Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Đánh Giá Những Thành Tựu Bước Đầu Và Những Tồn Tại Chủ Yếu Của ĐHQG-HCM Qua 5 Năm Hoạt Động (1996-2000)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.65 KB, 16 trang )

ĐHQG-HCM
Đánh giá những thành tựu bước đầu và những tồn tại chủ yếu
của ĐHQG-HCM qua 5 năm hoạt động (1996-2000)
I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG BIẾN ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC ĐHQG - HCM
1. Sự hình thành
Hệ thống đại học nước ta trước đây được xây dựng nhằm mục tiêu cung cấp nguồn nhân lực
có trình độ cao phục vụ cho nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô
hình cũ. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện, theo xu hướng phát triển của cách mạng
khoa học - kỹ thuật hiện đại và xu hướng phát triển đại học của khu vực và thế giới, hệ thống đại học
Việt Nam bộc lộ sự lạc hậu và yếu kém, do đó việc tổ chức, sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học
trở thành đòi hỏi cấp thiết.
Mục tiêu của việc sắp xếp này là nhằm xóa bỏ những bất hợp lý đang tồn tại trong mạng lưới
trường đại học: chuyên ngành đào tạo quá hẹp, tình trạng khép kín, cục bộ trong hoạt động đào tạo
giữa các trường, phân tán, trùng lắp nhiệm vụ đào tạo trên một địa bàn; là để tạo sự liên thông trong hệ
thống, để sử dụng có hiệu quả đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất phục vụ công tác giảng dạy, học
tập và nghiên cứu, xây dựng các trường đại học lớn, đa ngành, có trình độ và chất lượng cao trong
đào tạo nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
Việc thành lập đại học quốc gia, một trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao, là một chủ trương đúng đắn. Đây cũng là việc mới
mẻ, khó khăn. Để thực hiện chủ trương này, ngoài quyết tâm cao còn phải có sự đầu tư về con người,
phương tiện và cơ chế, phải có cách thức và bước đi thích hợp.
Ngày 27-1-1995, Chính phủ ra Nghị định 16/CP thành lập Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh (ĐHQG-HCM) trên cơ sở sắp xếp 9 trường đại học lại thành 8 trường thành viên (thực tế là 10
trường, vì trường Đại học Kỹ thuật gồm ba trường hợp thành: Đại học Bách khoa, Đại học Sư phạm kỹ
thuật và Đại học Kiến trúc, nhưng trong thực tế ba trường này không hợp nhất được ).
Tổng số cán bộ công chức khi đó của ĐHQG-HCM là 3.573 người. Cán bộ giảng dạy có 2.320
người, trong đó có 18 giáo sư, 80 phó giáo sư, 426 tiến sĩ, 626 thạc sĩ.
Về qui mô đào tạo, tổng số sinh viên: 142.228, trong đó hệ đại học chính qui: 67.059, hệ không
chính qui: 50.253, cao đẳng: 14.470. Số học viên sau đại học: 2.016, bao gồm 313 nghiên cứu sinh và
1.703 học viên cao học.
2. Những biến động


ĐHQG-HCM chính thức ra mắt ngày 6-2-1996. ĐHQG-HCM hoạt động chưa được bao lâu thì
lâm vào khủng hoảng cơ cấu kéo dài và ngày càng trầm trọng.
Bắt đầu là sự bộc lộ tính không hợp lý trong việc chia hai giai đoạn trong đào tạo đại học và có
Trường Đại học đại cương riêng biệt, làm cho quá trình đào tạo đại học bị cắt khúc, gián đoạn, còn
mục tiêu liên thông và sử dụng chung đội ngũ, cơ sở vật chất lại không đạt được. Việc thi chuyển giai
đoạn, sàng lọc, cấp chứng chỉ Đại học Đại cương tạo ra sự nặng nề căng thẳng, dư luận xã hội không
đồng tình. Trong ĐHQG-HCM, việc tổ chức đào tạo giai đoạn đại cương cũng không thống nhất.
Trường Đại học Đại cương ĐHQG-HCM chỉ tổ chức đào tạo chung cho 5 trường thành viên, các
trường còn lại tự tổ chức đào tạo.
Truớc tình hình đó, Bộ Chính trị ra thông báo số 146/TB-TW ngày 23-6-1998 “đồng ý với nhiều
ý kiến đề nghị bỏ trường đại học đại cương và qui định cứng về đào tạo hai giai đoạn, bỏ kỳ thi chuyển
giai đoạn như một kỳ thi quốc gia”.
Ngày 1-9-1998 Chính phủ ra Nghị định 67/CP/1998 giải thể trường đại học đại cương.
Đại học Quốc gia bao gồm cả các trường đại học sư phạm, làm cho chủ trương tập trung đầu
tư xây dựng trường đại học sư phạm trọng điểm gặp trở ngại, vì các trường đại học sư phạm là những
trường ngành, có chức năng, nhiệm vụ đặc thù trong hệ thống đại học. Ngày 26-8-1999 Bộ Chính trị có
công văn số 244/CV-TW “đồng ý tách Trường Đại học Sư phạm ra khỏi Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh”, tiếp đó ngày 12-10-1999, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 201/1999/QĐ-TTg để thực
hiện việc này.


Trước đó, ngày 23-8-1999 Bộ Giáo dục và Đào tạo cho công bố Đề án quy hoạch mạng lưới
các trường đại học và cao đẳng Việt Nam đến năm 2020, mà một trong các nội dung là dự kiến biến
đại học quốc gia thành trường đại học và các trường thành viên trong đại học quốc gia thành các khoa.
Đề án này gây xôn xao dư luận trong các trường thành viên ĐHQG-HCM, nhiều trường tổ chức thảo
luận, kiến nghị. Sáu trên tám trường thành viên gửi công văn xin tách ra khỏi ĐHQG-HCM. Tình hình
mất ổn định nghiêm trọng. ĐHQG-HCM đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Để tiếp tục thực hiện chủ trương
xây dựng đại học quốc gia, các đại học quốc gia nhất thiết phải được tổ chức lại.
Ngày 29-8-2000 Bộ Chính trị ra thông báo số 315-TB/TW về định hướng tổ chức lại đại học
quốc gia, trong đó nêu lên những kết luận quan trọng:

“Chủ trương xây dựng hai đại học quốc gia thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học và
chuyển giao công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao, ngang tầm khu vực, dần dần đạt trình
độ quốc tế là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước và xu hướng phát triển
giáo dục đại học của khu vực và thế giới.
Song hơn 5 năm qua, việc triển khai tổ chức thực hiện chủ trương này không nghiêm túc, việc
xây dựng kế hoạch, tính toán bước đi, chuẩn bị các điều kiện thực hiện thiếu chu đáo, chưa có sự bàn
bạc thật dân chủ, nóng vội, ghép nhiều trường đại học vào đại học quốc gia với qui mô quá lớn, trong
khi đội ngũ giảng viên thiếu, chất lượng yếu, cơ sở vật chất của các trường chưa đủ điều kiện đảm bảo
cho giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học; quy chế tổ chức và hoạt động của đại học quốc gia
còn chưa rõ ràng, có những điểm chưa thích hợp với mục đích vừa tăng cường quyền tự chủ của các
trường thành viên, vừa đảm bảo tự gắn kết hữu cơ trong một tổ chức thống nhất là đại học quốc gia.
Công tác quản lý của đại học quốc gia còn nặng về hành chính; chất lượng đào tạo của đại học quốc
gia chưa có chuyển biến rõ rệt …”
Đó là sự đánh giá đúng đắn và nghiêm khắc.
Cũng trong thông báo này, Bộ Chính trị có ý kiến cụ thể về tổ chức lại ĐHQG-HCM, theo đó
trước mắt gồm 3 trường: Đại học Bách khoa, Đại học Khoa học Tự nhiên và Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, các Viện, Khoa, Trung tâm trực thuộc. Các trường Đại học thành viên khác (Kinh tế,
Nông lâm, Kiến trúc, Luật, Sư phạm Kỹ thuật) tách ra khỏi ĐHQG-HCM thành các trường độc lập trực
thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Ngày 1-2-2001 Chính phủ ra Nghị định 07/2001/NĐ-CP về ĐHQG-HCM, tiếp đó ngày 12-22001 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 16/2001/QĐ-TTg ban hành Qui chế về tổ chức và hoạt
động của Đại học Quốc gia. Những quyết định này góp phần chặn lại quá trình khủng hoảng mô hình,
khủng hoảng cơ cấu kéo dài, mở ra thời kỳ mới, thời kỳ ổn định, tạo thế và lực cho sự phát triển vững
chắc của ĐHQG HCM.
Hiện nay, ĐHQG-HCM gồm Trường Đại học Bách khoa, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
Trường Đại học Khoa học Xã hội - Nhân văn, Viện Môi trường và Tài nguyên và Khoa Kinh tế.

