Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Báo Cáo Tự Đánh Giá Chương Trình Đào Tạo Đại Học Chính Quy Ngành Công Nghệ Thông Tin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.69 KB, 72 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ

BÁO CÁO TỰ ĐÁNH GIÁ

CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY
NGÀNH CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Hà Nội, ngày 07 tháng 11 năm 2005
KT. Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ
Phó Hiệu trưởng, Chủ tịch Hội đồng tự đánh giá

HÀ NỘI, 11.2005


CHÚ THÍCH MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT
ACM

: Association for Computing Machinery (Mỹ)

Bộ GD&ĐT

: Bộ Giáo dục và Đào tạo

CN

: Cử nhân

CNTT


: Công nghệ thông tin

CE

: Computer Engineering

CS

: Computer Science

ĐHBKHN

: Đại học Bách khoa Hà Nội

ĐHQGHN

: Đại học Quốc gia Hà Nội

ĐHQG Tp HCM

: Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh

Đvht (Đơn vị học trình): được sử dụng để đo lường khối lượng kiến thức đào tạo trong
điều kiện học tập tiêu chuẩn của sinh viên, được quy định bằng 15 tiết (mỗi tiết
45 phút) lý thuyết, thảo luận, bài tập; hoặc bằng 30-45 tiết thực hành, thực
nghiệm; hoặc bằng 45-90 tiết thực tập tại cơ sở; hoặc bằng 45-60 tiết làm tiểu
luận, khóa luận tốt nghiệp, nghiên cứu khoa học.
GS

: Giáo sư


HĐKH&ĐT

: Hội đồng Khoa học và Đào tạo

IEEE

: Institute of Electrical and Electronics Engineers, Inc.

IS

: Information Science

IT

: Information Technology

Phòng ĐTĐH

: Phòng Đào tạo đại học

Phòng TCCB&CTSV

: Phòng Tổ chức cán bộ và Công tác sinh viên

PGS

: Phó Giáo sư

SE


: Software Engineering

ThS

: Thạc sỹ

Trung tâm TT-TV

: Trung tâm Thông tin -Thư viện, ĐHQGHN

Trường ĐHCN hoặc COLTECH: Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN
Trường ĐHKHTN

: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN

Trường ĐHKHXH&NV

: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
ĐHQGHN

Trường ĐHTHHN

: Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1956-1995), tiền thân
của các trường ĐHKHTN, ĐHKHXH&NV, ĐHCN

TS(KH)

: Tiến sỹ(khoa học)


TTĐBCL

: Trung tâm đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu
phát triển giáo dục, ĐHQGHN
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (2/125)


A. GIỚI THIỆU CHUNG
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ TRƯỜNG
1. Tên trường: Trường Đại học Công nghệ thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
(Tên tiếng Anh: College of Technology, Vietnam National University, Hanoi)
2. Tên viết tắt: Trường ĐHCN
(Tên viết tắt tiếng Anh: COLTECH)
3. Tên trước đây: Không
(đơn vị tiền thân: Khoa Công nghệ trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội)
4. Cơ quan chủ quản: Đại học Quốc gia Hà Nội
5. Địa chỉ trường: 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội
6. Số điện thoại liên hệ: 84.4.7547461
e-mail:

Số fax: 84.4.7547460
Website: />
7. Năm thành lập trường: Trường Đại học Công nghệ được thành lập theo Quyết định
số 92/2004/TTg ngày 25 tháng 5 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
II. THÔNG TIN CHUNG VỀ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
8. Tên chương trình: Cử nhân công nghệ ngành Công nghệ thông tin
9. Tên viết tắt: Không có
10. Tên trước đây: Cử nhân ngành Tin học (mã số 01-02.10)
11. Khoa thực hiện chương trình: Khoa Công nghệ thông tin

12. Địa chỉ: 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội
13. Số điện thoại liên hệ

84.4.7547064

e-mail:

Số fax: 84.4.7547460
Website: />
14. Năm bắt đầu chương trình đào tạo: 1996
15. Năm cấp bằng tốt nghiệp cho khoá thứ nhất: 2000
16. Loại hình đào tạo của chương trình: Chính quy tập trung 4 năm
III. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
17. Khái quát về lịch sử mở mã số đào tạo của chương trình
Quá trình mở mã số đào tạo của chương trình đào tạo CNTT liên quan tới các đơn
vị đào tạo là Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1956-1995), Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên (1995 - nay), Khoa Công nghệ (1999-2004) và Trường Đại học Công
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (3/125)


nghệ (2004 - nay). Khái niệm "Nhà trường" dưới đây được dùng để chỉ các chủ thể
nói trên tương ứng với từng giai đoạn.
Từ năm 1965, Khoa Toán Trường ĐHTHHN bắt đầu mở chuyên ban máy tính
thuộc ngành Toán. Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu chuyên ban này chỉ được mở sau
từng chu kỳ 2-3 năm. Sinh viên chuyên ban máy tính được học các môn học chương
trình cơ sở ngành Toán (như sinh viên thuộc các chuyên ban khác) và kiến thức
chuyên ban. Kiến thức chuyên ban bao gồm khoảng 10 môn học về lý thuyết thuật
toán, lý thuyết văn phạm và otomat, lập trình và ngôn ngữ lập trình (ngôn ngữ lập
trình Algol, FORTRAN, ngôn ngữ trong của máy tính MINSK-22).
Năm 1987, Chương trình đào tạo ngành Tin học (mã số 01-02-10) được bắt đầu

thực hiện tại Khoa Toán - Cơ - Tin học, Trường ĐHTHHN. Chương trình này là
phiên bản hoàn chỉnh đầu tiên, khởi thủy Chương trình đào tạo CNTT hiện nay.
Thực hiện kế hoạch của Nhà nước về việc thành lập 7 khoa CNTT trọng điểm
[C1.1.8.17], Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội đã ra quyết định thành lập Khoa
CNTT của Trường ĐHTHHN thuộc ĐHQGHN vào ngày 22-2-1995. Đây là mốc
lịch sử đánh dấu sự phát triển vượt bậc việc đào tạo CNTT trong ĐHQGHN. Tại
thời điểm đó, chương trình đào tạo ngành CNTT của Khoa CNTT gồm hai giai
đoạn, giai đoạn 1 (3 học kỳ đầu) là phần chung cho nhóm ngành 1, giai đoạn 2 (5
học kỳ) là giai đoạn đào tạo kiến thức ngành và chuyên ngành. Tháng 1-1998, Khoa
CNTT bắt đầu thực hiện chương trình đào tạo ngành CNTT (giai đoạn 2) đối với
sinh viên lớp K41C khóa 41 (1996-2000) [CN1.1.8.18, CN3.1.2.3]. Tại Khoa
CNTT (sau đó là tại khoa Công nghệ), tiến hành song song hai ngành đào tạo về
lĩnh vực CNTT là ngành Tin học (mã số 01-02-10) và ngành CNTT (chưa có mã số)
trong 6 khóa đào tạo (K41 - K46).
Từ năm 2002, ĐHQGHN không tuyển sinh đại học ngành Tin học nữa và do đó, từ
năm 2005 Trường ĐHCN chỉ còn đào tạo đại học ngành CNTT với bốn chuyên
ngành là Khoa học máy tính, Các hệ thống thông tin, Mạng và Truyền thông máy
tính, Công nghệ phần mềm.
Cũng từ năm 2002, thông qua việc tìm hiểu và phân tích các chương trình đào tạo
CNTT tiên tiến trên thế giới [CN1.1.8.11 – CN1.1.8.16], nhà trường từng bước đưa
các nội dung hiện đại nhất vào chương trình đào tạo CNTT của trường theo phương
châm đảm bảo tính hiện đại và tính thực tiễn [CN1.1.6.1, CN1.1.6.2].
Từ 2002 đến nay, thực hiện Kế hoạch triển khai soạn thảo chương trình khung cho
các ngành đào tạo ở trình độ đại học và cao đẳng, Hội đồng nhóm ngành CNTT của
Bộ GD&ĐT đã tiến hành xây dựng và đang hoàn thiện chương trình đào tạo 5
ngành thuộc nhóm ngành CNTT là Khoa học máy tính, Hệ thống thông tin, Mạng
máy tính và Truyền thông, Công nghệ phần mềm và Kỹ thuật máy tính [CN0.11].
Về cơ bản, nội dung trong chương trình đào tạo CNTT của Trường ĐHCN đã được

Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (4/125)



phản ánh trong chương trình đào tạo của bốn ngành đầu tiên của nhóm ngành nói
trên.
18. Cơ cấu tổ chức hành chính quản lý của trường và của khoa phụ trách chương trình
a) Cơ cấu tổ chức hành chính Trường Đại học Công nghệ
Hội đồng
Khoa học và Đào tạo

Hiệu trưởng
Các Phó Hiệu trưởng

Phòng Đào tạo
đại học

Khoa CNTT

Phòng Đào tạo
SĐH - NCKH

Khoa ĐT-VT

Phòng Tài vụ Kế toán
Phòng Hành
chính - Quản trị

Khoa VLKTCNNN

Khoa CHKT
-TĐH


Trung tâm
nghiên cứu và
phát triển Công
nghệ phần mềm
Trung tâm
Nghiên cứu
ĐT-VT
Trung tâm Sinh
học phân tử

Trung tâm
Máy tính

Phòng TCCB,
CTCT - CTSV

Hình 1. Sơ đồ tổ chức hành chính của Trường Đại học Công nghệ
Tổ chức hành chính của Trường ĐHCN theo mô hình chung của một trường thành
viên trong ĐHQGHN [C1.1.1.2] gồm 4 khoa đào tạo, 3 trung tâm nghiên cứu, trung
tâm máy tính và 5 phòng chức năng (Hình 1). Lãnh đạo Nhà trường là Hiệu trưởng
và các Phó Hiệu trưởng. HĐKH&ĐT trường tư vấn cho Hiệu trưởng về công tác
đào tạo và nghiên cứu khoa học [CN1.1.1.2, CN1.1.8.19]. Theo kế hoạch, đến năm
2006, Khoa Công nghệ Sinh học phân tử thuộc Trường ĐHCN sẽ được thành lập
trên cơ sở phát triển Trung tâm Công nghệ sinh học phân tử hiện nay.
b) Cơ cấu tổ chức hành chính của Khoa Công nghệ thông tin
Hiện tại, Khoa CNTT gồm 5 Bộ môn và Phòng thực hành CNTT (Hình 2). Ngoại
trừ Bộ môn Các phương pháp toán trong công nghệ, mỗi bộ môn trong Khoa chịu
trách nhiệm một chuyên ngành đào tạo thuộc ngành CNTT. Phòng thực hành CNTT
chịu trách nhiệm giảng dạy thực hành môn Tin học cơ sở cho sinh viên toàn trường

Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (5/125)


và các môn thực hành thuộc khối kiến thức cơ sở ngành đối với sinh viên Khoa
CNTT. Lãnh đạo Khoa là Chủ nhiệm Khoa và các Phó chủ nhiệm Khoa.
HĐKH&ĐT Khoa tư vấn cho Chủ nhiệm Khoa về công tác đào tạo và nghiên cứu
khoa học [CN1.1.1.2, CN1.1.8.20].
Hội đồng
Khoa học và Đào tạo Khoa

Bộ môn
Các
phương
pháp
toán
trong
công
nghệ

Bộ môn
Khoa
học
máy tính

Chủ nhiệm Khoa
Các Phó Chủ nhiệm Khoa

Bộ môn
Các Hệ
thống

thông tin

Bộ môn
Mạng
máy tính

Truyền
thông

Bộ môn
Công
nghệ
phần
mềm

Phòng
thực
hành
CNTT

Hình 2. Sơ đồ tổ chức hành chính của Khoa Công nghệ thông tin
19. Cán bộ quản lý chủ chốt của trường quản lý chương trình
Danh sách cán bộ quản lý chủ chốt của trường thực hiện chức năng quản lý chương
trình đào tạo này có 13 người, gồm Hiệu trưởng, một Phó Hiệu trưởng, Lãnh đạo
Phòng ĐTĐH, Lãnh đạo Phòng TCCB&CTSV, Ban chủ nhiệm Khoa CNTT và các
Chủ nhiệm bộ môn của Khoa CNTT (Phụ lục 3, Bảng 1). Tất cả cán bộ quản lý chủ
chốt đều có trình độ trên đại học (10 TS và 3 ThS) trong đó có 1 GS và 5 PGS.
20. Danh sách giảng viên tham gia thực hiện chương trình
Tại thời điểm tự đánh giá, Khoa CNTT có 57 giảng viên (41 cơ hữu, 1 kiêm nhiệm
và 15 thực tập sinh) tham gia thực hiện chương trình đào tạo ngành CNTT gồm 2

TSKH, 16 TS, 13 ThS và 26 CN (24/26 người đang học cao học); trong đó có 2 GS,
5 PGS (Phụ lục 3, bảng 2). Năm học 2004-2005 có 143 giảng viên tham gia giảng
dạy cho sinh viên ngành CNTT, trong đó có 62 người là giảng viên cơ hữu, kiêm
nhiệm, thực tập sinh thuộc Khoa CNTT (5 người đã đi nước ngoài), 4 người thuộc
các khoa khác trong trường ĐHCN và 77 người thuộc các trường thành viên khác
của ĐHQGHN và Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Phụ lục 3, bảng 3).
Các giảng viên phụ trách giảng dạy các môn Toán học (Giải tích, Đại số, Xác suất
thống kê) và Vật lý (Quang, Điện, Cơ) là cán bộ của Trường ĐHKHTN và Viện
Toán học Việt Nam. Các giảng viên này đều là các nhà khoa học trình độ cao và có
nhiều kinh nghiệm giảng dạy. Đây chính là yếu tố đảm bảo thực thi định hướng xây
dựng và thi hành chương trình đào tạo CNTT với nền kiến thức khoa học cơ bản
mạnh trong Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN.
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (6/125)


21. Tỷ lệ sinh viên chính quy trên 1 giảng viên cơ hữu
Khoa CNTT Trường ĐHCN hiện có 41 giảng viên cơ hữu và 15 thực tập sinh khoa
học (nghiên cứu sinh và học viên cao học) tham gia giảng dạy các môn thực hành.
Ngoài ra, còn có các giảng viên từ các đơn vị thuộc ĐHQGHN (tính như cán bộ cơ
hữu) tham gia giảng dạy 78/216 đơn vị học trình trong toàn bộ chương trình đào tạo
CNTT của Khoa. Khoa CNTT đang giảng dạy 980 sinh viên đại học CQ, 230 học
viên SĐH, 1000 sinh viên đại học không chính quy. Do chương trình đào tạo cao
học có 120 đvht (so với chương trình đào tạo đại học có 216 đvht) và chương trình
đào tạo đại học không chính quy dài 5 năm (so với chương trình đào tạo đại học
chính quy dài 4 năm) nên tỷ lệ sinh viên trên một giảng viên cơ hữu tại Khoa CNTT
là 30,54 = (980*(216-78)/216+1000*(4/5)*(216-78)/216+ 230*120/216)/41. Nếu
tính thêm đóng góp của 15 Thực tập sinh khoa học thì tỷ lệ trên sẽ là 22,36. Điều đó
cho thấy đóng góp của lực lượng Thực tập sinh là thật sự có ý nghĩa, đặc biệt trong
việc coi thi, chấm thi và nhiều công việc khác trong Khoa CNTT.
Sự thiếu hụt giảng viên là khó khăn cơ bản nhất trong việc xây dựng và thực hiện

chương trình đào tạo CNTT tiên tiến. Mặt khác, đa số giảng viên trình độ cao là lớn
tuổi (tuổi trung bình các GS., PGS. là 62) và ngành gốc là Toán học.
22. Tổng số thí sinh thi tuyển và được trúng tuyển vào chương trình đào tạo
Số lượng thí sinh thi tuyển (từ 1500 đến 2350) và trúng tuyển (từ 270 đến 320)
ngành CNTT Trường ĐHCN năm năm gần đây được trình bày tại Bảng 2 Tiêu chí
3.1. Do danh tiếng của Khoa CNTT mà thí sinh đăng ký dự thi dù số lượng không
nhiều song chất lượng cao nên điểm chuẩn tuyển sinh vào ngành CNTT Trường
ĐHCN luôn vào loại cao nhất nước.
23. Số lượng sinh viên quốc tế theo học chương trình đào tạo CNTT
Có 4 sinh viên nước ngoài đã theo học đại học chính quy ngành CNTT gồm 3 sinh
viên Cămpuchia (lớp K41C), 1 sinh viên Mông Cổ (lớp K43C) đã học và tốt nghiệp
[CN3.1.2.3]. Sinh viên Chy Ty (lớp K41C) sau khi tốt nghiệp đại học được chuyển
tiếp Cao học và đã bảo vệ luận văn Thạc sỹ vào năm 2003.
24. Thành tích nghiên cứu khoa học của sinh viên
Thống kê thành tích sinh viên nghiên cứu khoa học trong giai đoạn 2001-2005 có
trong Phụ lục 4. Đáng kể nhất là các nghiên cứu khoa học của nhóm Vương Vũ
Thắng (K42T) đạt giải nhất cuộc thi Trí tuệ Việt Nam năm 2001, nhóm Bùi Quang
Minh (K42T), Trần Quốc Long (K43C) đạt giải nhì VIFOTEC sinh viên toàn quốc
năm 2001, nhóm Nguyễn Hòa Bình (K44C) đạt giải ba cuộc thi Trí tuệ Việt Nam
năm 2000 và Quả cầu vàng CNTT năm 2003...

Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (7/125)


25. Tổng số đầu sách trong thư viện của trường/khoa phục vụ chương trình đào tạo
Nguồn tài liệu giảng dạy phục vụ chương trình đào tạo có tại Trung tâm TT-TV
ĐHQGHN và tại Trường ĐHCN.
Trung tâm TT–TV ĐHQGHN có đầy đủ các đầu tài liệu giảng dạy đối với khối kiến
thức chung, khối kiến thức cơ bản của nhóm ngành cho sinh viên Trường ĐHCN
(nói chung) và Khoa CNTT (nói riêng). Do kinh phí mua tài liệu giảng dạy khối

kiến thức ngành và chuyên ngành về CNTT tiếng Anh vượt quá khả năng của Trung
tâm, còn tài liệu tiếng Việt chất lượng cao được biên soạn chưa nhiều nên tại Trung
tâm chỉ mới có các đầu sách giới thiệu các phần mềm công cụ, cũng hữu ích trong
công tác phục vụ học tập của sinh viên. Ngoài ra, Trung tâm còn được cung cấp các
tài liệu điện tử ACM SIGMOD/VLDB của Tổ chức Association For Computing
Machinery Special Interest Group on Management of Data (xem trang Web
rất hữu ích trong việc cập nhật nội dung
giảng dạy đối với cán bộ, tự mở rộng kiến thức đối với sinh viên.
Tại Trường ĐHCN, có khoảng 120 đầu tài liệu tham khảo khối kiến thức ngành và
chuyên ngành về CNTT tiếng Anh (bản cứng) tại phòng tư liệu của Trường. Nguồn
tài liệu điện tử là khá phong phú, mỗi bộ môn có từ 40-50 đầu sách, và hàng nghìn
bài báo khoa học. Một số tài liệu điện tử được các cán bộ đang công tác tại các cơ
sở đào tạo tiên tiến trên thế giới cung cấp. Nhà trường đang xây dựng kho học liệu
điện tử nhằm nâng cao hiệu quả việc cung cấp nội bộ tài liệu dạy - học và nghiên
cứu khoa học cho giảng viên và sinh viên [CN0.18, CN3.1.22.5]. Nhà trường cũng
đã lưu tâm tới vấn đề bản quyền đối với các tài liệu điện tử.
26. Số lượng máy tính phục vụ giảng viên và sinh viên của chương trình này
Tổng số máy tính phục vụ cho giảng viên và sinh viên của chương trình đào tạo
CNTT là 306 máy tính, bao gồm
- 16 máy tính phục vụ (server) được bố trí tại phòng máy tính server của khoa và
các bộ môn,
- 290 máy tính cá nhân được nối mạng gồm 40 máy tính cho giảng viên cơ hữu
và 250 máy tính cho sinh viên được bố trí tại 7 phòng máy tính chung của khoa
(215 máy tính), phòng truy nhập Internet và phòng thực hành tại bộ môn.

Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (8/125)


B. TỰ ĐÁNH GIÁ
27. Đặt vấn đề

Đề án thành lập Trường ĐHCN đặt ra mục tiêu "Phấn đấu xây dựng Trường
Đại học Công nghệ nhanh chóng trở thành trường đại học đạt trình độ tiên tiến trong
khu vực". Quản lý chất lượng bên trong (bao gồm Tự đánh giá) và đánh giá ngoài là
hai nội dung cơ bản của kiểm định chất lượng đối với mỗi cơ sở. Đại học Quốc gia Hà
Nội đã tiến hành một số bước đi nhằm thúc đẩy công tác kiểm định chất lượng trong
quá trình tiến tới mục tiêu đạt chất lượng khu vực và thế giới [CN0.12-13]. Nhận thức
vai trò của Trường ĐHCN trong công tác kiểm định chất lượng của ĐHQGHN, Nhà
trường đã đề ra phương hướng và tổ chức thực hiện một số công tác cụ thể đối với
công tác quan trọng này [CN0.14-17]. Đại hội Đảng bộ Trường ĐHCN nhiệm kỳ
2005-2008 đã xác định chỉ tiêu "Phấn đấu tới năm học 2007-2008 nhà trường được
công nhận là cơ sở giáo dục đạt chất lượng kiểm định cấp độ 3, mỗi khoa có ít nhất
một bộ môn được công nhận đạt trình độ khu vực" [C0.15].
Lĩnh vực hoạt động của Trường ĐHCN bao gồm ngành Công nghệ Thông tin,
những ngành công nghệ tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự phát triển Công nghệ
Thông tin đồng thời sử dụng những thành tựu của Công nghệ Thông tin, và những
chuyên ngành khoa học công nghệ là thành quả của sự kết hợp Công nghệ Thông tin
với các ngành khoa học tự nhiên khác [CN0.7]. Đưa chất lượng đào tạo CNTT của
Trường ĐHCN đạt trình độ khu vực và thế giới là bước đi nền tảng và thiết yếu của
quá trình tiến tới mục tiêu xây dựng Trường ĐHCN đạt trình độ tiên tiến trong khu
vực.
Thực hiện chỉ đạo và hướng dẫn của ĐHQGHN [CN0.13], Hội đồng tự đánh giá
chương trình đào tạo ngành CNTT Trường ĐHCN và nhóm chuyên trách đã được
thành lập [CN0.16]. Công việc tự đánh giá là rất mới đối với mọi thành viên trong Hội
đồng tự đánh giá và Nhóm chuyên trách, các cán bộ tham gia chưa có kinh nghiệm và
kỹ năng tổ chức thực hiện, vì vậy đã gặp không ít khó khăn trong quá trình xây dựng
báo cáo tự đánh giá. Mặt khác, trong thời gian triển khai công việc, Chủ tịch và Thư
ký Hội đồng đi công tác nước ngoài (theo kế hoạch đã có) và điều đó cũng có ảnh
hưởng tới chất lượng tổ chức công tác tự đánh giá. Chúng tôi khẳng định rằng nếu có
đủ thời gian để thu thập thêm minh chứng, đặc biệt là các minh chứng kiểu đánh giá
ngoài từ các bài viết trên các báo, trên các trang web hoặc tại các hội thảo có đề cập tới

chất lượng đào tạo CNTT của Trường ĐHCN thì các luận điểm của báo cáo này càng
thêm thuyết phục.
Thông qua việc tự đánh giá chương trình đào tạo CNTT, dù mới chỉ là bước đầu
tiên trong công tác kiểm định chất lượng cơ sở đào tạo, Nhà trường và Khoa CNTT đã
có một cách nhìn toàn diện và triệt để hơn đối với công tác xây dựng và triển khai thực
hiện chương trình đào tạo CNTT. Điểm mạnh và điểm yếu đối với mỗi tiêu chí trong
từng tiêu chuẩn đã cung cấp thêm căn cứ để Nhà trường định ra kế hoạch từng bước
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (9/125)


nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo ngành CNTT. Nhà
trường và Khoa CNTT đã thu được một số kinh nghiệm bước đầu về tiêu chí đánh giá
chất lượng, về thu thập và đánh giá minh chứng, về xây dựng hồ sơ kiểm định, về quy
trình tự đánh giá... Kết quả của quá trình triển khai tự đánh giá lần này tạo thêm cơ sở
để Nhà trường xây dựng và thực hiện lộ trình phấn đấu để được công nhận đạt chất
lượng kiểm định cấp độ 3 vào năm học 2007-2008. Kế hoạch của Nhà trường trong
báo cáo này hướng đến năm 2008 là thời điểm kiểm định tiếp theo.
28. Tổng quan chung
Tại Quyết định số 92/2004/QĐ-TTg về việc thành lập Trường Đại học Công
nghệ trực thuộc ĐHQGHN, Thủ tướng Chính phủ đã quy định hai nhiệm vụ của
trường là:
- Đào tạo nguồn nhân lực trình độ đại học, sau đại học và bồi dưỡng nhân tài
thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ,
- Nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học, công nghệ đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội.
Sứ mạng của Trường ĐHCN là phải hoàn thành tốt hai nhiệm vụ được Thủ
tướng Chính phủ giao phó với đặc trưng điển hình "bồi dưỡng nhân tài" đối với bốn
lĩnh vực công nghệ trọng điểm là CNTT - Truyền thông, Công nghệ sinh học phân tử,
Công nghệ Micro và Nanô, Công nghệ cơ điện tử và tự động hóa, trong đó CNTT truyền thông được coi là lĩnh vực trung tâm. Phấn đấu đến năm 2010, Trường ĐHCN
có chất lượng đào tạo dẫn đầu trong hệ thống các trường đại học công nghệ trong cả

nước và trình độ nghiên cứu khoa học - triển khai công nghệ ngang tầm với các Viện
nghiên cứu, tiến tới được công nhận kiểm định chất lượng khu vực và châu lục, khẳng
định vai trò cung cấp nhân lực trình độ cao cho sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại
hóa đất nước.
Khoa CNTT, Trường ĐHCN là một khoa CNTT trọng điểm, có mục tiêu đào
tạo là cung cấp nguồn nhân lực CNTT chất lượng cao cho đất nước. Chương trình đào
tạo CNTT thường xuyên được cập nhật và đổi mới nhằm đảm bảo tính tiên tiến và
thực tiễn. Nhiều sáng kiến được đề xuất, nhiều giải pháp được thi hành nhằm nâng cao
tính tiên tiến của chương trình đào tạo. Việc thực thi các sáng kiến để nhiều giảng viên
được đi học tập, nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo tiên tiến, để thu hút được các nhà
khoa học có trình độ về công tác hoặc tham gia giảng dạy, để huy động lực lượng
Thực tập sinh thực sự đã góp phần tăng cường năng lực đội ngũ giảng viên cho Khoa.
Nhà trường, Khoa CNTT đã quan tâm thực hiện nhiều giải pháp để giữ vững và nâng
cao chất lượng đầu vào tuyển sinh và chất lượng đầu ra của chương trình đào tạo thông
qua hệ thống đảm bảo chất lượng và giám sát trong, phát huy tiềm năng của giảng viên
trong giảng dạy – nghiên cứu khoa học và sinh viên trong học tập – rèn luyện – tham
gia nghiên cứu khoa học. Mối liên hệ giữa Nhà trường, Khoa CNTT với các cơ sở sản
xuất, kinh doanh về CNTT được duy trì, đã tạo thêm môi trường học tập toàn diện cho
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (10/125)


sinh viên. Chất lượng tuyển sinh đầu vào, chất lượng tốt nghiệp đầu ra luôn thuộc diện
cao nhất nước, nhiều cựu sinh viên đã và đang thành đạt, vị thế và danh tiếng của
Trường ĐHCN và Khoa CNTT trong xã hội ngày càng được khẳng định, trình độ quan
hệ với các cơ sở đào tạo – nghiên cứu tiên tiến ở nước ngoài ngày càng tiến bộ đã là
niềm tự hào của Khoa CNTT, Trường ĐHCN, ĐHQGHN.
Sự thiếu hụt về đội ngũ giảng viên cả về số lượng và chất lượng là nguyên nhân
cơ bản làm cho chương trình đào tạo CNTT có khoảng cách xa để tiếp cận tới chương
trình đào tạo tiên tiến. Tính tiên tiến chưa thực sự rõ nét trong cấu trúc và nội dung
chương trình đào tạo, trong nội dung từng khối kiến thức và từng môn học và trong

quá trình chuyển tải nội dung chương trình đào tạo tới sinh viên. Sự thiếu hụt về đội
ngũ giảng viên, sự yếu kém, thiếu kinh nghiệm trong công tác quản lý do chậm chuyển
đổi cơ chế từ quy mô khoa trực thuộc lên quy mô trường thành viên, khó khăn về điều
kiện mặt bằng trong thời gian chờ di chuyển lên cơ sở mới tại Hòa Lạc đã làm hạn chế
các sáng kiến và cố gắng của Nhà trường, Khoa CNTT trong quá trình xây dựng và thi
hành chương trình đào tạo CNTT tiên tiến.
Trường ĐHCN và Khoa CNTT phát huy mọi nguồn lực chủ quan và khách
quan, tiếp tục thi hành các giải pháp hiệu quả đã được kiểm nghiệm, đề xuất thêm sáng
kiến mới để vượt qua các khó khăn trước mắt để đưa chương trình đào tạo và chất
lượng đào tạo CNTT có sự tiến bộ vượt bậc trong quá trình tiếp cận tới chương trình
đào tạo tiên tiến.
29. Tự đánh giá
TIÊU CHUẨN 1. MỤC ĐÍCH VÀ MỤC TIÊU
Chương trình đào tạo CNTT tại Trường ĐHCN có mục đích phù hợp với nhiệm vụ
đào tạo trong sứ mạng của Nhà trường là cung cấp nguồn nhân lực CNTT phần mềm
trình độ cao cho đất nước. Các khối kiến thức trong chương trình đào tạo cho phép
cung cấp cho sinh viên năng lực tư duy hệ thống, nắm vững lý thuyết và có kỹ năng
triển khai tốt. Khi tiếp nhận đầy đủ nội dung kiến thức của chương trình, sinh viên đáp
ứng được yêu cầu về chuyên viên chất lượng cao theo trình độ CNTT hiện nay của
Việt Nam. Do hạn chế về đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất nên nội dung các khối
kiến thức ngành, chuyên ngành còn nhiều bất cập và chương trình đào tạo chưa thực
sự chuyển tải đầy đủ mục tiêu và mục đích đào tạo tới sinh viên. Kế hoạch của Nhà
trường là đến năm 2008, xây dựng được một chương trình đào tạo CNTT tương đương
với chương trình đào tạo tiên tiến trong khu vực.
Tiêu chí 1.1 Mục đích và các mục tiêu cụ thể của chương trình
Đặc trưng của chương trình đào tạo CNTT tại Trường ĐHCN là “CNTT phần mềm
trên nền kiến thức khoa học cơ bản mạnh”. Mục đích của chương trình đào tạo
CNTT Trường ĐHCN là cung cấp cho sinh viên một hệ thống kiến thức về lý
thuyết và thực hành nhằm hình thành năng lực nhận thức và kỹ năng giải quyết các
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (11/125)



