Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

ĐỀ CƯƠNG môn CHÍNH SÁCH CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.94 KB, 15 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN CHÍNH SÁCH CÔNG
Câu 1: Các cách phân loại chính sách công chính?
Chính sách công là chính sách của nhà nước, tức chủ thể nắm quyền lực
công, được gọi là chính sách công. Chính sách công là một khái niệm chi
phối sự hiểu biết của chúng ta về việc thực thi quyền lực nhà nước. Đầy đủ
hơn chính sách công là chương trình hành động hướng đích của chủ thể
nắm quyền lực công cộng.
Các cách phân loại chính sách công
Chính sách công là một công cụ quản lý quan trọng của nhà nước trên mọi
lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, do đó, chúng rất đa dạng. Có thể
phân loại các chính sách công theo những tiêu chí sau đây:
a. Theo chức năng
- Chính sách điều tiết: Là những chính sách được các nhà hoạch định thiết
kế nhằm hạn chế sự phát triển của bộ máy này, hoặc tạo điều kiện cho sự
phát triển của một bộ phận khác để kiềm chế sự phát triển thái quá hoặc để
duy trì sự công bằng cần thiết.
- Chính sách tự điều tiết: Là những chính sách có khả năng tạo ra một cơ
chế bảo vệ quyền lợi của nhóm người nhất định trong xã hội
- Chính sách phân phối: Là những chính sách bảo đảm cho tất cả các công
dân có cơ hội hưởng thụ công bằng đối với các nguồn lợi và tài sản chung
của quốc gia. Đó là các chính sách về phổ cập giáo dục phổ thông, trợ cấp,
tiền lương, phát triển các thành phần kinh tế, trợ giá nông phẩm, hỗ trợ
người hồi hương, đền ơn, đáp nghĩa,…
- Chính sách phân phối lại: Là các chính sách hướng tới giảm bớt sự
chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thu hẹp
khoảng cách giàu nghèo, bất công trong xã hội nhằm tạo lập lại sự công
bằng tương đối trong cộng đồng về quyền và lợi ích. Các chính sách này
thường tập trung vào việc phân phối lại các dịch vụ nhà ở, thu nhập, tài
sản, nói chung là quyền lợi giữa các nhóm dân cư…
- Chính sách phát triển: Chính sách phát triển có tác dụng tạo điều kiện
thúc đẩy sự phát triển của các quốc gia. Đây thường là các chính sách về


phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ, giáo dục – đào tạo…
b. Theo lĩnh vực tác động
- Chính sách kinh tế: Là những chính sách hướng tới việc điều chỉnh các
mối quan hệ trong các lĩnh vực kinh tế, nhằm tạo ra những động lực phát
triển kinh tế. Thuộc loại chính sách này có: chính sách phát huy nguồn
nhân lực chính sách thu hút vốn… hoặc là những chính sách trong các
lĩnh vực nông nghiệp, chính sách công nghiệp, chính sách thương mại.

1


- Chính sách xã hội: là những chính sách điều tiết các mối quan hệ có liên
quan tới các lĩnh vực sinh hoạt của đời sống xã hội như: ăn, mặc, ở, học
hành, chữa bệnh… tương ứng với các lĩnh vực đó là các chính sách về tiền
lương, chính sách giáo dục, chính sách y tế…
- Chính sách giáo dục và khoa học công nghệ: Là những chính sách
khuyến khích phát triển giáo dục – đào tạo, phát huy nhân tố con người,
ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ trong đời sống kinh tế - xã
hội.
- Chính sách văn hóa: Là những chính sách phát triển nền văn hóa với tư
cách là nền tảng tinh thần của xã hội, hình thành hệ giá trị và chuẩn mực
xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời
đại.
- Chính sách an ninh, quốc phòng: Là những chính sách hướng vào việc
tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh quốc gia nhằm bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, tạo điều kiện cho
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
c. Theo phạm vi không gian tác động
- Chính sách đối nội: Là những chính sách được áp dụng trong phạm vi
lãnh thổ quốc gia để giải quyết các vấn đề nội tại của đất nước, bao gồm

các chính sách liên quan tới tất cả các lĩnh vực của xã hội: kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội.
- Chính sách đối ngoại: Là những chính sách hướng dẫn và điều tiết các
quan hệ đối ngoại của nhà nước với các quốc gia, các tổ chức trên thế giới.
Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập, nếu một quốc gia không có
những quyết sách đối ngoại đúng đắn thì rất khó tránh khỏi nguy cơ bị tụt
hậu.
+ Chính sách cơ cấu: mang tính củng cố và xây dựng tổ chức, phương tiện
để thực hiện chính sách đối ngoại trong dài hạn (chẳng hạn như chính sách
cơ cấu quốc phòng). Với bên ngoài, chính sách này mang tính tự điều tiết,
tự phòng vệ, thụ động chứ không phải là chủ động.
+ Chính sách chiến lược: chính sách này chỉ rõ định hướng, quan điểm đối
ngoại của đất nước trong một thời gian dài, mang tính chủ động.
+ Chính sách giải quyết khủng hoảng: Loại chính sách mang tính tình
huống, không dự định trước, được đưa ra để giải quyết một khủng hoảng
trong quan hệ quốc tế ( từ kinh tế đến chính trị, quân sự).
d. Theo cấp độ ban hành
- Chính sách do Trung ương ban hành (chính sách quốc gia), gồm những
chính sách do Quốc hội, Chính phủ, các Bộ và cơ quan tương đương ban
hành. Những chính sách này có tác dụng điều chỉnh những mối quan hệ