II. NHỮNG THÀNH TỰU BƯỚC ĐẦU
Dù gặp không ít khó khăn trên nhiều mặt, lại phải trải qua nhiều biến động, song với tinh thần
cách mạng tiến công, với trách nhiệm cao trước yêu cầu phát triển của đất nước, ĐHQG-HCM đã nỗ
lực vượt qua khó khăn thách thức, có nhiều cố gắng vượt bậc và đạt được một số thành tựu ban đầu

đáng trân trọng.
Trước hết, về nhiệm vụ chính của mình là hoạt động đào tạo, ĐHQG-HCM đã tích cực phấn
đấu theo hướng chuẩn hóa và phân cấp hợp lý toàn bộ quy trình đào tạo thông qua việc ban hành,
thực hiện có hiệu quả và thường xuyên cập nhật hệ thống văn bản pháp quy chung cho toàn ĐHQGHCM. Từ ngày thành lập đến nay, ĐHQG-HCM luôn chú trọng phát huy hiệu quả của việc xây dựng và
sử dụng chung đội ngũ giảng viên, phòng thí nghiệm, cơ sở vật chất. Hiện nay, ĐHQG-HCM đang bắt
đầu thực hiện Dự án đào tạo khối kiến thức cơ bản tại cơ sở Linh Trung nhằm bảo đảm liên thông, liên
kết trong đào tạo ở các trường, khoa.
ĐHQG-HCM đã mạnh dạn dám nghĩ dám làm, đề xuất và thực hiện có hiệu quả nhiều ý tưởng
mới, mang tính cải tiến cao và có giá trị tốt, được toàn ngành đại học đánh giá cao. Đó là, thứ nhất, các
trường Đại học Bách khoa và Đại học Khoa học Tự nhiên là những cơ sở đi đầu trong cả nước trong
việc áp dụng học chế tín chỉ; thứ hai, ĐHQG-HCM tích cực suy nghĩ và mạnh dạn áp dụng một số cải


tiến trong công tác tuyển sinh đại học. Hàng năm công bố Cẩm nang tuyển sinh đại học với đầy đủ
thông tin của toàn ĐHQG-HCM, tiến hành các đợt giao lưu với một số lượng lớn học sinh tại các tỉnh
thành, ban hành các quy chế, quy trình chung trong tuyển sinh, áp dụng phương thức liên thông giữa
các trường, khoa và giữa các bậc học, đặc biệt trong đợt tuyển sinh năm 2001 đã sử dụng thành công
phương pháp trắc nghiệm khách quan. Trong tuyển sinh sau đại học, ĐHQG-HCM đã chủ động phân
cấp từ rất sớm, đảm bảo quy trình gọn nhẹ và an toàn; ngoài ra đã áp dụng cơ chế điều chỉnh chỉ tiêu
tuyển sinh giữa các cơ sở và giữa các bậc học, nhờ đó mà từ năm 2000 đã tuyển đủ chỉ tiêu tuyển
sinh sau đại học do Chính phủ giao; thứ ba, các cấp quản lý ĐHQG-HCM đã đi sâu đi sát cơ sở, tập
trung vào quản lý chất lượng, thay vì chỉ quản lý hành chính một cách quan liêu.
Công tác đào tạo học sinh, sinh viên chất lượng cao được chú trọng, biểu hiện rõ qua các
chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng cao, cử nhân tài năng. Tại Trường Phổ thông Năng khiếu, sau
4 năm thành lập đã đoạt nhiều giải quốc tế về tin học, toán học, vật lý, sinh học. Hàng năm có 10-15%
học sinh của trường được tuyển thẳng và 100% thi đỗ vào các trường đại học. ĐHQG-HCM đã thành
lập 12 Hội đồng ngành và 22 Tiểu ban chuyên ngành nhằm tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp của
lực lượng cán bộ trình độ cao trong đào tạo sau đại học. Trong những năm qua, ĐHQG-HCM đã mở
thêm được 12 ngành đại học mới (trên 46 ngành), 12 chuyên ngành cao học mới (trên 59 chuyên
ngành), 4 chuyên ngành tiến sĩ mới (trên 69 chuyên ngành), đáp ứng sự phát triển nội tại của các đơn

vị thành viên cũng như nhu cầu của kinh tế-xã hội. Hiện nay ĐHQG-HCM đã quản lý chương trình đào
tạo của các ngành đào tạo đại học mới mở cũng như của tất cả các chuyên ngành cao học, tiến sĩ. Kế
hoạch viết, in ấn giáo trình đã được thông qua với kinh phí 1 tỷ đồng.
ĐHQG-HCM đã ban hành Quy chế cấp phát các văn bằng, chứng chỉ, đã in ấn xong văn bằng
của các bậc học theo mẫu riêng và lần đầu tiên, các sinh viên của ĐHQG-HCM đã nhận bằng tốt
nghiệp theo mẫu mới vào dịp đầu năm học.
Về hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, ĐHQG-HCM đã huy động và tập trung
được lực lượng cán bộ nghiên cứu từ nhiều đơn vị để tiến hành những nghiên cứu đề tài lớn, mang
tính liên ngành, như đề tài cấp Nhà nước về Vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long, các đề tài khác
cho vùng Tây Nguyên, Đông Nam bộ. ĐHQG-HCM đã góp phần giải quyết có hiệu quả một số vấn đề
thực tiễn có ý nghĩa cao về kinh tế – xã hội ở khu vực, chẳng hạn các đề tài đóng tàu đánh cá xa bờ
bằng vật liệu composite, lắp ráp dây chuyền thiết bị tự động, tự động hóa sản xuất bằng điều khiển
CNC, quản lý và xử lý những vấn đề cơ bản trong hoạt động bảo vệ môi trường của vùng kinh tế trọng
điểm. Công tác chuyển giao công nghệ đạt được hiệu quả cao, từ 1 đồng đầu tư của Nhà nước đã thu
về 4 đồng. Nhờ có chủ trương đúng của ĐHQG-HCM mà số lượng đề tài nghiên cứu các cấp tăng lên
đáng kể, nhất là đề tài cấp bộä. Đề tài khoa học của sinh viên cũng tăng về số lượng, chất lượng và
kinh phí. ĐHQG-HCM đã tích cực hoàn thiện hạ tầng cơ sở cho khoa học – công nghệ, trong những
năm qua đã xây dựng mới và nâng cấp 12 phòng thí nghiệm mang tầm cỡ quốc gia với tổng kinh phí
gần 86 tỷ đồng. Kinh phí đầu tư cho công tác khoa học – công nghệ năm 2000, năm 2001 đã có bước
nhảy vọt, đạt mức 22,35 tỷ đồng so với 5,16 tỷ những năm trước. Mạng thông tin đã được hình thành,
tạp chí “Phát triển Khoa học Công nghệ” đến nay ra được 32 số công bố những kết quả nghiên cứu
khoa học thuộc nhiều lĩnh vực và có chất lượng cao, mạng intranet giữa các trường, viện đã được thiết
lập và nối mạng với internet từ tháng 9/1998.
Hoạt động kế hoạch - tài chính với vị trí là đơn vị dự toán cấp 1 đã tạo tiền đề cho sự phát
triển chủ động và năng động trước đây chưa thể có. ĐHQG-HCM đã cải tiến cơ chế quản lý tài chính
theo đúng các quy định hiện hành. Từ năm 1998, tập trung nguồn thu học phí và kiểm soát chi qua hệ
thống kho bạc nhà nước. Các chỉ tiêu kế hoạch, kinh phí được phân bổ công khai, dân chủ và có cơ
sở pháp lý đến các đơn vị thành viên.
Trong công tác xây dựng cơ bản, ĐHQG-HCM đã tích cực tiến hành một loạt các
biện pháp điều tra quy hoạch, xây dựng dự án. Một số công trình mới đã mọc lên ở khu

vực Thủ Đức. Đã mở rộng thêm khu học tập ở các trường Đại học Khoa học tự nhiên,
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Bách khoa. Thực hiện chủ trương xã hội
hóa giáo dục, ĐHQG-HCM đã và đang phối hợp cùng 10 tỉnh xây dựng ký túc xá phục
vụ sinh viên, trong đó có 4 tỉnh đã hoàn thành với tổng trị giá công trình hơn 22 tỷ đồng.
Về tổ chức, bộ máy, ĐHQG-HCM đã sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị thành viên theo hướng
tránh trùng lắp chức năng, nhiệm vụ, tăng mức độ chuyên môn hóa nhằm phát huy tối đa thế mạnh


của từng bộ phận trong toàn hệ thống. ĐHQG-HCM đã lập thêm 8 khoa mới phục vụ kịp thời sự phát
triển của công tác đào tạo. Bộ máy Văn phòng ĐHQG dần dần được hoàn chỉnh, các mối quan hệ
được thể chế hóa. Đã xây dựng được 28 văn bản quy chế, quy trình, hướng dẫn để quản lý các hoạt
động. Quyền được bổ nhiệm một số vị trí lãnh đạo tại các đơn vị của ĐHQG-HCM đáp ứng nhanh
chóng yêu cầu của tổ chức và hoạt động chung. ĐHQG-HCM quan hệ trực tiếp với Ban Tổ chức- Cán
bộ Chính phủ, nhờ đó mà các chế độ, chính sách được giải quyết nhanh chóng. Quyền được trực tiếp
làm thủ tục cử đi nước ngoài và nhận cán bộ từ nước ngoài trở về của ĐHQG-HCM tạo nhiều thuận lợi
cho quan hệ hợp tác quốc tế. ĐHQG-HCM là đơn vị đầu tiên trong ngành giáo dục đại học cả nước tổ
chức thi nâng ngạch giảng viên lên giảng viên chính, nhờ đó chỉ tính riêng trong năm 2000 đã có thêm
350 giảng viên chính. Các đợt tập huấn, bồi dưỡng quy mô liên trường đã được tổ chức, nâng cao một
bước chuyên môn nghiệp vụ quản lý cho đội ngũ cán bộ.
Trong công tác quan hệ quốc tế, ĐHQG-HCM đã triển khai nhiều chương trình hợp tác quốc
tế với các nước và tổ chức quốc tế trên các lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học-công nghệ, cấp học
bổng; tham gia khá tích cực vào hoạt động của Mạng lưới các trường đại học ASEAN (AUN), góp
phần hòa nhập với khu vực và thế giới. Thủ tục về xuất, nhập cảnh cho cán bộ, sinh viên ĐHQG-HCM
và khách nước ngoài được tiến hành nhanh chóng, kịp thời.
Đảng bộ ĐHQG-HCM bám sát các chủ trương, đường lối của Đảng, tập hợp đội ngũ cán bộ,
đảng viên, kiên trì đấu tranh để thống nhất quan điểm trong Đảng, đi đầu trong việc thực hiện cải cách
trong giáo dục – đào tạo và nghiên cứu khoa học – công nghệ, góp phần thực hiện các cuộc vân động
chính trị của Nhà nước và địa phương. Đảng bộ ĐHQG-HCM đã phát huy được vai trò lãnh đạo về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, luôn chỉ đạo và phối hợp với Ban Giám đốc để thống nhất hành động
nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị.

