Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.72 KB, 14 trang )

Đại học quốc gia hà nội
Khoa Luật

Đỗ Quảng Oai

Diện và hàng thừa kế
theo pháp luật dân sự Việt Nam

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2006


Đại học quốc gia hà nội
Khoa Luật

Đỗ Quảng Oai

Diện và hàng thừa kế
theo pháp luật dân sự Việt Nam
Chuyên ngành

: Luật dân sự

Mã số

: 60 38 30

Luận văn thạc sĩ luật học

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Công Lạc



Hà nội - 2006


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động có ích của mỗi người là nguồn gốc tạo ra của cải xã hội. Song để biến lao động
thành một hoạt động tự giác, phát huy được tính năng động, sáng tạo của người lao động thì xã hội
phải quan tâm tới lợi ích của họ. Chính vì thế chế định quyền sở hữu nói chung và chế định quyền
thừa kế nói riêng ra đời là một trong những phương thức pháp lý cần thiết để bảo toàn và gia tăng
tích lũy của cải trong xã hội. Về mặt tâm lý cá nhân không chỉ muốn mình có quyền năng đối với
khối tài sản của mình khi còn sống, mà còn muốn chi phối nó ngay cả khi đã chết. Vì vậy, Nhà
nước đã công nhận quyền thừa kế của cá nhân đối với tài sản, coi thừa kế là một trong những căn
cứ xác lập quyền sở hữu. Điều này không chỉ có tác dụng kích thích tính tiết kiệm trong sản xuất
và tiêu dùng mà còn tạo động lực phát triển lòng say mê, kích thích sự quản lý năng động của mỗi
con người, tạo ra sự thi đua thầm lặng của mỗi cá nhân nhằm nhân khối tài sản của mình lên bằng
sức lực và khả năng sáng tạo mà họ có. Khi họ chết, các tài sản của họ để lại sẽ trở thành di sản và
được phân chia cho các thế hệ con cháu. Và nếu như con cháu chính là sự hóa thân của ông bà, bố
mẹ, là sự kéo dài nhân thân của mỗi người thì sự chuyển dịch di sản theo chế định thừa kế chính là
sự nối tiếp về quyền sở hữu. Vì vậy, một người coi là đã chết nhưng chết chưa hẳn là đã chấm dứt
mà một phần con người đó còn hiện hữu, tồn tại trong con cháu, trong những di sản mà họ để lại.
Pháp luật công nhận quyền thừa kế của cá nhân đã đáp ứng một phần mong mỏi của con người là
tồn tại mãi mãi. Chính vì thế, pháp luật thừa kế trên thế giới nói chung và pháp luật thừa kế ở Việt
Nam nói riêng đã không ngừng phát triển và hoàn thiện.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, sau Hiến pháp 1992, Bộ luật dân sự (BLDS) chiếm
vị trí đặc biệt quan trọng, tạo lập hành lang pháp lý cho các cá nhân khi thực hiện quyền thừa kế.
Được quy định tại phần thứ tư, bao gồm 4 chương, 56 điều, từ Điều 631 đến Điều 687 của BLDS
năm 2005 chế định thừa kế đã tạo chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các chủ thể khi tham
gia quan hệ thừa kế, góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Chế định quyền thừa kế

trong BLDS đã kết tinh những thành tựu của khoa học pháp lý nhân loại góp phần giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp đã ăn sâu vào
tiềm thức và lưu truyền qua bao đời của dân tộc Việt Nam.