2


phát sinh trên phạm vi quốc gia (toàn lãnh thổ), ảnh hưởng đến lợi ích của
nhiều địa phương, nhiều nhóm cư dân trong xã hội. Các chính sách do Bộ
ban hành, tuy chỉ có tác dụng trong hoạt động quản lý ngành hoặc lĩnh vực
thuộc bộ đó, nhưng lại xuyên suốt từ Trung ương đến các địa phương, cơ
sở, do đó, nó cũng có ảnh hưởng trên phạm vi quốc gia.
- Chính sách do địa phương ban hành (cấp tỉnh, huyện và xã): là những

chính sách do các cấp chính quyền địa phương đề ra, nhằm giải quyết
những vấn đề phát sinh trong phạm vi địa phương đó. Theo nguyên tắc
pháp chế, những chính sách này không được trái với những chính sách và
pháp luật của Trung ương.
e. Theo thời gian thực hiện
- Chính sách dài hạn: Là những chính sách đòi hỏi thời gian được thực
hiện lâu dài (thường từ 10 năm trở lên), điều tiết những mối quan hệ lớn
trong đời sống kinh tế - xã hội, nhằm tạo sự phát triển ổn định trong lĩnh
vực thực hiện chính sách.
- Chính sách trung hạn: Là những chính sách được áp dụng trong khoảng
thời gian từ 3 đến 5 năm. Những chính sách này tập trung vào những vấn
đề phát sinh có thể ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế - xã hội,
nhưng có thể giải quyết được trong một khoảng thời gian nhất định.
- Chính sách ngắn hạn: Là những chính sách được áp dụng trong một
khoảng thời gian không lâu (dưới 2 năm) đối với những vấn đề phát sinh
có thể giải quyết tương đối nhanh chóng (như: chính sách thả nổi lãi suất,
chính sách tăng giá nông sản…)
f. Theo trạng thái của chủ thể quyết định chính sách
- Chính sách chủ động: là chính sách do các cơ quan hoạch định chính
sách chủ động đưa ra khi xã hội chưa có nhu cầu cụ thể (chính xác hơn là
chưa nhận thức được nhu cầu của vấn đề chính sách) hoặc nếu có thì chỉ
giới hạn ở một bộ phận rất hẹp các nhà lãnh đạo xã hội, những người ở
đầu nguồn thông tin, còn đại bộ phận xã hội đều chưa ý thức hoặc chưa thể
nhìn thấy nhu cầu và tính cấp thiết của vấn đề mà chính sách đưa ra.
- Chính sách thụ động: là chính sách được đưa ra để xử lý một tình huống,
một yêu cầu đã và đang trở thành vấn đề bức xúc trong xã hội. Các chính
sách thụ động thường kết thúc sứ mạng của nó khi các vấn đề hay tình
huống đã được giải quyết ổn thỏa.
g. Theo định hướng chính sách
Định hướng chính sách hàm nghĩa quan điểm được thể hiện trong nội dung

chính sách so với ý kiến hay nhận thức chung của thời đại. Những chính
sách có nhiều giá trị mới, đi trước thời đại khi mọi người chưa kịp nghĩ ra,

3


gọi là chính sách cấp tiến. Những chính sách theo xu hướng ngược lại là
chính sách bảo thủ.
h. Theo hiệu quả hay mức độ tác động của chính sách
- Chính sách thực chất: Là những chính sách kèm theo những hoạt động
cụ thể của chính quyền trong đời sống xã hội, tạo ra thay đổi nhất định về
vật chất, thu nhập, công việc, sinh hoạt thường ngày… của nhân dân. Bất
cứ hoạt động nào của chính quyền tạo ra những thay đổi nhất định trong
đời sống xã hội một cách trực tiếp và theo nghĩa vật chất thì đều được liệt
vào nhóm chính sách thực chất. Chính sách thực chất dễ thấy, dễ nhìn, dễ
gặp phản ứng vì nó cọ sát trực tiếp với lợi ích của cộng đồng.
- Chính sách thủ tục: Những chính sách không tác động trực tiếp đến nhân
dân, đi kèm và hướng dẫn việc thực hiện chính sách thực chất. Tuy mang
tính thủ tục, nhưng cách thức triển khai, con người cụ thể thực hiện việc
triển khai thủ tục, hoàn toàn có thể chi phối mạnh mẽ các chính sách khác
cần tiến hành sau đó. Do vậy, nó gián tiếp tác động lên cộng đồng chứ
không hoàn toàn mang nghĩa thủ tục. Trong quá trình thực hiện, chính
sách thủ tục thường gắn hoặc đi song song với một hay nhiều chính sách
thực chất khác.
i. Theo cấp độ chính sách
- Chính sách cho bộ phận (hay cá nhân) những chính sách mà dịch vụ của
nó có thể phân chia, giới hạn được, tức là chỉ áp dụng cho những đối tượng
hoặc bộ phận đáp ứng được điều kiện của sự ưu tiên. Như vậy, chính sách
bộ phận hay đi kèm với những giới hạn nhất định đối tượng áp dụng và
không mang tính phổ quát như các chính sách toàn thể (những người nằm