vấn đề của CNTT, cung cấp nguồn nhân lực CNTT chất lượng cao phát triển nghiên
cứu và ứng dụng CNTT của đất nước.
Cử nhân CNTT tốt nghiệp Trường ĐHCN có khả năng đảm nhận các chức trách
sau:
-

Chuyên viên thiết kế và phát triển phần mềm, chuyên viên quản trị hệ thống tại
các trung tâm tin học của các cơ quan nhà nước, các công ty CNTT thuộc mọi
loại hình kinh tế. Họ đủ năng lực làm việc trong khâu lập trình, phân tích thiết
kế, quản trị hệ thống, tham gia xây dựng, quản lý và triển khai các dự án CNTT.

-

Giảng viên CNTT tại các trường đại học và các trung tâm đào tạo CNTT.

-

Nghiên cứu viên tại các viện nghiên cứu triển khai chuyên ngành về CNTT.

hoặc tiếp tục học nâng cao trình độ (Học viên Cao học, Nghiên cứu sinh) về CNTT
tại các cơ sở đào tạo sau đại học của Việt Nam và nước ngoài.
Trên cơ sở quy định về khung chương trình đào tạo của Bộ GD&ĐT, chương trình
đào tạo CNTT có tổng cộng 216 đơn vị học trình [Phụ lục 1, CN1.1.2.1–10], được
phân bố theo các khối kiến thức như sau:
Khối kiến thức chung

: 62 đvht


Khối kiến thức xã hội, nhân văn

: 5 đvht

Khối kiến thức cơ bản của nhóm ngành

: 55 đvht

Khối kiến thức cơ sở của ngành

: 63 đvht

Khối kiến thức chuyên ngành

: 16 đvht

Khóa luận hoặc thi tốt nghiệp

: 15 đvht

Khối kiến thức ngành và chuyên ngành của chương trình được tham khảo nội dung
các chương trình đào tạo CNTT tiên tiến trên thế giới [CN1.1.8.11–16, CN1.1.3.1],
các Hội thảo khoa học về chương trình đào tạo CNTT và chương trình đào tạo tại
các khoa CNTT trọng điểm khác. Nhu cầu của thị trường lao động CNTT ở Việt
Nam hiện nay cũng đã được tính đến khi xây dựng chương trình, vì vậy chương
trình đào tạo đã dành thời lượng đáng kể cho các môn học về công cụ phần mềm.
Triết lý giáo dục của chương trình là ưu tiên cung cấp những khối kiến thức cơ bản
nhưng phải có tính hệ thống cao về lý thuyết và thực hành. Khi ra trường, sinh viên
phải có năng lực phát huy các kiến thức đã được trang bị, chủ động nghiên cứu hoặc
học thêm để tiếp cận được các phương pháp tiên tiến, khai thác các phần mềm mới,

thích ứng với hoạt động CNTT của xã hội. Nhằm đảm bảo tính tiên tiến, chương
trình đào tạo đã được cập nhật hai lần vào các năm 2003, 2005 (Phụ lục 2). Quy
trình cập nhật hoặc tạo phiên bản mới của chương trình đào tạo được mô tả chi tiết
tại Tiêu chí 2.4.
Sinh viên tốt nghiệp Khoa CNTT cần có tư duy hệ thống tốt, năng lực tự học, tự
tiếp thu các kiến thức, công cụ mới và áp dụng các kiến thức, công cụ đó vào thực
tiễn giải quyết các bài toán trong CNTT. Theo [CN5.3.1.4], năm năm gần đây, hầu
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (12/125)


hết sinh viên tốt nghiệp đều tìm được việc làm phù hợp chuyên môn tại các cơ sở
nghiên cứu, đào tạo, sản xuất và kinh doanh về CNTT, đáp ứng được yêu cầu của
thị trường lao động. Khi sinh viên nhập trường, Nhà trường đã giới thiệu về chương
trình đào tạo. Mặt khác, mục tiêu cũng như nội dung của chương trình đào tạo được
công bố trong các tài liệu và website giới thiệu về Nhà trường và Khoa CNTT
[CN1.1.2.1-2, CN1.1.2.4, CN0.24].
Điểm mạnh


Mục đích và mục tiêu của chương trình đào tạo là phù hợp với nhiệm vụ đào
tạo của Trường ĐHCN. Do mặt bằng ứng dụng và phát triển CNTT của Việt Nam
hiện thời còn thấp nên sinh viên tốt nghiệp Khoa CNTT thực sự là chuyên viên
CNTT có chất lượng, đáp ứng yêu cầu đầu ra của chương trình đào tạo.



Khối kiến thức Toán học và Vật lý trong chương trình đào tạo do Trường
ĐHKHTN đảm nhận nên đảm bảo được tính tiên tiến.




Nhà trường và Khoa CNTT nhất quán mục đích và mục tiêu, nên khối kiến
thức ngành và chuyên ngành trong chương trình đào tạo được cập nhật định kỳ
nhằm hướng tới một chương trình đào tạo CNTT tiên tiến.

Điểm yếu


Tuy được coi là Khoa CNTT trọng điểm hàng đầu của đất nước hiện nay
song Khoa CNTT có sự thiếu hụt lớn về số lượng giảng viên. Hơn nữa, đa số
giảng viên xuất phát từ ngành Toán nên tuy có trình độ và kinh nghiệm về khoa
học cơ bản nhưng lại rất khó khăn trong việc tiếp cận và làm chủ lĩnh vực CNTT.
Vì vậy, việc chi tiết hóa các khối kiến thức ngành và chuyên ngành thành các
môn học cụ thể còn nhiều bất cập như chọn lựa môn học cho từng khối kiến thức,
phân bổ kiến thức lý thuyết và thực hành... Đây thực sự là khó khăn lớn nhất
trong quá trình xây dựng một chương trình đào tạo tiên tiến.



Đặc trưng đào tạo “CNTT phần mềm trên nền kiến thức khoa học cơ bản
mạnh” tại Trường ĐHCN chỉ mới được thể hiện trong các nghị quyết, báo cáo mà
chưa được làm tường minh một cách có hệ thống, vì vậy thực sự chưa có dấu ấn
trong thực tiễn xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo.



Sự thiếu hụt về số lượng và chất lượng của đội ngũ giảng viên, khó khăn về
cơ sở vật chất đã hạn chế việc chuyển tải nội dung kiến thức trong quá trình dạy học, vì thế cũng hạn chế việc đảm bảo mục đích và mục tiêu của chương trình đào
tạo.


Kế hoạch


Năm 2005-2006: Triển khai giải pháp nâng cao chất lượng phòng thực hành
CNTT (thiết bị, phần mềm) của trường, phối hợp với các công ty CNTT triển
khai các học phần thực hành, thực tập nhằm tăng cường khối lượng và chất lượng
kỹ năng CNTT trong chương trình đào tạo. Tổ chức các hoạt động nghiên cứu và
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (13/125)


đánh giá để làm tường minh đặc trưng đào tạo CNTT tại Trường ĐHCN. Tiếp tục
phối hợp, khai thác sự hỗ trợ của UNU (United Nations University) và các cơ sở
đào tạo tiên tiến nước ngoài đưa giảng viên đi thực tập giảng dạy. Huy động lực
lượng giảng viên, thực tập sinh đang là PostDoc, Nghiên cứu sinh ở nước ngoài
tham gia trực tiếp vào việc cập nhật, đổi mới chương trình đào tạo (Phụ lục 6);
Thực hiện giải pháp "cầu hiền" nhằm thu hút các Tiến sỹ về Khoa CNTT.


Năm 2007-2008: Xây dựng phiên bản mới chương trình đào tạo có chất
lượng tương đương với các chương trình đào tạo CNTT tiên tiến ở khu vực.

Tiêu chí 1.2. Chuyển tải các mục tiêu vào chương trình
Mục tiêu của chương trình đào tạo đã được chuyển tải trong hệ thống các môn học
như sau (Phụ lục 1):
-

Khối kiến thức cơ bản của nhóm ngành cung cấp cho sinh viên nền tảng toán học
của các mô hình hệ thống CNTT và khả năng tư duy hệ thống khi tiếp cận vấn
đề. Điều đó không chỉ giúp sinh viên học tập trong trường mà còn tạo ra khả
năng tự nghiên cứu khi học ở trường và sau khi tốt nghiệp. Nội dung về khối

kiến thức này được thống nhất giữa các giảng viên ở hai lĩnh vực Toán học và
CNTT.

-

Khối kiến thức ngành cung cấp kiến thức cơ bản về các mô hình hệ thống, các
phương pháp và kỹ năng giải quyết các bài toán trong CNTT. Các môn học về
phần mềm công cụ (các môn học thứ tự 39, 41, 45, 46, 50, 53, 54) chiếm một
thời lượng đáng kể nhằm tạo cho sinh viên khả năng tiếp cận công cụ mới và kỹ
năng giải quyết bài toán CNTT.

