Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

hoàn thiện công tác thu bảo hiểm xã hội của bảo hiểm xã hội huyện bình giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 131 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
---------------***-------------

NGUYỄN THỊ YẾN

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THU BẢO HIỂM XÃ HỘI
CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI HUYỆN BÌNH GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI – 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
---------------***-------------

NGUYỄN THỊ YẾN

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THU BẢO HIỂM XÃ HỘI
CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI HUYỆN BÌNH GIANG

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60.34.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


PGS. TS. TRẦN HỮU CƯỜNG

HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa
từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Yến

i


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo học viện Nông nghiệp
Việt Nam, Viện Đào tạo sau đại học và các thầy cô trong Khoa Kế toán & Quản trị
kinh doanh, bộ môn Quản trị Marketing đã trang bị cho tôi những kiến thức cơ bản
và có định hướng đúng đắn trong quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo Trần Hữu Cường đã
dành nhiều thời gian trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể các bác, các cô chú, anh chị
trong cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện Bình Giang đã giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình thực tập
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và thực tập tốt nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2015

Học viên

Nguyễn Thị Yến

ii


MỤC LỤC

Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục chữ viết tắt


vi

Danh mục bảng

vii

Danh mục sơ đồ

viii

Danh mục biểu đồ

viii

I

MỞ ĐẦU

1

1.1

Tính cấp thiết của đề tài

1

1.2

Mục tiêu nghiên cứu


3

1.2.2

Mục tiêu cụ thể

3

1.3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3

1.3.1

Đối tượng nghiên cứu

3

1.3.2

Phạm vi nghiên cứu

3

II

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


4

2.1

Cơ sở lý luận

4

2.1.1

Khái niệm, vai trò, yêu cầu về BHXH và thu BHXH

4

2.1.2

Nội dung nghiên cứu công tác thu BHXH

15

2.1.3

Các yếu tố ảnh hưởng tới công tác thu BHXH

26

2.2

Cơ sở thực tiễn về công tác thu BHXH


29

2.2.1

Kinh nghiệm về công tác thu BHXH

29

2.2.2

Một số bài học kinh nghiệm rút ra về công tác thu BHXH

33

III

ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

35

3.1

Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

35

3.1.1

Điều kiện tự nhiên của huyện Bình Giang


35

3.1.2

Điều kiện Kinh tế - Xã hội của huyện Bình Giang

36

iii


3.1.3

Khái quát chung về cơ quan BHXH huyện Bình Giang

39

3.2

Phương pháp nghiên cứu

50

3.2.1

Phương pháp thu thập tài liệu

50

3.2.2


Phương pháp xử lý, phân tích thông tin

51

3.2.3

Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu

52

IV

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

53

4.1

Thực trạng công tác thu BHXH trên địa bàn huyện Bình Giang

53

4.1.1

Tình hình tham gia bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện Bình Giang

53

4.1.2


Tình hình thực hiện mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH

59

4.1.3

Tình hình thực hiện công tác thu BHXH của cơ quan BHXH huyện
Bình Giang

64

4.1.4

Tình hình nợ đọng thu BHXH trên địa bàn huyện Bình Giang

68

4.1.5

Kết quả khảo sát tình hình thực hiện công tác thu BHXH bắt buộc

72

4.2

Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thu BHXH bắt buộc trên địa bàn
huyện Bình Giang

82


4.2.1

Chính sách tiền lương, chính sách lao động

82

4.2.2

Tốc độ tăng trưởng kinh tế

83

4.2.3

Nhận thức, ý thức, tâm lý, thói quen của người lao động và người sử
dụng lao động, Công tác tuyên truyền phối hợp giữa các ngành

84

4.2.4

Các nhân tố khác

85

4.3

Đánh giá chung công tác thu BHXH giai đoạn vừa qua


87

4.3.1

Những mặt đạt được

87

4.3.2

Những mặt còn hạn chế

88

4.3.3

Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (SWOT)

91

4.4

Một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH bắt
buộc trên địa bàn huyện Bình Giang