trong giới hạn áp dụng gọi là bộ phận hưởng lợi ích).
- Chính sách cho toàn thể: Là những chính sách không thể phân chia hay
không thể hạn chế, được áp dụng cho mọi người (dịch vụ mà nó mang lại
là cho từng người và cho toàn thể)
j. Theo cách thức triển khai
- Chính sách mang tính cưỡng chế: được triển khai bằng ép buộc bởi các
công cụ luật pháp. Chính sách cưỡng chế có hiệu lực bắt buộc đối với tất
cả các đối tượng được quy định trong phạm vi của nó
- Chính sách mang tính thuyết phục: Là các chính sách coi trọng việc thực
dựa trên cách thức thuyết phục đối tượng, không ép buộc. Loại chính sách
này thường đạt hiệu quả thấp. Do vậy, trong quá trình thực hiện nhiều
chính sách thuyết phục có khuynh hướng chuyển thành bắt buộc.
Việc phân loại như trên cho thấy bức tranh tổng thể, phong phú, đa dạng
của thực tiễn chính sách trong đời sống xã hội.

4


Câu 2: Anh (chị) hãy trình bày các giai đoạn của quá trình chính sách
và liên hệ với thực tiễn hoạch định chính sách ở Việt Nam hiện nay?
Chính sách công cần được nhìn nhận như một quá trình từ hoạch định đến
thực hiện cho ra kết quả cuối cùng. Có nhiều cách thức để nhìn nhận các
giai đọan của một quá trình chính sách như vậy. Về tổng thể, chính sách
công có thể được coi là một chu trình gồm bốn giai đọan : Xác lập nghị
trình; Xây dựng và ban hành; Triển khai thực hiện, và tổng kết và đánh giá
tác động.
1. Xác lập nghị trình
Xác lập nghị trình (chương trình nghị sự) chính là việc tìm kiếm sự nhất trí
về mục tiêu căn bản mà chính sách cần đạt. Sở dĩ phải tìm kiếm sự nhất trí
vì mỗi người, mỗi nhóm, mỗi tầng lớp có thể có cách nhìn nhận nguyên

nhân chính khác nhau của mỗi hiện tượng, tức vấn đề mà chính sách muốn
giải quyết. Việc nhìn nhận nguyên nhân chính sẽ ảnh hưởng quan trọng
đến nội dung và cách thức triển khai của chính sách.
Việc phát hiện vấn đề, đưa vào chương trình để thảo luận - tức là xác lập
nghị trình - là điểm khởi đầu của mọi chính sách. Giai đoạn này rất quan
trọng, vì một trong những cách lẩn trốn trách nhiệm tốt nhất chính là giấu
vấn đề cần giải quyết trong phạm vi trách nhiệm.
Trong thực tiễn, mọi vấn đề chính sách đều nảy sinh từ dữ kiện thực tế,
thông qua 3 nguồn quan trọng nhất: số liệu thống kê, các sự kiện, và các
nhận định. Từ ba điều kiện căn bản trên có thể thấy 3 nguyên nhân nguyên
nhân chính khiến một vấn đề không được đưa ra bàn luận và do vậy cũng
sẽ không được giải quyết.
Trước hết, vấn đề đó có thể chưa mang tính khái quát cao, và không căn
bản, tức không có tầm quan trọng đối với cấp chính quyền cụ thể. Điều
này phụ thuộc một phần quan trọng vào tầm nhìn, động cơ của người đề
xướng vấn đề chính sách, cũng như quan điểm của người lãnh đạo vì họ là
người kiểm soát chương trình nghị sự.
Thứ hai, vấn đề chưa thích hợp với hoàn cảnh chính trị. Một số vấn đề
chính sách có thể chưa được đem ra xem xét (công khai) không phải vì
chúng không quan trọng, mà do tính nhậy cảm văn hóa, lịch sử dân tộc,
hoặc quan hệ quốc tế, bản thân việc đưa ra xem xét đã có thể có những tác
động chính trị không lường trước. Điều này đặc biệt đúng khi vấn đề
chính sách liên quan đến quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc hay nhóm dân
tộc, hay liên quan đến các giá trị, niềm tin truyền thống...
Cuối cùng, nếu vấn đề không được các nhân vật chính trị quan trọng hoặc
các tổ chức liên quan ủng hộ, thì cũng dễ bị gạt ra ngoài chương trình nghị