-

Khối kiến thức chuyên ngành và khóa luận tốt nghiệp tạo cho sinh viên năng lực
giải quyết bài toán trong một chuyên ngành cụ thể của CNTT.

Tất cả các môn học ngành và chuyên ngành trong chương trình đào tạo đều có đề
cương chi tiết, chỉ rõ thời lượng về lý thuyết và thực hành, các yêu cầu cụ thể cần
đạt được và các môn học liên quan. Đề cương chi tiết môn học chỉ rõ tài liệu giảng
dạy (do giảng viên CNTT biên soạn) và tài liệu tham khảo (chủ yếu bằng tiếng
Anh). Chương trình môn học đều được Hội đồng chuyên ngành thẩm định nhằm
đảm bảo trình độ cần đạt theo mức đầu ra dự kiến [CN1.1.2.1–10].
Nhà trường, Khoa CNTT chủ trương tạo điều kiện để các giảng viên ứng dụng các
phương pháp dạy - học tiên tiến và khai thác phương tiện hiện đại trong dạy - học
trong việc chuyển tải nội dung môn học. Giải pháp đó thực sự có tác dụng và góp
phần chuyển tải mục tiêu chương trình đào tạo tới sinh viên [CN5.2.1.1-2].
Nội dung khóa luận tốt nghiệp của sinh viên, kết quả các kỳ thi kiểm tra trình độ cử
nhân CNTT theo hướng chuẩn quốc tế, kết quả khảo sát tình hình sinh viên sau tốt
nghiệp cho thấy phần lớn sinh viên tốt nghiệp đã có được các khả năng cơ bản phù
hợp mục tiêu đầu ra của chương trình [CN0.17-18, CN5.3.1.4].

Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (14/125)


Điểm mạnh


Cấu trúc môn học của các khối kiến thức và nội dung môn học có định
hướng theo mục tiêu đào tạo, cho phép cung cấp kiến thức và trau dồi năng lực để
sinh viên tốt nghiệp trở thành chuyên viên CNTT có chất lượng.



Quy định về quy trình soạn thảo và thẩm định chương trình chi tiết các môn
học đã được tuân thủ. Có tiến hành ứng dụng phương pháp e-learning, khai thác
các phương tiện hiện đại trong quá trình dạy - học. Những việc làm này đã đóng
góp cho việc chuyển tải mục tiêu của chương trình đào tạo tới sinh viên.

Điểm yếu


Hạn chế về đội ngũ giảng viên làm cho chương trình đào tạo có khoảng cách
không nhỏ so với mục tiêu đào tạo. Nhiều môn học thiết yếu (Engineering
Economics for SW, Software Evolution (maintenance), Software Quality, Project
Management...) chưa được đưa vào chương trình do chưa có giảng viên thực sự
làm chủ nội dung kiến thức. Thời lượng dành cho các môn học công cụ là quá lớn
làm cho chương trình đào tạo chưa tương xứng với mục tiêu đào tạo. Tồn tại sự
thiếu hụt không nhỏ khi đối sánh với chương trình đào tạo CNTT tiên tiến [Các
bảng 1.3.1, 1.3.2 Phụ lục 1].

Kế hoạch



Năm 2005-2006: Khoa CNTT lập kế hoạch nâng cấp chương trình
đào tạo, phân công cụ thể cho từng Bộ môn; Bộ môn nâng cấp khối kiến thức
chuyên ngành: tăng cường chất lượng các chuyên đề đã có, bổ sung các chuyên
đề chuyên sâu theo quy chiếu của các chương trình đào tạo CNTT tiên tiến, phân
công cụ thể cho từng giảng viên; Tổ chức các hội thảo các cấp (Bộ môn, Khoa,
Trường) thảo luận cải tiến chương trình đào tạo; Xây dựng và đưa vào hoạt động
giảng đường chuẩn phù hợp với phương pháp dạy - học tiên tiến.



Năm 2007-2008: Xây dựng đề cương chi tiết các môn học, tài liệu
giảng dạy các chuyên đề khối kiến thức ngành và chuyên ngành trong phiên bản
mới của chương trình đào tạo CNTT.

TIÊU CHUẨN 2. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
Chương trình đào tạo CNTT [Phụ lục 1, CN1.1.8.22] có mục đích cung cấp cho sinh
viên hệ thống kiến thức cơ bản và các kỹ thuật CNTT tiên tiến theo các chuyên ngành
Khoa học máy tính, Các hệ thống thông tin, Công nghệ phần mềm và Mạng máy tính
và truyền thông. Các yêu cầu về nội dung, về cấu trúc, về phương pháp dạy-học, về
kiểm tra đánh giá được đáp ứng trong quá trình thiết kế chương trình đào tạo. Đặc
trưng CNTT phần mềm trên nền kiến thức khoa học cơ bản mạnh đã được thể hiện qua
danh mục các môn học trong chương trình. Tuy nhiên tính gắn kết giữa nền khoa học
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (15/125)


cơ bản mạnh với kiến thức ngành-chuyên ngành là chưa thực sự sáng tỏ. Hơn nữa, mối
liên kết các môn học trong khối kiến thức ngành – chuyên ngành là chưa tường minh.
Đây là các điểm yếu mà Nhà trường và Khoa CNTT cần sớm khắc phục.

Tiêu chí 2.1. Nội dung chương trình đào tạo
Ngoài 5 học phần ngoại ngữ (28 đvht) là rất cần thiết đối với sinh viên ngành
CNTT, thì 13 học phần (39 đvht) kiến thức chung và kiến thức xã hội – nhân văn có
mục đích giáo dục sinh viên trở thành người lao động toàn diện. Các học phần này
là cần thiết và là quy định cứng của Bộ GD&ĐT.
Khối kiến thức cơ bản của nhóm ngành gồm 16 học phần (55 đvht) gồm các môn
Toán học, Vật lý, Toán cho CNTT là kiến thức nền tảng đảm bảo đặc trưng của
chương trình đào tạo CNTT tại Trường ĐHCN. Các học phần Toán học và Vật lý
do giảng viên thuộc Trường ĐHKHTN xây dựng nên tính khoa học cơ bản được
đảm bảo. Các môn Toán cho Công nghệ trong chương trình đào tạo thực sự cần
thiết, đặc biệt là kiến thức xác suất, thống kê và quá trình ngẫu nhiên vì chúng góp
phần làm sáng tỏ thêm đặc trưng đào tạo CNTT của Trường ĐHCN.
Khối kiến thức cơ sở của ngành (63 đvht) và khối kiến thức chuyên ngành (16 đvht)
được lựa chọn từ các chương trình đào tạo CNTT tiên tiến [Bảng 1.3.1, 1.3.2 Phụ
lục 1, CN1.1.8.11–16] và được làm phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam,
trong đó có tham chiếu tới chương trình đào tạo CNTT của các Khoa CNTT trọng
điểm. Đã chỉ rõ phân bố thời lượng lý thuyết, bài tập và thực hành đối với mỗi học
phần trong hai khối kiến thức này.
Hàng năm, Khoa CNTT và các Bộ môn đều tiến hành xem xét để cập nhật nội dung
mới cho môn học, lựa chọn môn chuyên ngành và kiến nghị điều chỉnh chương
trình. Chẳng hạn, môn Tin học cơ sở đã được xem xét chỉnh sửa nội dung hàng năm
và nội dung môn học này đã được cập nhật ba lần trong 5 năm [CN1.1.1.2,
CN1.1.2.5, CN0.19-23, CN0.9]. Trong các năm 2003 và 2005, Khoa CNTT đã thực
hiện quy trình đề xuất phiên bản chương trình đào tạo mới.
Khoa CNTT tổ chức buổi tọa đàm hàng năm giữa các Chủ nhiệm bộ môn với sinh
viên trong toàn khoa nhằm làm cho sinh viên có được hiểu biết toàn diện và chi tiết
về các chuyên ngành đào tạo [CN2.1.2.1-17, CN1.1.5.1, CN0.19-23].
Trường ĐHCN là trường đại học Việt Nam duy nhất hiện nay tổ chức cho sinh viên
tham dự kỳ thi chuẩn kỹ năng CNTT công nhận lẫn nhau với Nhật Bản vào hai đợt
tháng 4 và tháng 10 hàng năm. Kết quả đợt tháng 4 năm 2005 là khả quan có 43

sinh viên được cấp chứng chỉ trong số 148 sinh viên CNTT dự thi (21/74 sinh viên
năm thứ tư và 22/74 sinh viên năm thứ ba) [CN0.25].
Trong giai đoạn 2001-2005, trên tổng số 889 sinh viên năm cuối có 75.59% sinh
viên được cấp bằng tốt nghiệp và 24.41% sinh viên không được cấp bằng tốt nghiệp
sau 4 năm học [CN1.1.2.1-2, CN1.1.2.4, CN1.1.6.1-2, CN5.2.1.1, CN0.19-23].
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (16/125)


Hơn nữa, có tới 25% sinh viên tốt nghiệp được chuyển tiếp sinh hoặc thi đỗ vào học
cao học, nghiên cứu sinh. Đáng chú ý là có một số sinh viên đã bảo vệ luận án Tiến
sỹ tại các đại học tiên tiến nước ngoài sau khi tốt nghiệp đại học Khoa CNTT chỉ
trong khoảng thời gian 3-6 năm [Phụ lục 6, CN5.2.1.1, CN0.19-23].
Điểm mạnh


Chương trình đào tạo phản ánh được đặc trưng “CNTT phần mềm chất
lượng cao trên nền kiến thức khoa học cơ bản mạnh” và mục tiêu đào tạo CNTT
của Trường ĐHCN.



Nội dung của chương trình đào tạo phù hợp mục tiêu đào tạo. Đã dành một
thời lượng thực hành đáng kể đối với khối kiến thức ngành và chuyên ngành
nhằm tạo kỹ năng thực hành tốt cho sinh viên. Các môn học của khối kiến thức
chung đã được bố trí hợp lý, sinh viên được tiếp cận khối kiến thức ngành từ học
kỳ 4.



Hàng năm nội dung chương trình đào tạo đều được cập nhật với các mức độ

khác nhau nhằm đảm bảo tính tiên tiến của chương trình đào tạo.

