Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Nét đặc sắc trong truyện thơ Nôm Nguyễn Đình Chiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.65 KB, 16 trang )

Nét đặc sắc trong truyện thơ Nôm Nguyễn Đình Chiểu
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học
Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Ông đã có nhiều đóng góp lớn lao
cho sự nghiệp phát triển của nền văn học dân tộc. Không chỉ có vậy,
ông còn là một tấm gương sáng ngời về nghị lực, phẩm chất đạo đức
cho người đời noi theo. Sống trong cảnh đất nước ngoại xâm, nỗi nhà
tan biến, nỗi mình bị thương, bao nhiêu nghiệt ngã của của cuộc đời
trút lên vai một người mù lòa, sự nghiệp công danh nửa đường dang
dở. Sự thách thức nghiệt ngã ấy đặt cho Nguyễn Đình Chiểu thái độ
phải lựa chọn lối sống và cách sống như thế nào cho thích hợp với vai
trò người trí thức trước thời cuộc. Cuộc đời dù nghiệt ngã nhưng sự
nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi theo số phận.
Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời chính là
thái độ sống có văn hóa, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu.
Trong sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Đình Chiểu đã đạt được nhiều thành
quả, nhưng thành quả lao động xuất sắc nhất của ông là ở ba lĩnh vực:
nhà văn, nhà giáo đồng thời là một thầy thuốc đầy y đức. Ở ông hội tụ
tất cả những phẩm chất của kẻ sĩ lúc bấy giờ đó là “nhân”, “trí”,
“dũng”. Con người Đồ Chiểu toát lên một vẻ đẹp “thiên lương” khiến
người đời tâm phục và kính trọng, ngay cả kẻ thù cũng phải run sợ
trước một nhân cách cao lớn đến như vậy.
Có thể thấy rằng, trên cương vị là một nhà thơ, cái sâu sắc, thâm thúy
trong sáng tác của Đồ Chiểu chính là ở chỗ khen chê, biểu dương, phê
phán, yêu ghét rõ ràng, chánh tà minh bạch, hợp đạo lý, thuận tình
người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam.Với thái độ sống ấy,
Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tạo ra những tác phẩm truyện thơ Nôm có
giá trị cả về nội dung và nghệ thuật: Lục Vân Tiên, Dương Từ_Hà Mậu,
Ngư Tiều y thuật vấn đáp.
Để đi vào tìm hiểu cụ thể những đóng góp to lớn đó của ông đối với


văn đàn Việt Nam, chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài Nét đặc sắc trong
truyện thơ Nôm Nguyễn Đình Chiểu.
2. Lịch sử nghiên cứu
Với một tấm lòng nhiệt huyết không ngại khó khăn gian khổ, Nguyễn
Đình Chiểu đã hiến dâng cả cuộc đời và sự nghiệp văn chương của
mình cho sự nghiệp vì dân, vì nước. Tên tuổi của ông luôn là niềm tự
hào của nền văn hóa, văn học dân tộc. Với một vị thế rất đáng trân
trọng đó, Nguyễn Đình Chiểu được giới nghiên cứu phê bình tập trung
tìm hiểu, khảo cứu phê bình trên nhiều lĩnh vực, khía cạnh khác nhau.
Cho đến nay, người ta đã thống kê được hàng trăm công trình, bài
1


viết, hàng chục tập sách nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu đã được
công bố. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu sau đây.
Nghiên cứu về tác gia Nguyễn Đình Chiểu nói chung thì phải kể đến
nhóm tác giả: Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Võ Văn Dung, Bảo Định
Giang, Nguyễn Lộc, Thạch Phương, Vũ Khiêu với các bài viết tiêu biểu
như Hoài Thanh với Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn, một tấm
gương chói ngời tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam trong
cuốnMấy vấn đề về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Nxb Khoa
học, Hà Nội, 1964. Đặng Thai Mai với bài Nguyễn Đình Chiểu – nhà thơ
yêu nước lớn của nhân dân Việt Nam, trong cuốn Trên đường học tập
và nghiên cứu (tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội, 1965. Bài viếtNhững cống
hiến đặc sắc của Nguyễn Đình Chiểu trong lịch sử văn hóa dân tộc của
Nguyễn Lộc, in trong cuốn Nguyễn Đình Chiểu, Nxb Văn hóa thông tin
và Hội văn nghệ, Bến Tre, 1984. Bài viết Kiên cường và bất khuất
trước mọi thủ đoạn của quân cướp nước và bán nước – Nguyễn Đình
Chiểu của Vũ Khiêu trong cuốn Người trí thức Việt Nam qua các chặng
đường lịch sử, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1987. Bảo Định GIang với

bài Nguyễn Đình Chiểu – người chiến sĩ kiên cường, nhà thơ lớn của
nhân dân Việt Nam trong cuốn Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn
học Nam Bộ nửa thế kỉ XIX, Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh,
1990.
Nghiên cứu về truyện thơ Nôm Nguyễn Đình Chiểu cũng đã có hàng
trăm công trình nghiên cứu lớn nhỏ đề cập tới, nhất là nghiên cứu về
truyện Lục Vân Tiên – tác phẩm tiêu biểu cho thời kì sáng tác đầu của
Nguyễn Đình Chiểu. Tiêu biểu là các tác giả như: Nguyễn Lộc, Nguyễn
Ngọc Thiện, Vũ Khiêu, Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn, Ca Văn Thỉnh, Trần
Văn Giàu, Nguyễn Phong Nam…
Dưới đây là một số công trình nghiên cứu mang tính bao quát, toàn
diện như: Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm của Nguyễn Ngọc
Thiện, Nxb Giáo dục, 2001. Cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ
XIX của Nguyễn Lộc, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội,
1976. Cuốn Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng của người trí thức Việt
Nam của Vũ Khiêu, Nxb Khoa học, xã hội và nhân văn, 1986. Tác giả
Nguyễn Phong Nam với cuốn Giáo trình văn học Việt Nam nửa cuối thế
kỉ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nôi, 1997…
Nhìn chung, ở các công trình trên, truyện thơ cảu Nguyễn Đình Chiểu
được xem xét và nhìn nhận một cách khái quát. Mặc dù trong mỗi
công trình, các tác giả đã đi vào nội dung tác phẩm song chỉ dừng lại ở
mức độ nhận định về văn bản, thể loại, kết cấu, ngôn ngữ của tác
phẩm.
Ngoài những công trình nghiên cứu kể trên còn có hàng chục bài viết,
bài phê bình, tiểu luận về Nguyễn Đình Chiểu được in trên các tập san,
tạp chí văn học như: Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ yêu nước lớn, nửa
cuối thế kỉ XIX của Nguyễn Huệ Chi, báo Tiền Phong, Hà Nội,
2