5



sự. Bản thân điều này hàm chứa sự phức tạp và mâu thuẫn biện chứng của
cái chủ quan và khách quan trong khoa học chính trị.
2. Xây dựng và ban hành chính sách
Kết quả của việc thảo luận các vấn đề đưa ra trong chương trình nghị sự
chính là sự nhất trí về việc cần thiết phải có các chương trình giải quyết
các vấn đề chính sách. Trong thực tế, sự nhất trí đó phải được cụ thể hoá
bằng các kế hoạch hành động, bằng văn bản pháp quy, tức các quyết định
chính sách. Đây chính là khuôn khổ pháp lý căn bản cho các chương trình
hành động cụ thể của các cơ quan liên quan. Đây không chỉ là kế hoạch có
tính kỹ thuật mà còn là cơ sở pháp lý cho việc sử dụng quyền lực công
trong thực hiện, và khi cần thiết, cưỡng chế thi hành chính sách.
Vì việc thiết kế quá trình ra quyết định chính sách là khác nhau trong các
cấp khác nhau và các vấn đề chính sách khác nhau, cũng như các con
người khác nhau, người lãnh đạo chính trị (cũng là người thiết kế quá trình
xây dựng chính sách) cần lưu ý hai khía cạnh chính: 1) Khía cạnh kỹ
thuật: Chính sách phải là phương án tối ưu về chi phí và lợi ích; 2) Khía
cạnh chính trị: luôn phải tính đến các nguy cơ tiềm ẩn ngay trong quá trình
chính trị (cục bộ, tham nhũng, quan liêu v.v.) làm giảm hiệu quả của chính
sách hoặc thậm chí có tác dụng ngược lại toàn bộ so với định hướng lãnh
đạo, ngược lại với lợi ích của dân chúng, và có thể khác với các ưu tiên
chính trị mà một chính sach cần có. Tất cả các khía cạnh này, trên thực tế
đều phải được thể hiện và tích hợp trong các văn bản có tính pháp lý. Việc
ban hành các văn bản có tính chất pháp lý có thể coi là sản phẩm cụ thể và
cuối cùng của quá trình xây dựng chính sách công.
3. Triển khai chính sách
Thông thường, việc triển khai một chính sách sẽ được qui định bởi văn bản
pháp lý của chính phủ. Các văn bản này, ngoài các qui định có tính kỹ
thuật còn làm rõ hai vấn đề chính: 1) Chủ thể triển khai: tức ai hoặc cơ
quan nào được ủy quyền của chính phủ, và do vậy có sự độc lập nhất
didnhj trong triển khai; 2) Khuôn khổ triển khai: tức làm rõ sự ràng buộc

của cơ quan triển khai. Sự ràng buộc như vậy không chỉ hạn chế việc sử
dụng quyền lực được ủy nhiệm một cách tùy tiện, mà còn ràng buộc cả về
ngân sách, nhân lực và đôi khi cả cung cách triển khai.
Các chủ thể triển khai quan trọng nhất là các cơ quan hành chính cùng với
các viên chức của mình. Các viên chức ở ngành lập pháp và tư pháp cũng
có những vai trò quan trọng, đặc biệt trong việc triển khai các chính sách
có liên quan đến các hoạt động tranh tụng, như các chính sách về phá sản,
chống độc quyền, v.v

6


Các cơ quan triển khai chính sách thông thường cũng có tính độc lập nhất
định trong việc cụ thể hóa nội dung chính sách . Sự tham gia "vượt quyền"
này đôi lúc là rất cần thiết, bởi vì xuất hiện nhiều vấn đề thực tế không thể
lường được trong giai đoạn hoạch định, cần giải quyết sáng tạo kịp thời.
4. Đánh giá chính sách
Đánh giá chính sách ngày càng được coi trọng trong chu trình chính sách,
bởi vì đây là khâu thường bị quên lãng, hoặc không được tiến hành một
cách nghiêm túc.Giai đoạn đánh giá bao gồm đánh giá kết quả thực tế của
việc triển khai chính sách cũng như việc đánh giá bản thân quá trình xây
dựng và triển khai để tổng kết các kinh nghiệm.
Việc đánh giá chính sách được tiến hành ngay cả trước khi triển khai,
trong quá trình xây dựng chính sách, và có ảnh hưởng sống còn với chính
sách. Đánh giá chính sách không đơn thuần là các đòi hỏi kỹ thuật khách
quan để hiểu thấu đáo tác động của chính sách đó, mà còn mang tính chính
trị ngay từ khởi đầu và trong suốt mọi khâu từ thông qua kế hoạch, xác
định hệ tiêu chí, kết luận đánh giá về một chính sách giữa các chủ thể
chính trị có liên quan.
Liên hệ với việc hoạch định chính sách ở Việt Nam:

Các tổ chức nghiên cứu, các tổ chức có tính chuyên môn cao liên quan về
chính sách công ở nhiều quốc gia, quốc tế đã có nhiều hoạt động, nhiều
đóng góp về mặt lý thuyết. Về thực tiễn, thông qua các dự án khác nhau,
các tổ chức nghiên cứu trên đã hỗ trợ các nước kém và đang phát triển,
trong đó có Việt Nam, để nâng cao năng lực hoạch định, quản lý, thực thi,
đánh giá chính sách công của nước mình, song tốn kém và hiệu quả hỗ trợ
còn hạn chế. Lý do là do sự tiếp cận cả về lý thuyết lẫn kỹ thuật, công
nghệ hoạch định, thực thi, đánh giá chính sách công còn nhiều hạn chế.
Hiện nay, nhiều vấn đề chính sách ở Việt Nam đang được các đại biểu
Quốc hội mổ xẻ. Trong diễn đàn Quốc hội, đã có những ý kiến bàn về vai
trò của các nhóm tư vấn, nghiên cứu độc lập, có đề xuất về việc các đại
biểu quốc hội nên được trao quyền trình các dự án luật... Tuy nhiên, theo
GS. Kenichi Ohno, Việt Nam đang có một quy trình hoạch định chính sách
có một không hai. Hầu hết chính sách được xây dựng với sự can dự hạn
chế của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ được phép có ý kiến sau hoặc khi
có vấn đề phát sinh. Chính sách được xây dựng trên cơ sở các phân tích và
mục tiêu không thực tế, không được giới doanh nghiệp ủng hộ. Hơn nữa,
các chính sách không có sự phối hợp giữa các Bộ, chỉ là bản liệt kê các
chính sách mà thiếu kế hoạch hành động cụ thể. Mỗi Bộ ngành có nhiều kế
hoạch nhưng lại không xác định được lĩnh vực ưu tiên. Vì vậy, Việt Nam
nên bắt đầu một quy trình hoạch định chính sách mới, với sự tham gia cả