Điểm yếu


Khối kiến thức chuyên ngành có thời lượng quá ít mà nội dung học phần
chuyên ngành lại chưa chuyên sâu nên chưa cung cấp đủ kiến thức và kỹ năng
chuyên ngành [CN1.1.2.1-2, CN1.1.6.1-2] vì vậy kết quả chuyển tải nội dung
chương trình đào tạo còn thấp [Bảng 1.3.3 Phụ lục 1, CN5.2.1.1, CN0.19-23].



Đặc trưng "CNTT phần mềm chất lượng cao trên nền kiến thức khoa học cơ
bản mạnh" đã được đề cập, song chương trình đào tạo chưa phân tích tường minh
mối liên kết khối kiến thức Toán, Lý với khối kiến thức ngành.



Việc tổ chức phối hợp xây dựng nội dung các học phần ngành và chuyên
ngành còn hạn chế nên nội dung các học phần có liên quan với nhau còn thiếu
tính lôgic. Ở mức khối kiến thức là có kết cấu logic nhưng việc liên kết chương
trình chi tiết các học phần còn lỏng lẻo [CN1.1.2.1-10, CN0.19-23].



Quan điểm phát triển tăng dần về độ khó và sự phức tạp của các vấn đề liên
quan trong chương trình đào tạo chưa được hiện thực hóa trong quá trình thiết kế
các môn học và chương trình chi tiết từng môn học [CN1.1.2.1-10, CN0.19-23].

Kế hoạch

• Năm 2005-2006: Phát huy năng lực tự học của sinh viên, bố trí yêu cầu tự làm
bài tập lớn, dự án nhỏ trong đề cương chi tiết môn chuyên ngành và một số môn
cơ sở ngành; Bộ môn rà soát việc bố trí và chương trình chi tiết các học phần
chuyên ngành trong phiên bản chương trình đào tạo năm 2005; Khoa CNTT tiến
hành đánh giá về tính lôgic trong việc bố trí các học phần cơ sở ngành, chuyên
ngành và mối liên kết giữa các học phần có liên quan; Nhà trường phối hợp với

Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (17/125)


Trường ĐHKHTN tổ chức việc đánh giá mối liên kết các học phần và chương
trình chi tiết các học phần Toán, Lý với khối kiến thức ngành CNTT.
• Năm 2007-2008: Chuẩn bị lực lượng giảng viên và cơ sở vật chất tiến hành xây
dựng và triển khai chưong trình đào tạo đối với 4 ngành Khoa học máy tính, Hệ
thống thông tin, Kĩ nghệ phần mềm, Mạng máy tính và Truyền thông đang được
Bộ GD&ĐT hoàn thiện. Khối lượng công việc để bổ sung 57 đvht cho mỗi ngành
vào chương trình khung của Bộ GD&ĐT là rất lớn và đòi hỏi sự chuẩn bị công
phu [CN1.1.8.21].
Tiêu chí 2.2. Cấu trúc chương trình
Cấu trúc chương trình CNTT [Phụ lục 1, CN1.1.8.22] tuân thủ đúng quy định và
hướng dẫn của ĐHQGHN và Bộ GD&ĐT [CN1.1.2.1-10, CN0.19-23]. Thực chất
chương trình đào tạo CNTT đang được thực hiện là phiên bản cải tiến của chương
trình đào tạo CNTT từ các năm 1995, 1998. Cấu trúc môn học trong từng khối kiến
thức được cân nhắc theo chương trình đào tạo CNTT do ACM phối hợp với IEEE
đề xuất [CN1.1.8.11-16] và tham khảo chương trình đào tạo của một số khoa CNTT
trọng điểm trong nước (ĐHBKHN, ĐHQG Tp HCM) theo hướng đảm bảo tính tiên
tiến và tính thực tiễn.
Thực hiện đúng quy định của Bộ GD&ĐT, chương trình đào tạo CNTT đã chỉ rõ
môn học cơ bản, môn học cơ sở của ngành, môn học chuyên ngành và khóa luận tốt
nghiệp. Đề cương chi tiết của mỗi môn học đã tường minh các nội dung cơ bản,

phân bố thời lượng cho từng phần nội dung [CN1.1.2.1-10].
Việc cập nhật, cải tiến nội dung từng môn học được thực hiện thường xuyên. Trong
năm năm qua, hai phiên bản mới của chương trình đào tạo đã được đề xuất trong đó
chứa đựng sự thay đổi về cấu trúc [CN1.1.2.1, CN1.1.2.5, CN1.2.3.1, CN1.1.2.3,
CN1.1.2.8-9, CN1.1.6.1-2]. Việc đề xuất phiên bản mới của chương trình đào tạo
theo các lí do sau:
- Các chuyên ngành của CNTT phát triển nhanh đòi hỏi dung lượng kiến thức
chuyên ngành trong chương trình đào tạo cần được cân đối lại trong chương
trình đào tạo. Hơn nữa, cấu trúc kiến thức của khối kiến thức cơ sở của ngành
cũng phải được biến đổi theo cho phù hợp với sự phát triển của CNTT.
- Năng lực tiếp cận các chương trình đào tạo CNTT tiên tiến của đội ngũ giảng
viên có sự tiến bộ vượt bậc. Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu, qua phương
tiện Internet, kiến thức của đội ngũ giảng viên hiện có được cập nhật đáng kể.
Đáng chú ý là một số giảng viên trẻ có trình độ được đào tạo ở nước ngoài đã
được bổ sung vào đội ngũ giảng viên của Khoa CNTT.
- Điều kiện trang thiết bị về phòng máy, phương tiện dạy học ngày càng tốt hơn,
phục vụ trực tiếp cho việc dạy - học đã hiệu quả hơn.

Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (18/125)


Quy trình cải tiến và nâng cấp chương trình đào tạo được trình bày chi tiết trong
Tiêu chí 2.4 [CN1.1.1.2, CN1.1.2.5, CN0.19-23].
Hiện tại, Trường ĐHCN tiến hành đào tạo theo phương thức niên chế với 2 học
kỳ/năm học theo quy định cứng các môn học trong từng học kỳ, và phương thức
này cũng được áp dụng đối với Chương trình đào tạo CNTT [CN1.1.2.1-2,
CN1.1.2.4, CN1.1.1.2, CN1.1.1.6.2]. Nhà trường đang nghiên cứu chuẩn bị các điều
kiện cần thiết để chuyển đổi từ phương thức đào tạo niên chế sang phương thức đào
tạo tín chỉ.
Điểm mạnh



Việc lựa chọn các môn học cơ sở ngành và chuyên ngành do HĐKH&ĐT
Khoa quyết định nên đảm bảo về cơ bản tính hệ thống và kết nối hợp lý giữa các
khối kiến thức này [CN1.1.2.1, CN1.1.2.5-7, CN1.1.17.3].



Việc bố trí các môn học chuyên ngành trong chương trình đào tạo là phù
hợp với bối cảnh hiện nay về CNTT ở Việt Nam [CN1.1.2.1, CN1.1.2.5-7,
CN1.1.17.3].

Điểm yếu


Tính kết cấu liên quan giữa các môn học chưa được khẳng định rõ ràng. Đây
cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trùng lặp các phần nội dung giảng dạy
của hai môn học khác nhau. Việc phối hợp xây dựng nội dung giảng dạy các môn
học Toán, Lý, Xã hội - Nhân văn, Ngoại ngữ tuy đã xác lập song tiến hành không
thường xuyên và hiệu quả [CN1.1.2.1, CN1.1.2.5-7, CN1.1.17.3].



Việc bố trí tập trung các môn học chung vào năm học đầu tiên của chương
trình đào tạo có tác động làm giảm sự hứng thú của sinh viên hướng tới mục tiêu
của chương trình đào tạo [CN1.1.2.1, CN1.1.2.5-7,CN1.1.17.3].



Chưa thể hiện rõ phương châm tạo cho sinh viên năng lực tự học, tự luyện

tập kĩ năng ngoài giờ lên lớp.



Chưa tường minh định hướng sinh viên về kỹ năng làm việc theo nhóm, khả
năng tự phát triển nghề nghiệp và lãnh đạo tổ chức công việc [CN1.1.2.1-10,
CN1.1.2.1-2, CN1.1.2.4, CN1.1.6.1-2]

Kế hoạch


Năm 2005-2006: Tổ chức phân tích, đánh giá một cách khoa học về cấu trúc
của khối kiến thức ngành và chuyên ngành trong chương trình đào tạo và cải tiến
chương trình đào tạo theo kết quả đánh giá; Triển khai phương thức liên kết Bộ
môn - Công ty CNTT thực hiện giảng dạy các môn học về công cụ và thực hành
(liên hệ bài toán thực tại công ty); Thông qua Hội cựu sinh viên, thu thập ý kiến
đóng góp về cấu trúc chương trình, cấu trúc kiến thức môn học; Lên kế hoạch
thực hiện phương thức đào tạo theo tín chỉ cho chương trình đào tạo.

Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (19/125)




Năm 2007-2008: Hoàn thiện chương trình đào tạo CNTT đáp ứng tính hệ thống
cao về cấu trúc, tương đương với các chương trình đào tao CNTT tiên tiến ở khu
vực. Triển khai phương thức đào tạo theo tín chỉ.