Công đoàn ĐHQG-HCM bước đầu phát huy vai trò trong việc tập hợp lực lượng cán bộ công
chức, tổ chức các hoạt động các ngày lễ tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cũng như sự hiểu
biết lẫn nhau giữa các đơn vị. Công đoàn các cấp đã quan tâm chăm lo quyền lợi, lợi ích thiết thực của
đoàn viên.
Thông qua nhiều hình thức phong phú, Ban Cán sự đoàn phối hợp với Hội sinh viên ở các
trường tạo nên không khí sôi nỗi với nhiều hoạt động phong phú trong công tác thanh niên, năng động
tìm tòi mô hình hoạt động của sinh viên phù hợp với phương thức đào tạo tín chỉ. Nhiều hoạt động sinh
hoạt chung và bồi dưỡng sinh viên được tổ chức. Đã xây dựng được các phong trào văn hóa, văn
nghệ, thể dục, thể thao trên phạm vi toàn ĐHQG-HCM.
Trong những hoạt động trên đây, mảng nào ĐHQG-HCM được phân cấp quản lý sớm thì
ĐHQG-HCM có nhiều thuận lợi, và thực tiễn cũng chứng minh tính hiệu quả cao của sự phân cấp. Đến
lượt mình, ĐHQG-HCM đã có nhiều quy định để phân cấp quản lý cho các đơn vị thành viên và có kết
quả hoạt động tốt.
Những thành tựu bước đầu nêu trên có nguyên nhân chủ yếu là nhờ quyết tâm lớn, trách nhiệm
cao, là do lòng yêu nghề, tính kiên trì và tâm huyết của hầu hết cán bộ công chức ĐHQG-HCM trong
sự nghiệp đổi mới, là ở sự nhất trí trong chủ trương giữa Đảng, Chính quyền, Công đoàn và Đoàn
thanh niên. Những thành tựu đó giúp cho xã hội và cung cấp cho các cấp lãnh đạo những luận cứ
thuyết phục mang tính khoa học và tính thực tiễn về nhận thức xây dựng mô hình và triển vọng phát
triển của ĐHQG đa ngành, đa lĩnh vực và chất lượng cao. Hoạt động và những kinh nghiệm quý báu
của các ĐHQG sẽ giúp cấp trên trong việc điều chỉnh mô hình, hoàn thiện quy chế ngày càng phù hợp
hơn.
II. NHỮNG YẾU KÉM
Trong khi đánh giá đúng thành tựu bước đầu đã đạt được, chúng ta cần nhìn thẳng vào sự thật
để nhận ra những tồn tại và yếu kém. Thông báo số 315-TB/TW của Thường vụ Bộ Chính trị vạch ra
những thiếu sót lớn, những nhược điểm cơ bản trong quá trình xây dựng hai đại học quốc gia. Tiếp thu
ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, ĐHQG-HCM thẳng thắn nhìn nhận một số khó khăn và yếu kém cơ
bản của mình, đó là:
ĐHQG-HCM có sứ mệnh, mục tiêu cao, nhưng điểm xuất phát và năng lực của Nhà nước và
của bản thân ĐHQG-HCM là có hạn, cả về cơ chế, nhân lực và tài lực. Mô hình ĐHQG mới mẻ, vừa
thực hiện, vừa điều chỉnh tạo ra tình trạng không ổn định làm cản trở bước đi của ĐHQG-HCM, đội

ngũ cán bộ quản lý, cán bộ giảng dạy, cán bộ khoa học vừa thiếu vừa yếu, cơ sở vật chất nghèo nàn,


lạc hậu, manh mún lại không được đầu tư lớn, tất cả những điều đó đã tác động không nhỏ đến tư
tưởng của cán bộ công chức. ĐHQG-HCM còn phải kiên trì đấu tranh để đạt được sự thống nhất trong
nhận thức, tránh tư tưởng cục bộ bản vị, phấn đấu đạt được sự thống nhất trong hành động.
Bài toán về quan hệ số lượng – chất lượng chưa được nhận thức và giải quyết đúng đắn. Mục
tiêu chất lượng cao của ĐHQG bị lu mờ, có nơi vẫn còn chạy theo số lượng. Quy mô sinh viên tăng
đều đặn song số lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy của ĐHQG-HCM còn thấp, cơ cấu lại chưa hợp lý,
chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, lực lượng cán bộ đầu đàn giảm không được bổ sung kịp
thời; một bộ
phận cán bộ quản lý các cấp còn chậm nâng cao trình độ quản lý chưa có bản lĩnh vững vàng.
Tuy đại bộ phận cán bộ công chức trong ĐHQG-HCM là có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục,
song còn một bộ phận chịu sự tác động mạnh của kinh tế thị trường, chưa tự nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, chưa tích cực nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Ý thức kỷ cương nề nếp còn lỏng lẻo. Vẫn còn tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật và
tinh thần trách nhiệm, không chấp hành nghiêm túc chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chủ trương của Nhà
nước và các quy định của cấp trên, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số nhiệm vụ công tác
lớn đã được đề ra nhưng thực hiện không đến nơi đến chốn.
Mối quan hệ tập trung – dân chủ chưa được giải quyết tốt, có lúc thiên về hướng tập trung, áp
đặt, nóng vội, có lúc lại buông lỏng, thả nổi. Thời kỳ đầu chú trọng sáp nhập một số đơn vị để tránh
trùng lắp chức năng nhiệm vụ, nhưng sau đó lại thành lập ra một số tổ chức trùng lắp khác. Vẫn còn
thiếu sót trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở trường học.
IV. NHỮNG BÀI HỌC CHỦ YẾU
Tổng kết chặng đường xây dựng 5 năm qua, chúng ta rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ
yếu sau :
– Trong bước đầu xây dựng mô hình mới, phải hết sức coi trọng công tác tư tưởng và chỉ đạo
triển khai trong từng bước, từng nhiệm vụ cụ thể, nhằm đạt được sự thống nhất về nhận thức và tư
tưởng trong chỉ đạo cũng như thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Mỗi chủ trương
và mỗi biện pháp đề ra cần tránh duy ý chí, phải có cơ sở khoa học; các bước triển khai cần có sự

thống nhất trong ngoài Đảng, sự ủng hộ của các cấp trên, phát huy dân chủ, tập trung trí tuệ để hình
thành nên sự đoàn kết trong nội bộ, sự hưởng ứng của quần chúng mới có thể thu được kết quả tốt.
Cần kết hợp chặt chẽ việc phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao của các cơ sở với việc tạo
ra cơ cấu, cơ chế phân cấp hợp lý, thông suốt.
– Phải kiên định về nguyên tắc, có đủ bản lĩnh, dũng cảm và quyết tâm trong việc xây dựng mô
hình mới, đồng thời phải mềm dẻo trong các biện pháp và có quan điểm thực tiễn, toàn diện, linh hoạt,
sáng tạo, nhanh chóng nắm bắt được cái mới. Trong suốt thời gian qua, ĐHQG-HCM phải xây dựng
một mô hình mới đối với
Việt Nam, vì vậy luôn phải suy nghĩ, thực sự dân chủ, phát huy nhân rộng những ưu điểm, đồng thời
chấn chỉnh kịp thời những khuyết điểm.
– Phải giữ vững mục tiêu chung trong thời kỳ dài, đồng thời đề ra được những mục tiêu đột phá,
mục tiêu ưu tiên trong từng giai đoạn để phấn đấu. Mọi chủ trương, giải pháp và kế hoạch hành động
cần hướng tới những mục tiêu lâu dài và trước mắt đã đề ra. Mục tiêu mới cần phải có nhận thức mới,
phương tiện và phương thức mới.
– Phát huy tính ưu việt của mô hình đại học đa lĩnh vực, đa ngành, tập hợp đội ngũ cán bộ khoa
học đủ mạnh trong mỗi ngành và phát huy ưu thế của đa ngành trong đào tạo, nghiên cứu khoa học.
Huy động nguồn tài chính để tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chung cho toàn ĐHQG-HCM;
huy động nguồn lực của xã hội cho đào tạo và nghiên cứu khoa học. Tạo sự thống nhất và liên thông
trong đào tạo. Phát huy tinh thần dám nghĩ dám làm và dám chịu trách nhiệm, kết hợp lý thuyết và thực
hành, thực hiện cái mới trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học, chuẩn bị kỹ càng, cụ thể, áp dụng
từng bước, đồng thời rút kinh nghiệm kịp thời và tổng kết để nâng lên tầm lý luận.
– Phải gắn bó chặt chẽ với địa phương, kết hợp sự ủng hộ và hợp tác của các ngành và các
cấp trong hoạt động. Trong đào tạo, nghiên cứu khoa học- công nghệ và xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, phải gắn với yêu cầu của sự phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội của địa phương, đồng thời huy
động sức mạnh của xu hướng xã hội hóa giáo dục.


