Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

skkn một số BIỆN PHÁP tổ CHỨC làm QUEN tác PHẨM văn học NHẰM GIÚP TRẺ cảm THỤ tác PHẨM THÔNG QUA TRUYỆN kể CHO TRẺ mẫu GIÁO 3 4 TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.14 KB, 12 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC LÀM QUEN TÁC PHẨM VĂN
HỌC NHẰM GIÚP TRẺ CẢM THỤ TÁC PHẨM THÔNG QUA TRUYỆN
KỂ CHO TRẺ MẪU GIÁO 3 - 4 TUỔI
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
*. Lý do khách quan
Chăm sóc giáo dục trẻ em ngay từ những tháng năm đầu tiên của cuộc
sống là một việc làm hết sức cần thiết và có một ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong sự nghiệp chăm lo đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những con người
tương lai của đất nước Việt Nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ
trên con đường đi đến xây dựng một xã hội giàu mạnh, ấm no, văn minh và hạnh
phúc. “trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”.
Ngày nay, giá trị con người ngày càng được nhận thức đúng đắn và đánh giá một
cách toàn diện sâu sắc thì công tác chăm sóc, giáo dục trẻ càng mang một ý
nghĩa nhân văn cụ thể, càng trở thành một đạo lý của thế giới văn minh.
*. Lý do chủ quan
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy tôi thấy có một số thuận lợi và khó khăn
sau:
- Trường ở trung tâm đã xây dựng đạt chuẩn quốc gia nên cơ sở vật chất
khá đầy đủ
- Trường luôn tạo điều kiện mở chuyên đề cho giáo viên dự giờ, thao giảng
- Bản thân luôn luôn học hỏi kinh nghiệm từ chị em đồng nghiệp, luôn chịu
khó tìm tòi sách báo tham khảo và nhiệt tình trong công tác.
Bên cạnh đó, quá trình giảng dạy tôi thường gặp phải một số khó khăn như
sau:
- Trẻ 3 – 4 tuổi vốn ngôn ngữ, kinh nghiệm sống của trẻ còn hạn chế


- Đối với chương trình đổi mới hiện nay đồ dùng tranh ảnh còn thiếu.
- Để khắc phục những khó khăn trên trong quá trình giảng dạy tôi cố gắng
tìm tòi nghiên cứu và đề ra những biện pháp giúp trẻ cảm thụ tác phẩm văn học


để nâng cao chất lượng môn làm quen văn học theo chương trình đổi mới.
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục kinh tế
quốc dân: “Mẫu giáo tốt, mở đầu nền giáo dục tốt”. mục đích chung của giáo dục
mầm non là tạo điều kiện tốt để chăm sóc và giáo dục trẻ. Hình thành những cơ
sở ban đầu của nhân cách con người mới. Giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
Việc cho trẻ làm quen văn học là cả một quá trình rèn luyện khả năng phát
triển kỹ năng ngôn ngữ để giao tiếp. Biết cách diễn đạt ý nghĩ, mong muốn tình
cảm, cảm xúc của trẻ một cách rỏ ràng, dễ hiểu đối với những người xung quanh.
Nhằm trang bị cho trẻ nhứng kiễn thức năng lực hoạt động trí tuệ, kể truyện, đọc
thơ, thông qua hoạt động làm quen với văn học.
Chính vì lẽ đó mà gia đình và nhà trường cần tạo môi trường văn học
phong phú, giúp trẻ làm quen văn học ngay từ khi trẻ bắt đầu đến trường.
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Trẻ lớp mẫu giáo 3-4 tuổi. Nghiên cứu về văn học đối với trẻ mẫu giáo.
1.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Trẻ mẫu giáo trong độ tuổi lớp mầm.
1.5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp trực quan.
- Phương pháp dùng lời.
- Phương pháp thực hành.
2. PHẦN NỘI DUNG:
2.1 Cơ sở lý luận:


