PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Đọc - hiểu văn bản đang là khâu đột phá mới trong dạy văn – học văn
hiện nay. Nó khắc phục được những hạn chế trong dạy học văn trước đây: học
thụ động, nặng về ghi nhớ lý thuyết, đọc – chép…đồng thời phát triển năng lực
tư duy sáng tạo cho học sinh, giúp học sinh dám bộc lộ quan điểm, chính kiến
trước một vấn đề văn học hoặc cuộc sống, biết giải quyết những vấn đề tương
tự. Mặt khác, do yêu cầu hội nhập quốc tế, kiểm tra đánh giá cần phù hợp với
cách thức và trình độ, xu thế chung của nhiều nước phát triển. Đề cao yêu cầu
kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản là xu thế quốc tế cần đáp ứng. Vì
thế, yêu cầu đổi mới kiểm tra đánh giá đã được Bộ GD và ĐT đặt ra và thực
hiện ngay trong năm học 2013-2014, 2014 -2015 và những năm học tiếp theo.
Đổi mới kiểm tra đánh giá năng lực qua việc đọc – hiểu văn bản của học
sinh không chỉ áp dụng trong các kì thi Đại học, kì thi THPT Quốc gia, mà còn
được đưa vào thực hiện trong cả kì thi chọn HSG THPT cấp tỉnh. Năm học
2015 – 2016, các tỉnh thành như Hà Nội, Hưng Yên, Tây Ninh… cũng đã tiến
hành đưa câu hỏi đọc hiểu văn bản vào cấu trúc đề thi.
Hơn nữa, đối với HSG, kiến thức lí luận văn học được xem như một nền
tảng cơ bản, giúp học sinh đi sâu “giải phẫu”, khám phá cấu trúc nội tại của tác
phẩm văn học như sự vận động của thời gian, không gian, ngôn ngữ, nhân vật…
Việc nắm chắc kiến thức lí luận sẽ giúp học sinh đọc hiểu văn bản sâu sắc, cặn
kẽ, khám phá, phát hiện những tầng nghĩa mới mẻ, thú vị, giàu sức thuyết phục
của tác phẩm. Học sinh chắc chắn kiến thức lí luận văn học, biết vận dụng trong
từng dạng bài, dạng để thì càng chứng tỏ được “tầm” học sinh giỏi của mình.
Trước nay, lí luận văn học vốn là phần chiếm số lượng điểm lớn trong
các đề thi HSG THPT cấp tỉnh (12,0 điểm) và thường được cho dưới dạng nghị
luận làm rõ vấn đề lí luận qua tác phẩm văn học, hình tượng văn học…Bài làm
phần này cần viết dài hơi, sắc bén và chắc chắn. Đọc hiểu văn bản cũng là dạng
bài cần huy động, vận dụng đến kiến thức lí luận văn học, nhưng dưới dạng câu
1
hỏi ngắn và việc trả lời cũng cần đúng, trúng và ngắn gọn hơn. Vì vậy, việc
trang bị kiến thức lí luận văn học và hướng dẫn kĩ năng làm dạng bài đọc hiểu
văn bản có câu hỏi về lí luận cho HSG luôn được các giáo viên dạy đội tuyển ở
các trường THPT quan tâm và chú trọng.
Từ cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn nêu trên đồng thời qua kinh nghiệm
thực hiện thành công của bản thân tôi trong bồi dưỡng HSG năm học 2015 2016, tôi xin mạnh dạn báo cáo về đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Vận dụng lí
luận văn học vào việc làm bài đọc hiểu văn bản cho đối tượng HSG THPT”
Kết cấu bản báo cáo sáng kiến kinh nghiệm gồm 03 phần:
Phần I: Lời mở đầu.
Phần II: Nội dung bao gồm:
1. Biện pháp cũ thường làm.
2. Giải pháp mới cải tiến.
3. Hiệu quả đạt được .
4. Khả năng và phạm vi áp dụng.
Phần III: Kết luận.
2
PHẦN II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Giải pháp cũ thường làm
Đối với Sở GD và ĐT Ninh Bình, những năm học trước, cấu trúc đề thi
chọn HSG thường gồm 2 câu: câu 1 (8,0 điểm) – Nghị luận xã hội, câu 2 (12,0
điểm) – Nghị luận văn học. Tuy nhiên, để bám sát yêu cầu đổi mới kiểm tra
đánh giá năng lực học sinh qua đọc hiểu văn bản, năm học 2014 – 2015, Sở GD
và ĐT Ninh Bình đã ra văn bản chỉ đạo công tác xây dựng ngân hàng đề thi
phải đưa câu hỏi đọc hiểu văn bản vào cấu trúc đề thi. Năm học 2015 – 2016,
cấu trúc đề thi chọn HSG THPT cấp tỉnh đã có sự thay đổi, bao gồm 3 câu: câu
1 (4,0 điểm) – đọc hiểu văn bản, câu 2 (6,0 điểm) – Nghị luận xã hội, câu 3
(10,0 điểm) – Nghị luận văn học. Đó là sự thay đổi phù hợp lí. Tuy nhiên, chính
vì năm học này đề thi chọn HSG tỉnh có câu đọc – hiểu văn bản, khác so với
năm học trước. Vì thế, việc ôn luyện và bồi dưỡng HSG ở các trường THPT có
những khó khăn và lúng túng nhất định. Mặt khác, phần kiểm tra đọc – hiểu văn
bản dành cho đối tượng HSG THPT thường được kiểm tra ở mức độ cao, trong
đó có sử dụng kiến thức lí luận để làm bài đọc – hiểu, giải mã văn bản cũng là
một nội dung mà giáo viên dạy đội tuyển THPT trong tỉnh năm nay phải
“chuyển hướng” để việc ôn luyện đạt kết quả cao.
2. Giải pháp mới cải tiến
Ở chương trình THPT, những bài học chuyên biệt cho phần kiến thức lí
luận văn học không nhiều. Chủ yếu là những bài khái lược về nội dung và hình
thức tác phẩm văn học, phong cách văn học và quá trình văn học… Trong khi
đó, thực tiễn khi ôn tập bồi dưỡng cho đối tượng HSG, người giáo viên phải huy
động, vận dụng rất nhiều kiến thức lí luận cụ thể hơn nữa như: tình huống
truyện, ý nghĩa chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ… để trang bị cho học sinh. Như vậy,
mỗi giáo viên đội tuyển gần như phải tự soạn cho mình một giáo trình riêng về lí
luận văn học, vừa chi tiết cụ thể, vừa đảm bảo độ bao quát chương trình.
3
Tuy nhiên, đối tượng là HS THPT, vì vậy giáo viên cũng không thể “bê
nguyên” giáo trình lí luận với những khái niệm trừu tượng, hàn lâm vào giảng
dạy. Vì thế, trong đề tài này, người viết tập trung hệ thống những kiến thức lí
luận văn học cơ bản, cố gắng “chuyển hóa” thành những kiến thức lí luận gần
gũi, dễ hiểu phù hợp với HS THPT.
Mặt khác, đề tài hướng đến sử dụng kiến thức lí luận văn học trong việc
làm bài đọc – hiểu văn bản. Vì thế, hệ thống kiến thức lí luận đưa ra dưới dạng
những vấn đề bản chất nhất, có khả năng được hỏi nhiều nhất trong khi tiếp cận
một tác phẩm văn học.