3/7/1963. Bài viết Thử bàn về nguồn gốc truyện Lục Vân Tiêncủa Trần
Nghĩa, Tạp chí văn học, Hà Nội, số 1, 7/1963. Bài viết Để làm rõ điều
nghi vấn về truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểucủa Nguyễn
Phong Nam, Tạp chí Văn học, Hà Nội, 1995…
Trên đây là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về Nguyễn Đình
Chiểu và truyện thơ Nôm của ông. Trong quá trình nghiên cứu đề tài
này, chúng tôi có tiếp thu một cách sáng tạo các công trình nghiên cứu
có liên quan để hoàn thành đề tài của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là về tác gia Nguyễn Đình Chiểu
và các truyện thơ Nôm của ông.
Phạm vi nghiên cứu: Trong đề tài này, do điều kiện về thời gian cũng
như năng lực có hạn, chúng tôi chỉ tập trung vào tìm hiểu về vấn
đềNét đặc sắc trong truyện thơ Nôm của Nguyễn Đình Chiểu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau
đây:
- Phương pháp phân tích – tổng hợp
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh
5. Kết cấu đề tài
Trong đề tài này, ngoài phần mở đầu và phần kết luận ra, phần nội
dung gồm có hai chương chính:
Chương 1: Nguyễn Đình Chiểu – Người trí thức yêu nước
Chương 2. Nét đặc sắc trong truyện thơ nôm Nguyễn Đình Chiểu

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU – NGƯỜI TRÍ THỨC
YÊU NƯỚC
1.1. Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trên bầu trời văn học

Việt Nam
Nguyễn Ðình Chiểu là người mở đầu cho giai đoạn văn học nửa cuối
thế kỷ XIX, tên tuổi ông là tượng trưng cho lòng yêu nước của nhân
dân miền Nam, và thơ văn ông là những trang bất hủ ca ngợi cuộc
chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống bọn xâm lược phương Tây
ngay buổi đầu chúng đặt chân lên đất nước ta.

3


Nguyễn Ðình Chiểu sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Thới, huyện Bình
Dương phủ Tân Bình, Gia Ðịnh và mất ngày 3-7-1888 tại Ba Tri, Bến
Tre. Cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu sớm trải qua những chuỗi ngày gia
biến và quốc biến hải hùng đã tác động đến nhận thức của ông.
Nguyễn Ðình Chiểu có nhiều nghị lực và phẩm chất, phải có nghị lực
phi thường và khí phách cứng cỏi thì Nguyễn Ðình Chiểu mới vượt qua
những bất hạnh của cá nhân và thời cuộc để đứng vững trước cơn binh
lửa hãi hùng của lịch sử mà không sờn lòng, nản chí.Nguyễn Ðình
Chiểu là hiện thân của nhiều phẩm chất cao đẹp làm người. Trong ứng
xử cà nhân, Ðồ Chiểu là tấm gương sáng về đạo hiếu nghĩa nhân từ.
Tất cả cô đúc lại thành khí tiết của nhà nho yêu nước Việt Nam tiêu
biểu cho giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.
Văn chương chưa phải là toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Ðình Chiểu.
Sự nghiệp của ông còn lớn hơn nhiều. Ông không chỉ là nhà văn mà
còn là nhà giáo, người thầy thuốc và là một nhà tư tưởng. Nhưng văn
chương của ông đồ sộ đủ đứng thành sự nghiệp riêng.
Nguyễn Ðình Chiểu bắt đầu viết văn sau khi mù, hầu hết các tác phẩm
đều viết bằng chữ Nôm. Căn cứ vào nội dung có thể chia ra thành hai
thời kỳ sáng tác:
-Trước khi Pháp xâm lược Nam Kỳ: Tác phẩm Lục Vân Tiên là tác phẩm

đầu tay, có tính chất tự truyện.
- Pháp xâm lược Nam Kỳ :
+ Tác phẩm Dương Từ-Hà Mậu có ý kiến cho rằng tác phẩm được viết
trước khi Pháp xâm lược cũng có ý kiến ngược lại, mục đích của tác giả
là dạy đạo Khổng cho học trò và sau này được sửa lại cho phù hợp với
tình hình.
+ Tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp chủ yếu nói về các phương
thuốc và nghề làm thuốc nhưng tràn đầy tinh thần yêu nước.
+ Các bài thơ Ðường luật, các bài hịch, văn tế… tiêu biểu Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc(1861), Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Ðịnh(1864),
Mười bài thơ điếu Phan Tòng(1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục
tỉnh(1874), Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây, Hịch đánh chuột chưa
xác định thời điểm sáng tác.
Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà thơ mù Nam Bộ là một bài học
lớn về lòng yêu nước, về việc sử dụng ngòi bút như một vũ khí đấu
tranh sắc bén. Tấm gương Nguyễn Ðình Chiểu theo thời gian vẫn
không mờ đi chút nào.
1.2. Vị trí của Nguyễn Đình Chiểu trong lịch sử văn học Việt
Nam
Trong lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu có một vị trí rất
quan trọng. Ông là nhà văn có nhiều đóng góp lớn lao cho sự phát
triển của văn học dân tộc.
Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng về lòng yêu nước. Lòng ái
quốc của ông không chỉ bộc lộ qua văn chương mà còn thể hiện qua
4


hành động cụ thể. Vốn là nhà văn rất nhạy cảm với những vấn đề
thuộc về đời sống chính trị xã hội, ông đã có những sự lựa chọn và
hành xử đúng đắn.

Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn có nhiều đóng góp xuất sắc cho dòng
văn học yêu nước, là một trong những người mở đường, dẫn đầu cho
trào lưu văn học chống Pháp từ nửa sau thế kỉ XIX đến những năm đầu
thế kỉ XX. Ông đã nêu một tuyên ngôn bất hủ về trách nhiệm, sứ
mạng của người cầm bút: Chở bao nhiêu đạo thuyền không thẳm/
Đâm mây thằng gian bút chẳng tà. Đấy là sự tiếp nối truyền thống tư
tưởng và văn học của dân tộc. Ông đã khẳng định quan niệm trên một
cách nhiệt thành và đầy sức thuyết phục.
Nguyễn Đình Chiểu là người thành công nhất trong việc xây dựng hình
tượng người nông dân yêu nước chống ngoại xâm trong văn học Việt
Nam thời trung – cận đại. Bằng những bài thơ, những bài văn tế xuất
sắc, ông đã tạo dựng được một tượng đài cho người nghĩa sĩ chống
xâm lăng, những kẻ thuộc giai tầng hèn kém nhất trong xã hội. Bức
chân dung ấy được dựng bằng tấm lòng nhân ái vô bờ, một sự ngưỡng
mộ sâu sắc và một tài năng trác tuyệt. Ông đã đưa thể loại văn tế tiến
những bước nhảy vọt.
Nguyễn Đình Chiểu được coi là một hiện tượng văn học. Ông là một
trong số rất ít các nhà văn mà tác phẩm có thể tồn tại trong kí ức của
nhân dân bằng con đường truyền khẩu. Đây là nhà văn tiêu biểu có
sức tác động lớn lao đối với sự phát triển của văn học, văn hóa Nam
bộ.
CHƯƠNG 2. NÉT ĐẶC SẮC TRONG TRUYỆN THƠ NÔM
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
2.1. Đặc sắc nội dung trong truyện thơ Nôm Nguyễn Đình Chiểu
2.1.1. Tính nhân dân
Lòng thương dân vô hạn và sự gắn bó suốt đời với nhân dân của
Nguyễn Đình Chiểu, nhất là quan điểm và lập trường của nhân dân khi
ông xem xét và giải quyết mọi vấn đề. Nhân dân đã đùm bọc, cưu
mang giúp đỡ ông lúc hoạn nạn, đồng thời đã tạo ra những điều kiện
và môi trường thích hợp cho tài nàng và trí tuệ của ông nảy nở. Đối với

ông, nhân dân lao động như một bà mẹ thần kỳ, chẳng những đem lại
cho ông một cuộc sống mãnh liệt, hữu ích và đầy ý nghĩa, mà còn
chắp cho ông đôi cánh đủ sức bay tới những đỉnh cao của trí thức và
nghệ thuật.
Trong truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên cả một xã
hội trong đó những nhân vật chính diện tiêu biểu là Lục Vân Tiên và
Kiều Nguyệt Nga đã tượng trưng cho tài năng, trí tuệ, nhân phẩm của

5


con người. Đó là những con người học rộng, tài cao. Tuy mỗi người mỗi
vẻ, mỗi nét mặt khác nhau, nhưng họ đều là những người "cương
trực", "khẳng khái", "vị tha" và “trọng nghĩa hiệp". Họ sẵn sàng cứu
giúp người khác không sợ khó khăn nguy hiểm và nêu cao cái nghĩa
khí “giữa đường gặp sự bất bình chẳng tha". Họ kiên trì đứng về lẽ
phải mà suy nghĩ và hành động. Những đặc tính cao đẹp đó cũng chính
là những đức tính cơ bản của con người Việt Nam nói chung và của
nhân dân Nam Bộ nói riêng.
Ở những nhân vật chính diện của truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình
Chiểu đã miêu tả phẩm chất đẹp đẽ của con người biểu hiện trong các
mối quan hệ cha con, vợ chồng, bè bạn, thầy trò... Họ đã ăn ở, giao
tiếp và đối xử với nhau thật là trọn tình vẹn nghĩa, thủy chung. Tinh
nghĩa và lòng thủy chung đó chính là tình cảm đạo đức hồn nhiên
trong sáng và lành mạnh vốn nảy sinh từ trong cuộc sống giản dị của
nhân dân lao động.
Tiến trình phát triển của sự việc và của những tình tiết trong
truyệnLục Vân Tiên đã diễn ra theo đúng như cái nhìn lạc quan và
niềm tin như vậy của quần chúng
Hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga gặp bao nhiêu

tai nạn và trắc trở trên đường đời, nhưng cuối cùng họ đã vượt qua tất
cả để đi đến hạnh phúc.
Tóm lại, nhân dân lao động được phản ánh trong truyện Lục Vân
Tiênvới tất cả đặc tính và phẩm chất, sức mạnh và niềm tin của họ. Đó
chính là một thành công tuyệt mỹ trong lịch sử văn học nước ta. Bởi vì
trước Nguyễn Đình Chiểu, ở nước ta chưa có một nhà văn nhà thơ nào,
kể từ đại thi hào Nguyễn Du cho đến các tác giả của những truyện
nôm bình dân và truyện nôm bác học, lại miêu tả được sâu sắc, đa
dạng tính cách của quần chúng nhân dân như truyện thơ Lục Vân Tiên.
Những đặc tính và phẩm chất của họ không chỉ biểu hiện ở một hoặc
hai nhân vật mà ở một loạt các nhân vật như Hớn Minh, Vương Tử
Trực, ông Ngư, ông Triều, ông Quán, Tiểu đồng... Điều đó chứng tỏ
rằng, nhân dân lao động kể cả những người trí thức gắn bó với họ đã
từ cuộc đời thực bước vào truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu như một
lực lượng xã hội đông đảo, hùng hậu.
2.1.2. Hình tượng con người vì nghĩa, con người đạo đức
Điểm thành công nhất của Nguyễn Đình Chiểu qua các truyện thơ Nôm
là ở chỗ ông đã xây dựng thành công con người vì nghĩa, con người
đạo đức. Quan niệm này đã được ông thể hiện trong tác phẩm của
mình một cách nhất quán, triệt để từ việc mô tả nhân vật, tổ chức hệ
thống sự kiện, xây dựng các hệ thống…
Không phải ngẫu nhiên mà trong các truyện thơ Nôm, ông luôn cố
gắng để trình bày số phận các nhân vật một cách hoàn chỉnh, trọn
vẹn. Lí do là khi kéo dài, mở rộng cuộc đời nhân vật, tác giả có điều
kiện tốt nhất để chứng minh một cách thuyết phục quy luật nhân quả.
6


Ngay đầu truyện Lục Vân Tiên, ông đã nói rằng nhân vật chính ở đây
là kết quả của một quá trình tu nhân tích đức: Có người ở quận Đông