Tiêu chí 2.3. Phương pháp giảng dạy
Nhằm khẳng định mục tiêu đào tạo “CNTT phần mềm trên nền kiến thức khoa học

cơ bản mạnh”, Nhà trường xác định giải pháp "đổi mới phương pháp đào tạo
chuyển từ giảng dạy kiến thức sang giảng dạy phương pháp tư duy hệ thống nhằm
tăng cường năng lực sáng tạo cho người học. Tích cực liên kết với các cơ sở đào
tạo-nghiên cứu-triển khai trong và ngoài nước hình thành môi trường học tập nghiên cứu toàn diện cho người học. Xây dựng kế hoạch mở rộng dần giải pháp
phối hợp trường đại học – cơ sở công nghiệp trong việc triển khai các học phần
thực hành, học phần khai thác công nghệ tiên tiến cho sinh viên" [C0.14-15]. Trong
năm năm vừa qua, Nhà trường, Khoa CNTT và đặc biệt là nhiều giảng viên đã tích
cực thực hiện cải tiến phương pháp giảng dạy theo định hướng trên đây [CN1.1.5.1,
CN2.3.3.1-4, CN0.9, CN0.19-23].
Để chuyển tải kiến thức hiệu quả, tạo khả năng mở rộng kiến thức, nhiều giảng viên
các môn học cơ sở ngành và chuyên ngành đã sử dụng máy chiếu để trình bày bài
giảng. Phương pháp này dễ triển khai trong Khoa CNTT vì gắn liền với chuyên
môn của giảng viên. Giảng viên nhiều môn học đã chủ động cho sinh viên làm tiểu
luận khi giảng dạy. Theo cách thức này, giảng viên giao cho nhóm sinh viên đọc
một kết quả nghiên cứu mới liên quan tới nội dung môn học để nhóm sinh viên
nghiên cứu. Sau đó nhóm sinh viên trình bày trước toàn lớp để cùng trao đổi, tranh
luận và thông qua đó mà mở rộng nội dung kiến thức của môn học. Cách làm như
vậy thực sự gây hào hứng trong học tập cho sinh viên, thể hiện đúng mối liên hệ
biện chứng của hai đối tác trong dạy và học.
Nhà trường ủng hộ, tạo điều kiện khai thác công nghệ Web mở rộng môi trường dạy
- học theo hướng e-learning (được gọi là "Website môn học") và kết quả nhận được
là khá thành công [CN1.1.5.1, CN5.2.1.2, CN0.19-23]. Các năm học trước triển
khai 27 lượt môn học_lớp và hiện thời (học kỳ 1 năm học 2005-2006) đang triển
khai 23 lượt môn học_ lớp.
Hiện tại, các môn thực hành trong chương trình đào tạo được tiến hành đúng thời
lượng và trực tiếp tại phòng máy chung của trường và khoa. Tuy đã cố gắng tăng
chất lượng cho phòng máy thực hành, song do hạn chế về giảng viên, mặt bằng và
kinh phí cho nên một nhóm thực hành thường có từ 25 đến 30 sinh viên. Việc đánh
giá kết quả môn học thực hành căn cứ vào kết quả sinh viên hoàn thành các bài
kiểm tra trực tiếp trên máy tính tại phòng máy [CN0.9, CN1.1.8.23-25]. Tuy coi

trọng việc liên kết với các cơ sở công nghiệp để hình thành môi trường học tập nghiên cứu toàn diện cho sinh viên nhưng chương trình đào tạo chưa thực sự tường
minh nội dung thực tập công nghệ phối hợp với các công ty CNTT [CN0.9].
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (20/125)


Trong chương trình đào tạo có bố trí môn xêmina có nội dung đề cập tới các
khuynh hướng hiện đại của chuyên ngành nhằm giúp sinh viên tự khảo cứu và trình
bày các kết quả khoa học mới và làm quen với cách làm việc theo nhóm nghiên
cứu.
Nhà trường, Khoa CNTT coi công tác tổ chức sinh viên nghiên cứu khoa học là một
hình thức cải tiến phương pháp dạy - học. Phần đông sinh viên bắt đầu tham gia
nghiên cứu khoa học từ năm thứ ba, có một số trường hợp từ năm thứ hai. Hội nghị
khoa học sinh viên được tổ chức hàng năm với số lượng và chất lượng ngày càng
tăng. Thành tích nghiên cứu khoa học của sinh viên được cộng điểm khi xét chuyển
tiếp sinh. Một số kết quả nghiên cứu khoa học của sinh viên đã được đăng trên tạp
chí khoa học chuyên ngành. Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên đã được
kết hợp trong nhóm nghiên cứu khoa học thực sự [CN2.3.11.1-3, CN2.3.12.1].
Điểm mạnh


Nhà trường, Khoa CNTT coi trọng công tác đổi mới phương pháp dạy - học
và đã tiến hành nhiều giải pháp cụ thể tạo điều kiện để giảng viên và sinh viên
tham gia vào quá trình đổi mới phương pháp dạy - học.



Hầu hết các giảng viên đã tiến hành cải tiến phương pháp dạy - học với
nhiều hình thức phong phú theo hướng nâng cao năng lực tự học cho sinh viên.




Nhà trường đã xác định mục tiêu xây dựng Trường ĐHCN theo môn hình
đại học nghiên cứu. Nhà trường, Khoa CNTT coi trọng và quan tâm, khuyến
khích sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học. Một số công trình nghiên cứu
khoa học của sinh viên có giá trị khoa học.



Đã tiến hành thu thập thăm dò ý kiến phản hồi của sinh viên về các hoạt
động cải tiến phương pháp dạy - học. Kết quả phản hồi cho thấy việc cải tiến này
thực sự đã giúp ích cho sinh viên và được sinh viên hưởng ứng [CN5.2.1.1,
CN5.2.1.2, CN5.3.1.1].

Điểm yếu


Nhà trường, Khoa CNTT chưa có biện pháp cung cấp phương pháp luận cải
tiến phương pháp dạy - học cho đội ngũ giảng viên. Chưa có văn bản hướng dẫn
tường minh phần tự học của sinh viên trong mỗi môn học, vì vậy chưa mở rộng
được phạm vi đổi mới phương pháp dạy - học [CN0.19-23, CN0.9].



Việc quản lý phương pháp giảng dạy môn học chưa triệt để tuy tạo điều kiện
cho phép giảng viên có quyền tự chủ cao trong việc đổi mới phương pháp giảng
dạy, song lại nảy sinh tính không thống nhất về phương pháp dạy - học giữa các
giảng viên đối với cùng một môn học [CN5.2.1.1, CN5.3.1.4].




Sự thiếu hụt về lực lượng giảng viên, tình trạng thiếu tài liệu, kinh phí và
phòng thí nghiệm để hỗ trợ sinh viên tự học có hướng dẫn đã hạn chế tác dụng

Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (21/125)


của các hoạt động đổi mới phương pháp dạy - học. Nội dung thực tập chuyên
môn chưa được quan tâm [CN0.19-23, CN0.9].


Khoa CNTT chưa có các đề tài cấp nhà nước, hoạt động nghiên cứu của
giảng viên và sinh viên chưa tương xứng với mục tiêu đào tạo, vì vậy, mối quan
hệ nội tại bên trong giữa giảng dạy và nghiên cứu chưa được thể hiện tốt trong
chương trình đào tạo. Số lượng nhóm sinh viên nghiên cứu khoa học hàng năm
còn thấp so với quy mô và mục tiêu đào tạo.



Do khó khăn về giảng viên và mặt bằng nên số sinh viên trong một lớp thực
hành, học ngoại ngữ, làm bài tập, xêmina còn quá lớn.

Kế hoạch


Năm 2005-2006: Xây dựng và thực hiện kế hoạch triển khai e-learning theo
dự án giáo dục đại học C1.II. Tổ chức các hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học. Xây dựng văn bản hướng dẫn triển khai đổi mới phương pháp dạy - học.
Thực hiện các giải pháp để hoạt động sinh viên nghiên cứu khoa học tăng trưởng
cả về số lượng và chất lượng. Xây dựng 2 giảng đường hiện đại đủ năng lực triển
khai phương pháp dạy - học tiên tiến nhất. Hình thành mối liên kết Bộ môn –
Công ty triển khai một số môn học thực hành tại các công ty [CN0.9].




Năm 2007-2008: Xây dựng Kế hoạch Phát huy Dự án C1.II, hình thành cơ
bản hệ thống phương tiện đại học số hóa bao gồm hệ thống thành phần e-learning.
Kết hợp hệ thống e-learning với phương thức dạy - học theo tín chỉ [CN0.10,
CN0.19-23, CN0.9].

Tiêu chí 2.4. Thiết kế chương trình đào tạo
Mục tiêu của chương trình đào tạo được thể hiện theo nội dung và cấu trúc của nó
và được đảm bảo bằng quá trình thiết kế chương trình đào tạo. Quy trình thiết kế
chương trình đào tạo CNTT tuân theo đúng quy định cải tiến và đổi mới chương
trình đào tạo của Bộ GD&ĐT và ĐHQGHN. Việc thiết kế và cập nhật chương trình
đào tạo CNTT cũng được định hướng tới chương trình đào tạo CNTT tiên tiến, tuy
nhiên, mức độ cập nhật và đổi mới chưa tương xứng với sự phát triển của CNTT.
Tổ chức chịu trách nhiệm thiết kế chương trình đào tạo là HĐKH&ĐT Khoa CNTT
[CN1.1.8.20]. HĐKH&ĐT Khoa có Chủ tịch, Phó chủ tịch, Thư ký và các thành
viên khác là các Chủ nhiệm bộ môn và một số chuyên gia CNTT trong và ngoài
trường. Thường trực hội đồng (TTHĐ) gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch, Thư ký, Ban
chủ nhiệm khoa, các Chủ nhiệm bộ môn chịu trách nhiệm thay mặt HĐKH&ĐT
Khoa thực hiện một số công việc có tính thường xuyên. Hai nhiệm vụ quan trọng
của HĐKH&ĐT Khoa là thiết kế và cập nhật chương trình đào tạo.