Chương I. Hệ thống kiến thức lí luận văn học
1. Cơ sở lí luận chung
1.1 Đối tượng thẩm mĩ của văn học, mối quan hệ giữa văn chương và
cuộc sống
Đối tượng của văn học là hiện thực khách quan và phải có tính thẩm mĩ:
- Văn chương phản ánh chân thực, sinh động hiện thực cuộc sống (mối
quan hệ giữa văn chương và cuộc sống giống như Thần Ăng – tê với Đất Mẹ),
Nếu văn chương tách rời cuộc sống, nó sẽ chết. Tuy nhiên, không phải mọi hiện
tượng tự nhiên, xã hội, con người đều là đối tượng phản ánh của văn học nghệ
thuật mà những hiện tượng đời sống đó phải có tính thẩm mỹ. Nghĩa là, từ một
sự vật, hiện tượng…phải khơi gọi cho nhà văn, nhà thơ nhiều nguồn cảm hứng,
nhiều ý nghĩ, ý tưởng khác nhau, đồng thời hướng người đọc đến cái đẹp, cái
thiện.
Ví dụ: sóng biển chỉ là một hiện tượng tự nhiên, nó luôn trong trạng thái
vận động tới bến bờ. Con sóng dịu êm, lặng lẽ trong những ngày nắng vàng,
biển xanh và dữ dội, ồn ào trong những ngày biển động, phong ba.
Nhưng đi vào trong thơ ca, con sóng xuất hiện với nhiều trạng thái khác
nhau. Trong cao dao, con sóng biểu hiện cho tình yêu chung thủy:
“Bao giờ cho sóng bỏ ghềnh
Cù lao bỏ biển anh đành bỏ em”
4
Trong thơ Nguyễn Du, nó trở thành cong sóng tình – diễn tả cảm xúc
chếnh choáng, say đắm:
`
“Sóng tình dường đã xiêu xiêu
Nghe trong âu yếm có chiều lả lơi” (Truyện Kiều)
Đến Xuân Diệu, con sóng trở nên tham lam trong tình yêu:
“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi” (Biển)
Với Xuân Quỳnh, con sóng là sự hiện diện, là tiếng lòng của người con
gái trong tình yêu. Con sóng được khám phá, phát hiện trong trạng thái phức tạp,
đa chiều. Đó là con sóng tồn tại trong những đối cực: dữ dội – dịu êm, ồn ào –
lặng lẽ. Con sóng tồn tại từ ngày xưa cho tới ngày sau. Con sóng được nhìn từ
nơi bắt đầu của nó (“sóng bắt đầu từ gió”), con sóng gắn với bến bờ trong niềm
thao thức trăn trở…
- Thiên nhiên không hề vắng bóng trong nghệ thuật của bất kì thời đại nào
nhưng thiên nhiên tái hiện trong nghệ thuật có mối liên hệ chặt chẽ với con
người. Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn, tình cảm của con người. Khi
miêu tả thiên nhiên, người nghệ sĩ không chỉ tái hiện vẻ đẹp của tạo hóa (ngoại
cảnh) mà thông qua đó bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng của chính mình (tâm
cảnh).
Như vậy, khi phản ánh hiện thực khách quan, con người luôn là trung tâm
của sự phản ánh trong văn học “văn học và cuộc sống là những vòng tròn đồng
tâm mà tâm điểm là con người” (Nguyễn Minh Châu). Dù miêu tả thiên nhiên
hay thế giới loài vật cũng chỉ là để nói về con người. Trong văn học nghệ thuật,
con người hiện lên với những tính cách độc đáo.
- Văn học là tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc sống, nhà văn là người
thư kí trung thành của thời đại. Mỗi tác phẩm giống như một lát cắt, một bức
tranh thu nhỏ mà qua đó ta thấy được bản chất của xã hội đương thời (giống như
lát cắt trên thân cây mà ta có thể thấy được trăm năm đời thảo mộc). Mặc dù
5
vậy, nhưng văn học không minh họa, “chụp lại”, “sao chép” nguyên vẹn từ cuộc
sống mà phải có sự sáng tạo, hư cấu của người nghệ sĩ từ trong hiện thực. Nghĩa
là, thông qua sự phản ánh hiện thực, nhà văn mối nói lên điều gì, đối thoại thông
điệp gì từ tác phẩm của mình. “Nghệ thuật không đòi hỏi người ta phải thừa
nhận các tác phẩm của nó
1.2 Hình tượng văn học
Hình tượng văn học có thể là thiên nhiên (cây xà nu, sóng, con sông Đà,
sông Hương….), loài vật, đồ vật (dế mèn, cây đàn ghi ta…), con người (Chí
Phèo, Huấn Cao, Mị…). Một đối tượng văn học muốn trở thành hình tượng văn
học phải có tính biểu tượng, phải thể hiện tư tưởng của người nghệ sĩ. Hình
tượng văn học là phương tiện để phản ánh hiện thực qua lăng kính của nhà văn
“hình tượng nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”, “hình
tượng nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhưng đồng thời cũng
là con đẻ của hiện thực khách quan”. Bêlinxki cho rằng “tác phẩm nghệ thuật
sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không có sự thôi thúc
chủ quan mạnh mẽ nào đó có nguồn gốc trong tư tưởng bao trùm thời đại, nếu
nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt
ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó”. Cốt lõi trong nhận định Bêlinxki,
ông cho rằng: nếu tác phẩm sao chép, minh họa cuộc sống, nó sẽ chết; tác phẩm
nghệ thuật chân chính phải là những tác phẩm mang tư tưởng lớn bao trùm thời
đại, xuyên suốt thời đại; nghệ thuật là sự đồng cảm, xót xa trước nỗi đau của
nhân loại. Đó là sự ca ngợi, trân trọng cái Đẹp, cái Thiện; Người nghệ sĩ phải
trăn trở, đau đáu trước những vấn đề hiện thực và trả lời, lí giải nó. Như vậy,
nhà văn dùng hình tượng để bảo vệ cái đẹp, lên án cái xấu, tác động đến cảm
xúc của người đọc, hướng họ đến những giá trị thẩm mĩ.
Hình tượng nhân vật có tính điển hình: Điển hình trong văn học là sự kết
hợp cái chung, khái quát và cái riêng độc đáo của mỗi hình tượng nhân vật.
“Mỗi tác phẩm là một người lạ mặt quen biết” (Lê- ô- na- lê -ô- nít):
Người lạ mặt: sáng tạo nghệ thuật mang tính cá thể. Hiện thực xã hội qua
lăng kính của nhà văn sẽ in đậm dấu ấn chủ quan (tính riêng). Hình tượng văn
6
học đem đến cho người đọc những khám phá mới mẻ, độc đáo, không ai có
được.
Từng quen biết: phải phản ánh đặc điểm, đặc trưng chung của cuộc sống.
Điển hình nghệ thuật lấy từ cuộc sống và phải nói về cuộc sống. Người đọc có
thể bắt gặp chính bản thân mình ở điển hình nào đó.
Như vậy, điển hình văn học phải có sự kết hợp giữa tính chung và tính
riêng, giữa khái quát và cá biệt. Nếu chỉ có cái lạ mặt thì tác phẩm văn học sẽ trở
nên xa lạ và nếu chỉ là người quen biết, điển hình nghệ thuật sẽ không tạo ra
được sức sống.