Thành/ Tu nhân tích đức sớm sanh con hiền. Sự ra đời của Vân Tiên
không đơn thuần là kết quả của hôn nhân mà còn do ứng nghiệm của
quá trình tu nhơn tích đức.
Có thể khái quát cuộc đời của Vân Tiên từ khi xuất hiện cho tới khi kết
thúc câu chuyện là một hành trình khổ ải để bồi đắp cái đức của mình
ngày một cao hơn. Cũng chính vì thế mà chàng được báo đáp, được
giúp đỡ. Sự báo bổ này không cần chờ đến phần cốt truyện mà nó xảy
ra liên tục trong thế sóng đôi với những bất hạnh. Sau mỗi khó khăn
hoạn nạn, bao giờ Vân Tiên cũng được cứu giúp: bị thả vào rừng thì có
du thần dẫn ra gặp ông Tiều, bị đẩy xuống song thì có giao long dìu
vào bờ để gặp nhà thuyền chài, mắt bị mù thì có tiên ông cho thuốc…
Họa và phúc được trình bày như hai mặt đối lập nhau của cùng một sự
kiện. Tinh thần lạc quan của Nguyễn Đình Chiểu, niềm tin vào cuộc
đời, vào con người được bộ lộ rõ nhất ở đây: Trong cơn bĩ cực thới lai/
Giữ mình cho trọn việc ai chớ sờn. Nguyễn Đình Chiểu tuyệt vời biện
chứng trong quan hệ giữa bĩ và thới, giữa giữ mình và vì ai. Đây là
triết lí sống của nhân dân, chính xác và giản dị như chân lí. Tác giả
khép lại câu chuyện bằng một viễn cảnh thật huy hoàng, trong đó
những con người đực độ, nhân nghĩa sẽ nối nhau làm chủ trên mặt đất
này: Trăm năm biết mấy tinh thần/ Sinh con sau nối gót lân đời đời.
Đây là lối kết thúc có hậu đặc sắc bởi nó tạo được sự hô ứng với phần
đầu của câu chuyện về nhân vật chính. Nó là lời khẳng định sự ngự trị
vĩnh viễn của cái thiện, cái nhân nghĩa, cái đạo lý. Giữa tiền thân và
hậu thân của nhân vật luôn có sự tiếp nối liên tục. Đó cũng là cái hậu
lớn nhất của câu chuyện.
Các nhân vật làm điều ác trong truyện cuối cùng đều bị trừng trị,
không loại trừ ai. Nhưng có một điểm đáng lưu ý là các hình phạt đối
với kẻ bất nghĩa đa số đều có liên quan với hình thức gây thù trước kia
và cách xử lí của Nguyễn Đình Chiểu cũng khá đặc biệt. Chẳng hạn
Trịnh Hâm, kẻ đã đẩy Vân Tiên xuống sông thì về sau bị chết chìm,

làm mồi cho cá. Võ Công thì xấu hổ mà chết, hai mẹ con lại bị hổ đưa
vào hang sâu (nơi trước đây Võ đã nhốt Vân Tiên), rồi lấy đá chẹn
ngang. Thái sư bị cách chức, về nhà,… Vấn đề đặt ra trong tác phẩm
Nguyễn Đình Chiểu luôn được hướng đến mục tiêu giáo huấn đạo lí đạo
đức. Ông cố ý nhắc lại các chi tiết, sự kiện là nhằm để nhấn mạnh tính
tất yếu của sự báo ứng, trừng phạt. Đây cũng là cách để làm nổi rõ
hơn mối quan hệ biện chứng của nguyên nhân và kết quả.
Hình thức trừng phạt ở truyện thơ Nôm của Nguyễn Đình Chiểu khá
độc đáo. Có cảm giác ông né tránh, không muốn để con người tham
gia trực tiếp vào chuyện báo thù. Và vì thế ông tìm đến những giải
pháp thật kì khôi. Chẳng hạn hai mẹ con Thể Loan bị hai con cọp chặn
đường nhưng chúng không ăn thịt, mà phải cõng họ vào hang, lấy đá
7


lấp hang xong đâu đó mới bỏ đi.
Việc dùng hình phạt đối với tội nhân dựa vào hình thức gây thù chuốc
oán trước kia còn được lặp lại trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp. Trong
cái phiên tòa dựng nên để xử những kẻ làm thuốc bất lương, tác giả đã
để cho những bọn lang bịp có dịp trình bày hết các mánh khóe xoay
tiền và đấy cũng chính là bản cáo trạng mà chúng tự đưa ra để tự luận
tội bản thân. Hình phạt tội nhân phải chịu trong truyện gợi nhớ đến
hình trạng của chúng lúc trước. Phiên tòa xử trong mộng ảo lời buộc
tội lại rất thực. Chẳng hạn, Lão Đậu, một kẻ dốt nát trong khoa trị liệu
bệnh đậu mùa “hai đời gây nợ oan gia để hồn” thì bị trừng trị bằng
cách để cho bọn âm hồn “kéo đầu đòi mạng lây côn khỏ đầu”
(NTYTVĐ. 3112). Lão Cứu làm nghề châm cứu, tham tiền làm ẩu (đó là
điển hình cho loại thầy thuốc mà Nguyễn Đình Chiểu gọi là “quá cha
giặc mùa) thì bị “kim châm lửa đốt nát da”. Lão Tam Sao làm nghề
bào chế, sao tẩm thuốc cũng là một tay đạo tặc trong chốn y lâm; cái

tội của lão ngoài tội bớt xén, còn là lừa đảo. Theo quan án, lão là một
kẻ “miệng lưỡi già”, đem “cây lá tầm phào” lừa mị dân chúng… Với tội
danh ấy, lão bị “quay chân vả miệng trả khi già hàm” (NTYTVĐ.3238).
Bọn thầy pháp, thầy thuốc cao… đều bị xử theo nguyên tắc như thế.
Ở truyện này, Nguyễn Đình Chiểu hình dung bọn tội phạm nghề y là
một bọn bất nhân bất nghĩa. Ông xem nhân cách của chúng còn tồi tệ
hơn cả “giống con buôn” (là loại người mà ông khinh miệt hết sức).
Ông cho rằng thà làm con buôn còn không đáng bị nguyền rủa bằng
những kẻ lợi dụng nghề thuốc để kiếm ăn. Nhưng ông cũng xếp chúng
vào một hạng, một “giống”, và dùng các khái niệm đổi chác bán buôn
để cắt nghĩa căn nguyên hậu họa mà chúng lĩnh về sau.
Hai đời vay nợ oan gia để đời (NTYTVĐ.3100)
Có vay có trả kêu la lẽ nào (NTYTVĐ.3174)
Có ăn có chịu còn cưu hận gì (NTYTVĐ.3236)
Quay chân vả miệng trả khi già hàm (NTYTVĐ.3238)
Một vay một trả người mang nợ đời (NTYTVĐ.3522).
Tất cả những vay – trả, mượn – trả, ăn – chịu… thực chất là những
biểu hiện của quan hệ nhân quả.
Quan niệm của tác giả về công lí, về cách giải quyết oán cừu, thái độ
đối với cái ác ở cả ba tác phẩm đều cùng nằm trong một mạch.
TrongLục Vân Tiên, khi bình luận về những kẻ “vô nghì”, tác giả cho
rằng vận của chúng là “không ra gì”, “chẳng làm gì nên thân”. Ở
Dương Từ - Hà Mậu ông gay gắt hơn: Đã sa vào tội bất nhân/ Dẫu cho
muôn kiếp cái thân ra gì (DTHM.1755). Cũng chính xuất phát từ quan
niệm như thế mà ông đã tạo ra được một cảnh địa ngục lạ lùng nhất
trong văn chương Việt Nam. Truyện thơ Nôm có nhiều tác phẩm nói
đến địa ngục, song không có tác phẩm nào trình bày đầy đủ, chi tiết,
sinh động với quy mô lớn, ý nghĩa triết lí sâu sắc như trongDương Từ
8