91

4.4.1

Mục tiêu trong thời gian tới


92

4.4.2

Giải pháp

95

V

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

107

5.1

Kết luận

107

iv


5.2

Kiến nghị

109


5.2.1

Đối với các cơ quan quản lý nhà nước

109

5.2.2

Đối với BHXH Hải Dương

110

5.2.3

Đối với BHXH huyện Bình Giang

112

TÀI LIỆU THAM KHẢO

114

PHỤ LỤC

115

v


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

STT

Nguyên nghĩa

1

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

2

BHXH

Bảo hiểm xã hội

3

BHYT

Bảo hiểm y tế

4

DN

Doanh nghiệp


5

DNNQD

Doanh nghiệp ngoài quốc doanh

6

ĐTNN

Đầu tư nước ngoài

7

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

8

HCSN

Hành chính, sự nghiệp

9

HĐLĐ

Hợp đồng lao động


10

KH

Kế hoạch

11

KHTC

Kế hoạch tài chính

12

PL

Pháp luật

13

TNLĐ-BNN

Tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp

14

UBND

Uỷ ban nhân dân


15

HTX

Hợp tác xã

16

CBCCVC

Cán bộ công chức viên chức

vi


DANH MỤC BẢNG
STT

Tên bảng

Trang

3.1

Tình hình dân số và lao động huyện Bình Giang giai đoạn 2012 - 2014

3.2

Số lượng CBCCVC làm công tác BHXH huyện Bình Giang từ năm
2012 – 2014


3.3

38
45

Số lượng CBCCVC công tác tại BHXH huyện Bình Giang từ năm
2012-2014

47

3.4

Trình độ CBCCVC của BHXH huyện Bình Giang từ năm 2012– 2014

49

3.5

Số lượng mẫu điều tra

51

4.1

Bảng tổng hợp các đơn vị tham gia BHXH ở huyện Bình Giang giai
đoạn 2012 – 2014

4.2


55

Bảng tổng hợp tình hình lao động tham gia BHXH ở huyện giai đoạn
2012 – 2014

57

4.3

Kết quả kiểm tra việc chấp hành pháp luật BHXH ở một số doanh nghiệp

58

4.4

Tổng hợp mức tiền lương đóng BHXH từ năm 2012 - 2014

60

4.5

Kết quả thu BHXH so với kế hoạch, từ năm 2012-2014

64

4.6

Tình hình nợ đọng BHXH từ năm 2012 - 2014

68


4.7

Tình hình nợ đọng BHXH theo khối hình quản lý năm 2012-2014

69

4.8

Danh sách các Doanh nghiệp nợ BHXH năm 2014

70

4.9

Đánh giá của cán bộ BHXH về công tác thu BHXH bắt buộc

75

4.10

Tình hình thực hiện chính sách BHXH của doanh nghiệp

77

4.11

Những khó khăn chủ yếu khi tham gia BHXH của doanh nghiệp

78


4.12

Ý kiến đánh gia của người lao động đối với công tác thu BHXH

81

4.13

Mức lương thấp nhất làm căn cứ đóng BHXH của DN từ năm 2012-2014

82

4.14

Bảng tổng hợp thu nhập bình quân của người lao động trong doanh
nghiệp được kiểm tra

4.15

83

Tổng hợp tỷ lệ đóng góp vào quỹ BHXH của người lao động và người
sử dụng lao động

4.16

86

Ma trận phân tích SWOT Công tác thu BHXH khối DNNQD


vii

91


DANH MỤC SƠ ĐỒ

Tên sơ đồ

STT

Trang

2.1 Cơ chế hoạt động của BHXH

14

2.2 Quy trình công tác thu BHXH

23

2.3 Sơ đồ mô hình tổng quan về phân cấp thu BHXH

25

3.1 Cơ cấu bộ máy tổ chức của BHXH huyện Bình Giang

43


4.1 Quy trình thực hiện các hoạt động thu BHXH của cơ quan BHXH huyện
Bình Giang

73

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Tên biều đồ

STT

Trang

4.1 Tình hình tham gia BHXH khối DNNQD ở huyện

54

4.2 Tình hình tham gia BHXH của lao động khối DNNQD

56

4.3 Tỷ lệ mức lương bình quân đóng BHXH so với thu nhập thực tế

61

4.4 Kết quả thu BHXH thực hiện từ 2012- 2014

66

4.5 Tình hình nợ đọng giai đoạn 2012-2014 BHXH huyện Bình Giang


73

4.6 Đánh giá của cán bộ BHXH về chất lượng thực hiện thu BHXH của các
đơn vị tham gia BHXH

75

4.7 Khảo sát tình hình tham gia BHXH của người lao động

80

4.8 Khảo sát mức độ hiểu biết của người lao động về BHXH

85

viii


I. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình tồn tại và phát triển của con người do rất nhiều nhân tố quyết định,
trong đó không thể không nói đến hệ thống an sinh xã hội với nòng cốt là chính
sách Bảo hiểm xã hội (BHXH). BHXH là một chính sách xã hội được nhiều quốc
gia coi trọng, nhằm đảm bảo về mặt thu nhập cho người lao động, giúp họ trang trải
những nhu cầu thiết yếu khi không may gặp phải những rủi ro, biến cố, bị ốm đau,
tai nạn, thai sản hay vĩnh viễn mất khả năng lao động. Trong những năm qua, Đảng
và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác BHXH và xác định đây là một trong
những chính sách xã hội cơ bản nhất nhằm đảm bảo thu nhập, đời sống cho hàng
triệu người lao động cùng các đối tượng hưởng các chế độ BHXH, góp phần quan