7


tất cả các bên liên quan, bao gồm: Chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu
dùng, người nước ngoài, các nhà tài trợ, các nhà khoa học, chuyên gia. Đôi
khi, các doanh nghiệp hoặc các nhà khoa học có thể vạch ra một chiến
lược trình Chính phủ. Chính sách không đơn thuần chỉ là một văn bản
hành chính của Nhà nước.

Qua nghiên cứu và vận dụng chính sách công ở Việt Nam, có thể thấy: (1)
Đây là vấn đề là khá mới ở nước ta, vì trước đây vẫn có quan niệm về tài
sản công, sử dụng nguồn lực công, nhưng theo quan niệm, theo nhận thức
công hữu, sở hữu công cộng, của chung đất nước, của toàn dân. Do nhận
thức chưa đúng đắn, chưa đầy đủ về chính sách công theo quan niệm mới,
hiện đại nên trên thực tế việc tổ chức thực thi chính sách quản lý còn nhiều
yếu kém, lãng phí. Vì vậy, cần phải làm rõ nội hàm chính sách công, cả từ
khái niệm, các phạm trù, nội dung, các đặc điểm, các yếu tố tác động, chi
phối chính sách công. (2)Nghiên cứu về chính sách công ở Việt Nam cần
đặt trong bối cảnh đang trong quá trình chuyển đổi, vừa xóa cũ, vừa tiếp
thu cái mới, tính đan xen giữa cơ hội và thách thức như một tất yếu, có
thành, có bại, do đó phải có niềm tin, có định hướng cơ bản về vấn đề
nghiên cứu. Đồng thời, cần phải có cách tiếp cận hệ thống, cơ bản, tổ chức
nghiên cứu, đào tạo, thu hút chuyên gia về chính sách công, hợp tác quốc
tế với các trung tâm, các viện nghiên cứu ở các nước về lĩnh vực chính
sách công, nhất là với các nước phát triển./.
Câu 3: Phân tích khái niệm chính sách công và những đặc trưng cơ
bản của nó?
Chính sách của nhà nước, tức chủ thể nắm quyền lực công, được gọi là
chính sách công. Khoa học chính trị, hiểu một cách ngắn gọn nhất, là môn
học nghiên cứu về giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị. Quyền lực
chính trị của giai cấp cầm quyền được tổ chức thành nhà nước. Thông qua
việc thực hiện các chính sách của nhà nước, giai cấp cầm quyền tiến hành
các biện pháp nhằm đạt được các mục tiêu của mình trong các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, xã hội.
Như vậy, chính sách công là một khái niệm chi phối sự hiểu biết của
chúng ta về việc thực thi quyền lực nhà nước. Việc hoạch định và thực thi
có hiệu quả các chính sách, xét cho cùng, là tiêu chí căn bản để đánh giá cả
hệ thống chính trị, chứ không phải là tiêu chí về đa nguyên đa đảng như
một số lý thuyết thường nhấn mạnh. Đầy đủ hơn chính sách công là

chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm quyền lực công cộng.
Định nghĩa ở trên nhấn mạnh 3 đặc trưng căn bản của đối tượng nghiên
cứu:

8


Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước, và vì vậy có khả
năng và công cụ để cưỡng chế hợp pháp. Với nghĩa này, các chương trình
hành động của các đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội, các đại công ty... dù
là hợp pháp, không phải là chính sách công, vì không có công cụ cưỡng
chế quan trọng nhất của nhà nước là lực lượng vũ trang, và vì các tổ chức
phi nhà nước đó cũng không có độc quyền thu thuế như nhà nước.
Nếu chủ thể ban hành các chính sách tư có thể là các tổ chức tư nhân, các
đoàn thể chính trị - xã hội, cũng như các cơ quan trong bộ máy nhà nước
để điều tiết hoạt động trong phạm vi tổ chức, đoàn thể hay cơ quan riêng
biệt đó thh chủ thể ban hành chính sách công chỉ có thể là các cơ quan trong
bộ máy nhà nước. Vấn đề ở đây là các cơ quan trong bộ máy nhà nước vừa
là chủ thể ban hành chính sách công, vừa là chủ thể ban hành "chính sách
tư". Sự khác biệt là ở chỗ các "chính sách tư" do các cơ quan nhà nước ban
hành là những chính sách chỉ nhằm giải quyết những vấn đề thuộc về nội
bộ cơ quan đó, không có hiệu lực thi hành bên ngoài phạm vi cơ quan.
Chính sách công do Nhà nước ban hành nên có thể coi chính sách công là
chính sách của Nhà nước. Nhà nước ở đây được hiểu là cơ quan có thẩm
quyền trong bộ máy nhà nước, bao gồm Quốc hội, các Bộ, chính quyền địa
phương các cấp…
Ở nước ta, trên sách báo, chúng ta thường gặp cụm từ "chính sách của
Đảng và Nhà nước", vì vậy có ý kiến cho rằng, Đảng cũng là chủ thể ban
hành chính sách công. Điều này có thể giải thích bằng thực tế đặc thù của
nước ta. Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất lãnh

đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc
vạch ra Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách, đó chính là
những căn cứ chỉ đạo để Nhà nước ban hành các chính sách công. Như
vậy, về thực chất, các chính sách công là do Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (chủ yếu là Chính phủ đề ra). Các chính sách này là
sự cụ thể hóa đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân ta.
Thứ hai, các quyết định này là những quyết định hành động, có nghĩa là
chúng bao gồm cả những hành vi thực tiễn. Chính sách công không chỉ thể
hiện dự định của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó, bao
gồm những hành vi thực hiện các dự định nói trên.
Chính sách công trước hết thể hiện dự định của các nhà hoạch định chính
sách nhằm làm thay đổi hoặc duy tŕ một hiện trạng nào đó. Song, nếu
chính sách chỉ là những dự định, dù được ghi thành văn bản thh nó vẫn chưa
phải là một chính sách. Chính sách công c cn phải bao gồm các hành vi thực
hiện những dự định nói trên và đưa lại những kết quả thực tế. Nhiều người

9


thường hiểu chính sách công một cách đơn giản là những chủ trương của
Nhà nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ, nếu không có việc thực
thi chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì những chủ trương
đó chỉ là những khẩu hiệu trên giấy tờ.
Thứ ba, chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong
đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định. Chính sách công
là một quá tŕnh hành động nhằm giải quyết một vấn đề nhất định. Khác với
các loại công cụ quản lư khác như chiến lược, kế hoạch của Nhà nước là
những chương trình hành động tổng quát bao quát một hoặc nhiều lĩnh vực
kinh tế - xã hội, đặc điểm của chính sách công là chúng được đề ra và

được thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau
đang đặt ra trong đời sống xã hội. Chính sách công chỉ xuất hiện trước khi
đó đã tồn tại hoặc có nguy cơ chắc chắn xuất hiện một vấn đề cần giải
quyết. Vấn đề chính sách được hiểu là một mâu thuẫn hoặc một nhu cầu
thay đổi hiện trạng xuất hiện trong đời sống kinh tế - xã hội đ còi hỏi Nhà
nước sử dụng quyền lực công để giải quyết. Có thể nói, vấn đề chính sách
là hạt nhân xuyên suốt toàn bộ quy tŕnh chính sách (bao gồm các giai đoạn
hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách). Việc giải quyết những vấn đề
nói trên nhằm vào những mục tiêu mà Nhà nước mong muốn đạt được.
Thứ tư, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau.
Trước hết, chúng ta không nên đồng nhất khái niệm quyết định ở đây với
các quyết định hành chính, càng không thể coi đó chỉ là những văn bản
quy phạm pháp luật của Nhà nước. Khái niệm quyết định ở đây có ý nghĩa
rộng hơn, nó có thể được coi như một sự lựa chọn hành động của Nhà
nước. Các quyết định này có thể bao gồm cả luật, các quyết định dưới luật,
thậm chí cả những tư tưởng của các nhà lănh đạo thể hiện trong lời nói và
hành động của họ. Song, chính sách không đồng nghĩa với một đạo luật
riêng biệt hay một văn bản nào đó. Chính sách là một chuỗi hay một loạt
các quyết định cùng hướng vào việc giải quyết một vấn đề chính sách, do
một hay nhiều cấp khác nhau trong bộ máy nhà nước ban hành và thực thi
trong một thời gian dài. Một chính sách có thể được thể chế hóa thành các
văn bản pháp luật để tạo căn cứ pháp lư cho việc thực thi, song nó c cn bao
gồm những phương án hành động không mang tính bắt buộc, mà có tính
định hướng, kích thích phát triển.
Thứ năm, chính sách công bao gồm những gì được thực sự thi hành chứ
không phải chỉ là những tuyên bố. Kết quả thực tế của chính sách là quan
trọng hơn tên gọi hay ý định ban đầu của chính sách đó. Đây phải là
nguyên tắc quan trọng xuyên suốt đối với các nhà nghiên cứu cũng như
hoạch định chính sách.