Trong giai đoạn mới của sự nghiệp xây dựng mô hình ĐHQG-HCM, những bài học trên vẫn còn
tiếp tục có ý nghĩa to lớn. ĐHQG-HCM hiện vẫn còn rất nhiều khó khăn và thách thức, dù vừa vượt
qua được câu hỏi mang tính sống còn “tồn tại hay không tồn taị” về mô hình. Xây dựng cho được lòng

tin của toàn thể đội ngũ cán bộ công chức vào mục tiêu chung là nhiệm vụ khó khăn và lâu dài.
Trong Thông báo số 315-TB/TW, Thường vụ Bộ Chính trị đã chỉ rõ cơ chế hoạt động mà các
ĐHQG cần phải đạt được là : “phát huy được quyền chủ động cao, sáng tạo của các trường thành
viên, các viện và trung tâm nghiên cứu trong đào tạo và nghiên cứu khoa học ... đảm bảo quyền tự chủ
cao trong các hoạt động về đào tạo, nghiên cứu khoa học công nghệ, tài chính, quan hệ quốc tế và tổ
chức, bộ máy của các đại học quốc gia; tạo cho được đại học quốc gia trở thành một thực thể hữu cơ
phát huy cao nhất hiệu quả của việc xây dựng và sử dụng đội ngũ giáo viên, phòng thí nghiệm, cơ sở
vật chất”.
Đây chính là tiêu chí lớn để các cấp ủy, cấp chính quyền và toàn thể cán bộ công chức trong
ĐHQG-HCM phấn đấu, quyết tâm xây dựng một cơ chế hoạt động mới cho ĐHQG-HCM.
Bộ Chính trị đã yêu cầu “Phải quyết tâm thực hiện tốt việc sắp xếp lại hai đại học quốc gia,
những năm tới hai đại học quốc gia phải có sự phát triển mới, xứng đáng là đầu đàn của ngành đại học
cả nước”. Trên cơ sở tổng kết những bài học kinh nghiệm, đánh giá toàn diện tình hình hiện tại của
ĐHQG-HCM, nhất định toàn thể cán bộ công chức ĐHQG-HCM sẽ xây dựng thành công mô hình
ĐHQG-HCM, đáp ứng yêu cầu và lòng mong mỏi của nhân dân, của Đảng và Nhà nước.

I. PHÂN TÍCH DỰ BÁO PHÁT TRIỂN KNH TẾ – XÃ HỘI 5 NĂM (2001-2005) LIÊN QUAN TỚI
HOẠT ĐỘNG ĐHQG-HCM
1. Thời cơ - thuận lợi
Trong phạm vi quốc tế
Thế kỷ XXI là thế kỷ khoa học, công nghệ sẽ tiếp tục phát triển như vũ bão, thúc đẩy mạnh mẽ
quá trình toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế tri thức; cũng là thế kỷ mà vai
trò của giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ có ý nghĩa quyết định hơn bao giờ hết đối với sự phát
triển toàn diện của mỗi quốc gia.
Khoa học - công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực cơ bản của sự phát
triển.
Trong những năm gần đây, về xu hướng tổ chức đại học trên thế giới có thể quan sát thấy hiện
tượng nhiều nước một mặt là tiếp tục thành lập thêm các đại học mới, mở rộng các loại hình đào tạo
đại học, đại chúng hoá đào tạo đại học; mặt khác là tổ chức lại đại học bằng cách sáp nhập nhiều
trường nhỏ thành một trường lớn hơn và tập trung đầu tư nâng cao chất lượng, đẩy mạnh đào tạo tinh

hoa ở các trường lớn này. Một ví dụ ở một quốc gia sát cạnh ta là Trung Quốc. Báo cáo khảo sát của
đoàn công tác cán bộ Bộ Giáo dục - Đào tạo Việt Nam tại Trung Quốc năm 2001 cho thấy rằng, Trung
Quốc có 450 trường đại học đã được tổ chức lại thành 188 trường lớn hơn, trong đó có 7 trường dành
cho người lớn tuổi. Ngoài ra, Trung Quốc hiện đã giao 360 trường đại học và cao đẳng cho địa
phương quản lý.
Giáo dục đại học Việt Nam bước đầu đã được tổ chức lại theo xu hướng chung của giáo dục
đại học thế giới. ĐHQG-HCM được tổ chức sắp xếp và định hướng hoạt động phù hợp với xu hướng
này, được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư, tạo cơ chế thuận lợi cho sự phát triển.
Trong phạm vi quốc gia
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã tiến hành kiểm điểm, đánh giá một cách toàn
diện và sâu sắc những thành tựu và khuyết điểm thời gian qua, đề ra các quyết sách quan trọng cho
thời kỳ tới. Đại hội đã khẳng định “phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Như vậy, trong 10


năm tới, bối cảnh quốc tế và yêu cầu phát triển của đất nước đặt giáo dục nói chung và giáo dục đại
học nói riêng trước những thời cơ và thách thức lớn.
Tinh thần, phương hướng, mục tiêu lớn trong báo cáo chính trị trình bày trước Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX đã được cụ thể hóa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm và kế
hoạch 5 năm.
Một là, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 – chiến lược đẩy mạnh công nghiệp
hóa - hiện đại hóa theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp;
Hai là, Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005. Đây là
bước mở đầu quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển KT-XH 2001-2010.
– Hiện nay chúng ta đang ở giai đoạn đầu xây dựng một nước công nghiệp. Đây là giai đoạn
tạo ra những tiền đề cơ bản cho công nghiệp hoá – hiện đại hóa đất nước, xác định mục tiêu, xây
dựng hạ tầng và nguồn nhân lực ban đầu. Đất nước yêu cầu phải phát triển nhanh với tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân hàng năm là 7,5%, phải có những bước nhảy vọt, đột phá. Muốn vậy, vấn đề

nhân lực có trình độ cao và vấn đề phát triển khoa học - công nghệ phải được đặt lên hàng đầu. Ở đây
có thể thấy rõ vai trò quan trọng đặc biệt của giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ.
– Hệ thống các trường đại học, đặc biệt là hai Đại học quốc gia (trong đó có ĐHQG-HCM) giữ
vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp đào tạo nhân lực có trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát
triển khoa học công nghệ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH-HĐH, đóng góp xứng đáng cho việc thực hiện thành công các chiến lược, phương hướng,
kế hoạch mà Đại hội IX đã đề ra.
– ĐHQG-HCM đóng trên địa bàn Tp. HCM và tỉnh Bình Dương. Phạm vi tuyển sinh của ĐHQGHCM là cả nước, nhưng chủ yếu là khu vực phía Nam, từ Quảng Nam, Đà Nẵng trở vào, đặc biệt là
khu vực Miền Đông Nam Bộ, Tp. HCM và đồng bằng sông Cửu Long. Đây là khu vực năng động, giàu
tiềm năng, đứng hàng đầu các tỉnh thành cả nước về nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội cũng
như tỷ trọng đóng góp cho ngân sách Nhà nước.
– Nhu cầu về nhân lực có trình độ cao ở các lĩnh vực mà ĐHQG-HCM đào tạo cũng như nhu
cầu nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng ở khu vực này trong 5 năm tới rất lớn. Ví dụ, Đại hội
Đảng bộ Tp. HCM lần VII đã đề ra những chỉ tiêu quan trọng trong kế hoạch phát triển KT-XH giai đoạn
2001-2005 của thành phố. Cụ thể như tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 11%/năm, công nghiệp xây dựng tăng ít nhất 13%/năm, dịch vụ tăng trên 9.5%/năm; phát triển mạnh công nghệ thông tin, bưu
chính viễn thông, xuất nhập khẩu, khoa học công nghệ, khoa học xã hội nhân văn, giáo dục đào tạo.
Trên cơ sở thế mạnh và nhu cầu của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của các tỉnh thành phía Nam,
đặc biệt là khu vực Tp. HCM, miền Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Cửu long; “ Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển KT-XH giai đoạn 2001-2005 của các tỉnh thành đã được Đại hội Đảng bộ những
nơi này thông qua vào cuối năm 2000, cho thấy rằng ĐHQG-HCM với tư cách là một đại học đa
ngành, đa lĩnh vực, được Nhà nước tập trung đầu tư, sẽ có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
cung cấp nguồn lực các ngành mũi nhọn. ĐHQG-HCM có cơ cấu ngành đào tạo bao gồm 4 lĩnh vực :
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, kỹ thuật - công nghệ và khoa học kinh tế, bao gồm
trong đó là 51 ngành đào tạo đại học và cao đẳng, 73 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ và 59 chuyên
ngành đào tạo thạc sĩ. Các ngành mũi nhọn của kinh tế xã hội như công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu mới, cơ khí - tự động hoá, … đều có mặt trong danh mục đào tạo của
ĐHQG-HCM [phụ lục 2].
– Việc tổ chức, sắp xếp lại ĐHQG-HCM trong tương quan với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội
của khu vực phía Nam của đất nước là phù hợp, tạo thuận lợi cho sự gắn kết đào tạo - nghiên cứu

khoa học - triển khai ứng dụng. Mặt khác, chính sự phát triển kinh tế với tốc độ cao hơn mức trung
bình của khu vực này so với cả nước đã tạo nên một sức ép đồng thời cũng là một động lực quan
trọng thúc đẩy các hoạt động của ĐHQG-HCM.
– Bên cạnh đó chủ trương của Đảng, Nhà nước tập trung xây dựng ĐHQG-HCM, đã tạo ra
cơ chế thông thoáng, tự chủ cao cho ĐHQG-HCM hoạt động trong các lĩnh vực rất quan trọng như