Nguyên mẫu chỉ là xuất phát điểm, là một phần tài liệu mà nhà văn xây
dựng điển hình. Nhà văn phải hư cấu, tái tạo các đặc điểm của nguyên mẫu để
tạo nên một “chất lượng khác” cho phù hợp với ý đồ sáng tạo của mình. Theo
Lỗ Tấn, ông không dùng hoàn toàn một nguyên mẫu nào mà phải tổng hợp lại:
miệng của người Chiết Giang, mặt của người Bắc Kinh, quần áo ở Sơn Tây… để
tạo nên hình tượng người Trung Quốc.
Tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình có mối quan hệ với nhau,
phải có những hoàn cảnh đặc trưng mới có được tính cách điển hình.
1.3 Chức năng của văn học
- Chức năng hướng thiện (tư tưởng nhân đạo): M. Gorki cho rằng “văn
học là nhân học” nghĩa là văn học có khả năng nhân đạo hóa con người. Tác
phẩm văn học chân chính là tác phẩm có khả năng hướng thiện cho con người
đề họ biết lên án cái xấu, đấu tranh với cái ác, tàn bạo, hướng con người đến
những điều thiện trong đời.
- Chức năng hướng tới cái Đẹp (tư tưởng thẩm mĩ): Tác phẩm văn học
làm giàu đời sống tâm hồn con người, làm cho tâm hồn phong phú, tinh tế hơn.
“Văn chương là khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và
thay đổi thế giới tàn bạo vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú
hơn” (Thạch Lam).
7
- Mối quan hệ giữa tính thẩm mĩ và tính hướng thiện: Cái Đẹp có khả
năng cứu vớt thế giới, làm người ta sống tốt đẹp, nhân hậu, nhận thức được bản
chất của cái ác, cái xấu và hướng con người đến một thế giới tốt đẹp hơn.
2. Đề tài, chủ đề và tư tưởng tác phẩm
- Đề tài: là một phương diện của nội dung tác phẩm, nó chỉ phạm vi hiện
thực cụ thể đã được nhà văn nhận thức, lựa chọn và phản ánh trong tác phẩm.
- Chủ đề: là vấn đề chủ yếu , vấn đề trung tâm được đặt ra từ toàn bộ hiện
thực mà tác phẩm thể hiện. Chủ đề biểu hiện qua nhan đề, qua những lời phát
biểu của tác giả hoặc qua việc miêu tả các biến cố, cảnh ngộ. Nhưng về cơ bản,
chủ đề thường được biểu hiện qua hình tượng, hệ thống nhân vật. Ở những tác
phẩm có giá trị, hình tượng bao giờ cũng có sức “tải vấn đề” rất lớn.
- Tư tưởng tác phẩm: là sự đánh giá và bộc lộ ý nghĩa của những gì đã
được thể hiện, là cách giải quyết vấn đề đã đặt ra trong tác phẩm theo một
khuynh hướng nhất định vốn có ở lập trường, quan điểm của tác giả. Tư tưởng
tác phẩm chính là sự bộc lộ tư tưởng tác giả bằng tác phẩm văn học. “Giá trị
của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giái trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư
tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng
nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu
tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật".
(Theo Nguyễn Khải, Các nhà văn nói về văn, tập 1, NXB Tác phẩm mới, 1985,
trang 61). Nghĩa là, một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của
nó. Nhà văn phải là người có tư tưởng nhưng nghệ thuật không phải chỉ là tư
tưởng đơn thuần mà phải là tư tưởng được rung lên ở các cung bậc của tình cảm,
nghĩa là tư tưởng ấy phải được thấm đẫm trong tình cảm của người viết, tư
tưởng ấy phải được chuyển tải bằng tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ.
3. Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của
văn học. Không có ngôn ngữ thì không có tác phẩm văn học. Bởi ngôn ngữ là sự
cụ thể hóa và vật chất hóa sự biểu hiện của chủ đề, tư tưởng, tính cách và cốt
truyện… Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên nhà văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị
8
và sáng tạo tác phẩm. Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ của đời sống nhưng đã trải
qua quá trình sàng lọc, tinh luyện, đạt đến độ chính xác, hàm súc, biểu cảm và
có tính hình tượng.
Ngôn ngữ trong tác phẩm kịch là ngôn ngữ đối thoại
Ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự là ngôn ngữ của nhân vật, ngôn ngữ của
người kể chuyện
Ngôn ngữ trong thơ ca tiêu biểu cho ngôn ngữ văn học, bởi tính chính xác
hàm súc, biểu cảm và hình tượng tập trung biểu hiện cao độ nhất. Ngôn ngữ
trong thơ được “cô đặc”, được “đúc lại như huân chương”. Nói như Mai – a –
cốt- xki, quá trình chọn lọc ngôn ngữ trong thơ ca giống như quá trình luyện
uranium:
“Phải phí tổn cả ngàn cân con chữ
Đề thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”
Còn nhà thơ Chế Lan Viên thì viết:
Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt
Một giọt mật ngọt thành đòi vạn đời chuyến ong bay
Nay vườn nhãn non Đoài, mai vườn cam xứ Bắc
Ngọt mật ở đồng bằng mà hút nhị tận miền Tây.
“Thơ trước hết và cuối cùng là cuộc hành trình trọn vẹn của ngôn từ. Đối
với người Hy Lạp, thi sĩ là người tạo tác ngôn từ”
4. Thể loại văn học
4.1 Truyện ngắn
- Đặc trưng thể loại: Truyện ngắn là một thể loại văn học, viết tập trung
vào một mảng của cuộc sống, một hay vài biến cố, sự kiện xảy ra… Nhân vật
của truyện ngắn thường thể hiện một khía cạnh hay cấn, căng thẳng nào đó của
một vấn đề xã hội. Truyện ngắn thường ngắn gọn, cô đọng. “Truyện ngắn là độc
tấu, tiểu thuyết là giao hưởng” (P. Bourget).
9
- Tình huống truyện: Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt
nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một
sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư
tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Nhà văn Nguyễn Minh Châu
cho rằng: “Với truyện ngắn và với một tác giả có kinh nghiệm viết, tôi nghĩ rằng
đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra chuyện, thế là coi như xong
một nửa…Những nhà văn có tài đều là những người có tài tạo ra những tình thế
xảy ra chuyện vừa rất cá biệt vừa mang tính phổ biến hoặc tượng trưng” và “…
những người cầm bút có cái biệt tài có thể chọn ra trong cái dòng đời xuôi chảy
một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý
nghĩa nhất, một khoảnh khắc cuộc sống…nhưng bắt buộc con người ở vào một
tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm
chí có khi là khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, một đời nhân loại”
(Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, NXB KHXH, H. 1994, tr. 258).
Hiện nay, còn nhiều cách phân loại tình huống khác nhau.
+ Tình huống hành động: Là loại sự kiện đặc biệt mà trong đó nhân vật bị
đẩy tới một tình thế (thường là éo le) chỉ có thể giải quyết bằng hành động. Tình
huống này thường hướng tới một kiểu nhân vật: Nhân vật hành động. Tức là loại
nhân vật chủ yếu được hiện lên bằng hệ thống hành vi, hành động của nó, các
bình diện khác ít được quan tâm. Do đó, nó quyết định đến diện mạo của toàn
truyện.