trọng vào việc đảm bảo an sinh xã hội, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội,
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nền kinh tế nước ta đang
chuyển mạnh sang cơ chế thị trường, các thành phần kinh tế đan xen lẫn nhau, các
quan hệ lao động cũng trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Do vậy, chính sách BHXH
không ngừng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Để chính sách BHXH đi vào đời sống xã hội, ổn định và phát
triển, đòi hỏi phải có một nguồn tài chính đủ lớn và được quản lý có hiệuquả để đảm
bảo cân đối thu - chi, bảo toàn và tăng trưởng.
Thực hiện tốt chính sách BHXH, chăm sóc tốt cho người dân sẽ góp phần đảm
bảo an sinh xã hội, ổn định chính trị, từ đó đẩy mạnh sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Nhận thức rõ vai trò của BHXH nên Nhà nước đã nhanh chóng ban hành
các văn bản, năm 1995 hệ thống ngành BHXH đã chính thức ra đời. Sau đó đến năm
2007 Nhà nước ban hành luật BHXH để thống nhất việc thực hiện BHXH trong cả
nước.Từ đó tạo cơ sở hành lang pháp lý bảo vệ quyền lợi, góp phần ổn định cuộc
sống cho người lao động và giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Qua gần
20 năm hoạt động, hệ thống BHXH từng bước được củng cố, hoàn thiện và không
ngừng phát triển, công tác thu, chi, quản lý quỹ và giải quyết chế độ chính sách
BHXH cho các đối tượng theo luật định đi vào nề nếp, tạo điều kiện thuận lợi cho

1


những người tham gia và hưởng chế độ BHXH. Đối tượng tham gia BHXH ngày
càng mở rộng, số thu năm sau đạt kết quả cao hơn năm trước. Bên cạnh công tác thu
BHXH thì việc chi trả cho đối tượng hưởng chế độ ngày càng nhiều. Do đó BHXH
cần có một lượng tiền lớn để đảm bảo cho công tác chi trả các chế độ BHXH. Để
đạt được mục tiêu đó thì việc tham gia BHXH đóng góp vào quỹ BHXH là một
nhiệm vụ rất quan trọng, có thể coi quỹ BHXH là xương sống của hệ thống BHXH.
Vậy muốn tồn tại và phát triển không thể không nói đến công tác thu BHXH, bởi nó
giữ vị trí quyết định trong vấn đề bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH. BHXH không
đơn thuần chỉ là tiền mà người lao động và chủ doanh nghiệp đóng vào để giải quyết

các chế độ chính sách. Thông qua những chế độ, chính sách mà người lao động được
hưởng sẽ làm cho người lao động an tâm làm việc, chủ doanh nghiệp có nguồn nhân
lực ổn định, có khả năng hoạch định chính sách, chiến lược kinh doanh và phát triển, từ
đó thúc đẩy kinh tế phát triển.
Ở Việt Nam hiện nay, còn rất nhiều người lao động làm việc nhưng lại không
được tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm y tế (BHYT), Bảo hiểm thất
nghiệp (BHTN), nhiều doanh nghiệp cố tình né tránh không tham gia BHXH cho lao
động của mình, dẫn đến thiệt thòi quyền lợi của người lao động, khiến họ không an
tâm làm việc và ổn định công tác. Tăng thu BHXH chính là tăng số lượng doanh
nghiệp, đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH, tăng số lao động tham gia BHXH
để góp phần giúp ngày càng nhiều lao động được hưởng các chế độ BHXH, đảm bảo
pháp luật về lao động được thực thi, giảm bớt gánh nặng cho xã hội trong tương lai.
Bình Giang là một tỉnh đang có sự chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp, đã và đang thu hút rất nhiều dòng vốn đầu tư trong nước và
nước ngoài. Hiện nay khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) ngày càng
lớn mạnh, tỷ lệ thu BHXH, BHYT ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu quỹ
BHXH. Đây là điều kiện thuận lợi để mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Tuy nhiên
sự biến động liên tục về số lượng, cơ cấu, tính chất lao động ở khu vực kinh tế này
cũng tạo ra không ít khó khăn cho cơ quan BHXH trong việc quản lý đối tượng
tham gia BHXH. Từ đó quyền lợi của người lao động không được bảo đảm và làm
giảm nguồn thu cho quỹ BHXH. Điều đó cũng đặt ra những thách thức lớn đối với

2


ngành BHXH, mà cụ thể là vấn đề thu BHXH như thế nào để vừa tạo điều kiện
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển, vừa bảo vệ được quyền lợi người lao
động phải làm việc trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Vì vậy thực hiện tốt việc
thu BHXH có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn xét cả trên bình diện quốc gia
cũng như tại huyện Bình Giang nói riêng. Chính vì vậy tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:

"Hoàn thiện công tác thu bảo hiểm xã hội của Bảo hiểm xã hội huyện Bình Giang".
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác thu BHXH trên địa bàn
huyện Bình Giang, từ đó đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác thu BHXH trên địa bàn huyện Bình Giang.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác thu BHXH.
- Đánh giá thực trạng công tác thu BHXH của BHXH huyện Bình Giang.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoàn thiện công tác thu BHXH bắt buộc của
BHXH huyện Bình Giang.
1.3.2.Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Phạm vi nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác thu BHXH bắt buộc,
các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thu BHXH của BHXH huyện Bình Giang. Từ đó
đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH của BHXH
huyện Bình Giang.
1.3.2.2 Phạm vi không gian
Đề tài được triển khai nghiên cứu tại địa bàn huyện Bình Giang.
1.3.2.3 Phạm vi thời gian
Nghiên cứu lấy số liệu trong 3 năm từ năm 2012-2014