đào tạo, tổ chức, tài chính và hợp tác quốc tế. Đây là một giải pháp mạnh, có ý nghĩa như là sự đột
phá trong công cuộc cải cách giáo dục đại học Việt Nam.
2. Khó khăn, thách thức
– Trong phạm vi quốc gia, dù Nhà nước chủ trương ưu tiên đầu tư xây dựng ĐHQG-HCM,
nhưng chắc chắn sự ưu tiên ấy vẫn nằm trong khuôn khổ tỷ lệ ngân sách dành cho giáo dục còn thấp.
– Mặt khác, ĐHQG-HCM tuy nằm trong khu vực phát triển kinh tế năng động, giàu tiềm năng,
nhưng nền kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, cơ cấu kinh tế chưa thật sự hợp lý. Đồng bằng sông
Cửu Long trình độ dân trí còn thấp, lao động qua đào tạo chỉ chiếm khoảng 12%, trong đó trình độ đại
học, cao đẳng chỉ chiếm khoảng 1,5%, thấp nhất so với các khu vực khác trong nước.
– Ngay trong ĐHQG-HCM cũng còn rất nhiều hạn chế về số lượng, chất lượng đội ngũ, về cơ
cấu ngành đào tạo, về chương trình, giáo trình, phương pháp dạy, về cơ sở vật chất, trang thiết bị,…
Do đó, mục tiêu đề ra sẽ khó đạt được nếu không muốn nói là sẽ có nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa nếu
không có chiến lược phát triển thật khoa học, có tính khả thi cao và một quyết tâm lớn.
– Việc nhận thức, thống nhất mục tiêu xây dựng ĐHQG-HCM với những bước đi, giải pháp cụ
thể vẫn còn là vấn đề cần tiếp tục đựơc bàn bạc, trao đổi, quán triệt.
– Đội ngũ cán bộ ĐHQG-HCM tuy có mạnh so với nhiều trường đại học khác thuộc khu vực
phía Nam về chất lượng cũng như số lượng và các mặt hoạt động của các trường, viện thành viên đều
đạt được thành tích năm sau cao hơn năm trước, nhưng 5 năm qua, do mô hình tổ chức không ổn
định mà một số mặt hoạt động như xây dựng đội ngũ, xây dựng cơ bản không phát triển bao nhiêu,
chậm một nhịp so với các đại học khác. Mặt khác, do xuất phát điểm bất lợi so với các đại học có uy tín
trong khu vực châu Á, nên nhìn một cách tổng thể nếu so sánh tiến bộ đạt được với yêu cầu mục tiêu
đề ra, hoặc so với các đại học có uy tín trong khu vực thì thành tích đạt được còn rất khiêm tốn. Nhìn
nhận vấn đề dưới góc độ này có thể thấy, ĐHQG-HCM còn bề bộn rất nhiều việc phải làm.

II. MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC TRUNG HẠN PHÁT TRIỂN ĐHQG-HCM GIAI ĐOẠN 2001-2005
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, căn cứ
các văn bản pháp quy về việc thành lập, tổ chức lại ĐHQG-HCM, Quy chế Tổ chức - hoạt động của
Đại học Quốc gia do Thủ tướng Chính phủ ban hành và nhằm thể chế hóa những nội dung quan trọng
của Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ của ĐHQG-HCM lần thứ II, toàn thể CBCC tập trung sức lực,
trí tuệ, quyết tâm xây dựng chiến lược phát triển ĐHQG-HCM trở thành một trung tâm mạnh về đào
tạo và nghiên cứu khoa học chất lượng cao.
1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở giữ vững sự ổn định, kỷ cương, nề nếp, phát huy tốt nhất các thành tích đạt được,
ĐHQG-HCM tập trung nỗ lực phấn đấu đạt được sự chuyển biến rõ về chất lượng trong đào tạo,
nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng. Chất lượng luôn là mục tiêu số một của ĐHQG-HCM,
nhưng đồng thời cũng là nhiệm vụ
khó nhất.
Muốn có chất lượng trong đào tạo, nghiên cứu khoa học thì ĐHQG-HCM đồng thời cũng phải
phấn đấu đạt chất lượng và hiệu quả cao ở một loạt các hoạt động khác như xây dựng đội ngũ, cơ
sở vật chất, trang thiết bị, tổ chức quản lý, điều hành,…
Đến năm 2005, xét về thực lực cũng như hiệu quả của mọi hoạt động, ĐHQG-HCM phấn đấu
xứng đáng đóng vai trò nồng cốt trong hệ thống đại học Việt Nam; và đến 2010, ĐHQG-HCM phải
chứng tỏ được khả năng đuổi kịp và sánh ngang với các đại học có uy tín trong khu vực và quốc tế về
chất lượng đào tạo.
Như vậy, chiến lược phát triển trung hạn ĐHQG - HCM giai đoạn 2001 - 2005 là sự cụ thể hóa,
phù hợp với mục tiêu lâu dài là xây dựng ĐHQG - HCM thành mộ trung tâm đào tạo và nghiên cứu
khoa học đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao, làm nồng cốt trong hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam, từng bước đuổi kịp và sánh ngang với các đại học có uy tín trong khu vực và quốc tế.
2. Mục tiêu cụ thể của từng lĩnh vực hoạt động
2.1. Công tác chính trị - tư tưởng
a) Mục tiêu
Trọng tâm công tác chính trị tư tưởng là làm cho mọi cán bộ, công chức quán triệt mục tiêu, sứ
mạng ĐHQG, qua đó khơi gợi lòng tự hào, tạo sự thống nhất chí, đoàn kết một lòng cùng nhau phấn



đấu xây dựng và phát triển ĐHQG-HCM
vững mạnh.
Công tác chính trị tư tưởng cần tập trung làm cho học sinh – sinh viên có tinh thần yêu nước và
tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trong pháp luật, hun đúc tinh thần
hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn. Đặc biệt, làm cho sinh viên nhận thức rõ
được mục tiêu xây dựng ĐHQG-HCM để phấn đấu học tập, rèn luyện xứng đáng là sinh viên ĐHQGHCM.
b) Giải pháp
Công tác chính trị tư tưởng cho cán bộ, công chức và sinh viên phải được thực hiện một cách
thường xuyên dưới nhiều hình thức phong phú, sáng tạo, thiết thực, lôi cuốn, hấp dẫn, đi vào chiều
sâu, tránh hình thức, qua loa.
Tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị 34 của Bộ Chính trị (Khóa VIII) và chỉ thị 22/CT-TU của
Thành ủy TP. HCM về “Tăng cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần
chúng và công tác phát triển đảng viên trong các trường đại học”.
Tăng cường về lượng và chất các cơ sở Đảng “trong sạch - vững mạnh”; đặc biệt quan tâm
công tác phát triển Đảng trong cán bộ, công chức trẻ, cán bộ nữ và sinh viên, phấn đấu đạt chỉ tiêu
phát triển đảng viên do Đại hội Đảng bộ ĐHQG đề ra; phát huy sức mạnh tổng hợp của các đoàn thể:
Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên, Hội Cựu Chiến binh trong công tác tuyên truyền vận động
tất cả vì mục tiêu chung - xây dựng ĐHQG-HCM ngày càng phát triển, vững mạnh.
Đẩy mạnh công tác thông tin hai chiều lãnh đạo – cơ sở, lãnh đạo – học sinh, sinh viên và
ngược lại; thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở. Việc tiếp cán bộ, công chức, học sinh, sinh viên ở các
đơn vị cần tổ chức định kỳ nhằm nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư nguyện vọng để có biện pháp xử
lý kịp thời, hiệu quả, thấu tình, đạt lý.
Xem việc tăng cường điều kiện ăn, ở, sinh hoạt; cơ sở vật chất, trang thiết bị rèn luyện, vui
chơi, giải trí tại các ký túc xá là một giải pháp quan trọng trong công tác quản lý sinh viên. Phấn đấu
trong vài năm tới, các ký túc xá sẽ trở thành nơi tự đào tạo có hiệu quả của sinh viên ngoài giờ lên lớp.
Thực hiện các hình thức khen thưởng thích đáng, chế độ cộng điểm khuyến khích với những
sinh viên phấn đấu, rèn luyện tốt, hoạt động xã hội và nghiên cứu khoa học giỏi.
2.2. Công tác xây dựng đội ngũ
Mục tiêu là tạo sự chuyển biến rõ nét về chất lượng cũng như số lượng đội ngũ cán bộ, về cơ

cấu, độ tuổi, ngành nghề, học hàm, học vị, bằng cấp.
a) Xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy
Đây là một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu của ĐHQG-HCM.
Về số lượng, nhằm tăng cường đội ngũ cho các đơn vị hiện có và nhu cầu nhân sự cho các
đơn vị mới, đến năm 2005, tổng số cán bộ, công chức trong biên chế của ĐHQG-HCM sẽ là 2.500
người, trong đó cán bộ giảng dạy là 2.000 người so với hiện nay là 1.075. Lúc ấy tỉ lệ SV/CBGD sẽ đạt
20 so với hiện nay là 37 [ phụ lục 1].
Về học vị, phấn đấu từ năm 2005 đến năm 2007, số cán bộ giảng dạy có trình độ trên đại học
đạt tỷ lệ 80% (hiện nay là 63.05%), trong đó 40% có trình độ tiến sĩ (hiện nay là 30,30%); về học hàm,
số cán bộ giảng dạy là giáo sư, phó giáo sư tăng ba lần so với hiện nay, giảng viên chính đạt 50%
(hiện nay là 30,50%) vào cuối năm của kế hoạch trung hạn.
Sử dụng ngân sách Nhà nước và các nguồn kinh phí khác, phấn đấu mỗi năm gửi trung bình
từ 70 -100 cán bộ đi đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ ở nước ngoài, nhằm góp phần đạt tỷ lệ sau đại học cho lực
lượng cán bộ giảng dạy như mục tiêu đã đề ra. Tuyển chọn về phẩm chất đạo đức và thi kiểm tra năng
lực chuyên môn trước, sau đó nếu có đủ trình độ ngoại ngữ (có kiểm tra) thì cử đi đào tạo ngay, nếu
chưa thì tổ chức học ngoại ngữ từ 6 đến 12 tháng do ĐHQG-HCM chủ trì.
Tất cả cán bộ giảng dạy phải sử dụng thông thạo ít nhất một ngoại ngữ, trong đó 10% có thể
giảng dạy chuyên môn bằng ngoại ngữ vào năm 2005.
b) Xây dựng đội ngũ quản lý hành chánh
Đội ngũ cán bộ, công chức khối quản lý hành chánh phải dần chuyên môn hóa từng bộ phận
tiến tới chuyên môn hóa hoàn toàn vào năm 2005, cụ thể :