10


Câu 4: Phân tích chi phí – lợi ích và xác định những khoản chi phí
và lợi ích của chính sách cấm hút thuốc lá nơi công cộng.
Phân tích chi phí - lợi ích là một quá trình có hệ thống để tính toán và
so sánh lợi ích và chi phí của một dự án chính sách, hoặc quyết định chính
phủ. Phân tích chi phí - lợi ích có hai mục đích: Để xác định có nên ra
quyết định đầu tư hay không (tính đúng đắn/ khả thi); Cung cấp một cơ sở
để so sánh dự án. Nó liên quan đến việc so sánh tổng chi phí dự kiến của
từng lựa chọn so với tổng lợi ích dự kiến, để xem liệu những lợi ích có lớn
hơn chi phí, và lớn hơn bao nhiêu.
* xác định chi phí và lợi ích của dự án cấm hút thuốc lá nơi công
cộng
Thuốc lá là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới và tại
Việt Nam. Bệnh tật và tử vong do hút thuốc lá gây tổn thất nặng nề về sức
khỏe và kinh tế đối với các cá nhân và toàn xã hội. Chính phủ Việt Nam đã
ban hành "Chính sách quốc gia phòng chống tác hại của thuốc lá" trong
giai đoạn 2000 – 2010 và soạn thảo Dự luật Phòng chống tác hại thuốc lá
với mục tiêu giảm tỷ lệ hút thuốc lá và giảm tổn thất do thuốc lá gây ra cho
mỗi người, mỗi gia đình và toàn xã hội. Chọn lựa biện pháp nào, mức độ
can thiệp sâu ra sao, và hiệu quả của chúng như thế nào là những câu hỏi
quan trọng cần có câu trả lời với độ tin cậy cao để giúp chính phủ hoạch
định chính sách về phòng chống tác hại thuốc lá.
II. Mục tiêu nghiên cứu
Cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam bằng chứng khoa
học về chi phí và hiệu quả các chính sách can thiệp phòng chống tác hại
thuốc lá và đề xuất lựa chọn các chính sách can thiệp nhằm làm giảm tác
hại thuốc lá.
III. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích chi phí-hiệu quả (CEA) và mô
hình bảng sống đa trạng thái (multi-state life-table model) để phân tích chi
phí – hiệu quả của 4 chính sách can thiệp phòng chống tác hại thuốc lá,
bao gồm:
(1) Tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng thuốc lá;
(2) Cảnh báo tác hại của thuốc lá lên sức khỏe bằng hình ảnh;
(3) Các chiến dịch truyền thông mạnh mẽ về tác hại của thuốc lá;
(4) Cấm hút thuốc nơi làm việc và nơi công cộng trong nhà.
IV. Kết quả nghiên cứu
Can thiệp cảnh báo tác hại của thuốc lá bằng hình ảnh là ít tốn kém nhất
(1,492 triệu đồng).

11


Kế tiếp là can thiệp tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với sản phẩm thuốc lá
(11,827 triệu đồng).
Chi phí cho can thiệp thực hiện các chiến dịch truyền thông là rất tốn kém
(147,558 triệu đồng).
Can thiệp cấm hút thuốc lá nơi làm việc và công cộng trong nhà là tốn kém
nhất (213,850 triệu đồng).
Hiệu quả về mặt sức khỏe của việc tăng thuế phụ thuộc vào mức độ tăng
thuế.
Khi thuế tiêu thụ đặc biệt tăng từ mức 55% lên mức 65% sẽ phòng tránh
được 1,390 triệu DALYs, mức thuế tăng lên 75% và 85% con số DALYs
phòng tránh được tương ứng là là 2,788 triệu và 4,050 triệu.
Can thiệp cấm hút thuốc nơi công cộng trong nhà sẽ phòng tránh được
3,099 triệu DALYs.
Cấm hút thuốc nơi công sở phòng tránh được 637 triệu DALYs, mang lại
lợi ích sức khỏe ít nhất trong tất cả các can thiệp được xem xét.

Cảnh báo bằng hình ảnh là một can thiệp rất hiệu quả (phòng tránh được
2,996 triệu DALYs).
Can thiệp thực hiện các chiến dịch truyền thông phòng tránh được 1,873
triệu DALYs.
Tất cả các can thiệp đều “rất hiệu quả” so với chuẩn chi phí - hiệu quả của
WHO.
Cảnh báo bằng hình ảnh là can thiệp có chi phí - hiệu quả nhất (558
đồng/DALY phòng tránh).
Tăng thuế là can thiệp hiệu quả thứ hai, và mức thuế càng cao thì càng
hiệu quả: 8,600 đồng, 4,215 đồng và 2,902 đồng trên 1 đơn vị DALY
phòng tránh cho các mức tăng thuế từ 55% đến 65%, 55% đến 75% và
55% đến 85%.
Tỷ số ICER của can thiệp chiến dịch truyền thông là 67,900 đồng/DALY
phòng tránh, cấm hút thuốc nơi cộng cộng trong nhà là 78,260
đồng/DALY phòng tránh và cấm hút thuốc nơi công sở là 336,800
đồng/DALY phòng tránh.
V. Kết luận
- Cả bốn can thiệp đều “rất hiệu quả” so với chuẩn chi phí - hiệu quả của
WHO trong cả 2 trường hợp: không tính hoặc tính cả phần bù đắp chi phí.
- Can thiệp Cảnh báo bằng hình ảnh là can thiệp có chi phí - hiệu quả nhất,
tiếp theo là tăng thuế, thực hiện chiến dịch truyền thông, cấm hút thuốc lá
nơi công cộng và cuối cùng là cấm hút thuốc lá nơi công sở.
VI. Khuyến nghị