+ Tình huống tâm trạng: Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà ở đó
nhân vật rơi vào một tình thế làm nảy sinh một biến động nào đó trong thế giới
tình cảm. Tình huống này thường dẫn tới một kiểu nhân vật là: con người tình
cảm. Nghĩa là kiểu nhân vật được hiện lên chủ yếu bằng thế giới nội cảm của nó,
nhà văn tạo dựng nên hình tượng nhân vật chủ yếu bằng một hệ thống chất liệu
là cảm giác, cảm xúc với các phức hợp khác nhau của chúng. Còn các khía cạnh
khác (như ngoại hình, hành động, lí tính…)
+ Tình huống nhận thức: Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại
đó nhân vật được đẩy tới một tình thế bất thường: đối mặt với một bài học nhận
10
thức, bật lên một vấn đề (về nhân sinh, về nghệ thuật) cần phải vỡ lẽ, giác ngộ.
Kiểu nhân vật của dạng tình huống này đương nhiên là: nhân vật tư tưởng.
Nghĩa là kiểu nhân vật được khai thác chủ yếu ở đời sống nhận thức lí tính của
nó. Chất liệu cơ bản để dệt nên nhân vật là hệ thống những quan sát, phân tích,
suy lí, đúc kết, chiêm nghiệm,… Mà trường hợp đậm đặc nhất là mỗi nhân vật
giống như một tư tưởng được nhân vật hoá vậy.
Sự phân loại như trên là tương đối. Trong thực tế, các dạng ấy đều
ít nhiều có tính pha tạp chứ không hoàn toàn"thuần chủng" như mô tả.
- Nhân vật tính cách: Nhân vật văn học có thể là con người có tên
(như Tấm Cám, Thúy Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng...), có thể là những
người không có tên (như thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia...) hay có thể là
một đại từ nhân xưng nào đó (như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện
ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như mình- ta trong ca dao...). Nhân vật văn học có
chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm
của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gán liền
nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm
hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách của
nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân
vật muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến một nhân vật, nhất là các nhân vật
chính, người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân vật đó. Gắn liền
với Kiều là thân phận của người phụ nữ có tài sắc trong xã hội cũ. Gắn liền với
Kim Trọng là vấn đề tình yêu và ước mơ vươn tới hạnh phúc. Gắn liền với Từ
Hải là vấn đề đấu tranh để thực hiện khát vọng tự do, công lí...Trong Chí Phèo
của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo thể hiện quá trình lưu manh hóa của một bộ
phận nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiên. Ðằng sau nhiều nhân vật
trong truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và
nghèo, những ước mơ tốt đẹp của con người...
Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống
và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá trình mô tả
11
nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là cần
thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính vì vậy,
không nên đồng nhất nhân vật văn học với con người trong cuộc đời. Khi phân
tích, nghiên cứu nhân vật, việc đối chiếu, so sánh có thể cần thiết để hiểu rõ
thêm về nhân vật, nhất là những nhân vật có nguyên mẫu ngoài cuộc đời (anh
hùng Núp trong Ðất nước đứng lên; Chị Sứ trong Hòn Ðất...) nhưng cũng cần
luôn luôn nhớ rằng nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo gắn liền
với ý đồ tư tưởng của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề của hiện thực
cuộc sống. Betông Brecht cho rằng: "Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật
không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là những
hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả".
- Chi tiết trong truyện ngắn là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa
lớn về cảm xúc và tư tưởng”. Chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật
và quan niệm nhân sinh của nhà văn. Đối với người đọc khi nhận biết được các
chi tiết đắt giá trong tác phẩm, chúng ta có thể làm sáng tỏ được ý nghĩa của
hình tượng nghệ thuật, tư tưởng chủ đề của tác phẩm và hiểu rõ ý đồ sáng tạo
của nhà văn. Chi tiết có vai trò quan trọng trong việc xây dựng cốt truyện, tạo
nên tình huống truyện, trong xây dựng hình tượng nhân vật… đặc biệt nhất, chi
tiết có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
“chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn” (M. Gorki). Bằng việc xây dựng được những
chi tiết nghệ thuật đắt giá nhà văn sẽ khẳng định tầm vóc của mình trên văn đàn.
4.2 Thơ
- Tình cảm, cảm xúc, rung động trong thơ: Thơ là tiếng nói của trái tim
“Thơ là người thư kí trung thành của trái tim”, là những rung động và cảm xúc
của con người trước cuộc sống được bộc lộ một cách chân tình và tự nhiên. Vì
vậy, tình cảm, cảm xúc là yếu tố gốc rễ làm nên sự sống của thơ. Tuy nhiên,
không phải tình cảm nào cũng làm nên thơ. Tình cảm hời hợt, nhạt nhẽo, khiên
cưỡng, giả tạo không thể thành thơ. Nếu không có tình cảm sâu sắc, thơ ca chỉ là
sự sáo rỗng, khô cứng, chỉ là những “xác chữ” vô hồn. tình cảm trong thơ phải
là tình cảm chân thật và được đẩy tới độ nồng nàn, mãnh liệt nhất.
12
Tình cảm, cảm xúc trong thơ là của riêng thi sĩ nhưng không thể là những
tình cảm dị biệt. Nó lại phải mang tính phổ quát, trở thành tình cảm chung của
mọi người. Bởi thơ là chuyện một tâm hồn đồng điệu đi tìm một tâm hồn đồng
điệu, là tiếng nói tri âm. Con đường thơ là con đường đi từ trái tim đến trái tim.
Những vần thơ hay bao giờ cũng có sức đồng cảm rộng lớn.
- Liên tưởng, tưởng tượng trong thơ: “thơ là nghệ thuật bậc nhất của trí
tưởng tượng” (Sóng Hồng). Tình cảm phong phú, tưởng tượng đẹp đẽ tạo cho
thơ chất men say, sự lãng mạn bay bổng. “Thơ giữa cuộc đời, hoa giữa nắng”,
nhà thơ phải giàu cảm xúc và dồi dào sức tưởng tượng.
- Về nhịp thơ: Nhịp điệu là phần cấu thành âm nhạc của ngôn ngữ, nó
xuất hiện trong văn xuôi nhưng toàn vẹn nhất là trong thơ. Đối với thơ, vần
chân – vần lưng (rime intérieure) và chỗ nghỉ (pause)… tồn tại để thể hiện nhịp
điệu tâm hồn và cuộc sống một cách hữu hiệu nhất. Càng lắng nghe và cảm
nhận được sự tinh tế của nhịp điệu cuộc sống bao nhiêu, thì sáng tạo thơ ca
càng phong phú bấy nhiêu
5. Nhà văn – quan niệm văn chương và phong cách nghệ thuật
5.1 Quan niệm văn chương
- Quan điểm văn chương: là quan điểm, định hướng tư tưởng sáng tác chi
phối cả cuộc đời cầm bút của nhà văn. Các tác phẩm của nhà văn phải thể hiện
được sự thống nhất trong cách viết.
- Quan điểm sáng tác có khi được nhà văn phát biểu trực tiếp thành lời, có
khi được thể hiện trong các tác phẩm văn học qua hình tượng nhân vật, lời đề
từ…
Vũ Trọng Phụng phát biểu trực tiếp quan niệm sáng tác của mình qua
cuộc tranh luận với nhóm văn xuôi Tự Lực văn đoàn “các anh muốn tiểu thuyết
thì cứ là tiểu thuyết, tôi và các bạn đồng chí của tôi thì muốn tiểu thuyết phải là
sự thật ở đời”; Nguyễn Minh Châu thì phát biểu qua hình ảnh có tính biểu tượng
“chiếc thuyền ngoài xa”: Nghệ thuật tránh cái nhìn dễ dãi, đơn giản, một chiều.