Cán bộ quản lý giữ chức vụ Trưởng - Phó ban, Trưởng - Phó phòng phải có trình độ tiến sĩ
chuyên ngành hoặc thạc sĩ về quản lý nhà nước.
Chuyên viên bắt buộc phải qua các khóa, lớp đào tạo về quản lý nhà nước từ 6 tháng trở lên,
nắm vững kiến thức chuyên môn nghiệp vụ liên quan đến nhiệm vụ công tác; sử dụng được ít nhất
một ngoại ngữ.
Tối thiểu 70% cán bộ, công chức phải có chương trình, kế hoạch học tập nghiên cứu, tự bồi
dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ và có thể kiểm tra được sau mỗi năm (sẽ ban hành quy chế).

2.3. Tổ chức quản lý, hình thành các đơn vị mới
Kiện toàn bộ máy quản lý theo hướng gọn, nhẹ, hiệu quả từ cấp ĐHQG-HCM đến các đơn vị
thành viên. Trong vòng 5 năm tới, ĐHQG-HCM phấn đấu quán triệt và thực hiện nhuần nhuyễn quy
chế tổ chức và hoạt động ĐHQG-HCM do Thủ tướng ban hành; làm rõ quyền hạn, trách nhiệm trong
phân cấp cũng như trong phối hợp hoạt động.
Từng bước áp dụng thành tựu công nghệ thông tin vào công tác quản lý điều hành. Hình
thành một số hoạt động quản lý theo kiểu trường học - điện tử.
Tích cực chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để có thể lập mới một số trường, viện vào cuối năm
2005, chú ý tập trung các lĩnh vực mà ĐHQG-HCM có thế mạnh và đồng thời là nhu cầu cấp bách cho
sự phát triển kinh tế – xã hội như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, ngoại ngữ, xây dựng,…trên
cơ sở giữ ổn định, không trùng lắp với các đơn vị ở các trường thành viên.
Thành lập Trường Đại học Quốc tế trên cơ liên kết với các trường nước ngoài có uy tín, tạo
điều kiện cho cán bộ, sinh viên du học tại chỗ và qua đó, ĐHQG-HCM có thể học tập, đối chiếu kinh
nghiệm và chất lượng đào tạo của mình.
2.4. Tạo sự chuyển biến rõ nét về chất lượng đào tạo
a) Mục tiêu
Mục tiêu chung là tập trung nâng cao chất lượng cho cấp đại học chính quy, sinh viên được đào
tạo ra từ ĐHQG-HCM phải đạt chất lượng cao nhất ở khu vực phía Nam và cả nước, không những có
khả năng tìm việc mà còn có khả năng tạo ra việc làm trong thị trường lao động đầy biến động; phấn
đấu tiến đến đạt chất lượng ngang tầm của các nước trong khu vực, làm nòng cốt cho giáo dục đại
học Việt Nam, góp phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Chất lượng toàn diện (tư tưởng, đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ, sức khoẻ, khả năng thích
ứng linh hoạt,….) được đặt lên hàng đầu trong công tác đào tạo sinh viên.
b) Nhiệm vụ và giải pháp
Để đạt được mục tiêu trên, những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể sau đây cần thực hiện trong giai
đoạn 2001 -2005:
Đổi mới công tác quản quản lý đào tạo: tin học hóa, quy trình hóa từng phần tiến đến toàn
phần vào năm học 2005-2006.
Về tuyển sinh, từ năm 2002 trở đi, chỉ tiêu tuyển sinh đại học chính quy giữ mức tăng bình
quân hằng năm từ 3-5%. Tổng số sinh viên đại học chính quy khoảng 30.000 so với hiện nay là 26.000

; cải tiến, đổi mới phương pháp tuyển sinh, mở rộng dần sang hình thức thi trắc nghiệm, áp dụng có
cân nhắc giới hạn “ngưỡng” về học lực trước hết ở một số ngành để hạn chế bớt áp lực thí sinh dự
thi.
Cố gắng đến năm 2005, tỷ lệ SV/CBGD là 20 (so với hiện nay là 37); một số hệ đào tạo như
cao đẳng, tại chức hoặc một số ngành mà xã hội ít có yêu cầu thì giữ nguyên chỉ tiêu hoặc giảm dần.
Bảng dưới là các số liệu thống kê chỉ tiêu tuyển sinh đại học, cao đẳng từ năm 1996 trở lại đây.
Hệ đào tạo
ĐH chính quy

1996

1997

1998

1999

2000

2001

4.950

6.000

6.000

6.250

6.830


7.400

Cao đẳng

-

-

-

3.750

1.500

1.900

Tại chức

-

-

-

-

4.350

5.500



Phân tích cho thấy, chỉ tiêu tuyển sinh đại học chính quy tăng trung bình hàng năm khoảng
12,4%; hệ cao đẳng giảm mạnh vào năm 2000, nhưng năm 2001 lại tăng lại 26,6% so với năm 2000;
hệ tại chức năm 2001 tăng 26,4% so với năm 2000. Như vậy, nếu cứ giữ nhịp độ tăng như trên, thì
trong vài năm tới quy mô đào tạo sẽ rất lớn.
Đổi mới nội dung - chương trình, phương pháp đào tạo. Phấn đấu đến 2005, ĐHQG-HCM có
khoảng 40-50% số chuyên ngành đào tạo đạt trình độ khu vực theo tiêu chí kiểm định chất lượng
thông dụng.
Mở rộïng việc giảng dạy chuyên môn bằng ngoại ngữ (Anh, Pháp,…) ở một số ngành, chuyên
ngành thuộc các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn, kỹ thuật - công nghệ, môi
trường, tài nguyên. Thu hút sinh viên nước ngoài đến học tập tại ĐHQG-HCM ở một số lĩnh vực đào
tạo mà ta có thế mạnh.
Thống nhất xây dựng và phát triển chương trình đào tạo cử nhân, kỹ sư tài năng trong tất cả
các trường thành viên nhằm đào tạo chuyên gia đầu ngành, nhân tài cho đất nước và tạo động lực
thúc đẩy nâng cao chất lượng đào tạo diện rộng. Đến năm học 2005 -2006 nâng số lượng sinh viên
các hệ này tăng lên trên 1.000, trong đó Đại học Bách khoa 400, Khoa học Tự nhiên 300, Khoa học Xã
hội – Nhân văn 300; đảm bảo 30 - 40% sinh viên các hệ này hội đủ các điều kiện được đào tạo tiếp tục
ở bậc cao hơn, số còn lại cơ bản có việc làm và phát huy tốt tác dụng sau tốt nghiệp.
Tăng quy mô đào tạo sau đại học, năm sau cao hơn năm trước với tốc độ không dưới
10%/năm. Đến năm 2005, tăng tổng số học viên cao học và nghiên cứu sinh thuộc ĐHQG-HCM gấp
1,6 lần so với năm 2001 (tính đến năm 2001, tổng số người học sau đại học là 2.033 người, trong đó
có 1.886 học viên cao học và 147 nghiên cứu sinh). Bảng dưới đây trình bày sự tăng số lượng tuyển
sinh sau đại học của ĐHQG - HCM từ năm 1998 trở lại đây (xem thêm chi tiết ở phụ lục 3).
Bậc đào tạo

1998

1999


2000

2001

Thạc sĩ

288

486

500

790

Tiến sĩ

12

32

36

39

Có thể thấy rằng, nếu không kể sự tăng đột biến của năm 1999 so với năm 1998, thì từ năm
1999 đến nay số lượng tuyển sau đại học tăng bình quân 31,3% đối với cao học và 10,9% đối với
nghiên cứu sinh. Điều này chứng tỏ khả năng thực hiện chỉ tiêu tăng quy mô tuyển sinh nêu trên là
khả thi.
Xác lập sự liên thông giữa các bậc và hệ đào tạo trong tuyển sinh ở phạm vi ĐHQG, xem đây
là nét riêng, là thế mạnh của ĐHQG-HCM.