3


II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Cơ sở lý luận

2.1.1. Khái niệm, vai trò, yêu cầu về BHXH và thu BHXH
2.1.1.1. Một số khái niệm
Khái niệm Bảo hiểm xã hội
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam [13]: “Bảo hiểm xã hội là một chế độ pháp
định bảo vệ người lao động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, của
người sử dụng lao động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ giúp vật
chất cho người được bảo hiểm và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu
nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất
nghiệp, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc chết”.
Theo điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành, BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập của người lao động trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH khi họ
bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất
nghiệp, hết tuổi lao động, chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH.[3, tr36]
Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động và
người sử dụng lao động có trách nhiệm phải tham gia.
Dù cách diễn đạt khác nhau nhưng nhìn chung hai khái niệm này đều thể hiện
rõ bản chất và đặc trưng cần có của BHXH. Cụ thể, đã nêu lên được một số điểm
chủ yếu sau:
- BHXH là những quy định của nhà nước để đảm bảo quyền lợi cho người
lao động.
- Người lao động được trợ giúp vật chất trong trường hợp ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, hết tuổi lao động hoặc chết.
- Người lao động phải có trách nhiệm đóng góp để bảo đảm quyền lợi cho
chính họ.
Như vậy, có thể hiểu BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập của người lao động trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao

4



động, chết và thất nghiệp; do Nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện thông qua việc
hình thành và sử dụng quỹ tài chính được các bên tham gia đóng góp và có sự ủng
hộ của Nhà nước, nhằm góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động và
gia đình họ đồng thời góp phần bảo vệ an toàn xã hội.
Khái niệm công tác thu Bảo hiểm xã hội
Khi tham gia BHXH, tất cả các đối tượng đều phải tuân thủ những quy định
của Nhà nước về mức đóng, thời gian đóng và điều kiện được hưởng các chế độ
BHXH. Thu BHXH luôn gắn với quyền lực của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật.
Vì vậy ta có thể hiểu:
Theo Giáo trình BHXH- NXBLĐ-XH[14]: Thu BHXH là việc Nhà nước dùng
quyền lực của mình bắt buộc các đối tượng phải đóng BHXH theo mức phí quy
định hoặc cho phép một số đối tượng được tự nguyện tham gia, lựa chọn mức đóng
và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Trên cơ sở đó hình thành một
quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích bảo đảm cho các hoạt động BHXH.
Thu BHXH thực chất là quá trình phân phối lại một phần thu nhập của các
đối tượng tham gia BHXH, phân phối và phân phối lại một phần của cải của xã hội
dưới dạng giá trị, nhằm giải quyết hài hòa các mặt lợi ích kinh tế, góp phần đảm bảo
sự công bằng xã hội. Như vậy công tác thu BHXH là toàn bộ quá trình thực hiện để
mang số tiền của người lao động, đơn vị sử dụng lao động về quỹ BHXH.
* Nguyên tắc thu bảo hiểm xã hội
- Thu đúng: Là đúng đối tượng, đúng mức, đúng tiền lương, tiền công và
đúng thời gian quy định: Mọi người lao động khi có HĐLĐ hoặc giao kết lao động
theo quy định, được trả công bằng tiền đều là đối tượng đóng BHXH bắt buộc. Việc
xác định đúng đối tượng, đúng tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH của
người lao động là cơ sở quan trọng để đảm bảo thu đúng; Việc thu đúng còn phụ
thuộc vào tính chất hoạt động của đơn vị sử dụng lao động để xác định đúng đối
tượng, mức thu, phương thức thu.
- Thu đủ: Là thu đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc và số tiền
phải đóng BHXH của người lao động, người sử dụng lao động.


5


- Thu kịp thời: Là thu kịp về thời gian khi có phát sinh quan hệ lao động, tiền
công, tiền lương mà những quan hệ đó thuộc đối tượng, phạm vi tham gia BHXH.
Chế độ BHXH thường xuyên thay đổi để phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội
từng thời kỳ, ở mỗi thời điểm thay đổi đó cần phải tổ chức thực hiện thu BHXH của
người sử dụng lao động và người lao động đảm bảo kịp thời, không để tồn đọng tiền
thu, không bỏ sót lao động tham gia BHXH
- Cơ chế thu BHXH được quy định thống nhất, nguồn thu BHXH tập trung
quản lý, điều tiết ở Trung ương là BHXH Việt Nam.
- Việc tham gia BHXH của người lao động, người sử dụng lao động đảm bảo
công khai, thực hiện công bằng ở các thành phần kinh tế. Các đơn vị tham gia
BHXH đều phải công khai minh bạch số lao động phải đóng BHXH và số tiền đóng
theo đúng quy định, có sự kiểm tra, thanh tra, kiểm soát của Nhà nước và giám sát
của các cơ quan chức năng và các tổ chức chính trị-xã hội. Tính công bằng được thể
hiện trong việc thu nộp BHXH, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế,
tức là đều có tỷ lệ phần trăm thu BHXH như nhau.
Thực hiện quản lý chặt chẽ tiền thu BHXH theo chế độ quản lý tài chính của
Nhà nước và sử dụng nguồn thu đúng mục đích. Nguồn thu BHXH do được tồn tích
cộng đồng, nên thường có khối lượng tiền nhàn rỗi tương đối lớn chưa sử dụng cần
được đầu tư tăng trưởng, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng, vừa an toàn tiền thu
BHXH về mặt giá trị do các yếu tố trượt giá. Vì vậy, thông qua cơ chế quản lý
nghiêm ngặt về thu BHXH để tránh lạm dụng, thất thoát; Đồng thời nghiên cứu các
lĩnh vực đầu tư để đảm bảo thu hồi được vốn và có lãi, tức là hiệu quả sử dụng
nguồn thu.
Khái niệm quỹ BHXH
Trong đời sống KT-XH, người ta thường nói đến rất nhiều các loại quỹ khác
nhau như: quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ phúc