Nghệ thuật phải là sự khám phá, phát hiện dù nó là sự thật nghiệt ngã, cay đắng,
phũ phàng của đời. Nhà văn Nam Cao lại thể hiện quan điểm của mình qua hình
13
tượng nhân vật. Như trong “Đời thừa”, Nam Cao để Hộ phát biểu “Một tác
phẩm thật giá trị phải vượt lên trên mọi bờ cõi và giới hạn, phải là tác phẩm
chung cho cả lời người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ vừa
đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tung tình thương, lòng bác ái, nó làm cho
người gần người hơn”.
5.2 Phong cách nghệ thuật của nhà văn
- Phong cách là nét riêng độc đáo của mỗi nhà văn thể hiện qua tác phẩm
của mình. Nó chính là cái “giọng điệu riêng” của nhà văn. Bản chất của văn học
là sự sáng tạo miệt mài không ngừng nghỉ, nghệ thuật sẽ chết nếu không có nét
riêng độc đáo. Văn học phản ánh hiện thực, là con đẻ tinh thần của hiện thực xã
hội xong không phải lúc nào cũng trùng lặp, giống y nguyên hiện thực. Hiện
thực qua lăng kính, qua bầu cảm xúc của tác giả để đi đến tác phẩm mang nhiều
hàm nghĩa sâu xa. Macxen Prous cho rằng “thế giới được tạo lập không phải
một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo
lập”. Nghĩa là, từ một hiện thực nhưng qua cái nhìn độc đáo của nhà văn thế giới
đó trở nên mới mẻ hơn và được lí giải theo một cách khác. Đại thi hào Nguyễn
Du thì cho rằng mỗi nhà thơ là một “tiểu hóa công” (một ông trời con).
- Phong cách biểu hiện ở:
+ Cách nhìn, cách cảm thụ giàu tính khám phá nghệ thuật đối với cuộc
đời
+ Giọng điệu riêng gắn liền với cảm hứng sáng tác. - Nét riêng trong lựa
chọn đề tài, chủ đề, đối tượng miêu tả.
+ Tính thống nhất, ổn định trong cách sử dụng các phương thức và
phương tiện nghệ thuật.
Chương II. Một số đề đọc – hiểu văn bản dành cho HSG THPT có thể
vận dụng kiến thức lí luận văn học
Đề 1. Đọc - hiểu văn bản sau
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Thanh lách cánh cửa gỗ để khép, nhẹ nhàng bước vào. Chàng thấy mát
hẳn cả người; trên con đường gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng
14
lọt qua vòm cây xuống nhảy múa theo chiều gió. Một mùi lá tươi non phảng
phất trong không khí. Thanh rút khăn lau mồ hôi trên trán, bên ngoài trời nắng
gắt, rồi thong thả đi bên bức tường hoa thấp chạy thẳng đến đầu nhà. Yên tĩnh
quá, không một tiếng động nhỏ trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào
ngoài kia đều ngừng lại trên bực cửa.
Thanh bước lên thềm, đặt va li trên chiếc trường kỷ, rồi ngó đầu nhìn vào
trong nhà; bóng tối dịu và man mát loáng qua những màu sắc rực rỡ chàng đem
ở ngoài trời vào, Thanh chưa nhìn thấy rõ gì cả, một lát quen bóng tối, chàng
mới nhận thấy cảnh tượng gian nhà cũ không có gì thay đổi, cũng y nguyên như
chàng đi xưa. Sự yên lặng trầm tĩnh đến nỗi Thanh trở nên nghẹn họng, mãi
chàng mới cất được tiếng lên gọi khẽ:
- Bà ơi
Một cái bóng lẹ làng từ trong vụt ra, rơi xuống mặt bàn, Thanh định thần
nhìn rõ: con mèo của bà chàng, con mèo già vẫn chơi đùa với chàng ngày
trước. Con vật nép chân vào mình khẽ phe phẩy cái đuôi, rồi hai mắt ngọc thạch
xanh giương lên nhìn người. Thanh mỉm cười lại gần vuốt ve con mãn:
- Bà mày đâu?
Thanh bước xuống giàn thiên lý. Có tiếng người đi, rồi bà chàng, mái tóc
bạc phơ, chống gậy trúc, ở ngoài vườn vào. Thanh cảm động và mừng rỡ, chạy
lại gần.
- Cháu đã về đấy ư?
(Dưới bóng hoàng lan - Thạch Lam)
Câu 1. Diễn biến tâm trạng của nhân vật Thanh trong đoạn trích trên như thế
nào?
Câu 2. Hãy nêu lên đặc điểm nhịp điệu câu văn trong đoạn văn trên. Nêu hiệu
quả của nó.
Câu 3. Đây là đoạn văn rất giàu chất thơ. Hãy chỉ ra những yếu tố làm nên chất
thơ của văn bản.
15
Câu 4. Đoạn văn trên thể hiện rõ đặc điểm nào trong phong cách của nhà văn
Thạch Lam?
Câu 5. Theo em, những rung động xúc cảm trước ngoại cảnh có ý nghĩa gì trong
đời sống tâm hồn của con người?
Gợi ý trả lời
Câu 1. Diễn biến tâm trạng của nhân vật Thanh:
- Cảm giác mát hẳn cả người khi bước chân qua cánh cổng vào nhà. Cảm
giác ấy được gợi lên từ không gian dịu mát của khu vườn, màu xanh của cây lá,
mùi thơm của lá non
- Cảm giác thư thái khi bước chân vào khu vườn dịu mát, xa hắn cái nóng
bức, ồn ào bên ngoài
- Sự yên lặng trầm tĩnh đến nỗi Thanh trở nên nghẹn họng: xúc động,
nghẹn ngào trước cảnh tượng quen thuộc của ngôi nhà và sự tĩnh lặng của nó.
- Cảm động và mừng rỡ khi nhìn thấy bóng dáng thân yêu của bà.
Câu 2. - Đoạn văn có nhịp điệu nhẹ nhàng, chậm rãi, thong thả.
- Hiệu quả:
+ hỗ trợ diễn tả trạng thái của nhân vật: một chàng trai đi làm xa trên
tỉnh, lâu mới về thăm nhà. (Chàng vừa đi vừa thong thả ngắm cảnh tượng khu
vườn, căn nhà và thưởng thức cảm giác thân thuộc, dễ chịu của chốn thân quen.)
+ Gợi ra khung cảnh thiên nhiên rất mát mẻ, tĩnh lặng.
Câu 3. Những yếu tố làm nên chất thơ của đoạn văn:
- Những từ ngữ diễn tả cảm giác, tâm trạng của nhân vật (thấy mát hẳn
người, trở nên nghẹn họng...); diễn tả đặc điểm của cảnh vật (tươi non, dịu và
man mát, sự yên lặng trầm tĩnh...,)
- Giọng điệu nhẹ nhàng, tình cảm; tiết tấu chậm rãi.
- Nội dung: những rung động rất tinh tế trong tâm hồn của nhân vật.
16
Câu 4. Đoạn văn thể hiện đặc điểm phong cách nghệ thuật của Thạch Lam: giàu
chất trữ tình bởi ngôn ngữ trong sáng, giản dị giàu hình ảnh, nhạc điệu, cảm xúc
và giọng điệu nhỏ nhẹ, tâm tình, chân thành, sâu sắc.