Hà Mậu. Địa ngục ở đây cũng là một thế giới, thế giới tội ác và trừng
phạt. Cái đại pháp trường này dùng để xử tất cả mọi tội nhân trên
dương thế. Quan niệm về địa ngục - nơi phán xét đạo đức của con
người chốn trần ai là một quan niệm khá phổ biến trong văn học dân
gian. Tuy nhiên, ở trường hợp này, tác giả không nhằm minh họa, hình
tượng hóa một quan niệm. Điều cốt yếu mà Nguyễn Đình Chiểu muốn
trần tình với mọi người qua cảnh tượng âm ty rùng rợn này là: tội ác
nhất định sẽ bị trừng phạt, những hành vi nhơ nhớp, tội lỗi dù xảy ra ở
đâu, vào lúc nào cũng không thể lẫn tránh, che đậy được.
2.1.3. Hệ thống nhân vật
Hệ thống nhân vật truyện thơ trung đại Việt Nam có hai đặc trưng nổi
bật. Thứ nhất, mỗi nhân vật, dù được miêu tả đạt tới bề dầy một tính
cách thì cũng chỉ là tính cách nhất phiến. Nghĩa rằng cái gọi là bề dầy
ấy đã bị nguyên tắc thi pháp nhân vật của thể loại giát mỏng ra, dẹt
hoá đi: nó không có chiều kích mang tính lập phương. Toàn bộ tính
cách của nhân vật được ấn định một cách tiên nghiệm ngay từ trong ý
đồ tác giả, và cố định trong suốt vận mệnh tác phẩm. Biến cố mà nhân
vật trải qua chỉ là những sự kiện hầu như ngoại tại thuần tuý đối với
tính cách, được gá hờ vào cốt truyện, làm thành những cơ hội giả tạo
để nhân vật phô ra những gì đã được tác giả sắm sẵn cho, từ trước khi
hạ sinh ra nó. Thứ hai, trong tác phẩm, con người bao giờ cũng được
chia ra, xếp vào hai tuyến duy nhất:thiện–ác, chính–tà, trung–nịnh,
tốt–xấu… Đường phân giới giữa chúng, về nguyên tắc, là tuyệt đối và
cố định. Nhân vật bên này không được phép chuyển dịch sang nhập
tịch bên kia; cũng không cho phép một nhân vật cùng lúc vừa thuộc
bên này lại vừa thuộc bên kia…
Lục Vân Tiên tuân thủ nghiêm ngặt những quy phạm ấy. Các nhân vật
đều nhất phiến về tính cách. Sự miêu tả từng nhân vật, hay giữa các
nhân vật, xét trong nội bộ tác phẩm, không phải không phong phú,

càng khó nói là đơn điệu. Tác giả sử dụng nhiều thủ pháp cá biệt hoá
nhân vật, từ những góc độ và mức độ khác nhau. Có khi dùng người
kể chuyện để giới thiệu nhân vật, bằng cách trực tiếp thuyết về phẩm
chất bên trong (Vân Tiên), hoặc gián tiếp giới thiệu phẩm chất qua mô
tả dáng vẻ bên ngoài (Hớn Minh). Có khi dùng lờicủa chính nhân vật,
để nó tự tố nó (Trịnh Hâm), hoặc che đậy mà lộ liễu (Thể Loan), hoặc
thổ lộ mà ngập ngừng (Nguyệt Nga)… Và thường khi nhất là dùng
hành vi nhân vật (hành vi động tác và hành vi ngôn ngữ) để thể hiện:
nói đi đôi với làm (Quán), nói ít làm nhiều (Hớn Minh, Ngư, Tiều), chỉ
làm không nói (Tiểu Đồng), nói một đàng làm một nẻo (Võ Công, Trịnh
Hâm), và có cả sự ngậm miệng ăn tiền (Bùi Kiệm), v.v... Tất cả nhằm
xác định tính cách cho nhân vật, trước hết những nhân vật chính.
Quy phạm thứ hai về thi pháp nhân vật truyện thơ là sự phân tuyến
9


đối lập các nhân vật cũng được Lục Vân Tiên tuân thủ triệt để. Hơn cả
triệt để: cực đoan! – nhân vật chính chẳng những được xếp vào hai
tuyến đối lập (chính diện–phản diện) như thông lệ truyện thơ Nôm,
chúng còn được bố trí thành từng cặp tính cách đối lập, trực diện đối
đầu nhau: Nguyệt Nga >/< Thể Loan; Kiều Công >/< Võ Công; Hớn
Minh >/< Trịnh Hâm; Tử Trực >/< Bùi Kiệm; Quán-Ngư-Tiều >/<
Lang-Bói-Pháp...Vân Tiên không thuộc cặp nào nhưng liên quan tất cả
các cặp, thì đó là hình thức bề sâu của cấu trúc hệ thống nhân vật xác
nhận vị trí nhân vật chính-trung-tâm của anh ta. Ở mỗi cặp, nhân vật
đối lập nhau theo nguyên tắc vừa đối trọng vừa đối xứng, lấy nét trội
đạo đức đã xác định làm phân giới và trục đốichiều ngang. Trên trục
đối chiều ngang đó, hai nhân vật ở hai đầu mút của trục, hay là mỗi
nhân vật ở một thái cực đối lập của cùngmột nét đạo đức mà chúng có
chức năng biểu thị. Người tốt, tốt tuyệt đối; kẻ xấu, cũng xấu tuyệt

