Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

TRẦM CẢM Ở BÀ MẸ CÓ CON SINH NON ĐANG NẰM VIỆN TẠI KHOA SƠ SINH – BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG I

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.86 KB, 11 trang )

TRẦM CẢM Ở BÀ MẸ CÓ CON SINH NON ĐANG NẰM VIỆN
TẠI KHOA SƠ SINH – BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG I
Phạm Ngọc Thanh, Isabelle Santarelli, Phạm Thị Yến Trinh, Dương Tố Trân, Đơn vị
Tâm lý & Khoa Sơ sinh, Bệnh viện Nhi Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: CN Phạm Thị Yến Trinh, ĐT: 0903312064, Email:

TÓM TẮT
Các bà mẹ có con nhập viện tại khoa Sơ sinh – bệnh viện Nhi Đồng I được giả thiết là bị
đau khổ nặng.
Mục tiêu: Xác định mức độ và tỷ lệ trầm cảm dựa trên thang lượng giá EPDS và các yếu
tố có thể liên quan đến trầm cảm của bà mẹ.
Phƣơng pháp: Nghiên cứu tiền cứu mô tả hàng loạt, nghiên cứu định lượng kết hợp với
định tính, các bà mẹ có con sinh non đang điều trị tại khoa Sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng I
được chọn vào nhóm nghiên cứu từ tháng 12/2010 đến tháng 5/2011, đồng ý tham gia hợp
tác.
Kết quả: Điểm EPDS trung bình trong khảo sát 15,83 ± 5,785 (5 – 28). 29,2% bà mẹ có
EPDS <13 điểm. 70,8% bà mẹ có EPDS ≥ 13 điểm. 27,1% bà mẹ có tư tưởng tự tử.
Kết luận: Với số điểm EPDS cao trong khảo sát này, chúng tôi mong muốn các bà mẹ có
con nằm ở phòng cấp cứu khoa Sơ sinh được tầm soát về trầm cảm sau sinh thường quy
hơn. Đồng thời có sự chăm sóc thích hợp nhất cho các bà mẹ này về y tế và tâm lý.
Từ khóa: trầm cảm sau sinh, bà mẹ, trẻ sinh non, EPDS
DEPRESSION IN MOTHERS OF PREMATURE NEONATES HOSPITALIZED
IN NEONATALOGY- DEPARTMENT OF CHILDREN’S HOSPITAL 1
ABSTRACT
Mothers of neonates admitted in the Department of Neonatology - Children's Hospital are
believed to have severe distress.
Objectives: To determine the level and percentage of depression based on the Edinburg
Postpartum Depression Scale (EPDS) and other factors related to maternal depression.
1



Methodology: This was a prospective and serial descriptive study with a combination of
quantitative and qualitative research. The mothers of premature neonates treated in the
Department of Neonatology of Children's Hospital I were selected in the study from
12/2010 to 5/2011, with their consent .
Results: The average EPDS score was 15.83 ± 5.785 (5 – 28). 29.2% of mothers with
EPDS <13 points. 70.8% of mothers with EPDS ≥ 13 points. 27.1% of mothers had
suicidal thoughts.
Conclusion: With a high EPDS score of the mothers in this survey, we wish all the
mothers of premature neonates hospitalized in the emergency room of the Neonatology
department should be screened for postpartum