Câu 5. Những rung động trước vẻ đẹp của ngoại cảnh (thiên nhiên, con người)
là biểu hiện của con người có tâm hồn, biết quan sát, cảm nhận tinh tế cuộc sống
xung quanh; có óc thẩm mỹ, biết cảm thụ cái đẹp. Những rung động ấy làm cho
họ thấy cuộc đời đẹp hơn, từ đó có ý thức xây dựng cuộc sống có ý nghĩa hơn.
Đề 2. Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Điền rất yêu trăng. Cái ấy cũng là bình thường, bởi óc Điền đẫm văn thơ.
Có đọc văn thơ mới biết trăng là một cái đẹp và quý lắm. Trăng là cái liềm vàng
giữa đống sao. Trăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm nhung da trời. Trăng tỏa
mộng xuống trần gian. Trăng tuôn xuống mát để những hồn khát khao ngụp
lặn. Trăng, ơi trăng! Cái vú mộng tròn đầy mà thi sĩ của muôn đời mơn man!
Điền không ân hận chút nào. Hai thân Điền bán cả ruộng vườn đi để cho Điền
đi học chẳng phí đâu. Đã đành các người chỉ có vài mục đích con làm lên ông
phán, ông tham để ấm thân; các người hoàn toàn thất vọng khi thấy con leo
cau đến tận buồng mà lại hỏng ăn. Điền tạng yếu quá, không được nhận vào
công sở; và các người đã vội cho là tiền con đi học thật là tiền vất xuống sông.
Nhưng Điền tin rằng: các học thức của Điền tuy chẳng giúp Điền kiếm nổi
miếng ăn, nhưng cũng có ích cho Điền nhiều lắm. Chỉ có một cái nhờ nó mà
Điền đọc nổi văn thơ, và nhờ văn thơ mà hiểu được cái đẹp của gió, của trăng.
Và Điền rất phàn nàn cho những tâm hồn cằn cỗi như tâm hoàn của vợ Điền.
Đối với thị, trăng chỉ là …đỡ tốn hai xu dầu!
(Nam Cao, Trăng sáng, theo Nam Cao – tác phẩm chọn lọc,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2009)
Câu 1. Nội dung chính của đoạn văn trên là gỉ?
Câu 2. Những nhận xét sau đó về Điền là đúng hay sai? Đánh dấu X vào ô
thích hợp.
Nhận xét
1. Điền là người luôn khát khao mộng văn chương.
2. Điền là người có học thức.
3. Điền là con người mạnh mẽ.
4. Điền là con người được học hành nhưng không lập thân được.
17
Đúng
Sai
Câu 3. Đoạn văn sau có những đặc sắc gì về nghệ thuật? Tác dụng của các
biện pháp nghệ thuật đó là gì?
Trăng là cái liềm vàng giữa đống sao. Trăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm
nhung da trời. Trăng tỏa mộng xuống trần gian. Trăng tuôn xuống mát để
những hồn khát khao ngụp lặn. Trăng, ơi trăng!
Câu 4. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về quan điểm sau đây của nhân vật
Điền?
Điền tin rằng: các học thức của Điền tuy chẳng giúp Điền kiếm nổi miếng
ăn, nhưng cũng có ích cho Điền nhiều lắm. Chỉ có một cái nhờ nó mà Điền đọc
nổi văn thơ, và nhờ văn thơ mà hiểu được cái đẹp của gió, của trăng.
Câu 5. Qua đoạn trích trên, Nam Cao đã thể hiện những gì về người trí
thức trước Cách mạng?
Gợi ý trả lời
Câu 1. Nội dung chính của đoạn trích trên nói về niềm say mê và khát
vọng văn chương lãng mạn của Điền.
Câu 2. 1 - Đúng, 2 – Đúng, 3 - Sai, 4 – Đúng
Câu 3. Đặc sắc của đoạn văn: sử dụng các câu văn ngắn, lặp cấu trúc,
cách nói so sánh giàu hình ảnh
Tác dụng của biện pháp nghệ thuật: thể hiện cảm xúc mãnh liệt, say đắm
của nhân vật trước vẻ đẹp của trăng, của thiên nhiên.
Câu 4. HS nêu được suy nghĩ về quan điểm của Điền. Có thể đồng tình
hoặc không đồng tình và giải thích được lí do.
- Đồng tình: Nêu suy nghĩ về vai trò của học thức đối với việc làm
phong phú đời sống tâm hồn con người, giúp con người biết cảm nhận
và đón nhận cái đẹp của thiên nhiên và cuộc sống.
- Không đồng tình: học thức quan trọng nhất là phải giúp con người
sống được, nếu học thức không giúp con người kiếm nổi miếng ăn thì
việc thưởng thức cái đẹp của gió trăng cũng chẳng có ý nghĩa.
Câu 5. HS nêu được một số nét về người trí thức trước CM tháng 8: học
có học thức, có khát vọng, có niềm rung cảm đặc biệt với cái đẹp của nhân gian
18
và muốn theo đuổi khát vọng nhưng lại luôn gặp phải những khó khăn trong
cuộc sống đời thường khi học thức không giúp họ có đủ miếng cơm manh áo.
Đề 3. Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
(Hoàng Cầm, Bên kia sông Đuống, Ngữ văn 12 nâng cao, tập một)
Câu 1. Nội dung chính của đoạn thơ trên là gỉ?
Câu 2. Trong 10 câu thơ đầu (Em ơi buồn làm chi.... Sao xót xa như rụng
bàn tay) hình ảnh sông Đuống hiện lên như thế nào?
Câu 3. Vì sao nói câu thơ “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến
trường kì) có tính tạo hình rất cao?
19
Câu 4. Cảm nhận của anh (chị) về hình ảnh “quê hương ta” “ bên kia sông
Đuống” và tình cảm của nhà thơ qua các câu thơ sau:
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Câu 5. Vì sao có thể nói ngôn ngữ của đoạn thơ mang đậm tính nhạc và
tính hội họa?
Câu 6. Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm là một bài thơ viết về đề tài
đất nước trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Theo anh (chị), bài thơ có gì
“mới” so với những tác phẩm khác viết cùng đề tài mà anh (chị) đã học hoặc đã
đọc? Hãy chỉ ra ít nhất một nét “mới” ấy.
Gợi ý trả lời
Câu 1. Đoạn thơ trên thể hiện toàn cảnh quê hương “bên kia sông Đuống”
của ngày xưa yên bình và tâm trạng nhớ tiếc, xót xa của nhà nhà thơ khi quê
hương bị tàn phá.
Câu 2. Hình ảnh sông Đuống hiện lên qua hồi tưởng của tác giả trong 10
câu thơ đầu là hình ảnh con sông tươi tắn với một không gian khoáng đạt (bãi
sông cát trắng phẳng lì), được bao phủ bởi màu xanh tươi dịu nhẹ (màu của ngô
khoai, bãi mía, nương dâu…), lấp lánh ánh sáng (dòng lấp lánh, cát trắng)…
Câu 3. HS chỉ ra tính tạo hình của câu thơ “nằm nghiêng nghiêng trong
kháng chiến trường kì” bằng viecj nêu lên biện pháp nhân hóa (con sông nằm
như con người), từ láy (nghiêng nghiêng), từ chỉ trạng thái (nằm), cụm từ chỉ địa
điểm kết hợp với thời gian (trong kháng chiến trường kì). Các yếu tố nghệ thuật
này đã làm nổi bật vẻ đẹp tình tứ, duyên dáng của sông Đuống.