Con người cần được giáo dục đào tạo một cách cơ bản hệ thống ngay từ khi
bước những bước chập chững đầu tiên. Giáo dục là nhân tố có ý nghĩa quyết
định đối với sự phát triển của trẻ em. Trong những điều kiện phát triển giáo dục
có tổ chức một cách đặc biệt thì những khả năng tiềm tàng to lớn của trẻ sẽ được
bộc lộ và do đó việc hình thành nhân cách cho trẻ sẽ thu được những thành công

lớn
Vì vậy giáo dục trẻ em trước tuổi học đường ( giáo dục Mầm Non) đã trở thành
mắt xích đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân được Đảng và Nhà nước quan
tâm. Sự phát triển của hệ thống giáo dục Mầm Non đặt ra trước khoa học giáo
dục mầm non.
2.2. Thực trạng:
2.2.1. Thuận lợi, khó khăn:
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, trong quá trình thực hiện chuyên đề
nâng cao chất lượng làm quen văn học tôi đã có một số thuận lợi sau:
Là một trường đạt chuẩn quốc gia nông thôn, được các cấp, ngành địa phương
quan tâm nên cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và học tương đối đầy đủ, lớp
có đầy đủ tranh trực quan phục vụ cho việc làm quen văn học của trẻ. Và đặc
biệt là sự chỉ đạo tổ chức hướng dẫn sâu sắc của phòng giáo dục, tôi luôn có điều
kiện nắm bắt các chuyên đề.
Trường luôn tạo điều kiện cho giáo viên tiếp cận với chuyên đề, hỗ trợ
nhiều loại sách báo, tập sách, băng đĩa, hình cho giáo viên tham khảo.
Phần đa phụ huynh có sự quan tâm đến trẻ, tạo điều kiện thuận lợi trong
việc kết hợp giáo dục giữa gia đình và nhà trường.
Bản thân tôi là giáo viên lâu năm, luôn nhiệt tình với công tác và cũng rất
yêu thích văn học.


Bên cạnh những thuận lợi đó trong quá trình giảng dạy tôi cũng gặp không
ít khó khăn trong việc thực hiện chương trình đổi mới hình thức hoạt động giáo
dục, đặc biệt là môn làm quen văn học.
Do ảnh hưởng khá lâu của phương pháp dạy học củ nên giáo viên thường
áp đặt trẻ, gò ép trẻ theo khuôn mẫu, lấy người dạy làm trung tâm, nên không
phát huy được khả năng tư duy của trẻ. Cách dạy cũ chưa khơi dậy được năng
lực họat động có trong trẻ, chưa tạo cơ hội cho trẻ tự tin mạnh dạn, tìm tòi khám
phá mọi vật xung quanh trẻ.

Đối với trẻ 3-4 tuổi, vốn ngôn ngữ sống còn hạn chế, khả năng nhận biết
các từ trong câu chưa hoàn chỉnh.
Một số cháu chưa qua tuổi nhóm.
Một số do sức khỏe yếu nên tiếp thu còn quá chậm.
2.2.2 Thành công, hạn chế:
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của nhà trường như mở chuyên đề từ đó
rút ra đựơc kinh nghiệm cho bản thân. Bên cạnh đó tôi được sự đóng góp chân
tình của đồng nghiệp nên tôi đã có kết quả cao trong quà trình nghiên cứu đề tài.
Song bên cạnh đó còn có hạn chế như sau: một số trẻ ở độ tuổi này ngôn
ngữ chưa đầy đủ nên đôi lúc trẻ chưa diễn đạt đựơc.
2.2.3 Mặt mạnh, mặt yếu
Là một môn văn học có những câu chuyện bài thơ rất gần gũi, các con vật
rất sinh động nên trẻ hứng thú.
Do chương trình đổi mới nên nhiều câu chuyện, bài thơ chưa có tranh ảnh
nên rất khó cho người giáo viên trong quá trình chuẩn bị đồ dùng trực quan.
2.2.4 Nguyên nhân các yếu tố tác động
Văn học giúp trẻ lĩnh hội được các chuẩn mực đạo đức, hành vi đúng
trong xã hội. ứng dụng bộ môn làm quen văn học trong trường lớp mẫu giáo là
một quá trình nâng cao chất lượng dạy và học hiện nay có ý nghĩa hết sức quan