đối.
Vậy là các nhân vật Lục Vân Tiên đối lập kép, theo cả hai trục, trụcdọc
(theo tuyến) và trục ngang (theo cặp). Đặt cạnh mô hình đối lập nhân
vật đơn trục (chỉ theo tuyến) của các truyện Nôm, rõ ràng đếnLục Vân
Tiên, quy phạm này đã được khai thác đến tận cùng.
Mỗi tính cách trong Lục Vân Tiên, nếu nhìn riêng rẽ cô lập, là một nhân
vật, một người. Nhưng nhân vật trong Lục Vân Tiên không xuất hiện
đơn lập, mà song lập: mỗi nhân vật chính không xuất hiện một mình,
mà bao giờ cũng gọi ra một nhân vật đối lập, cùng xuất hiện với nó
thành một cặp. Có Nguyệt Nga thì lập tức có Thể Loan, Tử Trực xuất
hiện thì cũng xuất hiện ngay Bùi Kiệm… Trong truyện, sự xuất hiện
song lập ấy phổ quátnhư một cơ chế, đi vào tiếp nhận của độc giả,
người đọc cảm thụ nhân vật truyện theo từng cặp như vậy.
Mỗi tính cách song lập, qua cặp nhân vật đồng hiện, sẽ biểu thị một
nét đạo đức duy nhất; ngược lại, nét đạo đức duy nhất ấy trở
thànhtoàn bộ nội dung tính-cách-người của hai nhân vật (thậm chí, về
nguyên tắc, hoạt động trên cái nét đạo đức duy nhất đó không chỉ là
hai người – hai nhân vật – mà có thể là mọi người, hay mọi khả năng
mà con người có thể có ở nét đạo đức ấy).
Ở Dương Từ-Hà Mậu và Ngư Tiều thuật vấn đáp, các nhân vật không
chia thành tuyến. Thế giới trong truyện không phải là tốt đẹp, càng
không phải toàn bích tốt đẹp. Trái lại, đó là thế giới mà cái xấu mưu
toan thống trị như ở Dương Từ-Hà Mậu hoặc hiện đang ngự trị Ngư
Tiều thuật vấn đáp. Vì vậy, hiển nhiên nó đầy dẫy cái xấu và kẻ xấu
của nó. Có điều, những cái xấu-kẻ xấu đó không được đưa vào bình
diện mô tả tái hiện của tác phẩm, mà chỉ như những ám ảnh hậu
trường, có chức năng phông nền cho chuyện và nhân vật truyện. Tuy
nhiên, không vì vậy mà các nhân vật, trước hết, nhân vật chính, được
mô tả là những người-tốt-hoàn-toàn, càng không phải tuyệt đối tốt,
như các nhân vật chính diện đã thấy ở Lục Vân Tiên và thường thấy ở

10


các truyện thơ Nôm.
Các nhân vật Dương Từ, Hà Mậu và Ngư Tiều thuật vấn đáp cố nhiên
không phản diện, nhưng cũng không thể nói là chính diện thuần toàn.
Cơ bản thì họ là người tốt, hiểu theo nghĩa người lương thiện, do đó cơ
bản là chính diện. Nhưng trong con người toàn bộ của nhân vật, vẫn có
một phần của sự không tốt, chưa tốt, chưa chính diện – phần này ở
Dương, Hà rõ hơn, đủ trở nên có vấn đề hơn, so với Ngư, Tiều. Theo
tôi, có thể gọi đây là dạng tính cách phi thập toàn thuần nhất, mà một
cách tự nhiên lôgíc, nó hoàn toàn được phép trở nênlưỡng khả (hoặc
thậm chí đa khả) về tính cách. Đặt cạnh khuôn hình phổ biến về nhân
vật của các truyện thơ Nôm, kể cả Lục Vân Tiên, rõ ràng dạng nhân
vật lưỡng khả phi thập toàn này là hiếm hoi, vì vậy nó độc đáo, ít có,
thậm chí riêng có ở hai truyện thơ này.
2.2. Đặc sắc nghệ thuật trong truyện thơ Nôm Nguyễn Đình
Chiểu
2.2.1. Cốt truyện
Nghệ thuật là cánh tay đắc lực tạo nên thành công của một tác phẩm
văn học. Đề tài, cốt truyện, nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ là những yếu
tố nồng cốt của một kiệt tác văn học. Trong đó, cốt truyện là bộ xương
sống, cái khung của một tác phẩm nên nó đóng một vai trò hết sức
quan trọng. Vì vậy, văn học nói chung và truyện thơ Nôm nói riêng,
cốt truyện là một phương tiện để người nghệ sĩ gửi gắm tư tưởng, tạo
nên đứa con tinh thần của mình.
Đến với Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trên thi đàn văn học. Ông
đã đóng góp rất nhiều trên thi đàn văn học. Ông đã đóng góp rất nhiều
ở thể loại truyện thơ Nôm, tác phẩm tiêu biểu là Lục Vân Tiên. Nét đặc
sắc trong truyện thơ Nôm Nguyễn Đình Chiểu không những ở phương

diện nội dung mà ở phương diện thi pháp. Nguyễn Đình Chiểu đã vận
dụng tốt kĩ thuật xây dựng cốt truyện. Cốt truyện trong truyện thơ
Nôm Nguyễn Đình Chiểu bắt nguồn từ đời sống thực tại xã hội. Truyện
Lục Vân Tiên được tác giả sáng tạo trên sự hư cấu cảnh ngộ, cuộc đời
của chính tác giả. Cốt truyện Lục Vân TiênNguyễn Đình Chiểu xây
dựng rất hợp logic, cụ thể như sau: Lục Vân Tiên quê ở quận Đông
Thành khôi ngô tuấn tú, nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên từ
giã thầy xuống núi đua tài, giữa đường chàng đánh tan bọn cướp
Phong Lai cứu Kiều Nguyệt Nga. Cảm ơn ân đức ấy Nguyệt Nga tự
nguyện gắn bó suốt đời với Vân Tiên và tự họa bức chân dung chàng
giữ luôn bên mình. Còn Vân Tiên tiếp tục cuộc hành trình đi thi và kết
bạn với các sĩ tử khác. Sau khi về nhà thăm cha mẹ Vân Tiên cùng tiểu
đồng lên đường đi thi và ghé thăm Võ Công người đã hứa là gã con gái
là Võ Thể Loan cho chàng. Từ đây Vân Tiên có thêm người bạn đồng
hành là Vương Tử Trực, tới kinh đô lại gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm,
thấy Vân Tiên tài cao Trịnh Hâm đem lòng đố kỵ và ghen ghét. Lúc sắp
vào trường thi Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi về quê chịu
11