Trong năm năm vừa qua, Trường ĐHCN đã tiến hành hai lần thiết kế phiên
bản mới đối với chương trình đào tạo CNTT vào các năm 2003 và 2005. Việc
thiết kế chương trình đào tạo được tiến hành theo các bước sau đây:
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (22/125)



Bước 1. HĐKH&ĐT Khoa CNTT tổ chức dự thảo chương trình đào tạo.
- TTHĐ thống nhất khung chương trình đào tạo CNTT, phân công nhóm giảng
viên thiết kế các thành phần trong chương trình đào tạo căn cứ theo sự liên
quan của khối kiến thức/bộ phận khối kiến thức với các bộ môn hoặc nhóm
giảng viên.
- Trên cơ sở các chương trình đào tạo tiên tiến về CNTT [CN1.1.8.11-16], dựa
vào tình hình thực tế ứng dụng CNTT trong và ngoài nước, nhóm được phân
công tiến hành dự thảo các thành phần chương trình đào tạo. Các ý kiến đóng
góp của các giảng viên, các cơ quan tuyển dụng và cựu sinh viên cũng được
xem xét đánh giá khi xây dựng chương trình đào tạo.
- HĐKH&ĐT Khoa CNTT xem xét tổng thể bản dự thảo cho chương trình đào
tạo. Nếu đánh giá chương trình đào tạo đã hoàn thành thì báo cáo nhà trường để
xem xét đề nghị công nhận, ngược lại, tiến hành chỉnh sửa các phần còn khiếm
khuyết.
Bước 2. HĐKH&ĐT Trường thẩm định chương trình
- Thường trực HĐKH&ĐT Trường chuyển dự thảo chương trình đào tạo tới các
chuyên gia CNTT trong và ngoài trường để lấy ý kiến đánh giá phản biện.
- HĐKH&ĐT Trường họp thẩm định chương trình đào tạo được đề xuất. Nếu
chương trình đáp ứng yêu cầu thì đề nghị ĐHQGHN công nhận, ngược lại đưa
ra yêu cầu Khoa CNTT chỉnh sửa theo kết luận của Hội đồng.
Bước 3. ĐHQG HN tổ chức thẩm định chương trình đào tạo. Nếu chương trình đáp
ứng yêu cầu thì đề nghị Giám đốc ĐHQGHN công nhận, ngược lại đưa ra yêu
cầu Trường ĐHCN chỉnh sửa theo kết luận của Hội đồng.
Bước 4. Giám đốc ĐHQG HN ra quyết định thực hiện chương trình đào tạo đã được
thẩm định thành công. Khi đó chương trình đào tạo mới được thi hành.


Hàng năm, HĐKHĐT Khoa CNTT tiến hành xem xét việc cập nhật chương
trình đào tạo. Nội dung được cập nhật dựa trên các nghiên cứu, đánh giá về tình
hình phát triển khoa học và công nghệ CNTT trên thế giới và trong nước, dựa trên

các đề nghị của giảng viên và sinh viên. Các chuyên đề lựa chọn và chuyên đề
Những vấn đề hiện đại của CNTT (Xemina) thường được xem xét cập nhật trước
tiên vì chúng được đặt ra để mang tải các tiến bộ khoa học và công nghệ CNTT
vào chương trình đào tạo [CN1.1.2.1-10, CN0.9]. Môn Tin học cơ sở được quan
tâm cập nhật vì nội dung môn học này cũng đề cập tới các tiến bộ của CNTT trên
thế giới và trong nước [CN1.1.1.2, CN1.1.2.5, CN0.19-23, CN0.9]. Tiếp theo là
các môn học về công nghệ, các môn chuyên ngành và cuối cùng mới tới các môn
cơ sở ngành.



Nhà trường, Khoa CNTT đã chú trọng việc đưa chương trình CNTT tham gia
vào mạng lưới đào tạo quốc tế. Cả khi thiết kế lẫn khi cập nhật chương trình đào
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (23/125)


tạo, HĐKH&ĐT Khoa CNTT luôn tiến hành đối sánh với chuẩn mực từ các
chương trình đào tạo CNTT tiên tiến. Thực tế, một số trường đại học nước ngoài
đã công nhận từng phần chương trình đào tạo CNTT của khoa, vì vậy các cơ sở
này đã tiếp nhận sinh viên khoa CNTT học cao học hoặc làm Tiến sỹ đối với sinh
viên tốt nghiệp đại học (như các đại học NUS, Nanyang của Singapore, Korea
của Hàn Quốc, Freiburg của CHLB Đức) hoặc học năm tiếp theo đối với các sinh
viên chưa tốt nghiệp (Phụ lục 5). Chương trình đào tạo CNTT chất lượng cao của
Trường ĐHCN có hai môn học bắt buộc là môn kỹ năng CNTT chuẩn quốc tế
(Nhật bản) và môn tiếng Anh chuẩn TOEFL [CN0.17–18]. Đang chuẩn bị tham
gia chương trình đào tạo liên kết với nước ngoài, đặc biệt là đề án liên thông đại
học – sau đại học CNTT với Pháp, Nhật, Anh. Đã tạo được tiền đề cho việc hợp
tác đào tạo CNTT với nước ngoài, hàng năm một số trường đại học nước ngoài
(Singapore, Hàn Quốc, Hà Lan ...) đã tới khoa CNTT tuyển sinh viên sang trường
họ để tiếp tục học đại học hay cao học [CN5.2.1.1, CN5.3.1.1, CN0.19-23,

CN0.9, Phụ lục 5].
Điểm mạnh


Việc thiết kế chương trình đào tạo được tiến hành theo đúng quy trình của
Bộ GD&ĐT và ĐHQGHN. Đây là một quy trình công phu gồm nhiều bước tiến
hành chặt chẽ nhằm đảm bảo chương trình đào tạo được thiết kế chu đáo, thực sự
thể hiện mục tiêu đào tạo.



Nhà trường, Khoa CNTT thực sự coi trọng công tác thiết kế và cập nhật
chương trình đào tạo. Việc cập nhật chương trình đào tạo được tiến hành hàng
năm, đã huy động trí tuệ của các giảng viên và chú ý tới ý kiến đóng góp của cựu
sinh viên và công ty CNTT.



Trong mọi hoạt động thiết kế và cập nhật chương trình, Nhà trường và Khoa
CNTT tìm nhiều giải pháp hướng tới mục tiêu một chương trình đào tạo CNTT
tiên tiến. Nhờ nắm bắt kịp thời nội dung chương trình đào tạo CNTT tiên tiến
[C1.1.8.11-16], thông qua các hoạt động liên thông quốc tế, chương trình đào tạo
CNTT của Trường ĐHCN ngày càng tiệm cận tới chương trình chuẩn mực.



Việc đổi mới và cập nhật chương trình đào tạo thực sự đã tác động đến kết
quả đầu ra, trình độ sinh viên tốt nghiệp khóa sau tốt hơn khóa trước [C5.3.1.4].

Điểm yếu



Dù đã tìm hiểu và bước đầu nắm bắt được các chương trình đào tạo CNTT
tiên tiến, song do hạn chế về đội ngũ giảng viên mà mức độ nắm bắt và năng lực
thi hành các nội dung của chương trình đào tạo tiên tiến vẫn ở trình độ thấp, nội
dung hoặc cách trình bày một số môn học còn lạc hậu. Vì vậy, dù ngày càng tiệm
cận tới chương trình đào tạo chuẩn, song còn khó khăn rất lớn để tiếp cận được
trình độ tiên tiến.
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (24/125)




Năng lực giao lưu, trao đổi sinh viên với các cơ sở đào tạo nước ngoài còn
hạn chế vi vậy tuy đã có sinh viên tốt nghiệp được một số cơ sở đào tạo nước
ngoài tiếp nhận liên thông song thực sự chưa ký kết văn bản chính thức.

Kế hoạch


Năm 2005-2006: Hoàn chỉnh nội dung chương trình chi tiết, kế hoạch đào
tạo, phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra, đánh giá cho từng môn học.
Đề xuất kế hoạch xây dựng Chương trình đào tạo CNTT theo tín chỉ, chương
trình đào tạo CNTT liên thông với nước ngoài. Khởi động hoạt động thỏa thuận
chính thức trao đổi sinh viên với các cơ sở đào tạo CNTT ở nước ngoài.



Năm 2007-2008: Mở rộng hoạt động trao đổi sinh viên với các cơ sở đào tạo
nước ngoài. Tăng cường năng lực cán bộ để xây dựng chưong trình đào tạo bốn

ngành Khoa học máy tính, Hệ thống thông tin, Kỹ nghệ phần mềm, Mạng máy
tính và Truyền thông.

Tiêu chí 2.5. Kiểm tra - đánh giá
Đề cương chi tiết môn học trong chương trình đào tạo CNTT đã chỉ rõ mục tiêu,
yêu cầu về kiến thức và kỹ năng CNTT liên quan đến môn học đó. Bộ GD&ĐT,
ĐHQGHN đã ban hành các quy định nhằm đảm bảo công tác kiểm tra đánh giá
phản ánh chính xác kết quả dạy - học của Nhà trường. Nhà trường, Khoa CNTT coi
công tác kiểm tra đánh giá là một thành phần quan trọng thực hiện nâng cao chất
lượng đào tạo CNTT. Công tác này của Nhà trường được tiến hành thông qua các
nội dung như xác định yêu cầu và mục tiêu kiếm tra - đánh giá cho toàn bộ chương
trình đào tạo, cho từng môn học cụ thể và thực hiện kiểm tra đánh giá trong khóa
học. Nhà trường, Khoa CNTT đã ứng dụng một số phương pháp kiểm tra - đánh giá
tiên tiến song do khó khăn về lực lượng cán bộ và cơ sở hạ tầng mà phạm vị ứng
dụng các phương pháp tiên tiến còn rất hạn hẹp.
Mục tiêu đào tạo của chương trình đào tạo CNTT được thể hiện trong hệ thống cấu
trúc môn học, được cụ thể hóa trong chương trình chi tiết môn học thông qua việc
chỉ rõ yêu cầu cần đạt được của môn học. Trong Khoa CNTT, người được phân
công xây dựng đề cương chi tiết môn học là những giảng viên có trình độ và kinh
nghiệm giảng dạy môn học đó vì vậy yêu cầu môn học phản ánh đúng yêu cầu của
chương trình đào tạo. HĐKH&ĐT Khoa CNTT xác định các môn học trong chương
trình đào tạo có thể được phân ra ba loại. Khi đánh giá yêu cầu môn học cần sử
dụng phương thức thích hợp cho mỗi loại môn học. Loại thứ nhất, điển hình như
một số môn lý thuyết cơ sở ngành, thì yêu cầu đánh giá về kiến thức cơ bản và tư
duy hệ thống. Loại thứ hai, điển hình như các môn lập trình, lại đòi hỏi đánh giá về
kỹ năng thi hành giải quyết vấn đề. Loại thứ ba, điển hình như môn Tin học cơ sở,
thì yêu cầu kiểm tra đánh giá đòi hỏi cả về kiến thức lý thuyết lẫn kỹ năng thực
hành. Giảng viên bộ môn đã phổ biến cho tất cả sinh viên trong lớp về yêu cầu kiểm
tra - đánh giá (nội dung thi hết môn, thời gian thi, hình thức thi) cho môn học đó.
Báo cáo Tự đánh giá Trường ĐHCN 2/6/2017 (25/125)



×