng sản, thành lập một Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, tạo ra bước ngoặt quan trọng
đối với phong trào cách mạng trong cả nước và các địa phương. Cũng từ đây
phong trào đấu tranh cách mạng ở Thanh Hóa phát triển mạnh mẽ rộng khắp.
Các chi bộ Cộng Sản: Hàm Hạ - Đông Sơn ; Phúc Lộc - Thiệu Hóa, Yên
Trường, Thọ Xuân lần lượt ra đời. Trước tình hình phong trào đấu tranh cách
mạng ở Thanh Hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ và đang rất cần sự lãnh đạo
của Đảng, xuất phát từ yêu cầu cấp bách, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ,
ngày 29/7/1930, Hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã được tổ chức tại
Làng Yên Trường, Xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân trên cơ sở hợp nhất 3 chi bộ
Cộng sản gồm Chi bộ Hàm Hạ, Chi bộ Thiệu Hóa và Chi bộ Thọ Xuân. Đ/c Lê
Thế Long được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy và là Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên của
Đảng bộ Thanh Hóa.
Ngôi nhà lịch sử chính là của gia đình đ/c Lê Văn Sỹ - Bí thư Chi bộ Yên
Trường, huyện Thọ Xuân lúc bấy giờ, được chọn làm địa điểm để tổ chức hội
nghị thành lập Đảng bộ tỉnh vào ngày 29 tháng 7 năm 1930. Điều đặc biệt là
cũng tại ngôi nhà này trước đó một tuần đã diễn ra sự kiện thành lập chi bộ cộng

sản Yên Trường, tiền thân của Đảng bộ huyện Thọ Xuân. Có thể nói sự ra đời
của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa là bước ngoặt quan trọng đối với Đảng bộ, nhân
dân trong phong trào đấu tranh cách mạng giành chính quyền ở tỉnh ta. Chấm
dứt giai đoạn khủng hoảng kéo dài của phong trào cách mạng do thiếu sự lãnh
đạo của một chính Đảng.

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”

Ngôi nhà của gia đình đồng chí Lê Văn Sỹ -làm địa điểm để tổ chức hội
nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa
Ngay sau khi thành lập, Đảng bộ tỉnh đã đề ra một số nhiệm vụ quan
trọng trước mắt đó là: Xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức Nông hội đỏ, Công hội
đỏ, cơ quan ấn loát, phát hành tờ báo “ Tiến lên” ......
Trong quá trình hoạt động, mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố dã man, có
những thời điểm các Chi bộ Cộng sản và Đảng bộ tỉnh gần như bị cô lập thậm
chí là tan rã, nhưng trước yêu cầu bức thiết của lịch sử, bất chấp sự gian khổ, tù
đày và hy sinh, các Chi bộ Đảng và Đảng bộ tỉnh nhanh chóng được khôi phục
trở lại và tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng và đánh đuổi thực
Pháp, lật đổ chế độ phong kiến. Từ cuối năm 1935 trở đi, phong trào cách mạng
đã phát triển rộng khắp ở nhiều phủ, huyện trong tỉnh, nhằm chuẩn bị cùng với
cả nước tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa giành
chính quyền ngày 24/7/1945 ở huyện Hoằng Hóa.
Đêm ngày 18, rạng sáng ngày 19/8/1945, sau khi Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh
phát lệnh tổng khởi nghĩa, nhân dân và tự vệ các huyện nhất tề vùng lên giành
chính quyền. Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thanh Hóa giành thắng
lợi nhanh chóng. Ngày 23/8/1945, từ đình làng Ngô Xá Hạ ở căn cứ Thiệu Hóa,
lực lượng cứu quốc gồm có hàng nghìn tự vệ của các huyện: Thiệu Hóa, Đông