tang. Dọc đường về Vân Tiên bị đau mắt nặng, rồi bị mù cả hai mắt, bị
Trịnh Hâm đẩy xuống sông. Chàng được gia đình ông Ngư cưu mang
và và Vân Tiên gặp lại Hớn Minh và chàng đón Vân Tiên về an dưỡng.
Khoa thi năm ấy Tử Trực đỗ thủ khoa, chàng trở lại nhà họ Võ hỏi
thăm tin tức Vân Tiên. Võ Công ngõ ý muốn gả Thể Loan cho chàng
nhưng bị Tử Trực cự tuyệt và mắng thẳng vào mặt, Vương Công hổ
thẹn và ốm chết. Nghe tin Vân Tiên chết, Kiều Nguyệt Nga thề sẽ thủ
tiết suốt đời. Thái sư đương triều hỏi nàng cho con trai không được
đem lòng thù oán, tâu vua bắt Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Quan,
thuyền đi đến biên giới nàng ôm tấm hình vẽ Lục Vân Tiên và nhảy

xuống sông tự tử. Sau đó, nàng được Quan Âm cứu giúp và được gặp
lại Lục Vân Tiên, hai người sống với nhau rất hạnh phúc.
Cốt truyện trong truyện thơ Nôm của Nguyễn Đình Chiểu được xây
dựng theo quan niệm truyền thống, mô hình ổn định của cốt truyện
với ba sự kiện cơ bản: gặp gỡ, tai biến, đoàn tụ. Cốt truyện trong thơ
Nôm Nguyễn Đình Chiểu nhằm tới mục tiêu giáo huấn, các yếu tố
trong truyện được xây dựng một cách trình tự, hợp logic để nhằm tới
mục đích văn dĩ tải đạo.
2.2.2. Ngôn ngữ
Với một nội dung có tính nhân dân sâu sắc, với một hình thức giản dị
phù hợp với nếp suy nghĩ của quần chúng và với một ngôn ngữ trong
sáng được nâng cao từ tiếng nói thân thuộc hàng ngày của nhân dân,
truyện Lục Vân Tiên đã được đông đảo quần chúng say mê ưa thích.
Trong tác phẩm Lục Vân Tiên phong vị của phương ngữ Nam Bộ được
thể hiện khá độc đáo. Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những danh từ
cụ thể và những động từ, tính từ có đối lập giữa các phương ngữ :heo/
lợn ; bắp/ ngô ; nhang/ hương ; nhợ/ dây ; đui/ mù ; hối/ giục ; kêu/
gọi ; quái/ treo...với những trường hợp này, sự lựa chọn của Nguyễn
Đình Chiểu gần như là điều tự nhiên đối với những từ rất gắn bó với
cuộc sống bà con nơi quê hương tác giả. Tuy nhiên, tác phẩm Lục Vân
Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, được truyền miệng mà lưu lại, nên những
trường hợp biến thể ngữ âm giữa các phương ngữ, có thể nghĩ rằng
người kể, người sao chép, người đọc đã theo cách phát âm phương
ngữ, một cách phát âm mà nếu giải thích thì có nhiều lí do khác nhau
cho các trường hợp. Đó là cách phát âm vẫn còn cho đến tận ngày
nay, dù trên văn bản và trong nhận thức có thấy là “nhân”, là Nguyễn
Đình Chiểu “chính” là“bệnh” thì trong cách phát âm của người miền
Nam vẫn cứ là“ nhơn” là “chánh” là“bịnh”theo chuẩn phương ngữ. Có
thể nói nhân dân miền nam yêu thíchLục Vân Tiên không phải chỉ do
phương ngữ tao ra, nhưng phương ngữ vẫn có vai trò rất quan trọng.

Phương ngữ niềm nam chính là một yếu tố trong giá trị hiện thực của
thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Nhờ có cuộc sống gắn bó ruột thịt với nhân dân, lăn lộn giữa cuộc sống
“muối dưa hẩm hút” cùng bà con cô bác trên chặng đường chạy loạn,
12


chữa bệnh, lưu lạc...ông đã học được hàng nghìn trang sách đời trong
cuộc sống văn hóa dân gian phong phú. Cho nên tràn vào tác phẩm
Lục Vân Tiên là hàng ngàn triết lý thực tiễn, tâm lý và ngôn ngữ dân
gian Nam Bộ. Triết lý đạo đức nhân dân vốn sống rất bền dai rất sinh
động trong đời sống đạo đức thực tiễn trong nền văn hóa văn hóa thực
hành của nhân dân. ... Nguyễn Đình Chiểu đã dần dà lựa lọc, thâu thái
cái vốn quí đó trực tiếp từ đám “dân ấp dân lân”mà ông cùng chung
sống trong chòm xóm. Cả trong khi sáng tác, chau giũa Lục Vân Tiên,
ông đã khéo léo lựa dòng cho nguồi suối dân gian trong mát ùa vào
trong tác phẩm của mình. Để diễn đạt nông nỗi thăng trầm của hai
nhân vật chính, hàng chục thành ngữ dân gian đã xen dày vào từng
dòng thơ : sao dời vật đổi ; màn trời chiếu đất ; sớm còn tối mất,
phận bạc như vôi....Chủ đề đạo đức trong tác phẩm đã khiến cho hàng
loạt thành ngữ tục ngữ ca dao vụt đến với Đồ Chiểu trong khi sáng tác.
Có thể tìm thấy trong Lục Vân Tiênnhững khuôn tục ngữ như: Chùa
rách phật vàng ; nước có nguồn cây có cội ; sống sao thác vậy...
Lục Vân Tiên là một truyện thơ Nôm vừa mang tính bác học vừa mang
tính bình dân của một tác giả nhưng được truyền đi và bổ xung theo
lối dân gian, được sáng tác trong một điều kiện của một nền văn hóa
Đằng Trong nửa cuối thế kỷ XIX, với tất cả những đặc điểm về đời
sống tinh thần, về văn chương và ngôn ngữ của một nền đất mới.
Về mặt ngôn ngữ, tuy còn một số câu còn thô vụng, giống như nhiều
truyện nôm cổ xưa, nhưng lời kể bằng thơ toát lên sự nhiệt thành,