depression . Simultaneously these

depressed mothers need medical and psychological care.
Keywords: postpartum, mothers, premature neonates, EPDS
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chức năng làm mẹ mới bao gồm nhiều thay đổi đột xuất và được nhìn nhận như
một biến cố gây stress trong đời(10,11). Các nghiên cứu gần đây cho thấy 10 – 15% phụ nữ
có trầm cảm sau sinh, và 10% có rối loạn lo âu sau sinh(12,4). Mặc dù các yếu tố nguy cơ
tiên báo trầm cảm sau sinh đã được nghiên cứu chi tiết ở các bà mẹ có con sinh đủ tháng
và lành mạnh, hiện nay vẫn còn nghiên cứu hạn chế về các vấn đề tâm lý của người mẹ có
con sinh non sau khi trẻ được nhập viện.
Việc bà mẹ trầm cảm sau sinh kết hợp với việc trẻ sinh non nằm viện ảnh hưởng ít
nhiều đến mối quan hệ sớm mẹ - con. Những ảnh hưởng trong thời kỳ này đã được nhiều
nhà tâm lý và phân tâm nhấn mạnh rằng phần lớn các chứng tâm bệnh bắt nguồn từ các
rối nhiễu trong mối quan hệ sớm mẹ - con. Do vậy muốn tiếp cận dự phòng và trị liệu
trong lĩnh vực tâm bệnh ở trẻ nhỏ đòi hỏi hiểu biết và kinh nghiệm về khủng hoảng tâm lý
của thời kỳ sinh con với những gian truân của nó(1).
Ở các nước phương Tây, tâm lý sản phụ trên góc độ trầm cảm sau sinh đã được
nghiên cứu từ lâu. Marcé (Chuyên luận-1858) là người đầu tiên nêu lên các hiện tượng

trầm cảm sau sinh. Từ đó, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tới thích nghi của sản phụ suốt
thời kỳ mang thai, tới lúc sinh và sau khi sinh(1).

2


Ở Việt Nam, ngành y tế đã có nhiều đóng góp trong việc bảo vệ nâng cao sức khỏe
thể chất của sản phụ và sơ sinh, song về mặt tâm lý còn ít được quan tâm. Chỉ vài năm
nay, lĩnh vực này mới được tìm hiểu, khai tâm cho các nhà sản phụ khoa, nhi khoa và tâm
lý để cùng tiếp cận, chẩn đoán, phòng và trị liệu cho sản phụ và sơ sinh(1). Những nghiên
cứu trong khoảng thời gian gần đây phát hiện ra rằng trong giai đoạn hậu sản, một giai
đoạn dễ nhạy cảm với những thay đổi trong cuộc sống của bà mẹ và đứa trẻ mới sinh, thì
rối loạn tâm lý thường gặp nhất là trầm cảm(3,6). Trầm cảm sau sinh có thể gây ra những
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của bà mẹ và với đứa trẻ vừa mới sinh. Một trong
những hậu quả trầm trọng của trầm cảm sau sinh là bà mẹ có thể xuất hiện những ý nghĩ,
hành vi tự sát, tự hủy hoại bản thân và có thể giết chết đứa trẻ vừa mới sinh(3,6).
Vì thế chúng tôi nghĩ việc thực hiện nghiên cứu về đề tài này sẽ thú vị và sáng tạo.
Hơn nữa, nghiên cứu này sẽ giúp chúng tôi thực hiện việc phân tích yêu cầu trợ giúp và
hỗ trợ y tế / tâm lý cho các bà mẹ này để có thể đề nghị sự chăm sóc thích hợp nhất cho
họ.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Khảo sát mức độ trầm cảm ở bà mẹ có con sinh non đang nằm điều trị tại khoa Sơ sinh –
Bệnh viện Nhi Đồng I
Mục tiêu chuyên biệt:
-

Mô tả đặc điểm dịch tễ học, và các dấu hiệu lâm sàng của bệnh lý trầm cảm.

-


Mô tả các yếu tố liên quan đến trầm cảm của bà mẹ.

-

Xác định mức độ trầm cảm dựa trên thang lượng giá EPDS

-

Xác định tỷ lệ trầm cảm ở bà mẹ có con sinh non nằm viện.

ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tƣợng nghiên cứu:
Dân số chọn mẫu:
-

Các bà mẹ có con sinh non đang điều trị tại khoa Sơ Sinh từ tháng 12/2010 đến tháng

5/2011, đồng ý tham gia hợp tác.
Địa điểm nghiên cứu:
-

Khoa Sơ Sinh (lầu 2) bệnh viện Nhi Đồng I
3


Phương tiện thu thập dữ liệu và thời gian:
-

Các bà mẹ được liên lạc trong khoa Sơ Sinh của Bệnh viện Nhi Đồng 1, trong khoảng

thời gian 6 tháng (từ tháng 12/2010 đến tháng 5/2011)
2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu:

-

Nghiên cứu tiền cứu mô tả hàng loạt, nghiên cứu định lượng kết hợp với định tính, các
bà mẹ có con sinh non đang điều trị tại khoa Sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng I được chọn
vào nhóm nghiên cứu.
Mẫu nghiên cứu:

-

Tính chất và phạm vi: dự kiến 100 phụ nữ là bà mẹ của trẻ sinh non đang nằm viện.

-

Trong thời gian 6 tháng, tuy số trẻ nhập viện đông nhưng để thỏa điều kiện chọn mẩu
là các bà mẹ đang nuôi con trong vòng 48 giờ sau khi nhập viện thì số mẫu không thể
đủ. Do trong thời gian này các bà mẹ sinh con còn non ngày tháng nên không được gia
đình đồng ý cho đến bệnh viện nuôi con. Chính vì thế số mẫu nghiên cứu chỉ đạt được
n = 48
Các bước tiến hành:

-

Chọn tất cả các phụ nữ là các bà mẹ có con sinh non đang điều trị tại khoa Sơ Sinh
(lầu 2) bệnh viện Nhi Đồng I, nhập khoa sơ sinh trong vòng 48 giờ.

-


Giải thích và làm phiếu thông tin thu thập từ hồ sơ bệnh án.

-

Tiếp xúc trực tiếp để thông báo và giải thích cho các bà mẹ hiểu về mục tiêu nghiên
cứu và giấy đề nghị hợp tác.

-

Thực hiện thang lượng giá trầm cảm: Edinburg Postpartum Depression Scale (EPDS)

-

Thực hiện phỏng vấn .
Cách thu thập số liệu:

-

Sau khi bà mẹ được giải thích và đồng ý tham gia nghiên cứu, thành viên của nhóm
nghiên cứu tại khoa Sơ sinh thu thập thông tin từ hồ sơ bệnh án của trẻ.

-

Phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt.

-

Cuộc phỏng vấn được tiến hành tại một phòng của khoa Sơ Sinh hoặc đơn vị Tâm lý,
thời gian cho một cuộc phỏng vấn 20 – 30 phút/ bà mẹ. (không ghi âm theo ý kiến của

các bà mẹ )
4


-

Mỗi bà mẹ được cấp một bộ công cụ đánh giá gồm: bảng câu hỏi và thang lượng giá
trầm cảm: Edinburg Postpartum Depression Scale (EPDS).

-

Các bà mẹ được hướng dẫn trả lời câu hỏi theo thời gian của họ và phản ảnh ý kiến
cũng như cảm xúc của riêng họ mà không tham khảo ý kiến của người khác.

-

Những bà mẹ khó hiểu quy trình và bảng câu hỏi sẽ được thành viên nhóm nghiên cứu
hỗ trợ.
Công cụ thu thập số liệu:

-

Edinburg Postpartum Depression Scale (EPDS): Đây là thang điểm dùng để đánh
giá các triệu chứng trầm cảm của bà mẹ trong thời gian sau sinh. Thang điểm gồm 10
câu hỏi, mỗi câu hỏi có 4 lựa chọn với điểm số từ 0 đến 3, bà mẹ đánh dấu vào một
câu mà mình lựa chọn. Tổng số điểm sẽ được ghi nhận (từ 0 đến 30 điểm). Những bà
mẹ nào có số điểm ≥ 13 được chẩn đoán là trầm cảm sau sinh(12). Thang EPDS tập
trung vào các triệu chứng trầm cảm đặc hiệu của thời gian sau sinh. Độ nhạy và độ
chuyên biệt tốt đã được báo cáo tại Anh quốc(2,5)