Hiện nay các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng gia tăng và trở nên phức tạp
hơn. Sự nhận thức không đầy đủ về pháp luật của cá nhân, sự áp dụng pháp luật không thống nhất
giữa các cấp Tòa án là những yếu tố làm cho các vụ kiện gặp nhiều khó khăn, thời gian giải quyết
kéo dài, ảnh hưởng không tốt đến truyền thống đạo đức tốt đẹp vốn có từ lâu đời của dân tộc Việt
Nam. Đặc biệt, một trong những khó khăn vướng mắc lớn khi áp dụng các quy định của pháp luật
để giải quyết tranh chấp thừa kế chính là vấn đề xác định sao cho đúng về diện và hàng thừa kế.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, phân tích, kiến nghị để làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận về diện và hàng thừa kế trong chế định thừa kế theo pháp luật là một đòi hỏi tất yếu, khách
quan cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế.
2. Tình hình nghiên cứu
Do tầm quan trọng của vấn đề thừa kế nên nội dung này đã được rất nhiều nhà khoa học
pháp lý quan tâm, nghiên cứu. Tiến sĩ Phùng Trung Tập đã giới thiệu với bạn đọc tác phẩm "Thừa
kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 từ trước đến nay"; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc
Điện là tác giả của cuốn "Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam"; Phó giáo
sư, Tiến sĩ Đinh Văn Thanh - Trần Hữu Biền có tác phẩm "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế". Ngoài
ra, còn có nhiều bài viết về đề tài này được đăng tải trên các sách báo, tạp chí. Đặc biệt hơn, còn
có rất nhiều các cử nhân, học viên chọn nội dung này làm đề tài cho các luận văn tốt nghiệp của
mình.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, mang tính toàn diện, bao quát cả
chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra những kiến nghị để ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống
pháp luật về thừa kế. Riêng với đề tài "Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam",
tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung, bản chất của diện và hàng thừa kế được
quy định trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị mang tính
giải pháp để ngày càng hoàn thiện hơn những quy định về nội dung này trong luật.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản chất quy định của pháp luật
về quyền thừa kế nhằm làm sáng tỏ diện và hàng thừa kế. Khi nghiên cứu đề tài, tác giả đã tham
khảo toàn bộ các quy định của nước ta về diện và hàng thừa kế gắn với từng giai đoạn lịch sử phát


triển của đất nước, đồng thời nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế giới cũng như các
sách chuyên khảo và những tài liệu liên quan đến vấn đề này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Bên cạnh đó còn có sự phối hợp với một số phương pháp khác như: phương pháp thống kê,
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ nội dung và bản chất của diện và hàng thừa kế
theo quy định của pháp luật Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ
sở đó, xác định đúng, chính xác những người thuộc diện thừa kế và thứ tự hưởng ưu tiên theo quy
định của BLDS năm 2005.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả rút ra những vướng mắc còn tồn tại khi áp dụng quy
định của pháp luật về diện và hàng thừa kế. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị mang tính giải
pháp nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại, góp phần hoàn thiện hơn các quy định về thừa kế.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực thừa kế.
Có những công trình khoa học nghiên cứu vấn đề nội dung này một cách toàn diện, bao quát,
nhưng cũng có những công trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của chế định thừa kế trong
luật. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chi tiết, cụ thể về diện và hàng thừa kế gắn với
từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Đây là luận văn ở cấp độ thạc sĩ đầu tiên nghiên
cứu từng diện và từng hàng thừa kế gắn với từng quy định của mỗi giai đoạn lịch sử phát triển của
đất nước. Trên cơ sở đó, tác giả nghiên cứu làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hiện hành
và tìm ra những vướng mắc còn tồn tại trên thực tế và đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn
thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế trong BLDS.

7. Kết cấu của luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về thừa kế.
Chương 2: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện những quy định của
pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế.

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ

1.1. KHÁI NIỆM CHUNG
1.1.1. Thừa kế và quyền thừa kế
Một trong những yếu tố để đánh giá sự vững mạnh của một quốc gia đó chính là sự bảo
hộ của Nhà nước về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như việc kết hợp hài hòa
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Trên tinh thần đó, quyền thừa kế là một trong những
quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam quy
định "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân".
Để hiểu và nhận thức sâu sắc về khái niệm quyền thừa kế trước hết phải làm sáng tỏ nội
dung khái niệm thừa kế. Theo Từ điển tiếng Việt: "Thừa kế là hưởng của người khác để lại cho".
Theo các tác giả của Giáo trình Luật dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội, thừa kế được hiểu là:
"Việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho những người còn sống". Khái niệm này đã phản
ánh chính xác bản chất cũng như nội dung thừa kế.
Thừa kế luôn gắn với quan hệ sở hữu xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và sự phát
triển của xã hội loài người. Khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ sở hữu và quan hệ
thừa kế đã tồn tại như một tất yếu khách quan. Thừa kế xuất hiện phụ thuộc vào quan hệ sở hữu.
Nếu sở hữu là yếu tố quyết định thừa kế, thì thừa kế là phương tiện duy trì và củng cố quan hệ sở hữu.