12


- Thực hiện các can thiệp Tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng
thuốc lá; Cảnh báo tác hại của thuốc lá lên sức khỏe bằng hình ảnh; Các
chiến dịch truyền thông mạnh mẽ về tác hại của thuốc lá; Cấm hút thuốc

nơi làm việc và nơi công cộng trong nhà trên có thể cải thiện được sức
khỏe của dân số và tiết kiệm được chi phí phải chữa trị các bệnh liên quan
đến thuốc lá trong tương lai.
- Tất cả các can thiệp đều nên được đưa vào ưu tiên khi đề xuất chính sách
phòng chống tác hại thuốc lá.
- Trong điều kiện cần ưu tiên nguồn lực và lựa chọn các can thiệp theo thứ
tự ưu tiên thì can thiệp cảnh báo tác hại của thuốc lá bằng hình ảnh là hiệu
quả nhất, tiếp theo là tăng thuế, thực hiện chiến dịch truyền thông, cấm hút
thuốc lá nơi công cộng và cuối cùng là cấm hút thuốc lá nơi công sở.
Câu 5: Xác định các bên liên quan và giải thích lợi ích của mỗi bên
liên quan trong chính sách đền bù và giải phóng mặt bằng. Vẽ sơ đồ
các bên liên quan đối với chính sách trên ở nước ta hiện nay.
Các chủ thể liên quan trong chính sách đền bù GPMB.
I. NHÀ NƯỚC:
1. Đối với cấp Trung ương
- Chính phủ.
- Bộ Tài nguyên và môi trường.
- Bộ Xây dựng.
- Bộ Tài chính.
1. Đối với cấp tỉnh: Gồm có các cơ quan sau:
- UBND tỉnh.
- Sở Tài nguyên và Môi trường.
- Sở Xây dựng.
- Sở Tài chính.
- Ban Giải phóng mặt bằng và phát triển quỹ đất.
2. Đối với cấp huyện: Gồm các đơn vị sau:
- UBND huyện.
- Các phòng: Tài nguyên và Môi trường; Tài chính- Kế hoạch; Công
thương.
- Ban Bồi thường GPMB và tái định cư.

- Nhiều trường hợp còn cần đến phòng Tư pháp, Thanh tra.
3. UBND cấp xã:
- Chủ tịch UBND.
- Cán bộ Địa chính, Cán bộ Thuế, Cán bộ Tài chính.
- Trưởng thôn có các dự án chạy qua, Bí thư chi bộ.
II. CHỦ ĐẦU TƯ:

13


Chủ đầu tư của dự án có thể là cơ quan nhà nước, có thể là doanh nghiệp.
III. NGƯỜI DÂN:
Là những hộ dân có đất bị thu hồi để thực hiện dự án.
* Quyền lợi của người dân khi bị thu hồi đất để thực hiện dự án:
- Được Nhà nước bồi thường, hỗ trợ đối với đất đai và tài sản trên đất bị
thu hồi theo quy định Nhà nước, cụ thể:
+ Được bồi thường về đất theo giá đất do UBND tỉnh quy định hàng năm.
+ Được bồi thường về tài sản, các công trình vật kiến trúc trên đất bị thu
hồi theo đơn giá của UBND tỉnh quy định.
+ Được hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất.
+ Được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm.
+ Nếu phải di chuyển nhà ở thì được hỗ trợ kinh phí di chuyển.
+ Đối với các gia đình chính sách như thương binh, bệnh binh, người được
hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh thì được hỗ trợ thêm một khoản
tiền khác.
+ Nếu bị thu hồi hết đất ở và không còn chỗ ở nào khác thì được bố trí
đất tái định cư để xây dựng nhà ở, ổn định đời sống.
(Các mức hỗ trợ nói trên do UBND từng tỉnh quy định).
Lợi ích của nhà nước khi thu hồi GPMB
- Nhà nước thu hồi được đất để phục vụ các mục đích quốc phòng an ninh,

phục vụ công tác phát triển kinh tế - xã hội.
Trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất để tiến hành xây dựng khu công
nghiệp thì nhà nước còn thu được thuế của các doanh nghiệp.
Các bên liên quan trên có mức độ ảnh hưởng khác nhau:
- Bên liên quan mạnh:
+ Nhà nước: các cơ quan nhà nước có quyền quyết định thay đổi chính
sách (do có quyền trong tay). Chính phủ và UBND các tỉnh có quyền thay
đổi chính sách đền bù GPMB.
- Bên liên quan chính:
+ Doanh nghiệp hoặc các chủ thể khác có thể làm thay đổi chính sách theo
hướng có lợi cho họ (nếu như thực hiện bằng các biện pháp vận động hành
lang).
- Bên liên quan yếu:
+ Các cơ quan giúp việc cho nhà nước trong việc hoạch định và thực thi
chính sách đền bù giải phóng mặt bằng. Những chủ thể này không có
quyền can thiệp, quyết định thay đổi chính sách, chỉ có quyền tham mưu
giúp cho cơ quan có thẩm quyền ban hành chính sách phù hợp với thực
tiễn và các quy định của luật.

14


+ Người dân: không có quyền thay đổi chính sách, nếu có thắc mắc về
chính sách đền bù thì chỉ có quyền kiến nghị. Việc có thay đổi hay không
phụ thuộc vào cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Chính phủ và Ủy ban
nhân dân tỉnh).

15




×