Đến năm 2005 và một số năm kế tiếp, hàng năm ĐHQG-HCM sẽ đào tạo cung cấp cho xã hội
trung bình 3.500 kỹ sư, 5.000 cử nhân đại học (trong đó có 200 cử nhân, kỹ sư tài năng); 750 thạc sĩ,
70 tiến sĩ; 500 cử nhân, kỹ sư cao đẳng,… góp phần tăng cường nguồn nhân lực có trình độ chuyên
môn cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.
Số lượng và chất lượng cán bộ được đào tạo theo các trình nói trên sẽ tăng dần sau mỗi năm.
Đến năm2020 (theo Quy hoạch chung đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 154/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/10/2001), tổng số sinh viên ĐHQG -HCM sẽ là 50.000.
2.5. Nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng, hợp tác quốc tế và trong nước.
a) Mục tiêu
Một là, nâng cao chất lượng đào tạo thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học, triển khai
ứng dụng, hợp tác quốc tế và hợp tác trong nước.
Hai là, tạo những chuyển biến rõ nét về chất lượng, tầm cỡ, hiệu quả các công trình nghiên cứu
khoa học, triển khai ứng dụng phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
Ba là, qua việc phát triển nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế, tăng tiềm lực trong đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí hoạt động, năng lực quản lý và
khả năng hợp tác liên kết trong đào tạo, nghiên cứu khoa học.
b) Nhiệm vụ cụ thể
Phấn đấu để được chủ trì các đề tài nghiên cứu khoa học thuộc các chương trình khoa học –
công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước và các đề tài độc lập cấp Nhà nước năm sau cao hơn năm trước.


Đến 2005, số đề tài trọng điểm cấp Nhà nước do ĐHQG-HCM thực hiện nhiều gấp 3 lần so với năm
2001 ( năm 2001 đã được chọn 6 đề tài trọng điểm và 4 đề tài độc lập), tăng gấp đôi số đề tài trọng
điểm cấp ĐHQG-HCM (so với hiện nay là gần 300).
Trường Đại học Bách khoa, Viện Môi trường - Tài nguyên đi đầu trong công tác nghiên cứu
khoa học – triển khai ứng dụng, tạo được thị trường khoa học công nghệ và triển khai ứng dụng rộng
rãi.
Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Xã hội – Nhân văn đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học cơ bản, khoa học giáo dục, triển khai chương trình đào tạo cử nhân tài năng phù
hợp với thế mạnh của đơn vị (Đại học Bách khoa đào tạo kỹ sư tài năng).

Cố gắng đạt tỉ lệ 70% số đề tài triển khai ứng dụng đạt chất lượng, hiệu quả tốt, góp phần thiết
thực cụ thể phát triển kinh tế – xã hội đất nước, đặc biệt là đối với trường Đại học Bách khoa, viện Môi
trường – Tài nguyên.
Tăng nhanh số lượng tổ chức, cơ sở nước ngoài có quan hệ hợp tác với ĐHQG - HCM, đăïc
biệt chú trọng các đối tác thực chất, có hiệu quả. Qua con đường hợp tác quốc tế, cố gắng phát triển
nguồn thu tài chính đạt 1,5 lần so với năm 2001.
Đối với trong nước, phát triển quan hệ hợp tác nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng với
các địa phương, các tổ chức khoa học công nghệ, kinh doanh sản xuất nhằm một mặt phục vụ nhu
cầu phát triển kinh tế – xã hội, một khác tăng nguồn lực tài chính cho đơn vị, cho ĐHQG - HCM và
tăng thu nhập cho cán bộ công chức. Đặc biệt, ĐHQG-HCM sẽ xúc tiến lập kế hoạch cụ thể để liên
kết, hợp tác với các Tỉnh, Thành trong khu vực, trước hết là với TP. HCM, Tỉnh Bình Dương – nơi
ĐHQG-HCM trú đóng.
c) Giải pháp chủ yếu
Xây dựng chiến lược nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, hợp tác trong nước của ĐHQGHCM phải thật cụ thể, khả thi; kiện toàn khâu tổ chức và cán bộ trực tiếp chỉ đạo, quản lý lĩnh vực công
tác này.
Chủ động tăng cường giao lưu, tiếp xúc với các tổ chức, đơn vị trong và ngoài nước để tìm
hiểu, đồng thời tự giới thiệu về mình để tạo khả năng, cơ hội hợp tác.
2.6. Xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường trang thiết bị
Tập trung đầu tư xây dựng lớn tại khu Thủ Đức – Dĩ An. Phấn đấu đến 2005, cơ bản hoàn
thành xong phần đền bù, giải toả; xây dựng và đưa vào sử dụng kịp thời các hạng mục cần thiết, cơ
bản định hình diện mạo của ĐHQG-HCM, bao gồm toà nhà điều hành, thư viện trung tâm, khu công
nghệ phần mềm, một số nhà học của các trường. Phấn đấu để khu Thủ Đức – Dĩ An đủ khả năng đảm
bảo cho từ 30-40% cán bộ - sinh viên đến làm việc, học tập.
Củng cố, nâng cấp các cơ sở ở nội thành phục vụ cho công tác đào tạo chuyên ngành, sau đại
học, đào tạo quốc tế và nghiên cứu khoa học.
Tập trung đầu tư chiều sâu về thư viện, trang thiết bị giảng dạy - học tập và khoa học công
nghệ; mời các chuyên gia giỏi để thiết kế, xây dựng nhà học, khu thí nghiệm, chất lượng hiện đại, kỹ
thuật cao, sử dụng lâu bền, không lạc hậu và trong đó, lắp đặt các thiết bị thí nghiệm đắt tiền, cao cấp
sử dụng chung trong đào tạo nghiên cứu khoa học trong ĐHQG-HCM.
2.7. Phát triển nguồn lực tài chính

Sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí đầu tư của Nhà nước, mở thêm các lĩnh vực hoạt động
mới để có thêm kinh phí. Dự tính đến 2005, kinh phí Nhà nước cấp sẽ gấp 1,5 – 2 lần so với 2001.
Thông qua các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, triển khai sản xuất sẽ
tạo thêm được nguồn kinh phí cho hoạt động ĐHQG-HCM khoảng 50% so với kinh phí Nhà nước cấp.
Thực hiện cơ chế “khoán thu chi” hợp lý, tăng quyền chủ động và đề cao trách nhiệm của thủ
trưởng đơn vị về tài chính, lấy hiệu quả tổng hợp làm thước đo điều chỉnh cơ chế khoán này.
Nghiên cứu kiến nghị tăng học phí nhằm bổ sung nguồn lực tài chính, để có điều kiện mở mang
cơ sở vật chất, trang bị phương tiện giảng dạy hiện đại, tăng thu nhập cán bộ công chức, thu hút
chuyên gia giỏi tham gia giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Lập từ 2 đến 4 doanh nghiệp (hoặc công ty) trong trường học để gắn chặt hơn nữa giữa công
tác đào tạo – nghiên cứu khoa học – triển khai ứng dụng và để có thêm nguồn kinh phí cho hoạt động.


III. CÁC MỤC TIÊU ĐỘT PHÁ TRONG CHIẾN LƯỢC TRUNG HẠN 2001-2005
Nhằm tạo sự chuyển biến rõ nét ở một số lĩnh vực, một số bộ phận làm nền tảng cho sự phát triển
mạnh, toàn bộ, tạo diện mạo mới cho ĐHQG-HCM, trong những năm sắp tới, cần tập trung thực hiện
những mục tiêu có tính đột phá lớn, đó là :
1. Xây dựng đội ngũ cán bộ – công chức;
2. Xây dựng cơ sở vật chất;
3. Đổi mới chương trình – nội dung, phương pháp giảng dạy, xuất bản sách chuyên môn, biên soạn
giáo trình, tài liệu tham khảo,…
Trong thời gian tới, ĐHQG – HCM sẽ tổ chức các Hội nghị chuyên đề tương ứng với 3 mục đột phá
nêu trên.

I. MỤC TIÊU – GIẢI PHÁP
1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở phát huy thành tích, kết quả đạt được từ các năm qua, toàn thể cán bộ công chức
và sinh viên của ĐHQG-HCM đồng tâm nhất trí, quyết tâm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, nâng cao
chất lượng ở tất cả các mặt hoạt động, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ - kế hoạch 2001-2002,
tạo thuận lợi phát triển các năm sau.

Phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển ĐHQG-HCM năm học 2001-2002 phải thể hiện
nhất quán, phù hợp với kế hoạch trung hạn 5 năm và định rõ công việc cụ thể của năm đầu kế hoạch
trung hạn.
2. Các mục tiêu, chỉ tiêu, giải pháp cụ thể
2.1. Công tác chính trị, tư tưởng
a) Mục tiêu
Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, xây dựng chương trình
hành động cụ thể ở từng đơn vị để thực hiện Nghị quyết hiệu quả nhất.
Thống nhất cao mục tiêu xây dựng ĐHQG-HCM, vận dụng tốt Quy chế tổ chức và hoạt động
của ĐHQG-HCM do Thủ tướng chính phủ ban hành.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong trường học, tăng cường công tác thông tin hai chiều :
lãnh đạo – cơ sở và ngược lại.
Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, phát triển Đảng, nhất là đối với cán bộ trẻ, sinh viên; phấn
đấu kết nạp mới 50 đảng viên. Giải quyết kịp thời các vấn đề mà cán bộ công chức, sinh viên vướng
mắc.
b) Giải pháp
Nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công chức, tăng cường tính đảng của mọi đảng
viên.
Tạo sự gắn kết, phối hợp nhịp nhàng trong công tác chỉ đạo giữa tổ chức Đảng, chính quyền
và các đoàn thể : Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên, Hội Cựu chiến binh.
2.2. Công tác tổ chức - cán bộ
Tuyển mới 250 biên chế được phân bổ trên cơ sở nhu cầu và khả năng tuyển của các trường
thành viên và các đơn vị trực thuộc, từng bước điều chỉnh sự mất cân đối về cơ cấu, nâng tổng số cán
bộ công chức của ĐHQG-HCM từ gần 1.500 lên gần 1.800. Thi tuyển phải được tổ chức chặt chẽ,
nghiêm túc để tuyển được cán bộ giỏi. Có kế hoạch tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ
đương nhiệm cũng như mới tuyển.