Sơn, Yên Định, Thọ Xuân.....đã tiến về thị xã Thanh Hóa ra mắt quốc dân đồng
Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
bào. Đ/c Lê Tất Đắc, Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Cách mạng lâm thời tuyên bố
thành lập chính quyền cách mạng và kêu gọi toàn dân đoàn kết xây dựng bảo bệ
chế độ mới./.
Những hiểu biết của em về một người Cộng sản Thanh Hóa mà em ấn
tượng nhất.
* Lê Hữu Lập - Người thanh niên cộng sản đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa
Lê Hữu Lập lúc nhỏ tên là Độ (ngoài ra còn một số tên gọi khác như: “Cậu
Ấm”, Hoàng tức Thoại, tức Hoàng Lùn), sinh năm 1897 ở thôn Hữu Nghĩa, tổng
Xuân Trường, huyện Hậu Lộc (nay là xã Xuân Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh
Hóa), là con một gia đình nho học có khí tiết.
Đầu năm 1927, trên cơ sở Hội đọc sách báo cách mạng phát triển, đồng chí Lê
Hữu Lập kịp thời chỉ đạo việc thành lập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí
Hội tỉnh Thanh Hóa.
Tháng 4 năm 1927, Ban chấp hành Tỉnh bộ lâm thời Việt Nam Thanh niên
cách mạng đồng chí Hội được thành lập gồm ba ủy viên: Lê Hữu Lập, Lê Văn
Thanh, Nguyễn Chí Hiền. Đồng chí Lê Hữu Lập được cử làm Bí thư Tỉnh bộ lâm
thời.
Một ngày đầu tháng 4 năm 1928, dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Hữu Lập,
hội nghị đại biểu Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội tỉnh Thanh Hóa đã
làm việc trong ba buổi và bầu ra Ban chấp hành Tỉnh bộ chính thức gồm bảy ủy
viên. Đồng chí Lê Hữu Lập được cử làm Bí thư và sau đó được bầu vào Ban Chấp
hành Kỳ bộ Thanh niên Trung Kỳ.
Năm 1929, đồng chí được cử sang Thái Lan hoạt động.
Tháng 11 năm 1929, đồng chí Lê Hữu Lập bị tòa án Nam Triều Thanh Hóa
kết án tử hình vắng mặt.

Tháng 3 năm 1930, tại Hội nghị đại biểu Việt Nam Thanh niên cách mạng
đồng chí Hội ở U-Đôn (Thái Lan) do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã quyết
định chuyển tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội thành tổ chức
cộng sản. Do công lao đóng góp tích cực cho việc thành lập Đảng cộng sản, đồng
chí Lê Hữu Lập đã trở thành đảng viên cộng sản đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa.
Cuối tháng 8 năm 1930, đồng chí lê Hữu Lập bí mật về nước. Cuối tháng 9
năm 1930, đồng chí thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên của huyện Hoằng Hóa tại
thôn Cự Đà (nay là xã Hoằng Minh huyện Hoằng Hóa).
Cuối năm 1930, đồng chí quay lại Thái Lan hoạt động.
Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Từ năm 1932 đến năm 1933, đồng chí công tác ban viện trợ cách mạng Đông
Dương ở vùng Đông Bắc Thái Lan.
Đầu năm 1934, đồng chí lại được ban viện trợ cách mạng Đông Dương cử về
hoạt động tại Nghệ An và được tổ chức bố trí hoạt động tại một cơ sở tại huyện
Nghi Lộc. Tại đây đồng chí lâm bệnh nặng.
Hoàn thành được hai lớp huấn luyện ở Nghi Lộc, tạo được cơ sở tư tưởng và
tổ chức cho việc khôi phục phong trào thì bệnh tình của đồng chí Lê Hữu Lập đã
quá trầm trọng. Các đồng chí ở Nghệ An và quần chúng nhân dân hết lòng chạy
chữa nhưng vì điều kiện hoạt động bí mật, thuốc thang khó khăn nên bệnh của anh
cứ ngày một nặng.
Vào một ngày cuối tháng 6 năm 1934, Lê Hữu Lập đã trút hơi thở cuối cùng
tại nhà thương Vinh. Vô vàn thương thương tiếc người đồng chí kiên cường, tận
tụy vì nghĩa lớn, các đồng chí ở Nghệ An đã đem mai táng anh ở nghĩa địa Tập
Phúc, làm mộ chí mang tên Nguyễn Thụ.
Lê Hữu Lập, người chiến sỹ cộng sản lớp trước, người con thân yêu của nhân
dân Thanh Hóa đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp của Đảng, của nhân dân.
Từ buổi mở đầu, tuổi trẻ Lê Hữu Lập đã chọn được con đường đi đúng đắn do Bác

Hồ vạch ra cho thanh niên nước ta. Bằng sự nỗ lực của bản thân, của tổ chức, Lê
Hữu Lập đã vận dụng một cách nghiêm túc, sáng tạo và hoạt động ngoan cường với
tinh thần xung kích cách mạng theo con đường cứu nước của Bác Hồ.
Ba mươi bảy tuổi đời, độ tuổi tràn đầy nghị lực, Lê Hữu Lập là một trong
những người chiến sỹ cộng sản lớp trước của tỉnh nhà đã cống hiến xuất sắc cuộc
đời của tuổi trẻ cho sự nghiệp vinh quang của Đảng và đã hoàn thành nhiệm vụ.
Hoạt động và sự cống hiến của đồng chí Lê Hữu Lập đã góp phần viết nên những
trang sử mở đầu rực rỡ trong lịch sử đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và
nhân dân Thanh Hóa.