Thừa kế và sở hữu là hai phạm trù kinh tế cùng tồn tại song song trong một hình thái kinh
tế - xã hội nhất định, chúng có mối liên hệ biện chứng với nhau, chỉ đạo, chi phối lẫn nhau, cùng
phát triển theo sự phát triển của xã hội loài người.
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời
kỳ sơ khai của xã hội loài người - chế độ cộng sản nguyên thủy. Trong thời kỳ này, quan hệ thừa
kế chỉ đơn thuần là một quan hệ xã hội, việc thừa kế chỉ nhằm di chuyển tài sản của người chết
cho những người còn sống được tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục
tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định.
Khi nhà nước ra đời việc chiếm giữ của của vật chất giữa người với người được điều
chỉnh bằng pháp luật theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị. Nhà nước đã sử dụng pháp luật là
công cụ để bảo vệ tài sản và quyền tài sản của người chết cho những người còn sống, quy định
quyền của các chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình. Lúc này các
quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu không chỉ tồn tại một cách khách quan với ý nghĩa là một
phạm trù kinh tế nữa, mà những quan hệ này đã bị ràng buộc bởi những quy phạm pháp luật và
làm xuất hiện khái niệm quyền thừa kế.
Nếu thừa kế là một phạm trù kinh tế tồn tại khách quan thì quyền thừa kế là một phạm trù
pháp lý chỉ phát sinh khi có nhà nước và pháp luật. Nếu thừa kế là một quan hệ xã hội phát sinh
ngay cả khi xã hội chưa phân chia giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật, thì quyền thừa kế lại là
một quan hệ pháp luật chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội đã phân chia giai cấp và dẫn tới sự ra đời
của nhà nước.
Quyền thừa kế được xem xét rất nhiều góc độ. Với tính chất là một chế định pháp luật
dân sự, quyền thừa kế bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước đặt ra nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho
người khác còn sống theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định do pháp luật quy định. Đồng
thời, quy định quyền và nghĩa vụ cũng như các phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ đó của
những chủ thể trong quan hệ thừa kế.
Với tính chất là một quyền năng dân sự, quyền thừa kế là những quyền năng cụ thể của
chủ thể trong việc để lại di sản thừa kế và nhận di sản thừa kế. Đó là những khả năng mà các chủ
thể được phép xử sự theo quy định của pháp luật: Được để lại di sản thừa kế như thế nào, việc lập di



chúc phải tuân thủ những yêu cầu gì, ai là người được nhận di sản thừa kế, khi nào thì bị tước
quyền hưởng di sản thừa kế... Trong các quan hệ về thừa kế, các chủ thể chủ động hiện thực hóa
những quyền năng đó để biến nó thành những quyền dân sự cụ thể qua đó đáp ứng được nhu cầu
và thực hiện được lợi ích cho bản thân mình.
Nói tóm lại, quyền thừa kế là một chế định của Luật dân sự, bao gồm tổng hợp các quy
phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho người khác còn sống dựa trên cơ sở ý chí của
người để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật.
Ở mỗi một chế độ khác nhau, tùy thuộc vào tính chất của chế độ sở hữu, thông qua pháp
luật, nhà nước quy định một chế định thừa kế và coi đó là một phương tiện để bảo vệ quyền lợi
cho các cá nhân cũng như quyền lợi của giai cấp lãnh đạo xã hội.
Trong nhà nước chủ nô, quyền để lại thừa kế về nô lệ của giai cấp chủ nô là sự chuyển lại
quyền sở hữu đối với những "công cụ biết nói" và cũng chính là sự truyền lại quyền lực chính trị
để duy trì sự áp bức bóc lột của giai cấp chủ nô đối với nô lệ.
Trong nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản, giai cấp bóc lột luôn sở hữu những tư
liệu sản xuất chủ yếu của xã hội và di sản mà họ để lại cho con cháu cũng chính là những di sản
ấy, việc thừa kế chỉ là sự thay thế kẻ thống trị này bằng kẻ thống trị khác trong cùng một giai cấp
mà thôi.
Pháp luật thừa kế ở nước ta trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, tôn
trọng thành quả lao động do họ làm ra cũng như chuyển thành kết quả đó cho những người thừa
kế sau khi họ chết. Mặt khác, quyền thừa kế ở nước ta là một trong những phương tiện để củng cố
và phát triển các quan hệ hôn nhân gia đình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong
quan hệ thừa kế, đặc biệt bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng
không có khả năng lao động. Qua đó góp phần bảo đảm quyền sở hữu cho mọi cá nhân trong xã
hội.
Tóm lại, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết sang cho người còn
sống theo những trình tự luật định. Quyền thừa kế của một cá nhân gắn bó chặt chẽ với quyền sở
hữu của cá nhân đó. Quyền sở hữu là tiền đề, là cơ sở của quyền thừa kế và ngược lại, quyền thừa

kế là căn cứ thiết lập quyền sở hữu mới. Vì vậy, hệ thống pháp luật dân sự của tất cả các nước trên