Kiện toàn bộ máy tổ chức từ cấp ĐHQG-HCM đến các trường, viện, khoa. Thực hiện dân chủ
và đúng quy định, quy trình bổ nhiệm các chức danh quản lý.

Bám sát tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư, có kế hoạch chỉ đạo, tạo nhiều
điều kiện thuận lợi để trong năm 2001-2002, tất cả cán bộ đủ tiêu chuẩn được bổ nhiệm, nâng tổng số
giáo sư, phó giáo sư của ĐHQG-HCM lên gấp đôi (tính đến năm 2001 toàn ĐHQG-HCM còn 15 giáo
sư và 49 phó giáo sư), trong đó, cần quan tâm đến các đơn vị (khoa, bộ môn,…) thiếu hoặc chưa có
cán bộ có chức danh giáo sư, phó giáo sư.
Xúc tiến chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để sớm trình Chính phủ phê duyệt cho lập thêm một
số tổ chức, cơ sở mới vào các năm sau.
2.3. Công tác kế hoạch, xây dựng các văn bản pháp quy
a) Mục tiêu
Tập trung hoàn thành việc xây dựng chiến lược trung hạn phát triển ĐHQG-HCM giai đoạn
2001-2005. Trên cơ sở xây dựng chiến lược trung hạn, mở rộng hoàn thành việc xây dựng chiến lược
phát triển ĐHQG-HCM đến năm 2010 và hướng tầm nhìn đến năm 2020.
Xúc tiến ban hành các quy chế về quản lý cán bộ công chức, đào tạo - bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ cho cán bộ công chức, điều động cán bộ công chức trong ĐHQG-HCM; cơ chế phân
cấp quản lý và chế độ ưu đãi để thu hút cán bộ ngoài ĐHQG-HCM.
Hoàn chỉnh và ban hành các quy chế đào tạo theo học chế tín chỉ, tuyển sinh đào tạo qua
mạng, đào tạo tại chức; triển khai các đề án “đào tạo cử nhân, kỹ sư tài năng”, “tổ chức đào tạo –
nghiên cứu khoa học lĩnh vực CNTT”, “tổ chức đào tạo – nghiên cứu khoa học lĩnh vực khoa học môi
trường” ….
Xây dựng và triển khai thực hiện thí điểm cơ chế “khoán thu chi” ở một số đơn vị trong ĐHQGHCM.
b) Giải pháp
Hình thành các nhóm công việc, phân công rõ trách nhiệm, xác định chủ trương và qui định cụ
thể thời gian hoàn thành từng công việc; có chế độ phụ cấp, bồi dưỡng cho các cán bộ, nhân viên làm
công việc này ngoài giờ.
2.4. Công tác đào tạo
Đẩy mạnh các hoạt động đào tạo trên cơ sở quán triệt tư tưởng luôn coi trọng chất lượng, xem
nó là nhiệm vụ số một. Cần tránh cực đoan hạ thấp số lượng đột ngột, dẫn đến nhiều khó khăn trong
thực hiện mục tiêu chất lượng. Tăng qui mô tuyển sinh đại học chính quy từ 3-5%. Tăng qui mô phải
trên cơ sở các điều kiện đảm bảo chất lượng, đảm bảo cơ cấu hợp lý, gắn đào tạo với sử dụng. Có thể
tăng quy mô ở một số ngành, lĩnh vực mũi nhọn hay nhu cầu bức thiết cho phát triển kinh tế – xã hội,

các lĩnh vực khác không tăng thậm chí có thể giảm.
a) Đào tạo đại học
Mở rộng thi tuyển sinh, thi tốt nghiệp, thi kết thúc học phần,…..bằng phương pháp trắc nghiệm
hoặc kết hợp giữa tự luận và trắc nghiệm; khuyến cáo thí sinh đăng ký dự thi vào ĐHQG-HCM cần có
kết quả học tập lớp 12 phổ thông trung học từ khá giỏi trở lên.
Có kế hoạch đưa dần cán bộ, sinh viên lên làm việc, học tập tại khu quy hoạch mới Thủ Đức Dĩ An. Theo đó, phải đảm bảo thật tốt điều kiện cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy – học tập và ký túc xá
cho sinh viên ở khu mới này; tăng cường đầu tư để ký túc xá dần dần trở thành nơi tiếp tục tự đào tạo
của sinh viên.
Từng bước triển khai thực hiện các quy chế về đào tạo như quy chế học chế tín chỉ, đào tạo
tại chức, đào tạo từ xa qua mạng,…
Bước đầu triển khai giảng dạy chuyên môn bằng ngoại ngữ (tiếng Anh, tiếng Pháp,….) ở một
số môn thuộc các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội – nhân văn, kỹ thuật - công nghệ, và
môi trường.


Nghiên cứu, đề xuất vấn đề liên thông giữa các hệ, bậc đào tạo trong ĐHQG - HCM như giữa
các ngành, phổ thông năng khiếu - đại học, cao đẳng - đại học, tại chức - chính quy; liên thông trong
tuyển sinh,…
b) Đào tạo sau đại học
Về tuyển sinh năm 2002, tìm các biện pháp, hình thức nhằm mở rộng quy mô tuyển sinh, dự
kiến tuyển mới 900 học viên cao học (tăng 13,9% so với năm 2001) và 60 nghiên cứu sinh (tăng
53,8% so với năm 2001).
Tiến hành hoàn tất hồ sơ đăng ký mở ngành đào tạo mới, ít nhất là 6 chuyên ngành cao học
và 3 chuyên ngành nghiên cứu sinh.
Xây dựng quy định chung về vấn đề thu và chi trong đào tạo sau đại học.
Về chất lượng đào tạo, tổ chức các đợt kiểm tra thực tế tại các cơ sở, bước đầu vận dụng 10
tiêu chí kiểm định chất lượng để đánh giá chất lượng đào tạo sau đại học của các trường, viện, khoa
thành viên thuộc ĐHQG-HCM.
2.5. Nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng, hợp tác quốc tế và trong nước
Tăng gấp đôi chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp Nhà nước và đề tài độc lập

cấp Nhà nước. Có chế độ khuyến khích, khen thưởng thoả đáng với những công trình hoàn thành xuất
sắc, ứng dụng có hiệu quả rõ rệt.
Tăng nhanh số lượng và chất lượng hợp tác quốc tế, chú trọng các quan hệ thực chất, có hiệu
quả, qua đó nâng cao chất lượng công việc và tăng các nguồn lực cho ĐHQG-HCM, các Trường, Viện
thành viên và các đơn vị trực thuộc.
Mở rộng các mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức trong nước, các tỉnh thành địa phương,
đặc biệt là TP. HCM, tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long, các tỉnh Miền
Đông Nam Bộ; Năm 2002, phối hợp với thực hiện các chương trình trọng điểm của Thành phố như :
đào tạo 20 nghìn chuyên gia công nghệ thông tin (trong 5 năm); đào tạo 300 Thạc sĩ, Tiến sĩ (TP. HCM
dành cho ĐHQG – HCM từ 30 - 50 chỉ tiêu này); xây dựng khu công nghệ cao, các trung tâm nghiên
cứu hiện đại (kỹ thuật tự động hóa, công nghệ sinh học, vật liệu mới), nghiên cứu chế tạo các thiết bị
cao cấp như máy lọc thận nhân tạo,…
2.6. Xây dựng cơ bản
a) Mục tiêu
Trên cơ sở tiếp tục củng cố các cơ sở đào tạo - nghiên cứu khoa học hiện có, thực hiện một số
bước đột phá rõ rệt để xây dựng nhanh khu trung tâm của ĐHQG-HCM ở khu mới Thủ Đức - Dĩ An,
gồm thư viện điện tử, nhà điều hành, khu công nghệ phần mềm, một số nhà học của các trường, ký
túc xá, một số trục đường, công trình điện, cấp thoát nước… nhằm hình thành diện mạo ban đầu của
ĐHQG-HCM.
b) Giải pháp
Chủ động xây dựng đề án, thiết kế kỹ thuật các hạng mục; bám sát các bộ, ban ngành trung
ương, địa phương để tranh thủ sự hợp lực, giúp đỡ, hỗ trợ.
Xây dựng các hạng mục công trình có tham khảo các cơ sở đào tạo lớn trong khu vực châu Á,
Đông - nam Á và mời chuyên gia giỏi thiết kế để tránh lạc hậu. Sử dụng có hiệu quả và bảo quản tốt
các hạng mục hoàn thành.
II. CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
Thực hiện nguyên tắc điều hành công việc căn cứ trên kế hoạch thống nhất; kiểm tra công việc
theo nhiệm vụ, chức năng được giao, công tác chỉ đạo, điều hành phải thường xuyên và sâu sát :
Hàng tháng, Ban Giám đốc ĐHQG họp kiểm điểm công việc và thống nhất chủ trương, kế
hoạch tháng sau. Nội dung các cuộc họp được thông báo đến các đơn vị. Hai tháng một lần, ĐHQG tổ

chức họp giao ban với các hiệu trưởng, viện trưởng, trưởng đơn vị để thông báo tình hình, kiểm điểm
công việc và thống nhất công việc cho 2 tháng tiếp sau. Mỗi năm, Hội đồng ĐHQG họp 3 lần và Hội
đồng Khoa học - Đào tạo họp từ 1-2 lần.


Sau mỗi năm học, tiến hành tổng kết, đánh giá thành tích và tồn tại, xây dựng kế hoạch hoạt
động năm sau.
Phát huy vai trò của các tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể trong công tác điều hành,
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ.



×