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Câu 5: Ngày 20/2/1947, Bác Hồ vào thăm Thanh Hóa đã căn dặn: “Thanh Hóa
phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu... phải làm sao cho mọi mặt chính trị, kinh tế,
quân sự phải là là tỉnh kiểu mẫu, làm hậu phương vững chắc cho cuộc kháng
chiến”. Thực hiện lời căn dặn của Bác, sau 30 năm đổi mới (1986-2016) Đảng
bộ, quân và dân Thanh Hóa đã phấn đấu đạt được nhiều thành tựu quan trọng
trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội. Em hãy nêu một thành tựu nổi bật nhất góp
phần đưa Thanh Hóa từng bước trở thành tỉnh kiểu mẫu. Liên hệ trách nhiệm
bản thân?
Trả lời
Lần đầu tiên Bác về thăm Thanh Hóa, Bác đến gặp gỡ và nói chuyện với
cán bộ tỉnh, với thân sĩ trí thức, các tầng lớp nhân dân, Bác bày tỏ mong ước
Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh xây dựng tỉnh nhà thành một tỉnh
kiểu mẫu. Bác Hồ từng căn dặn:
“Tỉnh Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu, thì phải làm sao cho
mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự phải là kiểu mẫu. Làm một người kiểu mẫu,
một nhà kiểu mẫu, một làng kiểu mẫu, một huyện kiểu mẫu, một tỉnh kiểu mẫu.

Quyết tâm làm thì sẽ thành kiểu mẫu”.
Những thành quả mà đảng bộ, quân và dân các dân tộc trong tỉnh đã đạt
được trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Bằng việc
vận dụng và ban hành những cơ chế, chính sách phù hợp, khơi dậy được tiềm
năng lao động sáng tạo trong nhân dân, sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới,
tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đã có bước phát triển vượt bậc:
- Kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng được hoàn thiện. Từ
một địa phương thường xuyên thiếu lương thực, những năm gần đây, chúng ta
không những đã bảo đảm vững chắc an ninh lương thực, mà còn có một phần
lương thực hàng hóa; các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung cho công nghiệp
chế biến như: mía, cao su, sắn, luồng được hình thành vững chắc. Chương trình
xây dựng nông thôn mới trở thành phong trào sâu rộng và đạt kết quả tích cực,
bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới. Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng
cao, là tỉnh dẫn đầu cả nước về sản lượng xi - măng và mía đường. Các khu
công nghiệp, Khu Kinh tế Nghi Sơn được thành lập, một số ngành công nghiệp
then chốt của tỉnh, như: sản xuất vật liệu, nhiệt điện, lọc hóa dầu,... đã được hình
thành. Các ngành dịch vụ duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Môi trường đầu tư kinh
doanh được cải thiện mạnh mẽ. Huy động vốn cho đầu tư phát triển vượt kế
hoạch đề ra. Nhiều dự án lớn, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh được khởi công xây dựng, điển hình là Dự án Lọc

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
hóa dầu Nghi Sơn với tổng mức đầu tư 9,3 tỷ USD, lớn nhất ở nước ta từ trước
đến nay đang được xây dựng đúng tiến độ và sẽ đi vào vận hành thương mại
trong năm 2017. Thu ngân sách Nhà nước vượt dự toán và năm sau cao hơn năm
trước.