trọng. văn học mở rộng sự hiểu biết cho trẻ trong quan hệ tình người. văn học
còn khơi dậy ở trẻ những hành vi đạo đức, lối sống, lòng vị tha nhân hậu mà trẻ
thu lượm được bằng con đường cảm thụ văn học.
Thông qua văn học, giúp trẻ cảm nhận được thế giới xung quanh muôn
màu, mở ra trước mắt trẻ những tình cảm đạo đức trong sáng, lành mạnh nhằm
cung cấp vốn kinh nghiệm sống để làm phong phú vốn từ ngữ với ý tưởng hồn
nhiên, ngây thơ của trẻ.
Với tầm quan trọng của môn làm quen văn học, làm thế nào để đưa văn
học vào đời sống thực tế của trẻ- đó chính là nhiệm vụ cần thiết của giáo viên

mầm non, vì chúng ta là những chiếc cầu nối để đưa trẻ đến với văn học, trẻ phải
thực sự hiểu về các tác phẩm văn học, thể hiện được nội dung của tác phẩm,
sống trong môi trường của văn học, có như vậy trẻ mới có lòng yêu văn học,
xem văn học là nhu cầu cần thiết của trẻ trong đời sống hàng ngày.
2.3 Giải pháp, biện pháp
2.3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
- Tạo môi trường văn học xung quanh trẻ
- Biện pháp giúp trẻ hiểu được nội dung tác phẩm
- Đưa trẻ vào hoạt động văn học nghệ thuật
2.3.2 Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp
- Tạo môi trường văn học xung quanh trẻ: cho trẻ làm quen tác phẩm văn
học là để tập trung nhận rõ sự độc đáo của phong cách nghệ thuật và vẻ đẹp
riêng của nội dung, hình thức văn chương. Đây là thế giới mới của cuộc sống
thực tại, bao gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diễn tả, biểu đạt trong các
hình thức đa dạng độc đáo về loài vật, cỏ cây, hoa lá, mọi hiện tượng tự nhiên vũ
trụ mà trẻ nhìn thấy được. văn học diễn tả những gì gần gũi trong môi trường
sống của trẻ như làng quê, cánh đồng, khu rừng, lớp học… văn học đề cập đến
những lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt, cô tiên, phù thủy… đó chính


là đối tượng miêu tả của văn học, làm nên sự phong phú hấp dẫn đời sống tinh
thần của trẻ. Trẻ 3-4 tuổi tư duy chủ yếu là trực quan hình ảnh, trẻ rất thích hình
ảnh ngộ nghĩnh, sinh động, màu sắc rực rỡ. Ở lớp tôi trang trí góc thư viện có
nhiều tranh ảnh, sách báo phong phú. Bên cạnh đó, tôi vận động phụ huynh đóng
góp một số sách truyện mẫu giáo. Những loại sách này có hình ảnh rõ nét, nội
dung có tính chất giáo dục cao, từ những tờ lịch cũ cô sử dụng vẽ các nhân vật
trong truyện
- Biện pháp giúp trẻ hiểu được nội dung tác phẩm: “phương pháp kể sáng
tạo truyện cổ tích thần kỳ cho trẻ mẫu giáo” phát triển thành chuyên luận, công
trình đáng kể này xuất phát từ giá trị nhiều mặt của cổ tích thần kỳ, một bộ phận