Câu 4. HS cảm nhận “quê hương ta””bên kia sông Đuống” qua các câu
thơ đã dẫn theo hướng tập trung vào các từ ngữ (quê hương ta, thưm nồng, tươi
trong, sáng bừng) để làm rõ vẻ đẹp, trù phú, giàu truyền thống văn hóa của vùng
đất Kinh Bắc. Qua đó, nhà thơ thể hiện sự yêu mến, tự hào về quê hương mình.
Câu 5. HS khẳng định ngôn ngữ trong đoạn thơ trên mang đậm tính nhạc
và tính hội họa. Làm rõ tính nhạc của đoạn thơ được thể hiện ở cách gieo vần,
20
ngắt nhịp, âm điệu, nhịp điệu…; làm rõ tính hội họa được thể hiện ở từ láy
tượng hình, các từ chỉ màu sắc, hình ảnh các bức tranh Đông Hồ được nhắc đến.
Câu 6. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” có những nét mới so với các thi
phẩm khác viết cùng đề tài đã học (như Việt bắc – Tố Hữu; Đất nước – Nguyễn
Đình Thi, …) ở các khía cạnh: cảm hứng chủ đạo, các cung bậc cảm xúc – tâm
trạng của nhà thơ; các khía cạnh nghệ thuật (xây dựng hình tượng, sử dụng hình
ảnh, gieo vần, ngắt nhịp…)
Đề 4. Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Nếu ngày mai em không làm thơ nữa
Xuân Quỳnh
Nếu ngày mai em không làm thơ nữa
Cuộc sống trở về bình yên
Ngày nối nhau trên đường phố êm đềm
Không nỗi khổ, không niềm vui kinh ngạc
Trận mưa xuân dẫu làm ướt áo
Nhưng lòng em còn cảm xúc chi đâu
Mùa đông về quên nỗi nhớ nhau
Không xôn xao khi nắng hè đến sớm
Chuyện hôm nay sẽ trở thành kỉ niệm
Màu phượng chẳng nồng nàn trên lối ta đi.
Gió thổi nơi này không lạnh tới nới kia
Lời nói tâm tình trở nên nhạt nhẽo
Nghe tiếng con tàu em không thể hiểu
Tấm lòng anh trong mỗi chuyến đi xa
Em không còn thấy nhớ những sân ga
Những nơi đã đi, những nơi chưa hề đến
Khát vọng anh dẫu hoà trong sóng biển
Sóng xô bờ chẳng rộn đến tâm tư
Một ngày nào đọc lại dòng thơ
Âm điệu ấy chẳng còn gieo tiếng nhạc
Chất men nào làm em choáng váng
Cũng phai dần theo những tháng năm xa.
Như hòm thư không còn một phong thư
Hết ngọn lửa lạ lùng, thôi mùa mây phiêu bạt.
Ơi trời xanh - xin trả cho vô tận
Trời không xanh trong đáy mắt em xanh
21
Và trong em không thể còn anh.
Nếu ngày mai em không làm thơ nữa.
(Trích tập thơ “Không bao giờ là cuối” – Xuân Quỳnh)
Câu 1. Nêu cấu tứ bài thơ và chi biết mục đích của việc tạo nên cấu tứ ấy là gì?
Câu 2. Theo anh/ chị, nhà thơ có thể “không làm thơ nữa” không? Vì sao?
Câu 3. Hãy chỉ ra quan niệm của Xuân Quỳnh về thơ trong bài thơ trên và cho
biết anh/ chị có đồng tình với quan niệm đó không? Vì sao?
Câu 4. Ra-xum Gam – ma- top cho rằng: “Thơ ca, nếu không có người tôi đã mồ
côi”. Hãy chỉ ra sự tương đồng với quan niệm đó không? Vì sao?
Câu 5. Ngoài quan niệm về thơ của Xuân Quỳnh thể hiện trong bài thơ trên, anh/
chị còn biết quan niệm nào khác? Hãy nêu và giải thích ngắn gọn quan niệm đó.
Câu 6. Thơ ca có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống và tâm hồn của anh/
chị? Cho ví dụ để làm sáng tỏ điều đó.
Gợi ý trả lời
Câu 1. Cấu tứ bài thơ là một giả định nằm trong nhan đề của bài thơ –
Nếu ngày mai em không làm thơ nữa.
Mục đích của việc tạo nên cấu tứ này: nhà thơ đưa ra giả định đó để nhận rõ ý
nghĩa của thơ với cuộc sống, cuộc đời mình.
Câu 2. HS trả lời theo ý hiểu cá nhân về việc nhà thơ có thể “không làm
thơ nữa” hay không. Tuy nhiên, nếu vận dụng những hiểu biết về cuộc đời và sự
nghiệp của Xuân Quỳnh thì cần khẳng định nhà thơ sẽ vẫn tiếp tục làm thơ. Bởi
Xuân Quỳnh là người phụ nữ dường như sinh ra cho tình yêu và cho thơ. Thơ
với Xuân Quỳnh chính là khát vọng được sống hết mình với tất cả những rung
động, những tình cảm của một tâm hồn, một con người trong cuộc đời (với cuộc
sống thường nhật, với thiên nhiên, với cuộc đời và với người thân yêu của
mình). Thơ là phương tiện để Xuân Quỳnh thể hiện tình yêu của mình. Vì thế,
nhà thơ không thể không làm thơ nữa.
Câu 3. HS nêu được quan niệm của Xuân Quỳnh về thơ (thể hiện qua bài
thơ) theo hướng: thơ ca có ý nghĩa quan trọng với cuộc sống, cuộc đời của nhà
thơ. Thơ là phương tiện để nhà thơ thể hiện sự giao cảm với cuộc sống và con
22
người, thơ là tiếng nói của khao khát, giao cảm, thơ là tiếng nói của tình yêu mà
nhà thơ dành cho người mình yêu… Nhà thơ không bao giờ từ bỏ thơ, “không
làm thơ nữa”. Từ đó, HS bày tỏ sự đồng tình hay phản đối của mình với quan
niệm của nhà thơ Xuân Quỳnh bằng lí lẽ, dân chứng cho phù hợp.
Câu 4. HS thể hiện hiểu biết về quan niệm của Ra-xum Gam – ma- top
cho rằng: “Thơ ca, nếu không có người tôi đã mồ côi”. Với ông, thơ ca giống
như người mẹ sinh ra và nuôi dưỡng nhà thơ về mặt tâm hồn. Nếu không có thơ,
không làm thơ ông giống như người mồ côi vậy. Quan niệm này có điểm tương
đồng với quan niệm thơ của Xuân Quỳnh ở trên. Đó là cả hai nhà thơ đều coi
trọng thơ ca vì thơ ca có vai trò quan trọng trong cuộc sống riêng của mỗi người.
Câu 5. HS nêu một quan điểm về thơ khác mà mình biết và giải thích
ngắn gọn quan niệm đó. Quan niệm đó phải phản ánh đúng đặc trưng của thơ, có
giá trị tích cực. Phần giải thích cần hợp lí, chính xác.
Ví dụ một số quan niệm thơ sau đây:
- Thơ là những cảm hứng kì diệu của tâm hồn (Puskin)
- Vĩ đại thay là sứ mệnh của thơ ca! Trong ngục tối, thơ trở thành quật
khởi, bên cửa sổ bệnh viện, thơ là khao khát và hi vọng lành bệnh…
(Bô – đơ – le)
- Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình… Thơ là điệu hồn đi tìm một tâm
hồn đồng điệu (Tố Hữu)
Đề 5. Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
TỜ HOA
Tại một công trường làm đường Tây Bắc, 1966.