- Các hoạt động văn hóa - xã hội chuyển biến tích cực, theo hướng nâng
cao chất lượng và đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa. Kết quả thi đại học, thi học
sinh giỏi quốc gia, quốc tế; thể thao thành tích cao đạt nhiều thành tích vượt bậc
và duy trì vị trí tốp đầu cả nước. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
không ngừng được cải thiện.
- Quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tạo môi
trường ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội.
- Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được tăng cường; công
tác tổ chức và cán bộ có chuyển biến khá toàn diện; công tác chính trị tư tưởng,
giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng có nhiều đổi mới; tình hình tư
tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đồng thuận, tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng ta.
- Các thành tựu về GD – ĐT : Đến nay, toàn tỉnh có hơn 2.000 trường học
với gần 800.000 học sinh. Phần lớn cơ sở vật chất các trường học được xây
dựng theo hướng kiên cố hóa, chuẩn hóa và hiện đại hóa với tỷ lệ phòng học
kiên cố, cao tầng đạt 86%. Số trường đạt chuẩn quốc gia tăng nhanh và đồng
đều ở các bậc học với trên 50% trường học được công nhận đạt chuẩn quốc gia.
Cùng với đó, việc xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ở tất cả
các cấp học ngày càng đi sâu về chất lượng. Chỉ tính riêng năm học vừa qua,
ngành giáo dục - đào tạo tỉnh nhà đã đạt nhiều kết quả nổi bật: Xếp thứ 4 toàn
quốc trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, xếp thứ 3 toàn quốc tại Hội khỏe Phù
Đổng toàn quốc lần thứ 9. Đặc biệt, cả 3 học sinh tham dự các kỳ thi olimpic
quốc tế đều đạt huy chương, trong đó, có 1 huy chương vàng. Tỷ lệ học sinh đậu
tốt nghiệp THPT đạt 96,89%; số lượng học sinh có điểm số từ 27 điểm trở lên/3
môn thi trong kỳ thi THPT quốc gia 2016 thuộc tốp đầu cả nước.
- Có nhiều học sinh tham gia trong các cuộc thi sang tạo Khoa học kỹ
thuật và đạt giải. Điển hình như anh Nguyễn Ngọc Đức, một học sinh tại trường
THPT Nguyễn Xuân Nguyên, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa đã nghiên
cứu và chế tạo ra thiết bị chống ngủ gật cho lái xe. Sản phẩm đã giành được giải
Nhất và giải Nhì quốc gia trong cuộc thi sáng tạo Khoa học kỹ thuật dành cho

học sinh THPT. Qua nhiều lần thử nghiệm,anh Nguyễn Ngọc Đức đã thiết kế
thiết bị chống ngủ gật cho lái xe theo mô hình của một chiếc máy tính thu
nhỏ.Anh mong muốn trong tương lai nếu có cơ hội sẽ cải tiến phần cứng có thể

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
lập trình trực tiếp trên các mao mạch xử lí để nâng cao tốc độ xử lí và sử dụng
các webcam chống rung cho lái xe dễ dàng sử dụng khi di chuyển trên đường.

Học sinh Nguyễn Ngọc Đức – Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên sáng chế thiết bị
chống ngủ gật cho lái xe

Sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đứng ở thời điểm này nhìn lại,
dẫu còn khó khăn, thách thức nhưng mỗi chúng ta có quyền tự hào về những
thành tựu mà đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nỗ lực
đạt được trong những năm qua. Những thành tựu đó đã và đang tạo ra thời cơ,
vận hội mới; mở ra tương lai tốt đẹp cho tỉnh ta trong những năm tới trên con
đường CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Trách nhiệm bản thân: Em hiểu một điều: những thế hệ trước đã dâng
hiến xương máu để ngày sau độc lập thì chúng ta phải biết “cùng nhau giữ
nước” và nối tiếp , kế thừa truyền thống cao đẹp đó. Và một điều quan trọng là
mình đừng nghĩ đó là nghĩa vụ để rồi miễn cưỡng thực hiện. Em suy nghĩ và
hiểu rằng: được sinh ra là một hạnh phúc và sống tự do, no đủ là một món quà
quý báu, vô giá mà quê hương xã hội đã ban tặng. Hạnh phúc không tự nhiên mà
có mà đó xương máu, tâm huyết của biết bao người con của đất nước. Chúng ta
không được bác bỏ, phủ nhận quá khứ hay công sức của những anh hùng dân
tộc, chúng ta có điều kiện gì để xây dựng đất nước? Vâng, đó chính là học tập.
Nói đến tuổi trẻ hôm nay là nói đến việc học hành.Cách duy nhất là phải

học chân chính, học bằng khả năng của mình.Bước vào thời đại công nghiệp
Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
hoá, hiện đại hoá thì ai nắm được tri thức thì mới có thể xây dựng đất nước, lèo
lái chiếc thuyền số phận của non sông Tổ quốc. Và nhiệm vụ của chúng ta phải
học, học nữa, học mãi, phải cố gắng học tập để sau này có thể giúp nước Việt
Nam nói chung và tỉnh Thanh Hóa nói riêng tiến nhanh trên con đường xây
dựng và phát triển ngày càng giàu mạnh.
Ngoài việc cố gắng trong học tập, bản thân em tự nhận thức được việc
phải giúp đỡ gia đình, bố mẹ, làm các công việc có ích cho xã hội như tham gia
các phong trào thanh thiếu niên, phong trào trồng cây gây rừng bảo vệ môi
trường xanh – sạch – đẹp, các phong trào quyên góp từ thiện … Có như vậy em
mới thỏa được niềm mong ước góp một phần nhỏ bé của mình vào công cuộc
xây dựng quê hương, đất nước ngày một giàu mạnh, và quê hương Thanh Hóa
sớm trở thành một tỉnh kiểu mẫu như lời Bác Hồ căn dặn.

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh



×