quan trọng của nội dung văn học mà giáo dục mầm non đang quan tâm thực
hiện, vì thế nó đóng góp thiết thực vào kho tàng lý luận và thực tiễn của nội dung
phương pháp môn học. Nhằm xây dựng phương pháp kể sáng tạo truyện cổ tích
thần kỳ, tìm ra biện pháp kể sáng tạo. Nâng cao kiến thức về văn học qua thể loại
truyện, khẳng định hướng tiếp cận, phương pháp kể tác phẩm theo thể loại sẽ
đem lại màu sắc riêng, phong phú cho nghệ thuật kể truyện, tạo được sự hấp dẫn
cho trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo, trẻ nhỏ chưa biết chữ, việc đọc của trẻ qua khâu
trung gian là cô giáo. Để cho trẻ hiểu được một tác phẩm trước hết cô giáo cần
nắm vững lý luận về đọc, kể, trao đổi thể và chuyển thể văn học. đó là những
biện pháp chính cho trẻ làm quen tác phẩm văn học. đồng thời phải vạch ra được
mức độ sư phạm cần tuân theo.Bên cạnh đó cô giáo cần sử dựng mọi sắc thái của
giọng mình cùng với các hình thức biểu hiện khác tạo cho tác phẩm một bức
tranh âm thanh tương ứng, nhưng phải trung thành với tác phẩm, truyền đạt
thông tin đầy đủ, chính xác, cô có thể hòa trộn ngôn ngữ tác phẩm và ngôn ngữ
của mình bằng sự cảm thụ và có thể tô đậm ý chính tình tiết hay hình ảnh đẹp
với những cách trình bày khác
Ví dụ :


Truyện “Cô bé quàng khăn đỏ” ý chính cần khai thác ở đây là: Tình cảm
đối với những người trong gia đình(Bà, Mẹ) qua đó giáo dục cần thiết phải vâng
lời mẹ, ngoài ý chính đó cô có thể khai thác thêm ý phụ như: Phong cảnh trong
rừng để mở rộng hiểu biết và giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.
Kể bằng dọng thủ thỉ, chậm hơn đọc, truyền cảm cùng với việc trình bày
tác phẩm khéo léo, làm cho lượng thông tin được giãn ra, trẻ đỡ căng thẳng khi
theo dõi, hơn nữa việc phối hợp dọng kể với những cử chỉ điệu bộ, nét mặt, ánh
mắt… Những yếu tố phi ngôn ngữ này sẽ giúp trẻ thâm nhập sâu hơn hiểu rõ ý
nghĩa nội dung của truyện.
Ví dụ:
Chuyên “Bác gấu đen và hai chú thỏ” khi kể đoạn bác gấu đen gõ cửa nhà

thỏ nâu, thỏ nâu gắt gỏng: “Ai đấy” “ Bác đi đi, nhẹ cũng đổ, không nhẹ cũng
đổ…” phải thể hiện giọng bực bội gắt gỏng.
Hình tượng trực quan là nguồn thông tin thẩm mỹ với tư cách là một
phương tiện dạy học, nó hỗ trợ đắc lực trong việc cho trẻ làm quen tác phẩm văn
học trong việc két hợp ngôn ngữ đọc và kể tác phẩm để tự cảm thụ văn học. Cô
giáo cũng có thể cắt truyện tranh trên báo, trên tạp chí dán lại thành băng dài và
chiếu cho trẻ xem. Nhưng tranh cô sử dụng phải phù hợp, trình bày trực quan
hợp lý. Bên cạnh các loại tranh minh họa còn làm những con rối dẹp dán trên
bảng hoặc rối tay, rối ngón tay, rối cắm que…
Những truyện có sự thay đổi nhiều về khung cảnh thì nên dùng trtanh
minh họa, những tranh truyện ít thay đổi khung cảnh thì nên sử dụng rối.
Ví dụ:
Trong câu chuyện “Nhổ củ cải” cô sử dụng tranh minh họa nội dung câu
chuyện, cho trẻ xem múa rối, hướng dẫn tự hóa trang, đi đóng kịch mọi lúc, mọi
nơi, cho trẻ nghe qua băng đĩa, khi sử dụng đồ dùng trực quan trẻ rất hứng thú về