lợi... Tất cả các loại quỹ này đều có một điểm chung là tập hợp các phương tiện tài
chính hay vật chất khác cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu định trước với
những quy chế nhất định. Quỹ lớn hay nhỏ biểu thị khả năng về mặt phương tiện và
vật chất để thực hiện mục tiêu đề ra.

6


Tất cả các loại quỹ đều không tồn tại với một khối lượng tĩnh tại một thời
điểm mà luôn luôn biến động theo hướng tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và
giảm đi ở đầu ra với các khoản chi như một dòng chảy liên tục. Có thể hình dung
quỹ như một bể chứa nước, trong đó đầu vào có nước luôn chảy để nước trong bể
ngày càng nhiều lên, còn đầu ra là quá trình sử dụng nước làm cho nước trong bể
vơi dần đi. Để đảm bảo cho đầu ra ổn định, người ta thiết lập một lượng dự trữ.
Đầu vào phải nhiều hơn đầu ra thì trong bể mới luôn luôn có nước. Bởi vậy, để
quản lý và điều hành được một quỹ nào đó thì không phải chỉ quản lý được khối
lượng tĩnh của nó tại một thời điểm, mà quan trọng hơn là phải quản lý được lưu
lượng của nó trong một khoảng thời gian nhất định. Tương tự như vậy, quỹ BHXH
cũng được hình thành từ các nguồn thu khác nhau và được sử dụng để chi trả các trợ
cấp BHXH cho người thụ hưởng và các chi phí quản lý khác theo quy định của
pháp luật. Vì vậy, quỹ BHXH phải được tính toán sao cho nguồn thu phải đủ lớn và
phải chảy vào bể liên tục để đảm bảo các chi phí - đầu ra của BHXH không chỉ ở
hiện tại mà cả trong tương lai. Khi mức chi ra ngày càng lớn, những người hoạch
định phát triển BHXH phải tìm cách để tăng nhiều hơn mức thu vào. Khái niêm
Quỹ BHXH được khái quát như sau:
Theo Giáo trình BHXH-NXB Lao động-Xã hội[14]:Quỹ BHXH là một quỹ
tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và
các nguồn thu khác; sử dụng để bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người
tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất
khả năng lao động, hoặc chết; nhằm ổn định đời sống cho họ và gia đình họ và chi

phí cho các hoạt động nghiệp vụ BHXH, góp phần đảm bảo an toàn xã hội và phát
triển kinh tế của đất nước.
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng;
nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện, cơ sở vật
chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
Nguồn hình thành quỹ
Quỹ BHXH tập trung những đóng góp bằng tiền của những người tham gia
BHXH hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được hưởng

7


BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng
lao động hoặc mất việc làm.
Như vậy quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng;
nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật
chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo khả năng giải quyết những rủi ro
của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc giàn trải rủi
ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm
thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả Ngân sách
nhà nướcvà ngân sách gia đình.
Quỹ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Trước hết đó là phần đóng
góp của người sử dụng lao động, người lao động và nhà nước, đây là nguồn chiếm tỉ
trọng lớn nhất và cơ bản của quỹ. Thứ hai là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi
tương đối của quỹ được tổ chức BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lời.
Thứ ba là phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về
BHXH. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các
nguồn nêu trên. Tuy nhiên phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên
tham gia có khác nhau.

Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau:
Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH: Đây là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn
nhất của BHXH nhằm đảm bảo ổn định, duy trì cuộc sống cho NLĐ đồng thời góp
phần ổn định sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH được sử
dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho
bản thân và gia đình họ khi mà đối tượng tham gia gặp rủi ro và các chế độ được
BHXH trợ cấp.
Trong thực tế việc chi trả cho các chế độ BHXH diễn ra thường xuyên trên
phạm vi rộng, hầu hết các nước trên thế giới đều có những khoản chi thường xuyên
là chi lương hưu và trợ cấp tuất.