Tôi nhìn ra cái tàu lăn nghiến đá mặt đường mới, nhìn ra những kíp thợ
xây dựng mở đường, nhìn ra một cái tổ ong của anh chị em làm đường vừa
mang được ong chúa về. Cửa sổ buồng tôi viết, lúc nào cũng nhộn nhịp cánh tay
người và những cánh ong quen dần với tổ mới. Ong bay trên trang sổ tay tôi.
Ong tua tròn trên trang giấy chữ nhật trắng, như là tàu bay đảo nhiều vòng, chờ
lệnh hạ xuống. Buồng bên có người bị ong đốt. Bởi vì người trên đó hoảng hốt
vừa giết ong một cách không cần thiết, và ngửi thấy mùi máu, bọn ong cùng tổ
liền xông tới đốt. Rồi ong cũng lăn ra chết, tinh hồn xuất theo luôn với nọc đốt.
23
Con ong bé cũng như con voi to, vốn tính lành nhưng khiêu khích chúng thì
chúng đánh lại ngay, dẫu rằng có phải bổn mạng ra mà trả lời. Anh cán bộ địa
chất liền cho tôi mượn một số tạp chí khoa học có mấy trang về nuôi ong. Giờ
tôi mới biết rằng đó là một thế giới đầy sinh thú. Đời sống con ong để lại cho
người đọc nó một bài học về kiên nhẫn, về cần lao, về tích lũy, về chế tạo và
sáng tạo. Người ta đã đánh dấu con ong, theo dõi nó và thấy rằng cái giọt mật
làm ra đó, là kết quả của 2.700.000 chuyến (bay) đi, đi từ tổ nó đến khắp các
nơi có hoa quanh vùng. Và trong một nửa lít mật ong đóng chai, phân chất ra
được 5 vạn thứ hoa. Tính ra thành bước chân người thì tổng đường bay của con
ong đó là 8.000.000 cây số.
Giữa rừng Tây Bắc đầy hoa, đầy bướm, đầy ong, cái tôi thấy say say
trong chính mình là mặc dầu không được một chuyến đi bằng một đời ong, mình
cũng là một con sinh vật đang nung một thứ mật gì. Sự tích lũy ở mình cũng
ngày ngày có giọt ra mà phần nào đem thơm thảo vào sự sống. Đối hoa xuân
lắng ong mật mà thêm ngẫm tới đàn bướm tốt mã chấp chới bay, lộng lẫy những
sắc phấn của sáo ngữ ồn ào. Bướm phù phiếm cũng bay vào hoa nhưng cặp
cánh hòa nhoáng chẳng để lại gì. Từ ngày có lịch sử tiến hóa của loài người,
chưa ai dám nói đến mật bướm.
Người ta hay nhắc đến mang nặng đẻ đau. Có những quá trình không
phải hoài thai, không đẻ gì (theo nghĩa hẹp và theo nghĩa đen sinh học) nhưng
rất khổ đau và nặng nhọc, đèo bòng. Ngọc trai nguyên chỉ là một hạt cát, một
hạt bụi biển xâm lăng vào vỏ trai, lòng trai. Cái bụi bặm khách quan nơi rốn bể
lẻn vào cửa trai. Trai xót lòng. Máu trai liền tiết ra thứ nước dãi bọc lấy cái hạt
buốt sắc. Có những cơ thể trai đã chết ngay vì hạt cát từ đâu bên ngoài gieo vào
giữa lòng mình (và vì trai chết nên cái bụi kia vẫn chỉ là hạt cát). Nhưng có
những cơ thể trai vẫn sống, sống lấy máu dãi mình ra mà bao phủ lấy hạt đau
hạt xót. Tới một thời gian nào đó, hạt cát khối tình con, cộng với nước mắt hạch
trai, đã trở thành lõi sáng của một hạt ngọc tròn trặn ánh ngời.
Buổi ban đầu vào nghề viết cách đây vài chục năm, khi nhìn chuỗi ngọc
trên cổ người “con hát” một thời Thăng Long tôi mới chỉ liên hệ nhân cát ngọc
với mảy bụi cát kiếp người nơi thập điều Kinh Thánh. Cho tới gần đây tôi mới
nhìn rõ thân thể của con trai. Biết nhìn nó không phải chỉ ở chặng thành tựu
chót cùng nơi cổ nơi ngón con người ta, mà là nhìn thấy được nó ở một quá
trình dài, đầu kia quá trình là một vết thương lòng và đầu này quá trình là một
niềm vui. Đầu kia quá trình là một cơn giận dữ tự vệ, đầu này quá trình là một
giọt tài nguyên Tổ quốc ta bao la bãi cát.
(Nguyễn Tuân, Theo Văn học 12, tập một, Nxb Giáo dục, 1996)
Câu 1. Những con số trong văn bản nói lên điều gì?
24
Câu 2. Tìm những từ/ cụm từ đồng nghĩa với cụm từ “một hạt cát”?
Câu 3. Anh/ chị cảm nhận được thông điệp nào từ việc nhà văn “đối hoa
xuân lắng ong mật” rồi “ngẫm tới đàn bướm”?
Câu 4. Nguyễn Tuân đã thể hiện cái “tôi” của mình như thế nào trong văn
bản trên?
Câu 5. Nhan đề Tờ hoa của văn bản có hàm nghĩa là những trang viết đẹp,
văn chau chuốt đầy màu sắc và hương thơm – những dòng chữ như gấm như
hoa. Anh/ chị hãy chỉ ra biểu hiện của điều đó qua văn bản trên.
Gợi ý trả lời
Câu 1. Những con số trong văn bản cho thấy sự khảo cứu công phu, chính
xác của nhà văn về các đối tượng được nói đến, từ đó tạo nên sức thuyết phục
cho thông tin mà văn bản đưa ra.
Câu 2. Những từ/ cụm từ đồng nghĩa vơi cụm từ “một hạt cát” trong văn
bản: một hạt bụi biển, cái bụi bặm khách quan nơi rốn biển, cái bụi kia, cái hạt
buốt sắc, hạt đau, hạt xót, hạt cát khối tình con, lõi sáng của một hạt ngọc tròn
trặn ánh ngời.
Câu 3. HS nêu cảm nhận của mình về thông điệp từ việc nhà văn “đối hoa
xuân lắng ong mật” rồi “ngẫm tới đàn bướm” theo hướng sau: có những công
việc tưởng chừng như giống nhau (như ong và bướm cùng “bay vào hoa”)
nhưng lại có kết quả khác nhau, do cách thức và thái độ làm việc khác nhau (như
con ong hút mật hoa, làm ra mật ngọt; con bướm cũng bay vào hoa nhưng chẳng
để lại gì, “chưa ai dám nói đến mật bướm”); trong cuộc sống có những người bề
ngoài hào nhoáng (tốt mã) nhưng không có tài năng và vẻ đẹp tâm hồn nào; văn
chương nếu chỉ là ngôn từ hoa mĩ, sáo rỗng thì cũng không có ý nghĩa.
Câu 4. Trong văn bản trên, Nguyễn Tuân đã bộc lộ khá đầy đủ cái “tôi”
của mình: tài hoa, uyên bác, quý trọng nghề nghiệp của mình, nghiêm túc…
Câu 5. HS thể hiện cảm nhận và chỉ ra vẻ đẹp trong trang văn của Nguyễn
Tuân qua văn bản theo hướng:
- Những trang văn cho thấy vẻ đẹp của muôn loài, của con người, của
nghề văn.
25