các nhân vạt trong truyện minh họa đa dạng phong phú nên trẻ dễ hiểu được nội
dung tác phẩm.
- Đàm thoại để hiểu tác phẩm không chỉ đơn giản là cô đặt câu hỏi trẻ trả
lời. Khi đàm thoại, cô giáo cần đặt câu hỏi kết hợp với giải thích đọc hoặc kể lại
trtích dẫn trong tác phẩm, tất nhiên không phải sau mỗi câu hỏi cô đều đọc, kể
trích dẫn, mà chỉ đọc hoặc kể những tình tiết chính trong truyện
Ví dụ:
Trong truyên “Cô bé quàng khăn đỏ” trước khi đi mẹ cô bé dặn, cô bé đó
là một trong những tình tiết chính của truyện. Do đó cô phải kể hoặc đọc lại đoạn
trích.
Cô hỏi: Trước khi đi mẹ cô bé đã dăn cô bé như thế nào?
Mục đích chính của phần đàm thoại giúp ttrẻ hiểu sâu tác phẩm, do đó cô
giáo cần đặt ra câu hỏi về những tình tiết chính , và xoái vào các tình tiết đó. Câu

hỏi của cô phải buộc trẻ suy nghĩ, có như vậy mới phát triển tư duy cho trẻ.
-

Đưa trẻ vào hoạt động nghệ thuật: “cho trẻ làm quen với tác phẩm

văn học” đã dùng lâu nay trong trường mẫu giáo khi thực hiện đọc, kể tác phẩm
văn học cho trẻ. “làm quen” chỉ bắt đầu có quan hệ với dụng ý trở nên quen biết,
thời gian gặp gỡ thoáng chút, không lâu, mới nắm băt được những dấu hiệu bên
ngoài hiện tượng, xem văn học như một hiện tượng văn học xa lạ đối với trẻ,
chưa tạo ra mối quan hệ bên trong, chưa rõ tác động ảnh hưởng “ tiếp xúc” biểu
thị sự gặp gỡ trở nên có quan hệ, thường xuyên có sự giao tiếp, trực tiếp chịu sự
tác động, xem văn học không xa lạ với trẻ ngay từ khi còn trong nôi cho đến khi
trẻ 3-4 tuổi và hơn thế, trẻ đã gần gũi thân quen với cổ tích, hát ru, đồng giao.
Việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học tức là tạo mối quan hệ hai chiều giữa
trẻ- tác phẩm và tác phẩm. Sự tác động này nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ,
tạo cho trẻ có hiểu biết sơ đẳng về văn chương, gây những dấu ấn đầu tiên với


trẻ về ngôn ngữ mỹ thuật. Cho trẻ triếp xúc với tác phẩm văn học sẽ bộc lộ đầy
đủ, sâu sắc hơn bản chất, ý nghĩa, mục đích giáo dục trẻ bằng tác phẩm văn học.
-

Thực chất là đưa trẻ vào hoạt động thực tiễn nghệ thuật đa dạng,

bằng cách đưa trẻ vào tình huống và hành động văn học có thể coi đây là bước
đưa trẻ vào thực hành thể nghiệm nghệ thuật, biến chu thể tiếp nhận th ành chủ
thể văn học. Có nghĩa trẻ từ chỗ cho trẻ nhận biết tiến tới cho trẻ đánh giá lại
điêù phản ánh trong tác phẩm, cao hơn nữa là cho trẻ trãi nghiệm, nhập vai vào
các nhân vật, tình huống trong tác phẩm. Ở trẻ thể hiện một cách sinh động, ngôn
ngữ của trẻ mạch lạc, phong phú, trể tiếp nhận tác phẩm sâu sắc hơn nhiều khi

trẻ chủ động kể diễn cảm một câu chuyện, tái tạo có sáng tạo qua kể lại chuyện,
sáng tác chuyện mới theo tưởng tượng chủ quan của mình nhập vai trong các trò
chơi đóng kịch dựa theo tác phẩm văn học, cô cần tập cho trẻ phương pháp quan
sát, mô phỏng, tái tạo bằng cách nhắc lại, bắt chước.
-