-

Bảng câu hỏi: đã được soạn sẳn bao gồm về đặc tính dân số học của các bà mẹ, những
nghịch cảnh trước sinh, chất lượng sống, chất lượng và số lượng mạng lưới nâng đỡ xã
hội (nguồn lực, cấu trúc gia đình).
Xây dựng bảng câu hỏi phỏng vấn để giúp thực hiện phân tích định tính trầm cảm và
yêu cầu trợ giúp và hỗ trợ y tế / tâm lý.

-

Nội dung phỏng vấn (phụ lục 1, 2, 3)
3. Khái niệm và thuật ngữ

-

Trầm cảm (F32) : Theo bảng phân loại DSM-IV và ICD-10: trong các giai đoạn trầm
cảm điển hình nhẹ, trung bình, hoặc nặng bệnh nhân bị giảm khí sắc, giảm năng lượng
và giảm hoạt động. Khả năng thích thú, quan tâm và tập trung đều giảm sút và thường
mệt mỏi rõ rệt dù chỉ là một cố gắng rất nhỏ sau khi cố gắng dù là rất ít. Thường có rối
loạn giấc ngủ và ăn kém ngon miệng, sút cân và khả năng tình dục kém.Tính tự trọng
và sự tự tin hầu như luôn luôn giảm sút.

-

Phỏng vấn: Là một phương pháp thu thập thông tin bằng cách trưng cầu ý kiến thông
qua trò chuyện. Trong phỏng vấn lâm sàng, không chỉ quan tâm đến chất lượng nội

5



dung các câu trả lời (các cử điệu, ý kiến, thái độ, liên tưởng tư duy….) mà cả những
hành vi cụ thể của các bà mẹ (giọng nói, điệu bộ, nhầm lẫn)(14)
4. Phân tích số liệu:
-

Phân tích kết quả dựa trên phần mềm SPSS 16.0

-

Chúng tôi sử dụng số liệu thống kê dựa trên các triệu chứng trầm cảm khác nhau được
quan sát. Sau đó chúng tôi so sánh kết quả thu được của các đối tượng được phỏng
vấn. Phân tích định tính sẽ giúp phân tích chi tiết hơn về các triệu chứng trầm cảm
khác nhau này và các yêu cầu trợ giúp và hỗ trợ tâm lý.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Kết quả xử lý với phần mềm SPSS 16.0
1. Đặc điểm dịch tễ học
-

Tuổi trung bình của bà mẹ trong khảo sát: 25,67 ± 5,575 (18 – 41).

-

72,9% bà mẹ ở lứa tuổi 20 – 30.

-

81,2% bà mẹ ở tỉnh. 77,1% có trình độ học vấn ≤ cấp 2.

-


45,8% bà mẹ có thai ngoài ý muốn. 75% bà mẹ sinh con đầu lòng.

-

Tuổi thai trung bình 30,21± 2,721 (25 – 36).

-

Cân nặng lúc sinh trung bình 1525,62 ± 342,705 (1000 – 2400)

Đặc điểm
Tuổi của mẹ
Nơi ở
Số con
Trình độ
văn hóa của mẹ
Lần này
có thai
Nghề nghiệp

Dịch tể
< 20
20 - 30
> 30
Tỉnh
Thành phố
Con so
Con rạ
≤ cấp 2

≥ cấp 3
Có chuẩn bị
Ngoài ý muốn
Trí thức
Công nhân
Nông dân
Tự do
Nội trợ

N = 48 (%)
6 (12,5)
35 (72,9)
7 (14,6)
39 (81,2)
9 (18,8)
36 (75)
12 (25)
37 (77,1)
11 (22,9)
26 (54,2)
22 (45,8)
4 (8,3)
13 (27,1)
6 (12,5)
8 (35,4)
17 (35,4)
6