thế giới bao giờ cũng qui định về vấn đề thừa kế như là một phương thức bảo đảm quyền sở hữu
của chủ sở hữu.
1.1.2. Di sản thừa kế
Quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà nước bảo
hộ. Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở… Khi còn sống họ có
quyền đưa các loại tài sản của mình lưu thông dân sự hoặc lập di chúc cho người khác hưởng tài
sản của mình sau khi chết. Trường hợp công dân có tài sản thuộc quyền sở hữu riêng, không lập di
chúc sau khi chết, tài sản này được chia theo luật và toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp
của người đã chết được gọi là di sản thừa kế.
Theo Từ điển tiếng Việt: "Di sản là của cải, tài sản của người chết để lại" [51].
Điều 634 BLDS năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần
tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác" [9].
Di sản được Điều 634 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng khá đầy đủ và có tầm
khái quát cao, không dùng phương pháp liệt kê bao gồm những tài sản gì như những quy định
trước đây. Bởi lẽ, quyền tài sản đã nằm trong khái niệm tài sản được quy định tại Điều 163 BLDS:
"Tài sản bao gồm vật, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [9].
Như vậy, di sản là toàn bộ những tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã chết
cũng như các quyền về tài sản của người đó bao gồm:
- Tư liệu sinh hoạt.
- Tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý được dùng làm đồ trang sức hoặc dùng làm của cải
để dành, tiền tiết kiệm ngân hàng, tiền lương, tiền thưởng chưa lĩnh.
- Nhà ở thuộc sở hữu của người chết.
- Vốn, cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của người chết.
- Tài liệu, dụng cụ máy móc của người làm công tác nghiên cứu.
- Cây cối mà người được giao sử dụng đất trồng và hưởng lợi trên đất đó.



- Các quyền về tài sản đó là quyền đòi nợ đồ vật đã cho mượn, cho thuê, chuộc lại tài sản
đã cầm cố, quyền đối với tài sản đã thế chấp, đã bồi thường thiệt hại về tài sản, hưởng những
quyền lợi của tác giả hoặc chủ sở hữu văn bằng, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả
đối với tác phẩm. Tuy nhiên, quyền tài sản gắn với nhân thân của người chết như tiền cấp dưỡng,
tiền lương hưu không được coi là di sản thừa kế.
- Theo quy định của pháp luật, để khắc phục những rủi ro xảy ra cá nhân có thể mua bảo
hiểm cho bản thân mình. Trên cơ sở đóng phí bảo hiểm và khi có sự kiện bảo hiểm thì cơ quan
bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm dựa trên mức đóng phí bảo hiểm. Ở loại hình bảo hiểm nhân
thọ là loại hình bảo hiểm tuổi thọ của con người và khi người đó chết sẽ được hưởng số tiền bảo
hiểm đó. Và lúc này số tiền bảo hiểm trở thành một phần trong tổng tài sản của người chết để lại
cũng là di sản thừa kế.
- Phần tài sản của người chết trong khối tài sản với người khác. Sự phát triển của đời
sống xã hội khiến cho tài sản của mỗi người càng trở nên phong phú và đa dạng hơn. Ngoài tài sản
riêng có được do thu nhập hợp pháp, của để dành hoặc do được thừa kế thì một loại tài sản nữa
của người chết là một phần tài sản của người này trong khối tài sản chung với người khác, có thể
do vợ chồng cùng tạo lập hoặc nhiều người cùng góp vốn để sản xuất kinh doanh.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ph. Ăngghen (1972), Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của Nhà nước, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
2. Nguyễn Mạnh Bách (1993), Chế độ hôn sản và thừa kế trong luật Việt Nam, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.
3. Trần Hữu Biền và Đinh Văn Thanh (1995), Hỏi đáp về pháp luật thừa kế, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
4. Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931.
5. Bộ Dân luật Trung kỳ năm 1936.


6. Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp năm 1998.

7. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan (1995), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
8. Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1995.
9. Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005.
10. Bộ luật dân sự Nhật Bản năm 1995.
11. Bộ Tư pháp (1956), Thông tư số 1742-BNC ngày 18/9 quy định một số vấn đề về thừa kế, Hà
Nội.
12. Bộ Tư pháp (1998), Báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986,
Hà Nội.
13. Bộ Tư pháp (2002), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
14. Chính phủ (1950) Sắc lệnh số 97/ SL của Chủ tịch nước ngày 22/5 sửa đổi một số quy lệ và
chế định trong Dân luật.
15. Chính phủ (1960), Sắc lệch số 02/SL của Chủ tịch nước ngày 13/1 về việc công bố Luật Hôn
nhân và Gia đình ngày 29/12/1959, Hà Nội.
16. Chính phủ (1998), Nghị định số 83/NĐ-CP ngày 10/10 về đăng ký hộ tịch, Hà Nội.
17. Chính phủ (2000), Chỉ thị số 15/2000 ngày 9/8 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức thi
hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Hà Nội.
18. Chính phủ (2000), Nghị định số 70/NĐ-CP ngày 03/10 quy định chi tiết về thi hành Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2000, Hà Nội.
19. Chính phủ (2001), Nghị định số 77/NĐ-CP ngày 22/10 quy định chi tiết về đăng ký kết hôn
theo Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10, Hà Nội.
20. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10 về hướng dẫn thực hiện Luật
đất đai năm 2003, Hà Nội.
21. Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb
Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.


22. Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật Dân sự, Nxb Trẻ
Thành phố Hồ Chí Minh.

23. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
24. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946.
25. Hoàng Việt luật lệ năm 1812.
26. Lê Hương Lan (1996), "Tìm hiểu các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt
Nam trong thời kỳ phong kiến", Tòa án nhân dân, (6).
27. Luật đất đai năm 2003.
28. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959.
29. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
30. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
31. Luật Hồng Đức.
32. Phan Trung Lý (2000), "Vấn đề tài sản giữa vợ và chồng trong Dự thảo Luật Hôn nhân và Gia
đình sửa đổi", Nhà nước và pháp luật, (3).
33. Nhà pháp luật Việt - Pháp (1998), Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
34. Lê Kim Quế (2001), 110 câu hỏi về thừa kế trong Bộ luật Dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Quốc hội (2000), Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6 về việc thi hành Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2000, Hà Nội.
36. Tạp chí Dân chủ và pháp luật (2001), Số chuyên đề về Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
37. Phùng Trung Tập (2004), Thừa kế theo pháp luật của công dân từ năm 1945 đến nay, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
38. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2001), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội năm 2000, Hà Nội
39. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2002), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội năm 2001.


40. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2003), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội năm 2002.
41. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2004), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội năm 2003.

42. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2005), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội năm 2004.
43. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2006), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội năm 2005.
44. Tòa án nhân dân tối cao (1968), Thông tư số 594-TANDTC ngày 27/8 hướng dẫn giải quyết các
tranh chấp về thừa kế, Hà Nội.
45. Tòa án nhân dân tối cao (1978), Thông tư số 60-TANDTC ngày 22/2 hướng dẫn giải quyết các
trường hợp của cán bộ, bộ đội có vợ, có chồng trong Nam ra Bắc tập kết lấy vợ, lấy
chồng khác, Hà Nội
46. Tòa án nhân dân tối cao (1981), Thông tư số 81-TANDTC ngày 24/7 hướng dẫn giải quyết các
tranh chấp về thừa kế, Hà Nội.
47. Tòa án nhân dân tối cao (1988), Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/12 hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986, Hà Nội.
48. Tòa án nhân dân tối cao (1990), Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 19/10 hướng dẫn áp dụng
một số quy định của pháp lệnh thừa kế 1990, Hà Nội.
49. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 06/4 hướng dẫn giải quyết
các tranh chấp về hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
50. Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp (2001), Thông tư liên tịch
số 01/2001/TTLT ngày 03/01 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10, Hà
Nội.
51. Trung tâm Từ điển học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích từ ngữ Luật học, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
53. Trường Đại học Luật Hà Nội, (2000), Quốc triều Hình luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.


54. Trường Đại học Luật Hà Nội, (1998), Giáo trình Luật Dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
55. Trường Đại học Luật Hà Nội, (2001), Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.

56. Đinh Trung Tụng (2001), "Khái quát một số điểm mới của Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2000", Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề về Luật Hôn nhân và Gia đình.
57. Đinh Trung Tụng (2001), "Những quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000", Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề về Luật Hôn nhân và Gia đình.
58. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1990), Pháp lệnh thừa kế, Hà Nội.
59. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2006), Nghị quyết số 1037/2006/NQ- UBTVQH11 ngày 27/7 về giao
dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 có người Việt Nam định cư ở
nước ngoài tham gia, Hà Nội.
60. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1996), Thông tin chuyên đề về Luật Hôn
nhân và gia đình, Hà Nội.
61. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1996), Một số vấn đề về pháp luật dân sự
Việt Nam từ thế kỷ XV đến thời Pháp thuộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.



×