Ví dụ: Để tổ chức hoạt động chung làm quen tác phẩm văn học

truyện “ Nhổ củ cải” khi đi dạo chơi, cho trẻ làm quen điêụ bộ vận động của con
chó con, mèo con, chuột nhắt. Cho trẻ lặp đi lặp lại những câu đối thoại. Cô có
thể hỏi “ ông già đã gọi bà già như thế nào?” cô cho vài trẻ thể hiện như vậy để
trong tác phẩm nào trẻ cũng có cơ hội được tham gia dù ít hay nhiều
2.3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Để trẻ có nhu cầu văn học trước hết chúng ta phải giúp trẻ sống trong môi
trường văn học, phải khơi dậy hứng thú của trẻ với văn học
Khi dạy trẻ 3-4 tuổi kể chuyện ngoài việc tôi phải chẩn bị tranh ảnh, rối, đồ
dùng dạy học, giọng kể truyền cảm gây sự lôi cuốn của trẻ. Bên cạnh đó tôi luôn
chú ý đến trình độ hận thức trẻ lớp mình từ đó sử dụng hệ thống câu hỏi từ đơn
giản đến phức tạp phù hợp với khả năng trẻ lớp mình nhằm phát triển tính tích
cực ở trẻ. Từ những câu hỏi đó đã giúp trẻ nhớ nội câu chuyện lâu hơn và làm


tăng thêm vốn từ, phát triển trí tưởng tượng rất phong phú, kich thích tư duy phát
triển ở trẻ
2.3.4 Mối quan hệ giữa giải pháp, biện pháp
Mối quan hệ giữa giải pháp, biện pháp được kết hợp nhuần nhuyễn với nhau
để phát huy khả năng cho trẻ cảm thụ tác phẩm văn học cũng như tổ chức một
tiết học đạt hiệu quả cao
2.3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Nhận thức được sự cần thiết của bộ môn LQVH đối với trẻ nên tôi đã dành

thời gian vào việc nắm bắt khả năng cảm thụ văn học ở lớp mình , qua đó tôi
nhận thấy trẻ lớp tôi rất có hứng thú khi được làm quen tác phẩm văn học và cảm
nhận rất tốt tác phẩm
2.3 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu :
Để nắm bắt được trình tự nội dung tác phẩm bằng nhều hình thức như :
tiến hành cho trẻ kể, đóng kịch, sử dụng rối hoặc phi ngôn ngữ. Nhưng dù ở hình
thức nào thì tôi luôn đảm bảo tính vừa sức cho trẻ, nâng dần yêu cầu đối với từng
trẻ
3/ PHẦN KẾT LUẬN , KIẾN NGHỊ :
3.1 Kết luận:
Trong quá trình sử dụng các phương pháp, biện pháp tôi nhận thấy chất
lượng hoạt động cho trẻ làm quen văn học được nâng cao rõ rệt : Đa số trẻ lớp
tôi thích học văn học, tự nguyện tham gia và tích cực hoạt động trong giờ làm
quen văn học
3.2 Kiến nghị :
Bản thân tôi rất tâm đắc với chương trình đổi mới giáo dục mầm non, vì
giúp cho giáo viên lên tiết dạy nhẹ nhàng. Tuy nhiên ở chương trình đổi mới có


nhiều câu chuyện mới. Vì vậy nên bổ sung thêm một số truyện tranh, ảnh, rối
phù hợp với nội dung truyện để truyền tải đến trẻ tốt hơn.


DANH MỤC TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU THAM KHẢO

1/Văn học thiếu nhi- Đỗ Thị Thanh Hường- Trường cao đẳng TW III-1996BGDDT
2/Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ II (2005-2007)-VGDMN nhà xuất
bản giáo dục- BGDĐT
3/Hướng dẫn thực hiện chương trình csgd trẻ 3-4 tuổi-BGDĐT-VGDMN

4/Tuyển tập trò chơi phát triển ngôn ngữ-Nguyễn Thị phương Nga-1996 trường
CĐSP TW III-BGDĐT
5/Chương trình chăm sóc GDMGvà hướng dẫn thực hiện 3-4 tuổi-Trần Thị
Trọng, Phạm Thị Sửu -1997 BGDĐT
6/ Tuyển chọn thơ truyện- câu đố mẫu giáo –Đặng Thu Quỳnh, Nhà xuất bản
giáo dục



×