Bảng 1: Đặc điểm dân số học

2. Mô tả các dấu hiệu lâm sàng của bệnh lý trầm cảm.
-

Trong lúc tiếp xúc có 87,5% các bà mẹ đã khóc thật nhiều, họ luôn cảm thấy buồn và
không quan tâm đến những sự việc xung quanh, không còn cảm thấy thích thú đối với
những hoạt động mà trước kia ưa thích như xem phim, nghe nhạc…

-

Họ không muốn ăn, luôn cảm thấy mệt mỏi và cảm thấy bản thân vô giá trị hoặc có
mặc cảm tội lỗi. Họ cảm thấy bi quan về tương lai và có suy nghĩ đến cái chết.

-

100% bà mẹ có rối loạn giấc ngủ, luôn cảm thấy bồn chồn, lo âu, dễ tức giận.

-

Có 64.6% thiếu tự tin vào khả năng làm mẹ, không muốn chăm sóc con hay sợ mình
sẽ làm hại đứa bé. 70.8% bà mẹ có thay đổi tính khí.

Đặc điểm
Khóc

N = 48 (%)

42 (87,5)
không
6 (12,5)
Thiếu tự tin vào


31 (64,6)
17 (35,4)
khả năng làm mẹ
không
Thay đổi tính khí

34 (70,8)
14 (29,2)
không
Bảng 2. Các dấu hiệu lâm sàng của bệnh lý trầm cảm
-

Thái độ của bà mẹ:
35,4% có thể nói dễ dàng các vấn đề của mình. 41,7% khóc nhiều nhưng tỏ ra khép
kín hơn. 22,9% bà mẹ đau khổ đến mức thể hiện hung bạo qua lời nói.
3. Các yếu tố có thể liên quan đến trầm cảm của bà mẹ

-

Có 62,5% bà mẹ gặp khó khăn, đau khổ với gia đình trong thời gian mang thai và sau
khi sinh. Trong đó có 6,2% bị gia đình chồng bắt buộc li dị với lý do không có khả
năng sinh con tốt, sinh con trai.

-

6,2% bà mẹ có con sinh đôi chết. Trong nghiên cứu của BS Lâm Xuân Điền ghi nhận
tử vong sơ sinh liên quan có ý nghĩa đến trầm cảm sau sinh(6).

-


50% có mối quan hệ xấu với chồng. Điều này cũng phù hợp với nhận xét của tác giả
Glasser (Israel) và Johanson R (Anh) cho rằng sự không hòa hợp trong hôn nhân ở
sản phụ là một trong những yếu tố dự báo tốt nhất hay có liên quan chặt chẽ với sự
xuất hiện trầm cảm sau sinh(6).
7


-

87,5% bà mẹ quá lo lắng cho sức khỏe của con. Điều này cũng phù hợp với nhận xét
của tác giả Glasser (Israel) cho rằng các vấn đề sức khỏe kéo dài ở đứa con cũng là
một trong những yếu tố dự báo tốt nhất về sự xuất hiện của trầm cảm sau sinh hay
theo tác giả ManlKD (USA) thì mẹ dễ bị trầm cảm sau sinh nếu trẻ sơ sinh có >1 vấn
đề phải khám đa khoa hay phải nhập phòng cấp cứu dù chỉ 1 lần.(6)

-

45,8% bà mẹ không mong muốn có con, điều này cũng phù hợp với nhận định của tác
giả Neter E (USA) cho rằng những sản phụ cảm thấy hài lòng với lần sanh này thì sẽ ít
bị trầm cảm hơn hoặc với tác giả Như Ngọc (VN) cho rằng không mong đợi có liên
quan có ý nghĩa thống kê với trầm cảm sau sinh (6)