thân mật như một truyện kể dân gian, có sắc thái ngôn ngữ địa
phương...chưa nói có nhiều câu thơ hay, hay cả về hình ảnh, âm
thanh, nhịp điệu.
2.3. Không, thời gian nghệ thuật
Nhân vật truyện thơ nôm thường được trình bày như một số phận
hoàn chỉnh. Người đọc tiếp xúc với nhân vật không phải với một thời
gian hạn định, mà là chứng kiến cả một kiếp người, cả một đời người.
Người ta hình dung các nhân vật với đầy đủ những vui buồn sướng
khổ, mọi bước thăng trầm, mội biến cố quan trọng, các cảnh huống có
ý nghĩa nhất,.. với một ý thức bao quát về chúng. Chẳng hạn trong
Lục Vân Tiên, tác giả giới thiệu nhân vật hết sức tường tận, từ lúc mới
ra đời, đi học, đi thi, gặp nạn, cho đến khi vinh hiển. Đặc biệt, tác giả
còn phác thảo một chân dung sán lạn đối với cặp Vân Tiên – Nguyệt
Nga: Trăm năm biết mấy tinh thần/ Sinh con sau nối gót lân đời đời.
Có thể nhận thấy ý đồ nghệ thuật của nhà văn qua cái cầu nối của các
thời (quá khứ - hiện tại – tương lai) của nhân vật. Việc khảo sát con
người trong một không - thời gian dài rộng như thế không phải là vô
cớ. Chính ý thức nghệ thuật về nhân vật, ý nghĩa triết lí của câu
chuyện buộc tác giả phải dùng đến cái kiểu cốt truyện có tính phổ biến
ấy của truyện thơ Nôm. Cái triết lí mà tác giả muốn trình bày trong
truyện Lục Vân Tiên đòi hỏi phải triển khai câu chuyện trên quy mô dài
13


rộng – quy mô một đời người. Có thế thì mới đủ điều kiện để chứng
minh sự ứng nghiệp của nó. Cái kết có hậu rất huy hoàng, với những
thành đạt của nhân vật chính, theo tác giả không gì khác là sự đền bù
số phận, là kết quả của quá trình vì nghĩa. Hoặc các hình phạt mà
nhân vật phản diện phải chịu chẳng qua là cái giá mà họ phải trả cho
một quá trình ăn ở bất nhân vô đạo trước đó.

Quan niệm “con người đạo đức” cũng chi phối trực tiếp đến việc sáng
tạo, sắp xếp, tổ chức các hình tượng nghệ thuật như không gian, thời
gian… trong truyện của Nguyễn Đình Chiểu, các hình tượng này cũng
có những đặc điểm riêng. Chẳng hạn trong Lục Vân Tiên, không gian,
thời gian luôn được tác giả trình bày theo nguyên tắc đảm bảo các điều
kiện để nhân vật có thể bộc lộ phẩm chất của mình một cách thuận lợi
nhất. Hoạt động của các nhân vật đều diễn ra xoay quanh trục đạo lí,
đạo đức. Thành thử rất ít khi tác giả để cho nhân vật yên ổn một chỗ
(để suy tư, chiêm nghiệm...) ; nghĩa là ông chú trọng đến sự vận động
của thế giới nội tâm. Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho
hình tượng không – thời gian trong truyện của Nguyễn Đình Chiểu có
sự khác biệt so với những truyện thơ Nôm khác, nhất là các truyện
thiên về mô tả tâm lí nhân vật.

KẾT LUẬN
Lịch sử phát triển dân tộc nói chung cũng như lich sử văn học nói riêng
luôn luôn nằm trong quy luật của sự thanh lọc. Vượt qua sự thanh lọc
nghiệt ngã đó, Nguyễn Đình Chiểu sống mãi với thời gian và tỏa sáng
trong lòng người.Cụ Đồ Chiểu có được sự ngưỡng mộ và tôn kính của
bao thế hệ cả ngày nay và thế hệ đã qua là do di sản thơ văn ông để
lại cho đời sau và những giá trị tinh thần tỏa ra từ những áng thơ văn
đó. Chính những giá trị cao đẹp ấy là kết quả của một cuộc đời lao
động trí óc nghiêm túc, say mê, tràn đầy nghị lực và không biết mệt
mỏi của Nguyễn Đình Chiểu.
Sáng tác của ông gồm nhiều thể loại, thể tài và truyện thơ Nôm là một
trong những nét đặc sắc và đóng góp lớn của ông trong tiến trình phát
triển văn học dân tộc. Ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu tính nhân
dân cùng những hình tượng nhân vật sinh động, khiến cho ngòi bút
của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân
miền Nam. Sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần bồi đắp tâm

hồn dân tộc, nâng vị trí của văn học miền Nam lên ngang tầm văn học
cả nước. Ông là người kết thúc một cách rực rỡ văn học của giai đoạn
trước đó và mở đầu cho dòng văn chương yêu nước chống xâm lược.
Bằng cuộc đời và sự nghiệp của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần
xứng đáng cho đời sống văn hóa dân tộc trải qua thử thách nghiệt ngã
14


được bảo tồn và phát triển. Sống trong tình thương và sự kính trọng
của nhân dân, những người làm nên lịch sử và văn hóa, Nguyễn Đình
Chiểu mãi mãi là một nhân cách lớn, một nhà văn hóa chân chính của
nhân dân. Với tất cả vai trò xã hội và sứ mạng của con người mà Đồ
Chiểu phải gánh vác, nhà thơ, thầy thuốc, người công dân, chiến sỹ
yêu nước ấy cho đến cuối đời vẫn kiên cường vượt qua số phận để lại
cho đời sau một tấm gương về cách sống trong sáng đến tuyệt vời.
Nguyễn Đình Chiểu là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt
Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Giàu, (1983), Nguyễn Đình Chiểu – Đạo làm người, NXB
Sở văn hóa thông tin Long An.
2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2005), Từ điển thuật
ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Nguyễn Khiêu (1986), Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng của người
trí thức Việt Nam, NXB Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
4. Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX, NXB Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
5. Đặng Quang Lưu (1978), Tập nghị luận và phê bình văn học chọn
lọc, NXB Giáo dục, Hà Nội.
6. Vũ Tiến Lựu (2000), Nguyễn Đình Chiểu, NXB Giáo dục, Hà Nội.

7. Nguyễn Phong Nam (1995), Để làm rõ điều nghi vấn về truyện Lục
Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, Tạp chí Văn học, Hà Nội.
8. Nguyễn Phong Nam, (1997), Giáo trình văn học Việt Nam nửa cuối
thế kỉ XIX, NXB Giáo dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Phong Nam (1998), Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm thi
pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
10. Nguyễn Phong Nam (2003), Giáo trình văn học Việt Nam, NXB Đà
Nẵng.
11. Vũ Tiến Quỳnh (1998), Nguyễn Đình Chiểu, NXB Giáo dục, Hà Nội.
12. Nguyễn Ngọc Thiện (2001), Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác
phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.

15


16



×