8


Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH: Ngoài việc trợ cấp cho các đối tượng
hưởng BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng để chi cho các khoản chi phí quản lý
như: tiền lương cho cán bộ làm việc trong hệ thống BHXH, khấu hao tài sản cố
định, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác.
Đặc điểm của quỹ BHXH
Quỹ bảo hiểm xã hội mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản nhất của một quỹ,
ngoài ra do đặc thù của BHXH mà quỹ BHXH có những đặc trưng riêng có sau:
Quỹ BHXH là quỹ an toàn về tài chính.
Nghĩa là, phải có một sự cân đối giữa nguồn vào và nguồn ra của quỹ
BHXH. Chức năng của bảo hiểm xã hội là đảm bảo an toàn về thu nhập cho người
lao động và để thực hiện chức năng này, đến lượt nó, BHXH phải tự bảo vệ mình
trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Để tạo sự an toàn này, về nguyên tắc tổng
số tiền hình thành nên quỹ phải bằng tổng số tiền chi ra từ quỹ. Tuy nhiên, không
phải cứ đồng tiền nào vào quỹ là được dùng để chi trả ngay ( nếu vậy đã không tồn

tại cái gọi là quỹ BHXH ) mà phải sau một khoảng thời gian nhất định, đôi khi
tương đối dài ( như đối với chế độ hưu trí ) số tiền ấy mới được chi ra, cùng thời
gian ấy đồng tiền luôn biến động và có thể bị giảm giá trị do lạm phát, điều này đặt
ra yêu cầu quỹ BHXH không chỉ phải bảo đảm về mặt số lượng mà còn phải bảo
toàn về mặt giá trị. Điều đó lý giải tại sao trong điều 40 Điều lệ BHXH nước ta quy
định “ Quỹ bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng
trưởng theo quy định của chính phủ ”.
Tính tích luỹ.
Quỹ BHXH là “ của để dành ” của người lao động phòng khi ốm đau, tuổi
già... và đó là công sức đóng góp của cả quá trình lao động của người lao động.
Trong quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi ở một thời điểm
hiện tại để chi trả trong tương lai, khi người lao động có đủ các điều kiện cần thiết
để được hưởng trợ cấp ( chẳng hạn như về thời gian và mức độ đóng góp BHXH ).
Số lượng tiền trong quỹ có thể được tăng lên bởi sự đóng góp đều đặn của các bên
tham gia và bởi thực hiện các biện pháp tăng trưởng quỹ.
Quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả.

9


Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, mục đích của việc thiết lập quỹ BHXH là để chi
trả trợ cấp cho người lao động khi họ không may gặp các rủi ro dẫn đến mất hay
giảm thu nhập. Do đó, người lao động là đối tượng đóng góp đồng thời cũng là đối
tượng nhận trợ cấp. Tuy nhiên, thời gian, chế độ và mức trợ cấp của mỗi người sẽ
khác nhau, điều đó phụ thuộc vào những rủi ro mà họ gặp phải cũng như mức độ
đóng góp và thời gian tham gia BHXH.
Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, mặc dù nguyên tắc của BHXH là có
đóng- có hưởng, đóng ít- hưởng ít, đóng nhiều- hưởng nhiều nhưng như vậy không
có nghĩa là những người có mức đóng góp như nhau sẽ chắc chắn đưọc hưởng một
khoản trợ cấp như nhau. Trong thực tế, cùng tham gia BHXH nhưng có người được

hưởng nhiều lần, có người được hưởng ít lần ( với chế độ ốm đau), thậm trí không
được hưởng (chế độ thai sản).
2.1.1.2. Vai trò của Bảo hiểm xã hội và thu Bảo hiểm xã hội
Vai trò của Bảo hiểm xã hội
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vị trí, vai trò của
BHXH trong hệ thống an sinh xã hội ngày càng to lớn, có thể khái quát vai trò
của BHXH trên các mặt sau:
Một là, an toàn cho người lao động: BHXH góp phần ổn định đời sống của
người lao động tham gia BHXH. Những người tham gia BHXH sẽ được thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất
việc làm, chết... một cách kịp thời, từ đó khắc phục nhanh chóng được những tổn
thất về vật chất, nhanh phục hồi sức khoẻ, ổn định cuộc sống để tiếp tục hoạt động
lao động bình thường.
Hai là, an toàn cho nền kinh tế và các doanh nghiệp: BHXH góp phần đảm
bảo ổn định, an toàn cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Để phòng ngừa, hạn chế
tổn thất, các đơn vị kinh tế phải đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn lao động
buộc mọi người phải tuân thủ. Khi có rủi ro xảy ra với người lao động, quỹ
BHXH kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động nhanh chóng ổn định cuộc
sống và sản xuất.

10


Ba là, tăng cường quan hệ ba bên: Người lao động, doanh nghiệp, nhà nước:
BHXH làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa người lao động, người sử dụng lao
động và Nhà nước. Người lao động, Người sử dụng lao động, Nhà nước đều
tham gia đóng góp vào quỹ BHXH, điều đó làm cho Người lao động có trách nhiệm
hơn trong công việc, trong lao động sản xuất.
Bốn là, nâng cao tính nhân văn của xã hội: BHXH góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội. BHXH là sự phân phối lại theo hướng có lợi cho