-

Có 70,8% bà mẹ thiếu sự nâng đỡ tâm lý. 75% bà mẹ có nhu cầu được trò chuyện tâm
sự trong đó 41.7% tâm sự riêng tư (nâng đỡ tâm lý cá nhân). 27,1% bà mẹ mong được
chia sẻ với những bà mẹ khác (nâng đỡ tâm lý nhóm). 6,2% bà mẹ mong được nâng
đỡ tâm lý cá nhân và nhóm.
4. Mức độ trầm cảm dựa trên thang lƣợng giá EPDS


-

Điểm EPDS trung bình trong khảo sát 15,83 ± 5,785 (5 – 28).

-

29,2% bà mẹ có EPDS <13 điểm. 70,8% bà mẹ có EPDS ≥ 13 điểm.

-

27,1% bà mẹ có tư tưởng tự tử.
5. Tỷ lệ trầm cảm ở bà mẹ có con sinh non nằm viện.
Chúng tôi thực hiện khảo sát trên 48 bà mẹ có con sinh non đang nằm điều trị tại

khoa sơ sinh bệnh viện Nhi Đồng I qua bảng EPDS, số bà mẹ có EPDS ≥ 13 điểm chiếm
70,8% (34 bà mẹ). Trong nghiên cứu của Lương Bạch Lan (2009)(7) trầm cảm sau sinh
của bà mẹ là 11,6%, nhóm sản phụ có con gửi dưỡng nhi của Nguyễn Mai Hạnh (2005)(8)
là 29,6%, kết quả của Lâm Xuân Điền (2002)(6) là 10,8%. Điều này có thể do cách tiến
hành nghiên cứu chọn mẩu của chúng tôi, đây là các bà mẹ có con bệnh nặng nằm phòng
cấp cứu của khoa sơ sinh. Các bà mẹ này có địa chỉ cư trú ở tỉnh là 81,2%, có nghĩa là trẻ
đã được sinh ra ở địa phương và trẻ bị cách ly mẹ-con trước khi trẻ được nhập viện tại
khoa Sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng 1. Cũng có thể do căng thẳng của môi trường khoa Sơ
sinh, sự cách ly thể chất và sự cảm xúc của bà mẹ đối với trẻ. Sinh ra một trẻ thiếu tháng
là một cú sốc. Tất cả công việc mang thai cũng như chuẩn bị cho chuyển dạ và sự ra đời
của đứa trẻ bị cắt đứt. Đối với bà mẹ, đẻ non là một trải nghiệm đau đớn và mặc cảm tội
8


lỗi có thể dẫn bà mẹ tới trầm cảm và tự đánh giá thấp mình(13). Sự ra đời và nằm viện của

một trẻ sinh non là sự đau khổ tâm lý rất lớn cho bà mẹ. Bà mẹ đau buồn và tự buộc tội
mình. Đặc biệt sự thiếu nâng đỡ xã hội, xung đột vợ chồng, gia đình và các biến cố gây
căng thẳng trong cuộc sống làm tăng có ý nghĩa sự trầm cảm sau sinh(4)
Trong khảo sát của chúng tôi 13 bà mẹ có tư tưởng tự tử chiếm 27,1 % ít hơn tỷ lệ
41,2% của Lâm Xuân Điền(6) nhưng là một thực trạng đáng được quan tâm hỗ trợ kịp
thời, nếu không được phát hiện và điều trị, trầm cảm ở bà mẹ sau sinh có thể làm tăng
nguy cơ bệnh tâm thần và ảnh hưởng đến sự phát triển tâm thần và nhân cách của trẻ
trong tương lai.
KẾT LUẬN
Theo Tổ chức Y Tế Thế Giới ước tính đến năm 2020, rối loạn ức chế tâm thần sẽ là
nguyên nhân đứng thứ hai trong gánh nặng về sức khỏe toàn cầu(9). Vì thế, chúng tôi nghĩ
rằng điều quan trọng là nhân viên y tế phát hiện các bà mẹ trầm cảm để giúp cho sự tương
tác mẹ - con tốt hơn. Với số điểm EPDS cao trong khảo sát này, chúng tôi mong muốn
các bà mẹ có con nằm ở phòng cấp cứu khoa sơ sinh được tầm soát về trầm cảm sau sinh
thường quy hơn. Đồng thời có sự chăm sóc thích hợp nhất cho các bà mẹ này về y tế và
tâm lý trong thời gian có con đang nằm điều trị trong bệnh viện, cũng như hướng dẫn tái
khám, theo dõi sau khi ra viện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Phương Kiệt.( 2000). ―Những vấn đề tâm lý và văn hóa hiện đại.‖. Tâm lý sản
phụ sơ sinh và quan hệ sớm mẹ-con. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội: 236 238.
2. J. L. Cox, J. M. Holden, and R. Sagovsky (1987), ―Detection of postnatal depression:
development of the 10-item Edinburgh Postnatal Depression Scale,‖ British Journal of
Psychiatry, vol. 150, pp. 782–786.
3. Jason J et al. (1983), ―Homicide as a cause of pediatric mortality in the United‖,
Pediatric,72.

9


4. K. L. Wisner, B. L. Parry, and C. M. Piontek (2002), ―Postpartum depression,‖ The

New England Journal of Medicine, vol. 347, no. 3, pp. 194–199.
5. L. Appleby, R. Warner, A. Whitton, and B. Faragher (1997), ―A controlled study of
fluoxetine and cognitive-behavioural counselling in the treatment of postnatal
depression,‖ British Medical Journal, vol. 314, no. 7085, pp. 932–936.
6. Lâm Xuân Điền, Lê Quốc Nam. (2002), ―Khảo sát tỉ lệ rối loạn trầm cảm sau sanh ở
các sản phụ đến sanh tại bệnh viện Từ Dũ‖. Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa
học năm 2002 Bệnh viện Tâm Thần TPHCM.
7. Lương Bạch Lan, Nguyễn Huỳnh Khánh Trang,

Y học TP.HCM, Vol 13 –

Supplement of No 1-2009:104-108 ―Tỷ lệ và yếu tố liên quan trầm cảm sau sanh ở bà
mẹ có trẻ gửi dưỡng nhi tại Bệnh viện Hùng Vương‖
8. Nguyễn Mai Hạnh. (2005), ―Yếu tố nguy cơ của Trầm cảm sau sinh‖. Luận án tốt
nghiệp chuyên khoa II Trường Đại Học Y Dược Tp.HCM.
9. World Health Organization. (2001), ―World Health Report. Mental Health: New
Understanding, New Hope.‖ Geneva: World Health Organization.
10. P. L. Hall and A. Wittkowski (2006), ―An exploration of negative thoughts as a
normal phenomenon after childbirth,‖ Journal of Midwifery and Women's Health, vol.
51, no. 5, pp. 321–330.
11. U. Halbreich and S. Karkun (2006), ―Cross-cultural and social diversity of prevalence
of postpartum depression and depressive symptoms,‖ Journal of Affective Disorders,
vol. 91, no. 2-3, pp. 97–111.
12. U. Halbreich (2005), ―The association between pregnancy processes, preterm delivery,
low birth weight, and postpartum depressions—the need for interdisciplinary
integration,‖ American Journal of Obstetrics and Gynecology, vol. 193, no. 4, pp.
1312–1322.

10



13. Vũ Thị Chín.(1997) ―Bước đầu tìm hiều tâm lý sản phụ và quan hệ sớm mẹ con ở Việt
Nam ‖ ; 1997:4.12:221-341.
14. Vũ Dũng.(2008) ―Từ điển Tâm lý học‖ Viện khoa học xã hội Việt Nam- Viện tâm lý
học 619-620

11



×