những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khoẻ
mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người “yếu thế hơn” hay gặp phải
những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống.
Năm là, BHXH trực tiếp thể hiện mục tiêu, lý tưởng, bản chất tốt đẹp của
chế độ chính trị, xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang phấn đấu, xây
dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Với vai trò và chức năng “trụ cột” của BHXH trong hệ thống chính sách xã hội
như vậy, cho nên tại Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản
Việt Nam Đại hội XI chỉ rõ: "Bảo đảm an sinh xã hội; tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ
thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã
hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội,
nhất là những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương".
Vai trò của công tác thu BHXH
Quỹ BHXH hiện đang được thực hiện nhằm đạt mục tiêu là một công quỹ
độc lập với ngân sách nhà nước, nhằm đảm bảo về tài chính để chi trả các chế độ
BHXH cho người lao động. Vì thế công tác thu BHXH ngày càng trở thành khâu
quan trọng và quyết định đến sự tồn tại và phát triển của việc thực hiện chính
sách BHXH.
Công tác thu BHXH là hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành
BHXH nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt được tập trung thống nhất :
Thu đúng góp BHXH là hoạt động của các cơ quan BHXH từ trung ương đến địa
phương cùng với sự phối hợp của các ban ngành chức năng trên cơ sở nguồn tài
chính tập trung từ việc đóng góp của các bên tham gia BHXH. Đồng thời tránh

11


được tình trạng nợ đọng BHXH từ các cơ quan đơn vị, từ người tham gia BHXH.
Qua đó, đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện và triển khai chính sách BHXH
nói chung và giữa những người tham gia BHXH nói riêng.

Để chính sách BHXH được diễn ra thuận lợi thì công tác thu BHXH có vai
trò như một điều kiện cần và đủ trong quá trình tạo lập cùng thực hiện chính sách
BHXH. Bởi đây là đầu vào, là nguồn hình thành cơ bản nhất trong quá trình tạo lập
quỹ BHXH. Đồng thời đây cũng là một khâu bắt buộc đối với người tham gia
BHXH thực hiện nghĩa vụ của mình. Do vậy, công tác thu BHXH là một công việc
đòi hỏi độ chính xác cao, thực hiện thường xuyên, liên tục, kéo dài trong nhiều năm
và có sự biến động về mức đóng và số lượng người tham gia.
Công tác thu BHXH vừa đảm bảo cho quỹ BHXH được tập trung về một
mối, vừa đóng vao trò như một công cụ thanh tra kiểm tra số lượng người tham gia
BHXH biến đổi ở từng khối lao động, cơ quan, đơn vị ở từng địa phương hoặc trên
phạm vi toàn quốc. Bởi công tác thu BHXH cũng đòi hỏi phải được tổ chức tập
trung thống nhất có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên xuống dưới, đảm bảo an toàn
tuyệt đối về tài chính, đảm bảo độ chính xác trong ghi chép kết quả đóng BHXH
của từng cơ quan đơn vị cũng như của từng người lao động. Hơn nữa, hoạt động thu
BHXH là hoạt động liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của cả một đời người và có
tính kế thừa, số thu BHXh một phần dựa trên số lượng người tham gia BHXH để
tạo lập quỹ BHXH, cho nên nghiệp vụ của công tác thu BHXH có một vai trò hết
sức quan trọng và rất cần thiết trong thực hiện chính sách BHXH. Bởi đây là khâu
đầu tiên giúp cho chính sách BHXH thực hiện được chức năng cũng như bản chất
của mình.
Hoạt động của công tác thu BHXH ở hiện tạo ảnh hưởng trực tiếp đến công
tác chi và quá trình thực hiện chính sách BHXH trong tương lai. Do BHXH cũng
như các loại hình bảo hiểm khác đều dựa trên cơ sở nguyên tắc có đóng có hưởng
BHXH đã đặt ra yêu cầu quy định đối với công tác thu nộp BHXH. Nếu không thu
được BHXH thì quỹ BHXH không có nguồn để chi trả cho các chế độ BHXH cho
người lao động. Vậy hoạt động thu BHXH ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi trả
và quá trình thực hiện chính sách BHXH. Do đó, thực hiện công tác thu BHXH

12



đóng vai trò quyết định, then chốt trong quá trình đảm bảo ổn định cho cuộc sống
của người lao động cũng như các đơn vị doanh nghiệp được hoạt động bình thường.
2.1.1.3. Đặc điểm của BHXH và thu BHXH
Đặc điểm của bảo hiểm xã hội:
Nền kinh tế hàng hóa càng phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên phổ biến
thì càng đòi hỏi sự phát triển và đa dạng của BHXH. BHXH được hình thành trên cơ
sở quan hệ lao động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng BHXH.
Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan
chuyên trách (cơ quan BHXH), thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động BHXH. Chủ
sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ
BHXH. Người lao động và gia đình của họ được cung cấp tài chính từ quỹ BHXH
khi họ có đủ điều kiện theo chế độ BHXH quy định. Đó chính là mối quan hệ của
bên tham gia BHXH.
Từ mối quan hệ về BHXH, nếu xem xét một cách toàn diện thì BHXH hàm
chứa và phản ánh những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, mục đích hoạt động của BHXH không vì lợi nhuận mà vì quyền lợi
của người lao động, của cả cộng đồng; là hoạt động dịch vụ công, mang tính xã hội
cao, lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá trình tổ
chức, triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức quản lý BHXH
đối với người lao động tham gia và hưởng các chế độ BHXH.
Thứ hai, BHXH là một loại hàng hoá tư nhân mang tính bắt buộc do Nhà
nước quản lý và cung cấp dịch vụ, nên việc tham gia BHXH về nguyên tắc là bắt
buộc đối với mọi người lao động (một số nước trên thế giới do khu vực tư nhân quản
lý và cung cấp dịch vụ).
Thứ ba, cơ chế hoạt động của BHXH là theo cơ chế 3 bên: Cơ quan BHXH Chủ sử dụng lao động và Người lao động, cộng thêm cơ chế quản lý Nhà nước,
BHXH bắt buộc là do Nhà nước đứng ra làm, do vậy thực sự chưa có thị trường
BHXH ở Việt nam, xét thực chất thị trường BHXH ở Việt Nam thể hiện độc quyền:
Cung BHXH do Nhà nước độc quyền cung, cầu thì bắt buộc và mức hưởng BHXH
còn thấp nên dẫn đến chất lượng dịch vụ kém.


13


Cơ quan Bảo hiểm xã hội

Chủ sử dụng lao động

Người lao động

Nguồn: BHXH Việt Nam
Sơ đồ 2.1. Cơ chế hoạt động của BHXH
Thứ tư, thực hiện thống nhất việc quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội; thực
hiện nhiệm vụ thu, quản lý và chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội chặt chẽ, đúng đối
tượng và đúng thời hạn. Nguồn đóng góp của các bên tham gia được đưa vào quỹ
riêng, độc lập với ngân sách Nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý tập
trung, thống nhất và sử dụng theo nguyên tắc hạch toán cân đối thu - chi theo quy
định của pháp luật, bảo toàn và phát triển.
Thứ năm, người lao động được hưởng trợ cấp BHXH trên cơ sở mức đóng và
thời gian đóng bảo hiểm xã hội, có chia sẻ rủi ro và thừa kế. Thông thường, mức
đóng góp và mức hưởng trợ cấp đều có mối liên hệ đến thu nhập (tiền lương, tiền
công) của người lao động. Điều này thể hiện tính công bằng xã hội gắn liền giữa
quyền và nghĩa vụ của người lao động.
Tóm lại, BHXH là những chính sách, chế độ do nhà nước quy định để đảm
bảo quyền lợi vật chất cho người tham gia BHXH dựa trên quan hệ cung – cầu trên
thị trường. BHXH là một hàng hoá tư nhân mang tính bắt buộc do Nhà nước quản lý
và cung cấp; hoạt động theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít, chia sẻ rủi ro, quỹ
BHXH độc lập với Ngân sách nhà nước, quản lý tập trung thống nhất.
Đặc điểm của công tác thu BHXH
Là khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ hoạt động của hệ

thống BHXH ở Việt nam, công tác thu có một số đặc điểm cụ thể sau:
- Công tác thu là khâu đầu tiên trong hoạt động BHXH, có tính chu kỳ, lặp đi
lặp lại. Các cán bộ, công chức viên chức làm công tác thu phải theo dõi kết quả thu
nộp BHXH của từng cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động theo từng

14


tháng, từng quý, từng năm, từng thời ký để kịp thời nắm bắt được tình hình đóng
BHXH của từng cá nhân, từng đơn vị và của toàn ngành, từ đó làm cơ sở để lập báo
cáo kết quả lên cơ quan BHXH cấp trên. Có thể nói, công tác thu là một công việc
vất vả, khối lượng công việc rất lớn, cần một nguồn nhân lực lớn đủ năng lực, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ để làm tốt công việc; cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại để
có thể phục vụ và làm tốt công tác thu.
- Công tác quản lý thu rất phức tạp và đa dạng thể hiện ở một số điểm như:
+ Là một bộ phận trong hoạt động BHXH, công tác thu BHXH liên quan
trực tiếp đến cả người lao động và người sử dụng lao động.
+ Số lượng lao động, số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH ngày càng
tăng đòi hỏi công tác quản lý phải chặt chẽ, kịp thời năm bắt thông tin về các đối
tượng thuộc diện tham gia.
+ Mức thu BHXH được xác định dựa trên mức lương mà người lao động trả
cho người lao động cho nên việc xác định tổng quỹ lương của doanh nghiệp, đơn vị
tham gia phải được thực hiện đồng thời với việc xác định mức thu bảo hiểm. Các
cán bộ làm công tác thu BHXH có nhiều hình thức để thu nhưng hiện nay chủ yếu
là thu thông qua người sử dụng lao động. Công việc này đòi hỏi phải có sự giám sát
chặt chẽ, đôn đốc của cán bộ thu để tránh tình trạng người sử dụng lao động sử
dụng tiền đóng BHXH sai mục đích.
2.1.2. Nội dung nghiên cứu công tác thu BHXH
2.1.2.1. Đối tượng thu BHXH bắt buộc
Việc xác định đối tượng tham gia BHXH là một trong những nhiệm vụ lớn

và quan trọng nhất của công tác thu BHXH. Theo quy định của Luật BHXH Việt
Nam đối tượng thu BHXH bao gồm:
Người lao động tham gia BHXH bắt buộc: Được quy định cụ thể tại Điều 2Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính Phủ và Thông tư số
03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007 của Bộ LĐTB & XH bao gồm:
1. Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
2. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn,
hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về

15


×